Tri Âm Quán - Lục Ngạn - Bắc Giang
Chào bạn đã ghé thăm Tri Âm Quán_Thị Trấn Chũ_Lục Ngạn_Bắc Giang!
Diễn Đàn là nơi giao lưu kết bạn, sưu tầm, lưu trữ, học hỏi và chia sẻ kiến thức.
Để cùng nhau tiến bộ trên con đường hướng thiện.
Chúc bạn sức khỏe và có nhiều thành công mới trong cuộc sống!

Om mani pad me hum
Tri Âm Quán - Lục Ngạn - Bắc Giang
Chào bạn đã ghé thăm Tri Âm Quán_Thị Trấn Chũ_Lục Ngạn_Bắc Giang!
Diễn Đàn là nơi giao lưu kết bạn, sưu tầm, lưu trữ, học hỏi và chia sẻ kiến thức.
Để cùng nhau tiến bộ trên con đường hướng thiện.
Chúc bạn sức khỏe và có nhiều thành công mới trong cuộc sống!

Om mani pad me hum
Tri Âm Quán - Lục Ngạn - Bắc Giang
Bạn có muốn phản ứng với tin nhắn này? Vui lòng đăng ký diễn đàn trong một vài cú nhấp chuột hoặc đăng nhập để tiếp tục.
Tri Âm Quán - Lục Ngạn - Bắc Giang

Mỗi người đều nhận được hai thứ giáo dục: một thứ do người khác truyền cho; một thứ, quan trọng hơn nhiều, do mình tự tạo lấy.
 
Trang ChínhTrang Chính  Phật Học Phổ Thông - Page 14 Icon_portal  Latest imagesLatest images  Đăng kýĐăng ký  Đăng NhậpĐăng Nhập  
Chào mừng các bạn đã ghé thăm Tri Âm Quán_Thị Trấn Chũ_Lục Ngạn_Bắc Giang! Chúc các bạn sức khỏe và thành đạt! Tri Âm Quán_Thị Trấn Chũ_Lục Ngạn_Bắc Giang.

 

 Phật Học Phổ Thông

Go down 
3 posters
Chuyển đến trang : Previous  1 ... 8 ... 13, 14, 15 ... 19 ... 24  Next
Tác giảThông điệp
Tri Âm Quán
Thành Viên Tích Cực
Thành Viên Tích Cực
Tri Âm Quán


Tổng số bài gửi : 6340
Reputation : 2
Join date : 31/07/2013
Đến từ : Thị Trấn Chũ

Phật Học Phổ Thông - Page 14 Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Phật Học Phổ Thông   Phật Học Phổ Thông - Page 14 EmptySat Aug 16, 2014 10:54 am

Bài thứ ba
III.    CHƯƠNG PHỔ NHÃN
 
1.     Ngài Phổ Nhãn hỏi Phật
2.     Phật khen ngài Phổ Nhãn
3.     Phật dạy phương pháp tu
4.     Phật dạy quán “Thân” như  huyễn
5.     Phật dạy quán “Tâm” như huyễn
6.     Huyễn hết thì chơn hiện
7.     Dùng ngọc Ma ni dụ tánh Viên Giác
8.     Vì có kẻ lìa huyễn và người chưa lìa được, nên phân ra có Thánh và Phàm
9.     Viên Giác hiện,thì các pháp đều thanh tịnh
10. Vì hiện tượng bình đẳng nên bàn thể bình đẳng
11. Bàn thể và hiện tượng khắp cả mười phương.
12. Vì chứng Viên Giác nên thấy các Pháp bình đẳng
13. Tu và chứng mà thật ra không có tu và chứng
14. Sanh tử và Niết bàn đều như mộng
15. Các pháp bình đẳng
16. Tóm lại
17. Phật nói bài kệ tóm lại các nghĩa trên
 

 
CHƯƠNG PHỔ NHÃN
 
1.    Ngài Phổ Nhãn hỏi Phật
Khi ấy ngài Phổ Nhãn bồ tát, ở trong đại chúng đứng dậy đi quanh bên hữu của Phật ba vòng, rồi chắp tay đảnh lễ và quỳ thẳng bạch rằng:
-Bạch Ðức Thế Tôn, xin Ngài vì các vị Bồ tát ở trong hội này và tất cả chúng sanh đời sau, giảng dạy thứ lớp tu hành của Bồ tát.
Bạch Thế Tôn, như chúng sanh kia, khi nghe Phật nói Pháp “ly huyễn tam muội” này, tâm sanh mê muội, vì không biết làm sao để hạ thủ công phu.  Vậy, nếu không có phương tiện chơn chánh và suy nghĩ chơn chánh, thì không thể ngộ nhập được Viên Giác.
Xin Ngài mở lòng từ bi, vì những người chưa ngộ như chúng con hiện tại và các chúng sanh đời sau, tạm lập ra các phương tiện: Phải tu hành thế nào?  Phải suy nghĩ (tư duy) làm sao?  Phải an trụ và giữ gìn (trụ trì) thế nào mới được ngộ nhập Viên Giác?
NGài Phổ Nhãn Bồ tát thưa thỉnh như vậy ba lần, kính cẩn lễ Phật rồi trở lui.
 
LƯỢC GIẢI
Ðoạn trước Ngài Phổ Hiền Bồ tát hỏi Phật, ý hỏi rất u thâm - Phật xứng theo lý Viên đốn mà trả lời rằng: “Giác ngộ, không có từng tự; biết huyễn là lìa được huyễn, không cần phương tiện.”
Ngài Phổ Nhãn Bồ tát, vì thấy Phật nói Pháp môn “Viên đốn” như thế, nghĩ rằng: duy có những người trình độ cao thượng mới có thể làm được; trái lại những kẻ căn cơ thấp kém, nếu không có tạm lập phương tiện và chỉ dạy thứ lớp tu hành thì làm sao ngộ nhập được.  Vì vậy, nên qua chương này, Ngài PHổ Nhãn Bồ tát cầu Phật tạm lập phương tiện và chỉ dạy thứ lớp tu hành, để cho chúng sanh có thể hạ thủ công phu, nhập được Viên Giác.
Tóm lại các câu hỏi của Ngài Phổ Nhãn hỏi Phật, gồm trong hai phần:
1.      Hỏi về “Tu Huệ” tức là câu hỏi “phải suy nghĩ thế nào cho chơn chánh?”
2.      Hỏi về “Tu Hệ” tức là câu hỏi “phải an trụ và giữ gìn thế nào? Tạm lập phương tiện tu hành và thứ lớp tu làm sao, mới ngộ nhập được Viên Giác”?
 

*****

_________________________________
Tri Âm Quán_Thị Trấn Chũ_Lục Ngạn_Bắc Giang
http://quoccuonglucngan.blogspot.com/
Về Đầu Trang Go down
https://triamquan.forumvi.com/
Tri Âm Quán
Thành Viên Tích Cực
Thành Viên Tích Cực
Tri Âm Quán


Tổng số bài gửi : 6340
Reputation : 2
Join date : 31/07/2013
Đến từ : Thị Trấn Chũ

Phật Học Phổ Thông - Page 14 Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Phật Học Phổ Thông   Phật Học Phổ Thông - Page 14 EmptyMon Aug 18, 2014 11:51 am

2.    Phật Khen Ngài Phổ Nhãn
Khi đó đức Thế Tôn khen Ngài Phổ Nhãn Bồ tát và dạy rằng:
-Này thiện nam, quý lắm!  Ông vì các vị Bồ tát hiện tại và chúng sanh đời sau, cầu thỉnh Như lai tạm lập phương tiện tu hành và chỉ dạy thứ lớp tu làm sao, phải suy nghĩ làm sao cho chơn chánh (tư huệ), phải an trụ và giữ gìn thế nào (tu huệ).  Vậy các ông nên chăm chú nghe, ta sẽ vì các ông khai thị.
Khi đó Ngài Phổ Nhãn Bồ tát và đại chúng đều hoan hỷ, kính cẩn và chăm chú nghe lời Phật chỉ giáo.
 
LƯỢC GIẢI
Ðoạn này Phật khen ngài Phổ Nhãn vì đại chúng cầu Phật tạm lập phương tiện tu hành để nhập Viên Giác.  Trong câu hỏi gồm có hai phần: 1. Hỏi về Tư huệ, 2. Hỏi về tu huệ
 
**
 
3.    Phật dạy Phương pháp tu
-Này Thiện Nam, những hàng sơ học Bồ tát và các chúng sanh đời sau, muốn ngộ nhập tâm Viên Giác thanh tịnh của Như Lai, thì cần phải Chánh niệm(1), và xa lìa các vọng huyễn.  Vậy trước hết phải:
1. Y theo pháp “chỉ” của Như Lai (Ðại thừa định)
2. Giữ gìn giới cấm kiên cố
3.  Sắp xếp đồ chúng cho yên ổn (sắp xếp hoàn cảnh xung quanh cho  thuận tiện)
4. Ở chỗ thanh vắng
5.  Phải suy nghĩ như sau:
 
LƯỢC GIẢI
Tổ sư dạy: “Thật tế lý địa bất thọ nhứt trần, Phật sự môn trung bất xả nhứt pháp”.  Nghĩa là: Về chỗ lý tánh tuyệt đối thì không thọ một mảy may gì; nhưng về sự tướng tu hành thì không bỏ một việc lành nào cả.
Ðành rằng, về cảnh giới Viên Giác, chúng ta nói không trúng, suy nghĩ cũng nhằm; “giác ngộ” không có tiêm thứ, “rời huyễn” chẳng cần phương tiện;  nhưng khi hạ thủ công phu (bắt tay vào việc tu hành) thì không thể bỏ qua các sự tướng tu trì.
Ðại ý đoạn này Phật dạy khi hạ thủ công phu, trước phải dùng: 1. Giới, 2. Ðịnh (chỉ), 3. Huệ (tức là câu “thường suy nghĩ như vậy” ở đoạn sau), 4. Sắp xếp các ngoại duyên cho được yên ổn.
Trong chương PHổ Hiền, Phật dạy: “Biết huyễn là lìa được huyễn, không cần phương tiện chẳng có tiệm thứ”.  Ðồng với trong kinh Lăng Nghiêm Phật dạy: “bất tùy phân biệt” (không theo trần cảnh khởi vọng niệm phân biệt).
Ðoạn kinh này, Phật dạy phải dùng: “Giới, Ðịnh, Huệ, và sắp xếp các ngoại duyên cho được thuận tiện”.  Cũng như trong Ðại cương Lăng Nghiêm về bài thứ 12, Phật dạy tu “Giới, Ðịnh, Huệ” và “ba món tiệm thứ”.
 
**
 
4.    Phật dạy Quán thân này như huyễn
-Phải thường nhớ nghĩ như vầy: Cái thân của ta nay đây, là do bốn chất: đất, nước, gió, lửa hòa hiệp. Như da, thịt, gân, xương, răng, tóc, móng tay, tủy, não v.v… là thuộc về nước; nhiệt độ trong người là thuộc về lửa; phổi hô hấp, tim đập, mạch nhảy, các chuyển động trong người là thuộc về gió.
 
________
(1) Chữ “Chánh niệm” là niệm chơn chánh.  Trong Viên Giác lược sở giải: Rời các vọng huyễn, dứt hết các vọng niệm thế mới là: “chánh niệm”
 
 
Ðến khi bốn chất này rã rời, không còn hòa hợp nữa, thì cái thân hư dối này (cái ta) ở chỗ nào?
 
LƯỢC GIẢI
Người đời, ai cũng chấp thân này là ta, rồi thương yêu quý trọng nó, cho nên suốt đời lao tâm nhọc trí, vật lộn với vật chất một cách vất vả, cũng vì lo cho ta ăn, mặc và ở v,v… Lo cho ta rồi lo cho bà con quyến thuộc của ta, lo cả cho đồng bào chủng loại của ta.
Nếu ta được là người mất, đồng bào ta được thì đồng bào người phải bị mất.  Vì vậy mà thế giới chiến tranh, nhơn loại tương tàn tương sát.  Chúng sanh tạo không biết bao nhiêu điều tội lỗi, rồi vĩnh kiếp luân hồi.
Bởi thế nên đoạn này Phật dạy, khi hạ thủ công phu là quán thân như huyễn (vô ngã).  Khi đã thấy xác thật thân này là hư huyễn rồi, thì không còn tham lam luyến ái, vì nó mà tạo ra các tội lỗi, để rồi thọ quả báo sanh tử luân hồi. 
Muốn cho độc giả thưởng thức được lý thú ở đoạn này, nên tôi dẫn một đoạn trong bài thơ “Nguyện cầu” của một thi sĩ sau đây:
Ta còn để  lại gì không?
Kìa non nước chảy, nọ sông cát bồi!
Lang thang từ độ luân hồi
U minh nẻo trước, xa khơi dặm về
Trông ra bến thảm bờ mê
Nghìn thu nửa chớp, bốn bề một phương
Ta van cát bụi trên đường
Dù nhơ dù sạch, đừng vương gót này.

*

_________________________________
Tri Âm Quán_Thị Trấn Chũ_Lục Ngạn_Bắc Giang
http://quoccuonglucngan.blogspot.com/
Về Đầu Trang Go down
https://triamquan.forumvi.com/
Tri Âm Quán
Thành Viên Tích Cực
Thành Viên Tích Cực
Tri Âm Quán


Tổng số bài gửi : 6340
Reputation : 2
Join date : 31/07/2013
Đến từ : Thị Trấn Chũ

Phật Học Phổ Thông - Page 14 Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Phật Học Phổ Thông   Phật Học Phổ Thông - Page 14 EmptyWed Aug 20, 2014 12:47 pm

5.    Phật dạy quán tâm như huyễn
-Này Thiện nam! ông đã biết thân này rốt ráo không thật có, chẳng qua do các duyên hòa hiệp làm ra thân tướng giả tạm, đồng với loại huyễn hóa.
Do bốn duyên là đất, nước, gió, lửa hoà hợp, nên vọng có sáu căn là mắt, tai , mũi, lưỡi, thân và ý.  Nhơn bốn duyên và sáu căn, trong ngoài hợp lại thành cái thân giả tạm, rồi vọng khởi ra các vọng tưởng phân biệt.  Các vọng tưởng phân biệt tích tụ trong thân này in như có cái hình tướng “năng duyên”, duyên theo bóng dáng của trần cảnh, nên giả gọi đó là “Tâm”.
-Này Thiện nam! cái tâm hư vọng phân biệt này, nếu không có trần cảnh thì không còn phân biệt được cái gì cả.  Lại nữa, khi bốn duyên (tứ đại) rã rời rồi, thì thân giả tạm này cũng không còn.  Lúc bấy giờ, cái vọng niệm phân biệt bị tích tụ trong thân thường duyên theo bóng dáng của sáu trần đó, cũng bị phân tán. Rốt cuộc rồi không còn thấy có cái gì mà gọi là “Tâm” cả.
 
LƯỢC GIẢI
Về chương Văn Thù, Phổ Hiền, Phật dạy quán “Cảnh như huyễn”, đến chương Phổ Nhãn này, trước Phật dạy quán “Thân như huyễn” rồi sau quán “Tâm như huyễn” là vì lối tu hành phải bắt đầu từ dễ đến khó, từ cạn đến sâu. Trước quán “cảnh như huyễn” tuy khó, nhưng chưa khó lắm, đến quán “Thân như huyễn” mới là khó hơn.  Ði sâu vô một từng nữa là quán “Tâm như huyễn” lại càng khó hơn nữa.
Ðại ý đoạn này, Phật dạy quán “Tâm như huyễn”, không có thật thể. -Người đời thường chấp tâm này (linh hồn) là ta, cái ta này thường còn không biến đổi; nếu ta (linh hồn) là người thì khi chết rồi trở lại làm người; còn ta là thánh thì chết rồi trở lại làm thánh, không có thay đổi; người có tu không sợ tội lỗi, chẳng ham phước lành, gây tạo nhiều tội ác rồi nhiều kiếp trầm luân, chịu không biết bao nhiêu khổ sở.

Vì thương kẻ mê lầm này, nên Phật dạy quán “Tâm như huyễn”. Khi hành giả quán thân và tâm (linh hồn) đều như huyễn, không phải thật ngã (ta) một cách xác thật rồi, thì không còn vì nó mà tạo các tội lỗi.  Tội lỗi không tạo, vọng niệm chẳng sanh, huyễn thân và huyễn tâm đều dứt hết, thì tánh Viên Giác, thanh tịnh không hư huyễn hiện ra, lúc bấy giờ hành giả ra khỏi sanh tử luân hồi. 

_________________________________
Tri Âm Quán_Thị Trấn Chũ_Lục Ngạn_Bắc Giang
http://quoccuonglucngan.blogspot.com/
Về Đầu Trang Go down
https://triamquan.forumvi.com/
Tri Âm Quán
Thành Viên Tích Cực
Thành Viên Tích Cực
Tri Âm Quán


Tổng số bài gửi : 6340
Reputation : 2
Join date : 31/07/2013
Đến từ : Thị Trấn Chũ

Phật Học Phổ Thông - Page 14 Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Phật Học Phổ Thông   Phật Học Phổ Thông - Page 14 EmptyThu Aug 21, 2014 11:49 am

6.    Huyễn hết thì chơn hiện, như bụi sạch thì gương sáng
-Này Thiện nam!  Vì “huyễn thân” của chúng sanh kia diệt, cho nên “huyễn tâm” cũng diệt; do “huyễn tâm” diệt, cho nên cái “huyễn trần” cũng diệt; do “huyễn trần” diệt, nên cái “huyễn diệt” đó cũng diệt luôn.   Bởi thâm tâm là tướng trần cấu hư huyễn đã hoàn toàn diệt, nên lúc bấy giờ tánh “Viên Giác phi huyễn”  hiện ra, thanh tịnh khắp cả mười phương. Thí như lau gương khi bụi hết thì gương sáng tự hiện bày.
 
LƯỢC GIẢI
Ðại ý đoạn này Phật dạy các huyễn tuần tự diệt.  Có năm lớp:
1.      Huyễn Thân diệt
2.      Huyễn Tâm diệt
3.      Huyễn Trần (pháp) diệt
4.      Huyễn Trí diệt
5.      Phi Huyễn (Viên Giác) hiện
Như lau gương sạch bụi thì ánh sáng hiện ra.

******* 

_________________________________
Tri Âm Quán_Thị Trấn Chũ_Lục Ngạn_Bắc Giang
http://quoccuonglucngan.blogspot.com/
Về Đầu Trang Go down
https://triamquan.forumvi.com/
Tri Âm Quán
Thành Viên Tích Cực
Thành Viên Tích Cực
Tri Âm Quán


Tổng số bài gửi : 6340
Reputation : 2
Join date : 31/07/2013
Đến từ : Thị Trấn Chũ

Phật Học Phổ Thông - Page 14 Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Phật Học Phổ Thông   Phật Học Phổ Thông - Page 14 EmptyFri Aug 22, 2014 8:41 am

7.    Dùng ngọc Ma-Ni dụ tánh Viên Giác
-Này Thiện Nam!  Dụ như ngọc Ma-ni trong sáng, tùy mỗi phương chiếu hiện ra năm màu; nhưng người quê mùa không biết, cho năm màu (dụ cho ngũ uẩn) kia là thật có.
Tánh Viên Giác thanh tịnh cũng thế, tùy các loại mà ứng hiện ra mỗi thân tâm (ngũ uẩn) không đồng.  Những kẻ mê muội lại chấp cho thân tâm đó là thật có, vì thế nên không thể xa lìa được các tướng huyễn hóa hư vọng.
 
LƯỢC GIẢI
Luận về “bản tánh Viên Giác” thì sáng suốt thanh tịnh không có một mảy trần, tức là nghĩa “chơn không”; nhưng tùy theo nghiệp mà biến hiện, không một loài vật nào chẳng có, tuy có mà không thật có, tức là nghĩa “diệu hữu”.
Tánh Viên Giác không hai, nhưng tùy theo vọng nghiệp của mỗi loại mà biến hiện các vật ngàn sai muôn khác.  Người khéo dùng thì nó hiện ra Tứ Thánh (Thanh Văn, Duyên Giác, Bồ Tát, Phật).  Kẻ vụng dùng thì nó hiện ra lục phàm (Thiên, Nhơn, A-Tu-La, Ðịa ngục, ngạ quỷ, súc sanh).  Cũng như trong kinh Lăng Nghiêm Phật dùng giây đờn thí dụ: trong giây đờn không có tiếng hay tiếng dở; tùy người biết sử dụng thì nó phát ra tiếng hay, còn người không biết sử dụng thì nó phát ra tiếng dở.  Cũng một giây đờn đó, hay dở chỉ tại người khéo hay vụng mà thôi.
Ðoạn kinh trên nói: “Ngọc Ma-ni trong suốt là dụ cho tánh “Viên Giác thanh tịnh”; nói “ngọc Ma-ni tùy mỗi phía hiện ra ngũ sắc” là dụ cho tánh “Viên Giác tùy mỗi loại hiện thân ngũ uẩn”.
Ðại ý đoạn này nói “Trong ngọc Ma-ni trong suốt không có ngũ sắc, nhưng vì tùy mỗi phương, ánh chiếu in như có ngũ sắc.  Trẻ con không biết, lầm tưởng ngũ sắc kia là thật có, rồi sanh tâm tham muốn khóc đòi v.v... chớ đâu biết rằng “ngũ sắc” kia không thật.  Cũng như trong tánh Viên Giác thanh tịnh không có ngũ uẩn, nhưng tùy theo nghiệp chúng sanh vọng thấy in như có năm uẩn.  Chúng sanh mê muội không biết hư huyễn, lại chấp cho là thật có, rồi sanh tham mê ái luyến, tạo ra các nghiệp.  Vì thế mà bị triền miên trong sanh tử, không bao giờ ra khỏi các vọng huyễn.
 

********* 

_________________________________
Tri Âm Quán_Thị Trấn Chũ_Lục Ngạn_Bắc Giang
http://quoccuonglucngan.blogspot.com/
Về Đầu Trang Go down
https://triamquan.forumvi.com/
Tri Âm Quán
Thành Viên Tích Cực
Thành Viên Tích Cực
Tri Âm Quán


Tổng số bài gửi : 6340
Reputation : 2
Join date : 31/07/2013
Đến từ : Thị Trấn Chũ

Phật Học Phổ Thông - Page 14 Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Phật Học Phổ Thông   Phật Học Phổ Thông - Page 14 EmptySun Aug 24, 2014 12:00 pm

8.    Vì có kẻ lìa huyễn và người chưa lìa được, nên phân có thánh và phàm
-Này Thiện nam!  Bởi đối với những kẻ mê muội chấp thân tâm huyễn cấu này là thật có, không thể xa lìa được, nên ta gọi đó là chúng sanh.
Ðối với người đã xa lìa được thân tâm cấu huyễn thì ta gọi đó là Bồ tát. Ðến khi các “huyễn cấu” hết, “pháp đối trị” trừ, “trí đối trị” cũng không, cho đến không còn danh từ để kêu gọi, và lời nói để luận bàn (người không cảnh vắng, các vọng hoàn toàn diệt, thì gạm gọi là Viên Giác hay Phật).
-Này Thiện nam!  Các Bồ tát và chúng sanh đời sau, khi diệt hết các ảnh tượng vọng huyễn rồi thì tánh “Viên giác thanh tịnh” hiện ra, khắp cả vô biên hư không, không có ngằn mé và phương hướng.
 
LƯỢC GIẢI

Những người mê muội, không biết các pháp đều do tánh VIên Giác huyễn hiện, lại chấp cho là thật có, rồi sanh ra ái luyến triền miên, nên Phật gọi là “chúng sanh”.  Những người biết được các pháp hư huyễn đều do Viên Giác sanh, đã dùng pháp đối trị và xa lìa, thì Phật gọi đó là “Bồ tát”.  Lên một từng nữa là khi các “cảnh huyễn cấu” hết “pháp trừ huyễn” không, “trí đối trị” chẳng còn, “danh từ kêu gọi” và “lời nói luận bàn” cũng không, cho đến “người” cũng chẳng còn: cảnh vắng người không.  Như bệnh hết, thuốc bỏ, ông thầy thuốc cũng không còn.  Các vọng huyễn hoàn toàn diệt hết, thì cảnh giới Viên Giác thanh tịnh viên mãn hiện khắp ở mười phương, lúc bấy giờ tạm gọi là “Phật”. 

_________________________________
Tri Âm Quán_Thị Trấn Chũ_Lục Ngạn_Bắc Giang
http://quoccuonglucngan.blogspot.com/
Về Đầu Trang Go down
https://triamquan.forumvi.com/
Tri Âm Quán
Thành Viên Tích Cực
Thành Viên Tích Cực
Tri Âm Quán


Tổng số bài gửi : 6340
Reputation : 2
Join date : 31/07/2013
Đến từ : Thị Trấn Chũ

Phật Học Phổ Thông - Page 14 Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Phật Học Phổ Thông   Phật Học Phổ Thông - Page 14 EmptyMon Aug 25, 2014 8:22 am

9.    Viên Giác Hiện thì các pháp (căn, trần, thức) đều thanh tịnh
-Này thiện nam!  Vì tánh Viên Giác thanh tịnh sáng suốt đã hiện ra nên “tâm” thanh tịnh: do Tâm thanh tịnh nên “6 thức” thanh tịnh; do 6 Thức thanh tịnh nên “6 căn” thanh tịnh; do 6 căn thanh tịnh nên “6 trần” thanh tịnh; do 6 trần thanh tịnh nên 4 đại, 12 xứ, 18 giới và 25 loài đều thanh tịnh.
 
LƯỢC GIẢI
Ðại ý đoạn này nói: vì tánh Viên giác thanh tịnh đã xuất hiện, nên các pháp thuộc về thế gian là Căn, Trần, Thức cũng đều thanh tịnh.  Dụ như trong rừng cây y lan (loại cây hồi), một phen gỗ chiên đàn xuất hiện, thì cả rừng đều thơm ngát.
Sáu thức:  Nhãn thức, Nhĩ thức, Tỷ thức, Thiệt thức, Thân thức và Ý thức
Sáu căn:  Nhãn căn, Nhĩ căn, Tỷ căn, Thiệt căn, Thân căn và Ý căn.
Sáu trần: Sắc, Thanh, Hương, Vị, Xúc và Pháp.
Bốn đại: Ðịa, Thủy, Hỏa và Phong.
Mười hai xứ: SÁu căn và sáu trần
Mười tám giới: 6 Căn, 6 Trần và 6 Thức.
25 loài: Cõi Dục có 14 loài, là bốn châu (Ðông Thắng thần châu, Nam Thiêm bộ châu, Tây Ngưu hóa châu, Bắc Cu lô châu); bốn ác thú (Tu la, Ðịa ngục, ngạ quỷ, Súc sanh( và sáu cõi Dục (1. Tứ Thiên vương, 2. Ðao lợi, 3. Dạ ma, 4. Ðâu suất, 5. Hóa lạc, 6. Tha hóa, tự tại) Cõi Sắc có 7 loài, là bốn cõi Thiền (từ Sơ thiền đến Tứ thiền) cõi Phạm vương, cõi vô tướng và Ngũ tịnh cư.  Cõi Vô sắc có bốn: 1. Không Vô biên xứ, 2. Thức vô biên xứ, 3. Vô sở hữu xứ, 4. Phi phi tưởng xứ.
 
*
-Này Thiện Nam!  Vì các pháp thế gian thanh tịnh, nên các pháp xuất thế gian như: 10 lực, 4 món Vô úy, 4 món Vô ngại trí, 18 pháp Bất cọng, 37 phẩm Trợ đạo và 84000 pháp môn Ðà la ni, tất cả đều thanh tịnh.
 
LƯỢC GIẢI
Ðại ý đoạn này nói: Một pháp đã thanh tịnh, nên tất cả các pháp đều thanh tịnh, vì tất cả đều đồng tánh Viên Giác.  Thí như một cục phèn bỏ vào thau nước, một chỗ trong thì cả thau đều trong.
Ðoạn trên nói các pháp Thế gian thanh tịnh.  Ðoạn này nói các pháp Xuất thế gian cũng thanh tịnh.
Mười lực: 1. Tri giác xứ phi xứ trí lực. 2. Tri tam thế nghiệp báo trí lực; 3. Tri chư thiền giải thoát tam muội trí lực; 4. Tri chưa căn thẳng, liệt trí lực; 5. Trí chủng chủng giải trí lực; 6. Trí chủng chủng giới trí lực; 7. Trí nhứt thế chi sở đạo trí lực; 8. Trí thiên nhãn vô ngại trí lực; 9. Tri túc mạng vô lậu trí lực; 10. Tri Vĩnh đoạn tập khí trí lực.
Bốn món Vô úy: 1. Nhứt thế trí vô sở úy; 2. Lậu tận vô sở úy; 3. Thuyết chướng đạo vô sở úy; 4. Thuyết tận khổ đạo vô sở úy.
Bốn món Vô ngại trí: 1. Pháp vô ngại trí; 2. Nghĩa vô ngại trí; 3. Từ vô ngại trí; 4. Lạc thuyết vô ngại trí.
Mười tám pháp Bất cọng: 1. Thân vô thất; 2. Khẩu vô thất; 3. Niệm vô thất; 4. Vô dị tưởng; 5. Vô bất định tâm; 6. Vô bất tri dĩ; 7. Dục vô diệt; 8. Tinh tấn vô diệt; 9. Niệm vô diệt; 10. Huệ vô diệt; 11. Giải thaót vô diệt; 12. Giải thoát tri kiến vô diệt; 13. Nhứt thế thân nghiệp tùng trí huệ hành; 14. Nhứt thế khẩu nghiệp tùng trí huệ hành; 15. Nhứt thế ý nghiệp tùng trí huệ hành; 16. Trí huệ tri quá khứ thế vô ngại; 17. Trí huệ tri vị lai thế vô ngại; 18. Trí huệ tri hiện tại thế vô ngại.
Ba mươi bảy Phẩm trợ đạo (xem Phật Học Phổ Thông, khóa III bài Ðạo Ðế nói rõ)
Ðà La Ni: Tàu dịch là “Tổng trì”.  Nghĩa là ở trong mỗi một pháp môn tóm giữ được tất cả Pháp.  Do trừ 84000 phiền não mà được 84000 pháp Ðà La Ni.
 
*****
 
Này Thiện Nam!  Vì các pháp thế gian và xuất thế gian đều thanh tịnh, nên các nhân thanh tịnh; do cá nhân đã thanh tịnh nên nhiều cá nhân thanh tịnh, cho đến mười phương chúng sanh đều đặng Viên Giác thanh tịnh.
 
LƯỢC GIẢI
Ðoạn này nói Chánh báo chúng sanh thanh tịnh.  Vi đã đồng tánh Viên Giác, nên các pháp nói trên đã thanh tịnh, thì thân chúng sanh cũng thanh tịnh.  Cũng một ý này, nhưng có kinh lại nói một cách khác: “còn một chúng sanh nào chưa thành Phật thì ta cũng chưa thành Phật”, vì đồng một bản thể vậy.
-Này Thiện Nam!  Vì một thế giới đã thanh tịnh, nên nhiều thế giới cũng thanh tịnh.  Vì nhiều thế giới thanh tịnh nên cùng tận 10 phương hư không (không gian) trùm khắp 3 đời (thời gian), tất cả đều thanh tịnh bình đẳng không động.
 
LƯỢC GIẢI
Ðoạn này nói Y báo của chúng sanh thanh tịnh.  Vì đồng tánh Viên Giác, nên Chánh báo đã thanh tịnh thì Y báo cũng thanh tịnh.  Cũng như trong nhà tối lâu đời, khi đốt lên một ngọn đèn, ánh sáng được xuất hiện, một chỗ từ vừa sáng thì tất cả chỗ trong nhà đều sáng.
 

**

_________________________________
Tri Âm Quán_Thị Trấn Chũ_Lục Ngạn_Bắc Giang
http://quoccuonglucngan.blogspot.com/
Về Đầu Trang Go down
https://triamquan.forumvi.com/
Tri Âm Quán
Thành Viên Tích Cực
Thành Viên Tích Cực
Tri Âm Quán


Tổng số bài gửi : 6340
Reputation : 2
Join date : 31/07/2013
Đến từ : Thị Trấn Chũ

Phật Học Phổ Thông - Page 14 Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Phật Học Phổ Thông   Phật Học Phổ Thông - Page 14 EmptyWed Aug 27, 2014 10:08 am

10. Vì thấy hiện tượng (các pháp) bình đẳng nên biết bản thể (Viên Giác) bình đẳng
-Này Thiện Nam!  Hư không đã bình đẳng không động, nên biết tánh Viên Giác bình đẳng không động, vì bốn đại bình đẳng không động, nên biết tánh Viên Giác bình đẳng không động.  Như  thế, cho đến 84000 phap môn Ðà La Ni đều bình đẳng không động, nên biết tánh Viên Giác bình đẳng không động.
 
LƯỢC GIẢI
Từ bản thể là tánh Viên Giác, sanh ra các pháp hiện tượng là hư không, bốn đại và thiên hình vạn trạng cho đến 84000 pháp Ðà La Ni.  Hiện tượng đã từ bản thể sanh mà hiện tượng đã bình đẳng không động, cố nhiên bản thể cũng bình đẳng không động.
 

**
11. Bản thể (tánh) khắp cả 10 phương, nên hiện tượng khắp cả 10 phương
Này Thiện Nam!  vì tánh Viên Giác thanh tịnh không động, viên mãn cùng khắp tất cả, không có bờ bến, nên biết 6 căn, 6 trần, 4 đại, cho đến pháp môn Ðà La Ni cũng thanh tịnh và viên mãn khắp cả pháp giới.
Này thiện nam!  Vì tánh Viên Giác kia mầu nhiệm viên mãn không hoại, nên bản thể của căn, bản thể của trần, không có một pháp nào hoại diệt và lộn lạo; cho đến pháp môn Ðà La Ni, cũng không có hoại diệt và lộn lạo.  Thí như trăm ngàn ngọn đèn, đồng đốt trong một căn nhà, ánh sáng của mỗi ngọn đèn tuy đều chiếu khắp cả nhà, nhưng không có lộn lạo hay lấn diệt nhau.
 
LƯỢC GIẢI
Ðoạn này có hai phần. Phần trên nói: Vì bản thể là tánh Viên  Giác châu biến, nên hiện tượng là các pháp cũng châu biến.  Ðại ý phần này giống đoạn văn trong kinh Hoa Nghiêm nói về “sự, Lý vô ngại Pháp giới”
Phần dưới nói: Vì bản thể không hoại diệt nên tất cả các pháp không có một pháp nào hoại diệt.  Thí như trăm ngàn ngọn đèn chiếu trong một nhà, không có lộn lạo và hoại diệt nhau.  ý đoạn này giống với đoạn văn trong Kinh Hoa Nghiêm nói về “Sự, Sự vô ngại Pháp giới”.  Trong kinh Pháp Hoa chép: “Thị pháp trụ pháp vị, thế gian tướng thường trụ” (Pháp nào an trụ địa vị pháp ấy. Thế gian tướng là thường trụ tướng).  Và Kinh Lăng nghiêm có chép” Tứ đại châu biến không có hoại diệt và tạp loạn lẫn nhau”.
 

*** 

_________________________________
Tri Âm Quán_Thị Trấn Chũ_Lục Ngạn_Bắc Giang
http://quoccuonglucngan.blogspot.com/
Về Đầu Trang Go down
https://triamquan.forumvi.com/
Tri Âm Quán
Thành Viên Tích Cực
Thành Viên Tích Cực
Tri Âm Quán


Tổng số bài gửi : 6340
Reputation : 2
Join date : 31/07/2013
Đến từ : Thị Trấn Chũ

Phật Học Phổ Thông - Page 14 Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Phật Học Phổ Thông   Phật Học Phổ Thông - Page 14 EmptyThu Aug 28, 2014 11:49 am

12. Vì chứng được viên giá nên thấy các pháp bình đẳng
-Này Thiện nam!  Vì các Bồ tát thành tựu được tánh Viên Giác rồi, nên không sợ pháp hữu vi ràng buộc, không cầu pháp vô vi giải thoát, không nhàm chán sanh tử, không ưa thích Niết Bàn, không kính người trì giới, không ghét người phạm giới, không tôn trọng kẻ tu lâu, chẳng khinh người mới học.  Tại sao thế?  -Vì tất cả cá pháp đều là Viên Giác vậy.
Thí như con mắt xem thấy các cảnh vật hiện tiền, cái “thấy” này trùm khắp tất cả, không thương, ghét.  Tại sao thế?  Vì cái “thấy” này chỉ có một thể, nên không có thương, ghét vậy.
 
LƯỢC GIẢI
Vì tất cả các pháp đã đồng một tánh Viên Giác, nên Bồ tát bình đẳng: không thương không ghét, không khinh không trọng, không sợ sanh tử, chẳng cầu Niết bàn. Ðoạn này lý rất cao thâm, chúng ta không nên đem phàm tình mà phán đoán.
Ông Thường BẤt Khinh Bồ tát nói: “Tôi không dám khinh các Ngài, các Ngài sẽ thành Phật vì các NGài đều có tánh Phật” (Khả năng thành Phật).  Và trong kinh Tứ thập Nhị chương chép . “Cúng dường cho nhiều đức Phật, công đức không bằng cúng dường cho người Vô niệm, vô trụ, vô tu, vô chứng”.  Ðại ý các đoạn trên đều nói đến thể tánh bình đẳng này.
 

** 

_________________________________
Tri Âm Quán_Thị Trấn Chũ_Lục Ngạn_Bắc Giang
http://quoccuonglucngan.blogspot.com/
Về Đầu Trang Go down
https://triamquan.forumvi.com/
Tri Âm Quán
Thành Viên Tích Cực
Thành Viên Tích Cực
Tri Âm Quán


Tổng số bài gửi : 6340
Reputation : 2
Join date : 31/07/2013
Đến từ : Thị Trấn Chũ

Phật Học Phổ Thông - Page 14 Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Phật Học Phổ Thông   Phật Học Phổ Thông - Page 14 EmptyFri Aug 29, 2014 3:30 pm

13.Có tu và có chứng mà thật ra không tu và không chứng
-Này Thiện nam!  Các Bồ tát hiện tại và chúng sanh đời sau, tuy tu tập Tâm này (Viên Giác) mà được thành tựu  (quả Phật) rồi, nhưng thực ra thì không tu và cũng không thành, vì tánh Viên Giác vừa tịch diệt vừa phổ chiếu tất cả, đối với Phật hay chúng sanh, không hai không khác.
 
LƯỢC GIẢI
Phật đã dạy “Nhứt thế chúng sanh giai hữu Phật Tánh” Nghĩa là: Tất cả chúng sanh đều có Tánh Phật (Viên Giác).  Song chúng sanh vì bị mây vô minh che phủ mặt trang Viên Giác (Phật) của mình, nên in tuồng có mê; bởi in tuồng có mê nên cũng in tuồng có Tu và CHứng.  Ðến khi mây vô minh tan hết, thì mặt trăng Viên Giác hiện ra.  Mặt trăng này đâu phải bấy giờ mới có, và cũng không phải do dụng công tu hành mới thành, vì nó có từ vô thỉ đến giờ.  Bởi thế nên nói “In tuồng có Tu và có Chứng” Trong kinh Tứ Thập Nhị Chương, cũng với ý này, Phật đã dạy: “Niệm đến chỗ không niệm mới là chơn niệm, làm đến chỗ không làm mới là thật làm, nói đến chỗ không nói mới là thật nói, tu đến chỗ không tu mới là tu, chứng đến chỗ không chứng mới là thật chứng...”
Tuy biết như vậy, nhưng lúc đầu tiên hạ thủ công phu, phải có Tu có Chứng, rồi mới có thể đạt đến chỗ rốt ráo là Vô tu Vô chứng.  Cũng như ông thầy giáo muốn cho cả lớp học được yên lặng thì phải dùng tiếng động là gõ thước trên bảng.  KHi học trò yên lặng thì tiếng gõ bảng hết, lúc bấy giờ mới đổi lại cảnh yên tịnh được.
Cũng vì ngộ lý này, nên người xưa có làm bài thơ rằng:
Bách xích can đầu trực hạ thủy
Nhứt ba tài động vạn ba tùy
Dạ tịnh thủy hàn ngư bất thực,
Mãn thuyền không tải nguyệt minh qui.
Ý nghĩa bài thơ  này, câu thứ nhất nói: “Nhợ 100 thước trên đầu cần câu, thả thẳng xuống mặt nước”.  Câu thứ hai nói: “Một lượn sóng vừa gợn (động) thì liền có muôn ngàn lượn sóng nhấp nhô nổi theo” . Hai câu này ý nói: Khi hạ thủ công phu, lúc đầu tiên thuộc về hữu tướng Tu, còn phải dụng công có Tu có Chứng.
Câu thứ ba nói: “Ðến khuya các tiếng động hết, một bầu tịch mịch thanh vắng mặt nước đong lạnh, bằng phẳng như tờ; cá cũng không ăn mồi”.  Ý nói hành giả lúc bấy giờ đã đi sâu vào chỗ “TÂm cảnh như như, ngả pháp đều không” thuộc về Vô tướng tu.  Vô cung dung hạnh.
Câu thứ tư nói: “Chỉ có thuyền trống chở ánh sáng mặt trăng về...” Ðại ý câu này nói: “Không tâm tải đạo” (tâm trống không, chứa đạo).  Hành giả lúc bấy giờ, tâm thể sáng suốt hiện khắp cả 10 phương (viên giác); in tuồng có chứng có đắc... mà thật ra không chứng và không đắc.
 

***** 

_________________________________
Tri Âm Quán_Thị Trấn Chũ_Lục Ngạn_Bắc Giang
http://quoccuonglucngan.blogspot.com/
Về Đầu Trang Go down
https://triamquan.forumvi.com/
Tri Âm Quán
Thành Viên Tích Cực
Thành Viên Tích Cực
Tri Âm Quán


Tổng số bài gửi : 6340
Reputation : 2
Join date : 31/07/2013
Đến từ : Thị Trấn Chũ

Phật Học Phổ Thông - Page 14 Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Phật Học Phổ Thông   Phật Học Phổ Thông - Page 14 EmptyThu Sep 04, 2014 11:31 am

14. Sanh tử và niết bàn đều như mộng, vì chúng sanh vốn đã thành Phật
Các thế giới của chư Phật, nhiều như số cát sông Hằng, đều ở trong tánh “Viên Giác” này.  Cũng như hoa đốm ở trong hư không, mặc tình lăng xăng khởi lên và lăng xăng diệt mất.  Nó không phải “tức” là tánh Viên Giác, mà cũng không phải “ly” tánh Viên giác; không triền phược và giải thoát.  Bởi thế nên biết “SAnh tử và Niết bàn” cũng đều như giấc mộng hôm qua, vì chúng sanh vốn đã thành Phật từ xưa đến giờ.
 
LƯỢC GIẢI
Ðại ý đoạn này nói: Tánh Viên Giác thanh tịnh vắng lặng như hư không nên mặc tinh cho các pháp lăng xăng khởi diệt như hoa đốm.
Niết bàn là đối với sanh tử mà có, trong tánh VIên Giác, Sanh tử đã không, cho nên Niết bàn cũng như mộng.
Ðứng về phương diện lý tánh mà luận, thì tất cả chúng sanh đều sẵn có tính Phật (Viên Giác) nên nói: “chúng sanh đã thành Phật từ xưa đến nay” .  Song chúng sanh vì bị mây vô minh che mờ, nên mặt trăng Phật (Viên Giác) của mình chẳng hiện.  Ðến khi được gío Bát Nhã thổi tan mây vô minh rồi,  thì trăng Viên Giác (Phật) của minh tự hiện.
Cũng vì ngộ lý này, nên cổ nhơn có làm bài thơ rằng:
Tòng hạ vấn đồng tử...
Ngôn: Sư thê được khứ,
Chỉ tại thử sơn trung
Vân thâm bất kiến xứ.
Dịch nghĩa:  Dưới cây tòng, hỏi Ðồng tử... Ðồng thử thưa rằng: “Thầy đi hái thuốc, chỉ ở trong núi này thôi, nhưng vì mây đen nên chẳng thấy được”
Trong bài thơ này, tác giả mượn người khách hỏi Ðồng tử để nói về lý đạo.
Ðại ý: Chúng sanh đi tìm Ðạo. Thật ra Ðạo (Phật) không đâu xa, chỉ ở trước mắt.  Nhưng vì chúng sanh bị mây vô minh che mờ, nên chẳng thấy được Ðạo (Phật).
Trong kinh có câu: “Tâm, Phật, chúng sanh, tam vô sai biệt”: TÂm, Phật và chúng sanh cả ba không sai khác. Hay là câu: “Phật pháp tại thế gian, bất ly thế gian giác”: Phật pháp tại thế gian, giác ngộ không rời thế gian; cũng là chỉ cho ý này.  Bởi chúng sanh và Phật đồng một thể tánh Viên giác, nên Phật với chúng sanh không hai, triền phược và giải thoát không khác sanh tử với Niết bàn như mộng.
 

******* 

_________________________________
Tri Âm Quán_Thị Trấn Chũ_Lục Ngạn_Bắc Giang
http://quoccuonglucngan.blogspot.com/
Về Đầu Trang Go down
https://triamquan.forumvi.com/
Tri Âm Quán
Thành Viên Tích Cực
Thành Viên Tích Cực
Tri Âm Quán


Tổng số bài gửi : 6340
Reputation : 2
Join date : 31/07/2013
Đến từ : Thị Trấn Chũ

Phật Học Phổ Thông - Page 14 Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Phật Học Phổ Thông   Phật Học Phổ Thông - Page 14 EmptySat Sep 06, 2014 12:45 pm

15.Các Pháp bình đẳng
-Này Thiện nam!  Phải biết sanh tử và Niết bàn đều như giấc mộng hôm qua, cho nên không có sanh diệt và cũng không có khứ lai.  Ở nơi quả vị sở chứng, không có “được’ và “mất” hay “thủ” và “xả”.  ở nơi người năng chứng cũng không có “tạo tác” và đình chỉ” hay “sanh (nhậm) và “diệt”.
Trong tánh Viên Giác, tất cả các pháp đều bình đẳng, không có hoại diệt.  Rốt ráo không có người năng chứng và quả sở chứng.
 
LƯỢC GIẢI

Trong kinh nói: “chư pháp tùng bổn lai, thường tự tịch diệt tướng”.  Nghĩa là: Các pháp từ xưa đến nay, tướng nó thường vắng lặng.  Bởi đồng tánh Viên Giác, nên tất cả các pháp bình đẳng, không sanh diệt, không khứ lai, không đắc thất, không thủ xả, không làm, không thôi, không sanh, không diệt, rốt ráo không có người năng chứng và quả sở chứng, vì tất cả đều là tánh Viên Giác vậy. 

_________________________________
Tri Âm Quán_Thị Trấn Chũ_Lục Ngạn_Bắc Giang
http://quoccuonglucngan.blogspot.com/
Về Đầu Trang Go down
https://triamquan.forumvi.com/
Tri Âm Quán
Thành Viên Tích Cực
Thành Viên Tích Cực
Tri Âm Quán


Tổng số bài gửi : 6340
Reputation : 2
Join date : 31/07/2013
Đến từ : Thị Trấn Chũ

Phật Học Phổ Thông - Page 14 Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Phật Học Phổ Thông   Phật Học Phổ Thông - Page 14 EmptySun Sep 07, 2014 3:22 pm

16.TÓM LẠI
Này Thiện Nam!  Các vị Bồ tát kia phải y lời ta dạy trên mà suy nghĩ như vậy, dùng phương tiện như vậy, y theo lớp lang và tuần tự tu hành như vậy, phải cầu pháp như vậy và khai ngộ như vậy, mới khỏi mê muội.
 
LƯỢC GIẢI
Nguyên trước Ngài Phổ Nhãn hỏi Phật: “Phải suy nghĩ làm sao? Lập phương tiện thế nào?  Và thứ lớp tu hành ra sao? v.v...
Phật đã giải thích rành rẽ rồi, nên đoạn này Phật dạy: “Phải suy nghĩ như vậy, dùng phương tiện như vậy v.v... thì mới khỏi mê muội và ngộ nhập được tánh Viên Giác”
 

*

_________________________________
Tri Âm Quán_Thị Trấn Chũ_Lục Ngạn_Bắc Giang
http://quoccuonglucngan.blogspot.com/
Về Đầu Trang Go down
https://triamquan.forumvi.com/
Tri Âm Quán
Thành Viên Tích Cực
Thành Viên Tích Cực
Tri Âm Quán


Tổng số bài gửi : 6340
Reputation : 2
Join date : 31/07/2013
Đến từ : Thị Trấn Chũ

Phật Học Phổ Thông - Page 14 Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Phật Học Phổ Thông   Phật Học Phổ Thông - Page 14 EmptyMon Sep 08, 2014 11:29 am

17.Phật nói bài kệ tóm lại các nghĩa trên
Khi ấy Ðức Thế Tôn muốn tóm lại các nghĩa trên, nên nói bài kệ rằng:
Phổ Nhãn! Ông phải biết:
Thân, Tâm của chúng sanh
Tất cả đều như huyễn:
Thân này thuộc bốn đại
Thân này trả sáu trần;
Bốn đại tan rã rồi,
Cái gì gọi là “TA”?
Tuần tự tu như vậy,
Tất cả đều thanh tịnh.
Viên Giác khắp Pháp giới,
Không làm, thôi, sanh, diệt
Không năng chứng, sở chứng:
Tất cả thế giới Phật
Như hoa đốm hư không.
Ba đời đều bình đẳng
Rốt ráo không qua lại
Bồ tất mới phát tâm,
VÀ chúng sanh đời sau,
Muốn cầu nhập Phật đạo
Phải như thế tu hành.
 
LƯỢC GIẢI
Ðại ý bài kệ này là tóm lại các nghĩa trên.

Phật dạy quán sát Thân này và Tâm này đều như huyễn, không có thật “Ngã). Cứ như thế mà tu hành thì lần lần sẽ được thanh tịnh.  lúc bấy giờ tánh Viên Giác hiện ra khắp cả Pháp giới, không còn “làm” hay “thôi”, “sanh” hay “diệt”, và cũng không có “năng chứng” và “sở chứng”.  Các thế giới nhiều như số cát Sông Hằng, đều ở trong tánh Viên Giác, mặc tình nó sanh diệt như hoa đốm giữa hư không.  Ba đời đều bình đẳng, rốt ráo không qua lại.  Các Bồ tát và chúng sanh đời sau, phải như thế tu  hành, mới vào được Ðạo Phật. 

_________________________________
Tri Âm Quán_Thị Trấn Chũ_Lục Ngạn_Bắc Giang
http://quoccuonglucngan.blogspot.com/
Về Đầu Trang Go down
https://triamquan.forumvi.com/
Tri Âm Quán
Thành Viên Tích Cực
Thành Viên Tích Cực
Tri Âm Quán


Tổng số bài gửi : 6340
Reputation : 2
Join date : 31/07/2013
Đến từ : Thị Trấn Chũ

Phật Học Phổ Thông - Page 14 Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Phật Học Phổ Thông   Phật Học Phổ Thông - Page 14 EmptyTue Sep 09, 2014 4:19 pm

Bài thứ tư
IV. CHƯƠNG KIM CANG TẠNG
 
1.     Ngài Kim Cang Tạng Bồ Tát hỏi Phật
2.     Phật khen Ngài Kim Cang Tạng Bồ tát
3.     Phật dạy: “Người mê nói ngộ, ngổ ấy thành mê”
4.     Phật  dùng thí dụ để giải thích nghĩa trên
5.     Các Pháp hư huyễn không có thật sanh và diệt
6.     Thành Phật rồi không trở lại làm chúng sanh
7.     Tánh Viên Giác phi tất cả tưởng
8.     Tánh Viên Giác không thể nghĩ bàn
9.     Không thể dùng tâm chúng sanh phân biệt được cảnh Phật
10. Phật nói bài kệ tóm lại các ý nghĩa trên
 

IV.   CHƯƠNG KIM CANG TẠNG
1.    Ngài Kim Cang Tạng Bồ Tát hỏi Phật
Khi ấy Ngài Kim Cang Tạng Bồ tát ở trong Ðại chúng đứng dậy, đi quanh bên hữu của Phật ba vòng, và kính cẩn chắp tay, đảnh lễ dưới chân Phật, rồi quỳ thẳng bạch rằng:
Bạch đức Ðại bi Thế Tôn, Ngài đã vì các vị Bồ tát nói rõ tánh “Viên Giác thanh tịnh” của Như Lai, và chỉ dạy những phương tiện, tuần tự tu hành để nhập tánh Viên Giác.  Ngài đã vén mở mây vô minh mờ ám cho các chúng sanh. Thỉnh chúng trong pháp hội này, nhờ lòng từ bi của Phật khai hóa, mà mắt Trí huệ được sáng tỏ.
Bạch đức Thế Tôn:
1.      Nếu các chúng sanh đã thành Phật từ xưa đến nay, thì tại làm sao lại có tất cả vô minh để trở lại làm chúng sanh nữa?
2.      Nếu chúng sanh sẵn có các vô minh, thì do nhơn duyên gì mà đức Như Lai lại nói: “chúng sanh đã thành Phật từ xưa đến nay”?
3.      Nếu 10 phương chúng sanh đã thành Phật từ xưa, về sau lại sanh ra vô minh; vậy thì các đức Như Lai hiện nay đã thành Phật rồi, chừng nào các NGài sanh trở lại phiền não nữa?
Cúi xin đức Ðại bi Thế Tôn, vì các vị Bồ tát hiện tại và tất cả chúng sanh đời sau, nhổ sạch gốc rễ nghi lầm, khiến cho chúng sanh được ngộ nhập đạo vô thượng.
 
LƯỢC GIẢI
Ðại ý đoạn này, Ngài Kim Cang Tạng Bồ tát nghi: Có vô minh thì gọi là chúng sanh, không vô minh mới kêu là Phật; thế mà Ðức Như Lai lại nói: “chúng sanh đã thành Phật từ xưa đến nay”.
Nếu chúng sanh đã thành Phật từ xưa đến nay, thì phải không còn vô minh.  Nếu không còn vô minh, thì không còn gọi là chúng sanh nữa.  Tại làm sao Phật còn gọi: “Chúng sanh”?
Lại nữa, nếu chúng sanh sẵn có vô minh thì không thể nói “Nguyên lai thành Phật”. Tại sao Phật lại nói: “chúng sanh nguyên lai đã thành Phật”.
Chúng sanh tu hành phải trải qua ba vô số kiếp mới thành Phật.  Nếu khi được thành Phật rồi, vô minh trở lại khởi lên làm chúng sanh nữa, thì tu biết chừng nào cho rồi!  Lại nữa, chư Phật hiện nay đã thành Phật, vậy chừng nào các Ngài nổi vô minh trở lại làm chúng sanh nữa?

Ðoạn này giống như trong kinh Lăng Nghiêm, khi Ngài Phú Lâu Na Di Ða La Ni Tử hỏi Phật: “chơn tâm vốn đã thanh tịnh tại sao thoạt sanh ra sơn hà đại địa và các chúng sanh?” 

_________________________________
Tri Âm Quán_Thị Trấn Chũ_Lục Ngạn_Bắc Giang
http://quoccuonglucngan.blogspot.com/
Về Đầu Trang Go down
https://triamquan.forumvi.com/
Tri Âm Quán
Thành Viên Tích Cực
Thành Viên Tích Cực
Tri Âm Quán


Tổng số bài gửi : 6340
Reputation : 2
Join date : 31/07/2013
Đến từ : Thị Trấn Chũ

Phật Học Phổ Thông - Page 14 Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Phật Học Phổ Thông   Phật Học Phổ Thông - Page 14 EmptyWed Sep 10, 2014 8:00 pm

2.    Phật khen Ngài Kim Cang Tạng Bồ Tát
Khi đó đức Thế Tôn khen Ngài Kim Cang Tạng Bồ tát và dạy rằng:
-Này Thiện nam, quý lắm!  Ông vì các vị Bồ tát hiện tại và chúng sanh đời sau thưa hỏi Như Lai những đạo lý diệu huyền.
Nay ta vì các ông nói giáo pháp Ðại thừa, nghĩa lý rốt ráo và cao thượng, khiến cho các vị Bồ tát tu học trong mười phương, và tất cả chúng sanh đời sau, đều đoạn trừ hết các điều nghi ngờ, đặng tín tâm chắc chắn.  Vậy các ông nên chăm chú nghe lời ta chỉ dạy.
Khi đó Ngài Kim Cang Tạng Bồ tát và Ðại chúng đều vui mừng, kính cẩn vâng nghe lời Phật chỉ giáo.
 
LƯỢC GIẢI
Kim Cang là chất ngọc quý, cứng rắng nhứt trong loại ngọc.  Nó đã cứng mà lại bén (sắc), hay phá hoại các vật, mà các vật không phá hoại được nó.
Ðoạn này Ngài Kim Cang Tạng Bồ Tát đứng lên thưa hỏi những chỗ khó khăn, là tiêu biểu phải dùng Kim cang trí mới phá trừ nổi những mê lầm(vô minh) sâu sắc.
Ngài Kim Cang Tạng Bồ tát cũng là một vị Thượng thủ trong hàng Bồ tát.
 
3.    Phật dạy: Người mê nói ngộ, Ngộ ấy thành mê
-Này Thiện nam!  TẤt cả các pháp, có thủy chung, sanh diệt, tiền hậu, hữu vô, nào tụ tán, khởi dừng, xoay vần, qua lại, các món thủ xả, mỗi niệm nối luôn.  Những loại kể trên đều là luân hồi cả.  Người chưa ra khỏi luân hồi mà nghĩ bàn đến Viên Giác, thì tánh “viên giác” đó cũng trở thành luân hồi (vị xuất luân hồi nhi biện Viên giác, bĩ Viên Giác tánh tức đồng lưu chuyển) Nếu người ra khỏi luân hồi (hết mê vọng rồi) thì không còn thấy có các việc hư vọng ấy nữa.
 
LƯỢC GIẢI
Ðại ý đoạn này Phật nói: Người còn ở trong vòng “mê” mà nói việc “ngộ” thì cái “ngộ’ ấy cũng thành “mê”.  Dùng tâm chúng sanh nghĩ bàn đến cảnh giới Phật, thì cảnh giới Phật cũng thành chúng sanh.  Dùng tâm luân hồi mà nghĩ bàn đến tánh Viên Giác, thì tánh “viên giác” cũng trở thành luân hồi.

Phật bảo Ngài Kim Cang Tạng Bồ tát: Nếu ông đứng trong vòng hư vọng, tương đối, có thánh có phàm, có chúng sanh, có Phật v.v.. mà luận đến cảnh giới tuyệt đối, bất tư nghị của chư Phật thì không thể được.  Bởi thế nên người muốn hiểu chỗ cao siêu của đạo Phật thì cần phải tu, chớ không thể nói suông mà hiểu được. 

_________________________________
Tri Âm Quán_Thị Trấn Chũ_Lục Ngạn_Bắc Giang
http://quoccuonglucngan.blogspot.com/
Về Đầu Trang Go down
https://triamquan.forumvi.com/
Tri Âm Quán
Thành Viên Tích Cực
Thành Viên Tích Cực
Tri Âm Quán


Tổng số bài gửi : 6340
Reputation : 2
Join date : 31/07/2013
Đến từ : Thị Trấn Chũ

Phật Học Phổ Thông - Page 14 Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Phật Học Phổ Thông   Phật Học Phổ Thông - Page 14 EmptyFri Sep 12, 2014 6:28 pm

4.    Phật dùng thí dụ để giải thích nghĩa trên
-Này Thiện nam!  Thí như: vì con mắt nháy mà thấy nước dợn sóng; vì mắt xem không kịp mà thấy thành vòng lửa; nhơn mây bay mà thấy mặt trăng chạy; vì thuyền đi mà thấy bờ trôi.  Trong lúc các vật đây động, như mắt nháy, mây bay, thuyền chạy v.v.. mà các vật yên tịnh kia như nước đứng, lửa đốm, trăng dừng, còn thấy chuyển động thay, huống chi ông dùng tâm cấu nhiễm sanh tử luân hồi mà quan sát tánh Viên giác thanh tịnh của Như Lai, thì tánh Viên giác này làm sao chẳng cấu nhiễm.  Thế nên ông mới sanh ra ba điều nghi vấn trên.
 
LƯỢC GIẢI
Trong đoạn này, Phật dùng những việc tầm thường trong đời làm thí dụ, như mắt nháy, mây bay, thuyền đi v.v.. mà thấy nước dợn, trăng bay, bờ chạy v..v... để chỉ rõ: vì dùng tâm cấu nhiễm mê vọng của chúng sanh mà quan sát nghĩ ngợi đến cảnh giới của Phật, nên cảnh Phật trở thành tương đối mê vọng.
Vì ngài Kim Cang Tạng Bồ tát dùng tâm phân biệt đối đãi có không, sanh diệt, thánh phàm v.v... nên thấy có chúng sanh chưa thành Phật và có Phật đã thành.  Bởi thế nên NGài sanh ra ba điều nghi ngờ trên.  Nếu Ngài nhập được tánh Viên giác thanh tịnh rồi thì những tướng tốt đối đãi như thánh phàm nhiễm tịnh, sanh tử và Niết bàn, chúng sanh và Phật đều không còn. Lúc bấy giờ NGài không còn nghi ngờ như trên nữa.  Vì vậy nên đoạn sau Phật quở: “.. những lời ông thưa hỏi đó, chẳng có đúng đắn...”
 

**** 

_________________________________
Tri Âm Quán_Thị Trấn Chũ_Lục Ngạn_Bắc Giang
http://quoccuonglucngan.blogspot.com/
Về Đầu Trang Go down
https://triamquan.forumvi.com/
Tri Âm Quán
Thành Viên Tích Cực
Thành Viên Tích Cực
Tri Âm Quán


Tổng số bài gửi : 6340
Reputation : 2
Join date : 31/07/2013
Đến từ : Thị Trấn Chũ

Phật Học Phổ Thông - Page 14 Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Phật Học Phổ Thông   Phật Học Phổ Thông - Page 14 EmptySat Sep 13, 2014 8:46 am

 5.    Phật dạy: các Pháp hư huyễn, không có thật sanh và thật diệt
-Này Thiện nam! Thí như người bịnh lòa mắt, trông noi hư không vọng thấy có các hoa đốm lăng xăng. Ðến khi bịnh lòa nhặm hết rồi, thì hoa đốm kia tự diệt.  Lúc bấy giờ, người ấy không nên hỏi: “Cái bịnh lòa nhặm này đã diệt rồi, vậy chừng nào sanh trở lại nữa?” - Tại sao thế? – Vì cái lòa nhặm nó vọng huyễn không có thật thể vậy.
Và, cũng không nên hỏi: “Những chỗ hoa đốm diệt ở nơi hư không kia, vậy chừng nào hoa đốm ấy sanh trở lại nữa?” - Tại sao thế? – Vì trong hư  không vốn không có hoa đốm, cho nên nó không có sanh ra hoa đốm hay diệt hoa đốm vậy.
Sanh tử và niết bàn đối với tánh Viên giác, cũng dồng như hoa đốm sanh diệt trong hư không. Tánh Viên Giác vẫn nhiệm mầu viên mãn, yên lặng chiếu soi, lìa cái nhặm vô minh và cảnh giới hoa đốm.
Này Thiện nam!  Nên biết hư không kia còn không phải tạm có và tạm không, huống chi tánh Viên Giác của Như Lai là bản tánh của hư không, nó bình đẳng tùy thuận các duyên, mà lại tạm có và tạm không hay sao.
 
LƯỢC GIẢI
Ðại ý đoạn này nói: Vô minh và các vọng cảnh, đều hư huyễn không thật, cũng như hoa đốm và mắt nhặm.  Vì hoa đốm với nhặm, đều không phải thật vật, cho nên nó không thật có sanh và diêt.  Bởi thế, khi hết nhặm rồi, không nên hỏi: “chừng nào nhặm trở lại nữa?” Hay hoa đốm đã diệt rồi, cũng không nên hỏi: “Chừng nào nó sanh trở lại nữa?”
Hoa đốm và bịnh nhặm, mặc tình nó vọng sanh vọng diệt, mà hư hông lúc nào cũng vẫn thanh tịnh và yên lặng.  Cũng như Vô minh và vọng cảnh, mặc tình vọng khởi và vọng diệt, mà tánh Viên giác vẫn thanh tịnh viên mãn và xa lìa các vô minh cùng Vọng cảnh.
Tánh hư không bình đẳng tùy thuận các đồ vật, mà hiện ra có tướng Vuông và Tròn.  Cũng như tánh Viên Giác bình đẳng, tùy thuận các duyên mà hiện ra tất cả Pháp.
Hư không, không phải nhơn lúc hoa đốm diệt mà nó tạm có, cũng không phải nhơn lúc hoa đốm sanh nó tạm không; bởi tánh hư không thường có và bình đẳng, tùy hoa đốm mặc tình sanh diệt, nhưng hư không vẫn không thay đổi.
Cũng thế, tánh Viên giác thanh tịnh của  Như Lai, thường còn bình đẳng và tùy thuận các Pháp.  Không phải nhơn lúc Vô minh diệt mà nó tạm có, hay Vô minh sanh mà nó tạm không, nó tùy thuận tất cả, không có chướng ngại.
 

****** 

_________________________________
Tri Âm Quán_Thị Trấn Chũ_Lục Ngạn_Bắc Giang
http://quoccuonglucngan.blogspot.com/
Về Đầu Trang Go down
https://triamquan.forumvi.com/
Tri Âm Quán
Thành Viên Tích Cực
Thành Viên Tích Cực
Tri Âm Quán


Tổng số bài gửi : 6340
Reputation : 2
Join date : 31/07/2013
Đến từ : Thị Trấn Chũ

Phật Học Phổ Thông - Page 14 Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Phật Học Phổ Thông   Phật Học Phổ Thông - Page 14 EmptyWed Sep 17, 2014 10:50 am

6.    Phật dùng thí dụ, để chỉ rõ khi thành Phật rồi, không trở lại làm chúng sanh
-Này Thiện nam! Thí như chất kim khoáng, sau khi được nấu lọc, bỏ hết quặng rồi, thì chỉ còn vàng y.  Chất vàng này không phải do nấu lọc mới sanh, vì nó có sẵn từ trước kia rồi, và khi đã thành vàng y, cũng không bao giờ trở lại thành quặng nữa, dầu trải qua bao nhiêu năm, nó cũng không hư hoại.
Tánh Viên Giác thanh tịnh của Như Lai cũng thế.
 
LƯỢC GIẢI
Phật dùng vàng để thí dụ tánh Viên Giác, dùng khóang dụ chúng sanh.  Khi vàng còn ở trong khoáng, cũng như Phật tánh (Viên giác) ở trong cái vỏ chúng sanh.  Vì y nơi Phật tánh sẵn có, nên Phật nói: “chúng sanh đã thành Phật”.
Khi chất kim khoáng được đem ra nấu luyện, lọc bỏ hết quặng chỉ còn vàng y, thì vàng này không còn trở lại làm khoáng nữa.
Cũng như chúng sanh, sau khi trải qua thời gian tu luyện, gạn lọc hết vô minh, phiền não, tánh Viên giác hiện ra, được thành Phật rồi; lúc bấy giờ không còn khởi vô minh phiền não trở lại làm chúng sanh nữa.
Dầu chưa được nấu luyện, lọc bỏ quặng ra, lúc ấy chất vàng vẫn sẵn có.  Ðến khi nấu luyện, lọc bỏ hết quặng thành vàng y rồi, không phải lúc bấy giờ vàng mới có.  Tánh Viên giác cũng thế, khi làm chúng sanh, nó vẫn sẵn có, nên nói: “chúng sanh đã thành Phật”. Trải qua thời gian tu luyện trừ hết Vô minh phiền não, tánh Viên Giác hiện ra, không phải lúc bấy giờ nó mới sanh.
KHi tánh Viên Giác đã hoàn toàn hiện rồi, thì vô minh phiền não không còn sanh trở lại nữa, nên nói: “Thành Phật rồi, không còn trở lại làm chúng sanh”.
 

**** 

_________________________________
Tri Âm Quán_Thị Trấn Chũ_Lục Ngạn_Bắc Giang
http://quoccuonglucngan.blogspot.com/
Về Đầu Trang Go down
https://triamquan.forumvi.com/
Tri Âm Quán
Thành Viên Tích Cực
Thành Viên Tích Cực
Tri Âm Quán


Tổng số bài gửi : 6340
Reputation : 2
Join date : 31/07/2013
Đến từ : Thị Trấn Chũ

Phật Học Phổ Thông - Page 14 Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Phật Học Phổ Thông   Phật Học Phổ Thông - Page 14 EmptyThu Sep 18, 2014 8:56 am

7.    Tánh Viên Giác phi tất cả tướng
-Này THiện nam!  Tánh Viên giác mầu nhiệm của Như Lai vốn không có Bồ đề, và Niết bàn, không có thành Phật và chẳng thành Phật, cũng không có luân hồi và phi luân hồi.
 
LƯỢC GIẢI
Ðứng về phương diện tương đối mà nói: Vì có phiền não nên có Bồ đề, có sanh tử nên có Niết bàn, có luân hồi nên mới có giải thoát, có chúng sanh mới có Phật.
Song đứng về phương diện lý tánh tuyệt đối, tức là tâm Viên Giác mầu nhiệm của như Lai mà nói, thì phiền não đã không, nên Bồ đề chẳng có, sanh tử đã không, nên Niết bàn chẳng có, cho đến chúng sanh đã không, nên Phật cũng chẳng có.
Ðến cảnh giới này, thì nói năng không trúng, suy nghĩ cũng chẳng nhằm. Hành giả phải tự chứng nhập.
 

****** 

_________________________________
Tri Âm Quán_Thị Trấn Chũ_Lục Ngạn_Bắc Giang
http://quoccuonglucngan.blogspot.com/
Về Đầu Trang Go down
https://triamquan.forumvi.com/
Tri Âm Quán
Thành Viên Tích Cực
Thành Viên Tích Cực
Tri Âm Quán


Tổng số bài gửi : 6340
Reputation : 2
Join date : 31/07/2013
Đến từ : Thị Trấn Chũ

Phật Học Phổ Thông - Page 14 Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Phật Học Phổ Thông   Phật Học Phổ Thông - Page 14 EmptyFri Sep 19, 2014 11:16 am

8.    Tánh Viên Giác không thể nghĩ bàn
-Này Thiên nam!  Rất dỗi như cảnh giới Niết bàn thân tâm đoạn diệt của Thinh Văn (1) Tiểu thừa kia, còn không thể dùng tâm phân biệt mà thân chứng được, huống chi cảnh giới Viên giác thanh tịnh của Như Lai mà lại dùng tâm suy  nghĩ so đo của chúng sanh, làm sao nhập được.
Cũng như người dùng lửa đom đốm, để đốt núi Tu di, làm sao đốt được. Người dùng tâm luân hồi, sanh vọng chấp luân hồi, mà muốn vào biển Niết bàn tịch tịnh của Như Lai thì không thể được.
Thế nên ta dạy: Tất cả các vị Bồ tát và chúng sanh đời sau, trước phải đoạn hết căn bản sanh tử luân hồi từ vô thỉ.
 
LƯỢC GIẢI
Cảnh giới Niết bàn của Thinh Văn là cảnh giới Tiểu thừa (trầm không thú tịch khôi thân diệt trí) mà còn không thể nghĩ ngợi được, huống chi cảnh giới của Phật cao siêu tột bực, mà lại dùng cái vọng tâm sanh tử luân hồi của phàm phu và trí của Tiểu thừa để suy nghĩ phân biệt cảnh giới Viên giác của Như Lai, thì quyết không thể hiểu được (dĩ luân hồi tâm, sanh luân hồi kiến, nhập ư Như Lai đại tịch diệt hải, chung bất năng chí) cũng như  người dùng lửa của con đom đóm để đốt núi Tu Di thì không thể được.
Bởi thế nên Phật dạy: “trước phải đoạn hết căn bản sanh tử luân hồi từ vô thỉ”, tức là diệt vọng tâm phân biệt.  Cũng như trong kinh Lăng Nghiêm, Phật dạy rành rõ hai món căn bản là:
1.      Phải đoạn căn bản của sanh tử luân hồi là vọng tâm
2.      Phải y trụ nơi căn bản
***
_________
(1) Thân tâm đoạn diệt của Thinh Văn – Hàng Thinh Văn Tiểu thừa rất sợ việc hoá đạo độ sanh, vì sợ gặp những nghịch cảnh rồi vô minh phiền não nổi lên, mà phải bị thối chuyển.  Bởi thế nên các NGài cứ lo tu giải thoát một mình.  Từ đời này cho đến kiếp nọ, ưa ở chỗ thanh vắng tịch mịch, say đắm cảnh Niết bàn của Tiểu thừa, giữ tâm yên tịnh luôn không dám khởi niệm, say mê với cảnh thiền, thân không lay độngcũng như tro nguội, nên nói: “Thân tâm đoạn diệt”.  Chỗ khác gọi rằng: “Trầm không thú tịch khôi thân diệt trí”, nghĩa là: say sưa với cảnh không, thích thú nơi tịch mịch, thân yên lặng như tro nguội, tâm trí diêt, không móng niệm.
Bởi thế nên Phật quở hàng Tiểu thừa là loại giống khô, mộng héo (tiêu nha bại chủng), nghĩa là thứ giống khô rụi, không thể nứt mộng sanh chồi nữa được.

Phật lại dạy rằng: Không ai đem giống gieo trồng trên hư không được, mà phải gieo trồng trên mặt đất. Giống Bồ đề cũng thế, không thể gieo trồng nơi chỗ trống không được, mà phải gieo trồng nơi đất chúng sanh.  Bởi thế nên muốn thành quả Phật Bồ đề thì phải hóa độ chúng sanh. 

_________________________________
Tri Âm Quán_Thị Trấn Chũ_Lục Ngạn_Bắc Giang
http://quoccuonglucngan.blogspot.com/
Về Đầu Trang Go down
https://triamquan.forumvi.com/
Tri Âm Quán
Thành Viên Tích Cực
Thành Viên Tích Cực
Tri Âm Quán


Tổng số bài gửi : 6340
Reputation : 2
Join date : 31/07/2013
Đến từ : Thị Trấn Chũ

Phật Học Phổ Thông - Page 14 Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Phật Học Phổ Thông   Phật Học Phổ Thông - Page 14 EmptySat Sep 20, 2014 12:48 pm

9.    Không thể dùng tâm chúng sanh, phân biệt được cảnh Phật
-Này Thiện nam! Nếu có suy nghĩ phân biệt là từ vọng tâm (thức) khởi, nên tất cả suy nghĩ, đều là cái vọng tưởng phân biệt duyên theo bóng dáng của sáu trần. Nó hư vọng như hoa đốm trong hư không, chẳng phải là chơn tâm. Nếu ông dùng cái vọng tâm suy nghĩ này, mà suy nghĩ cảnh giới của chư Phật, thì cảnh giới ấy cũng lẩn quẩn trong vòng vọng tưởng của chúng sanh mà thôi.  Cũng như người  ngồi trong đợi cho hoa đốm giữa hư không kết thành ra quả, thì không có thể  được.
Này Thiện nam! ông dùng tâm hư vọng thô phù, sanh ra các lối chấp xảo quyệt, (chấp càng) cho nên ông không thể nhập được cảnh Viên Giác chơn thật của Như Lai. Bởi thế, nên những lời ông hỏi trên, đều là hư vọng phân biệt, không phải lời hỏi đúng đắn chơn thật.
 
LƯỢC GIẢI
Ðức Thế Tôn, sau khi trải qua thời gian ba vô số kiếp tu hành, được thành Phật hiệu là Thích Ca Mâu Ni rồi, Ngài dạy rằng: “Nói thành Phật thật ra không thành cái chi khác, mà chỉ trở lại với tánh Phật sẵn có đó thôi”. Trong kinh nói: “Thành mà vẫn không thành”, hay câu: “Ngộ liễu đồng vị ngộ, vô pháp diệc vô tâm”. (Giác ngộ rồi cũng đồng như khi chưa giác ngộ, vì không có pháp và cũng không có Tâm gì khác).
Tánh Phật này, không riêng gì một mình Ngài có, mà tất cả chúng sanh đều có sẵn có.  Vì căn cứ theo Phật tánh sẵn có này, nên Ngài nói: “Tất cả chúng sanh đều có tánh Phật” hay trong kinh Hoa Nghiêm nói: “Tất cả chúng sanh đều sẵn có đầy đủ trí huệ đức tướng của Như Lai”. )nhứt thế chúng sanh cụ hữu Như Lai trí huệ đức tướng).  Bởi thế nên Ngài nói: “Chúng sanh đã thành Phật từ lâu”.
Vậy, người muốn hiểu đến lý này, phải nhập cảnh giới Phật, trình độ phải gần như Phật mới hiểu được. NẾu chỉ dùng tâm cấu nhiễm thô phù phân biệt của chúng sanh, mà so tính đến cảnh giới Phật, thì làm sao hiểu được.  Cũng như người muốn hiểu câu nói của cụ già tám mươi, ít nhất trình độ cũng gần như cụ già mới hiểu.  Nếu dùng trí non nớt của trẻ con năm, mười tuổi, mà suy nghĩ câu nói của cụ già thì làm sao hiểu được.  Bởi thế nên Phật nói: “những lời ông hỏi trên đêù là hư vọng phân biệt, không phải lời hỏi chơn thật.
 

*** 

_________________________________
Tri Âm Quán_Thị Trấn Chũ_Lục Ngạn_Bắc Giang
http://quoccuonglucngan.blogspot.com/
Về Đầu Trang Go down
https://triamquan.forumvi.com/
Tri Âm Quán
Thành Viên Tích Cực
Thành Viên Tích Cực
Tri Âm Quán


Tổng số bài gửi : 6340
Reputation : 2
Join date : 31/07/2013
Đến từ : Thị Trấn Chũ

Phật Học Phổ Thông - Page 14 Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Phật Học Phổ Thông   Phật Học Phổ Thông - Page 14 EmptyMon Sep 22, 2014 11:04 am

10.  Phật nói bài kệ để tóm lại các nghĩa trên
Khi ấy đức Thế Tôn, muốn tóm lại các nghĩa trên, nên nói kệ rằng:
Kim Cang Tạng!  Nên biết:
Như Lai tành vắng lặng,
Chưa từng có chung thỉ,
Nếu dùng tâm luân hồi,
Suy nghĩ cảnh giới Phật,
Cảnh Phật thành luân hồi.
Người ở bờ luân hồi,
Không thể vào biển Phật.
Phật tánh tuy sẵn có,  
Phải tu mới hiển nhiên.
Cũng như vàng sẵn có,
Phải lọc quặng mới thành.
Khi đã thành vàng y,
Không trở lại làm quặng.
Sanh tử và Niết bàn,
Phàm phu cùng chư Phật,
Thảy đều như hoa đốm.
Tâm suy nghĩ đã huyễn,
Làm sao nhập được chơn.
Nếu rõ được tâm nầy,
Mới cầu được Viên Giác.
 
LƯỢC GIẢI
Bài kệ này tóm lại các nghĩa trên.  Ðại ý nói: Tánh Viên Giác của Phật thanh tịnh vắng lặng, không có thánh phàm, chúng sanh và Phật v.v... Nếu dùng tâm phân biệt của chúng sanh mà phân biệt cảnh giới PHật, thì cảnh Phật cũng thành cảnh chúng sanh.
Chúng sanh tuy sẵn có Phật tánh, nhưng phải nhờ có tu mới hiển.  Cũng như chất vàng tuy sẵn có trong khoáng, nhưng phải nhờ lọc hết quặng mới thành vàng y.  Khi đã thành vàng y rồi thì không còn trở lại làm quặng nữa.  Cũng như khi đã thành Phật rồi không còn trở lại làm chúng sanh.
Bởi đứng trong vòng vọng nhiễm tương đối, nên thấy có sanh tử và Niết bàn, chúng sanh và Phật; chớ đứng về tánh Viên giác thanh tịnh của Như Lai, thì các pháp trên đây đều như hoa đốm giữa hư không.
Ngài Kim Cang Tạng Bồ tát vì muốn đại diện cho phàm phu, nên đã dùng tâm vọng nhiễm của chúng sanh mà suy nghĩ so đo, thấy có chúng sanh và Phật, và giả thốt ra các lời hỏi hư vọng ấy.  Những lời hỏi này, đối với cảnh Viên giác chơn thật của Như Lai, thì chẳng nhằm chi cả.  Bởi thế nên Phật quở rằng: “Những lời ông hỏi đều không chơn chánh”.

Vậy nên, hành giả phải rời các vọng niệm phân biệt, mới hiểu được tánh Viên Giác. 

_________________________________
Tri Âm Quán_Thị Trấn Chũ_Lục Ngạn_Bắc Giang
http://quoccuonglucngan.blogspot.com/
Về Đầu Trang Go down
https://triamquan.forumvi.com/
Tri Âm Quán
Thành Viên Tích Cực
Thành Viên Tích Cực
Tri Âm Quán


Tổng số bài gửi : 6340
Reputation : 2
Join date : 31/07/2013
Đến từ : Thị Trấn Chũ

Phật Học Phổ Thông - Page 14 Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Phật Học Phổ Thông   Phật Học Phổ Thông - Page 14 EmptyTue Sep 23, 2014 10:38 am

BÀI THỨ NĂM
V. CHƯƠNG DI LẶC BỒ TÁT
1. Ngài Di Lặc Bồ tát hỏi Phật
2. Phật khen ngài Di Lặc Bồ tát
3. Phật dạy: Ái và Dục là gốc rễ của sanh tử luân hồi
4. Phật trả lời câu hỏi: “Có mấy loại chúng sanh luân hồi?”
5. Bồ tát hiện thân, không phải do Ái dục, mà do lòng Ðại bi và Nguyện lực
6. Phật nói: có năm chủng tánh
7. Bồ tát thị hiện các hình tướng và cảnh thuận nghịch để nhập thế độ sanh
8. Chỉ nguyện thành Phật, không ở Nhị thừa và chớ gặp ngoại đạo tà sư.
9. Phật nói bài kệ tóm lại các nghĩa trên
 

V. CHƯƠNG DI LẶC BỒ TÁT
 
1.   Ngài Di Lặc Bồ tát hỏi Phật
Khi đó Ngài Di Lặc Bồ tát ở trong Ðại chúng đứng dậy, đi quanh bên hữu của Phật ba vòng và chấp tay kính cẩn, đảnh lễ dưới chân Phật, rồi qùy thẳng bạch rằng:
-Bạch đức Ðại bi Thế tôn, Ngài đã vì các vị Bồ tát và Ðại chúng, mở kho báu bí mật của Như Lai (Viên giác cảnh giới) và làm cho Ðại chúng hiện tại cùng chúng sanh đời sau, được con mắt đạo sáng suốt không lo sợ, phân biệt được việc tà chánh, hiểu sâu lý luân hồi, đối với cảnh Ðại Niết bàn (niết bàn Ðại thừa) sanh lòng tin chắc chắn, không còn khởi các vọng chấp, trở lại cảnh giới luân hồi nữa.
Bạch đức Thế Tôn:
1. Các vị Bồ tát và chúng sanh đời sau, làm sao đoạn được gốc rễ luân hồi, để vào biển Ðại Tịch diệt của Như Lai?
2. Có mấy loại chúng sanh luân hồi?
3. Có mấy  hạng người tu theo đạo Bồ đề của Phật?
4. Khi Bồ tát nhập thế độ sanh, phải dùng những phương tiện gì để giáo hóa chúng sanh?
Cúi xin đức Thế Tôn, rủ lòng đại bi cứu thế, chỉ dạy cho các vị Bồ tát hiện tại và chúng sanh đời sau, khiến cho chúng sanh, gương lòng được sáng tỏ, mắt trí huệ trong xanh, viên ngộ được “Tri kiến vô thượng” của Như Lai.
Ngài Di Lặc Bồ tát thưa thỉnh như vậy ba lần, và kính cẩn lạy Phật rồi trở lui.
 
LƯỢC GIẢI
Vì trong chương Kim Cang Tạng, Phật dạy: “Trước phải đoạn gốc rễ của luân  hồi từ vô thỉ”, nên chương này Ngài Di Lặc Bồ tát hỏi: “... Làm sao đoạn được gốc rễ luân hồi? VÀ có mấy loại chúng sanh luân hồi?”
Ðại ý đoạn này Ngài Di Lặc Bồ tát hỏi:
1.    Làm sao đoạn được gốc rễ luân hồi để vào biển Ðại Niết Bàn của Như Lai?
2.    Có mấy loại chúng sanh luân hồi?
3.    Có mấy hạng người tu đạo Bồ đề của Phật?
4.    Khi Bồ tát nhập thế độ sanh, phải dùng những phương tiện gì thể giáo hóa chúng sanh?
Biển Ðại Tịch diệt. -Tức là Niết bàn của Ðại thừa, rộng rãi bao la như biển cả, đã thanh tịnh mà yên lặng nên gọi rằng “Tịch diệt”.  Ðủ cả bốn đức là: Chơn thường, Chơn lạc, Chơn ngã và Chơn tịnh.  Cũng là một cái tên khác Viên giác hay chơn tâm.
Ðức Di Lặc Bồ tát. -Tiền thân: Trong vô số kiếp về trước, có Phật ra đời hiệu là Ðại thông Trí Thắng Như Lai, lúc bấy giờ Ngài (đức Di Lặc) và đức Phật Thích Ca (tiền thân) đồng phát tâm Bồ đề. Ðến khi đức Phật Nhựt Nguyệt Ðăng Minh ra đời, thì Ngài mới phát tâm xuất gia nhưng tánh hay giải đãi, quen theo lối phong lưu đài các, phóng túng, chẳng chịu thúc liểm tu hành, nên thành Phật trễ sau đức Thích Ca, vào tiểu kiếp thứ mười.
Về sau nhờ đức Phật Thích Ca dạy cho pháp tu Duy thức, Ngài quán thấy “Tam giới duy tâm, vạn pháp duy thức”
Vì nhận thấy giàu sang phú quý, danh vọng quyền tước... đều như bóng trong gương như trăng dưới nước, do thức tâm biến hiện, nên Ngài tảo trừ hết vọng tưởng say mê về hư vọng giả cảnh, trừ tánh “biến kế sở chấp” trên “y tha”, ngộ được tánh “viên thành thật” nên được Phật Thích Ca thọ ký cho Ngài sau sẽ thành Phật ở thế giới Ta bà này.
Thân hiện tại của đức Di Lặc: Cách đây 2500 năm (544, trước T.L), khi Phật Thích Ca giáng sanh tại Ấn Ðộ, thì Ngài hiện thân vào nhà của Bà La Môn trên là Ba Bà Lợi ở về Nam Thiên Trúc, nhằm ngày mùng một tháng giêng âm lịch.  Họ của Ngài là A Dật Ða (không ai hơn), tên Di Lặc (Từ Thị).  Tên họ này tiêu biểu lòng từ bi, hỷ xả vô biên của Ngài.  Từ bao nhiêu kiếp cho đến ngày thành Phật, Ngài cũng vẫn lấy hiệu là Di Lặc.
Kinh Di Lặc thượng sanh có nói: Ngày rằm tháng 2 (tháng 4 ta) sau khi nói kinh này 12 năm, thì Ngài nhập diệt tại chỗ bản sanh, rồi Ngài sanh lên nội viện cõi trời Ðâu suất để chờ khi thế giới này giảm rồi tăng trở lại trong khoảng kiếp tăng, loài người hưởng thọ tám vạn tuổi, lúc bấy giờ Ngài mới giáng xuống cõi này, rồi sau đến ngồi gốc câyLong Hoa tu thành ngôi Chánh giác.  Ngài thành Phật rồi hóa độ chúng sanh vô lượng đến sáu vạn năm mới nhập diệt.
Hóa thân của đức Di Lặc: Kinh chép “bồ tát dĩ lợi sanh vi bổn hoài”:  Bồ tát lấy việc cứu độ làm lợi ích cho chúng sanh làm bổn phận của mình.  Ngài hiện ra nhiều thân để lẫn lộn với từng lớp người đặng hóa độ chúng sanh.  Trong các hóa thân của Ngài, các Phật tử ở Tàu cùng ở Việt nam hiểu nhiều và thờ nhiều hơn hết là thân Ngài Bố đại Hòa thượng.  Ngài hiện thân làm một vị Hòa thượng tại đất Minh Châu huyện Phụng Hóa bên Tàu.  Ngài thường quảy cái đãy bằng vải đi khắp chợ búa xóm làng, ai cho vật chi Ngài đều bỏ hết vào đãy mang đi.  Ngài tụ họp các trẻ con lại, rồi phân phát cho chúng bánh kẹo, giảng dạy Phật pháp, trò chuyện rất vui thú, nên Ngài đi đến đâu thì các em tụ họp đông đảo đến đó.
Ngài thường giảng kinh cho người nghèo, làm nhiều điều mầu nhiệm lạ thường. Lúc bấy giờ thiên hạ không ai hiểu đặng NGài là người như thế nào cả, chỉ cùng nhau kêu là vị Bố Ðại Hòa Thượng (ông hòa thượng mang đãy bằng vải).  Ðến đời Lương niên hiệu Trịnh Minh năm thứ ba, tháng ba, Ngài nhóm chúng lại tại chùa Nhạc Lâm, rồi Ngài ngồi ngay thẳng nói bài kệ:
Di Lặc chơn Di Lặc
Hóa thân thiên bách ức
Thời thời thị thời nhơn
Thời nhơn giai bất thức
(Di Lặc thật là Di Lặc, biến hóa trăm ngàn ức thân, thường hiện trong đời, mà người đời chẳng ai biết).  Nói xong kệ rồi, Ngài an nhiên nhập diệt.  Kẻ tăng người tục đều cùng nhau đến lễ bái cúng dường và dựng tượng Ngài thờ tại điện ở phía đông chùa Nhạc Lâm bên Tàu.
Vì căn cứ theo ứng thân này, nên trong các chùa ở Tàu hay Việt Nam thường thờ tượng Ngài Bố Ðại Hòa Thượng với vẻ mặt hiền từ hân hoan, miệng cười vui vẻ, tượng trưng cho đức hoan hỷ.  Người béo bụng to, hay cầm cái đãy.  chung quanh có sáu em bé đang leo trèo lên mình Ngài, là tượng trưng cho lục tặc (sáu giặc) khi đã bị Ngài hàng phục.  Ðây là hóa thân trong trăm ngàn hóa thân của đức Di Lặc Bồ tát.
Tương lai của đức Di Lặc: Hiện nay đức Di Lặc là một vị Bổ xứ Bồ tát đang ở nội viện cung trời Ðâu suất, đợi đến khi thế giới này hết kiếp giảm thứ 9 rổi, đến kiếp tăng thứ 10, trong lúc nhơn loại hưởng thọ được trên tám vạn tuổi, lúc bấy giờ Ngài mới giáng sanh xuống cõi này, trong nhà của một vị Bà la môn tên là Tu Phạm Ma, thân mẫu của Ngài tên Phạm Ma Bạt Ðề. Khi sanh ra Ngài có nhiều tướng tốt, đức hạnh vẹn toàn, thông minh quán chúng.  Lớn lên NGài xuất gia tu hành đến núi Kê Túc để nhận lãnh y bát của Ðức Phật Thích Ca, do Ngài Ma Ha Ca Diếp trao lại, rồi sau Ngài đến ngồi dưới gốc cây Long Hoa dùng Kim Cang trí trừ sạch vi tế vô minh, chứng đạo vô thượng Bồ đề.
Ngài thuyết pháp tại giảng đường Hoa Lâm dưới cây Long Hoa.  Hội thứ nhất độ được chín mươi sáu ức người thành A La Hán, hội thứ hai độ chín mươi bốn ức người thành A La Hán, hội thứ ba độ chính mươi hai ức người thành A La Hán.  thế nên gọi là “Long Hoa tam bội”.  Ngài thuyết pháp đến sáu vạn năm, hóa độ vô số chúng sanh.

********* 

_________________________________
Tri Âm Quán_Thị Trấn Chũ_Lục Ngạn_Bắc Giang
http://quoccuonglucngan.blogspot.com/
Về Đầu Trang Go down
https://triamquan.forumvi.com/
Tri Âm Quán
Thành Viên Tích Cực
Thành Viên Tích Cực
Tri Âm Quán


Tổng số bài gửi : 6340
Reputation : 2
Join date : 31/07/2013
Đến từ : Thị Trấn Chũ

Phật Học Phổ Thông - Page 14 Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Phật Học Phổ Thông   Phật Học Phổ Thông - Page 14 EmptyWed Sep 24, 2014 10:40 am

2.  Phật khen Ngài Di Lặc Bồ Tát
Khi ấy đức Thế Tôn khen Ngài Di Lặc Bồ tát và dạy rằng:
-Này Thiện nam, quý lắm!  Ông vì các vị Bồ tát hiện tại và chúng sanh đời sau, thưa hỏi Như Lai những nghĩa lý cao siêu huyền diệu, khiến cho các vị Bồ tát đều được con mắt trí huệ thanh khiết và tất cả chúng sanh đời sau đoạn tuyệt được sanh tử luân hồi, tâm ngộ thật tướng(1) và chứng được Vô sanh nhẫn(2).  Các ông nên chăm chú nghe, ta sẽ vì các ông chỉ dạy. 
Khi ấy Ngài Di Lặc Bồ tát và Ðại chúng đều vui mừng kính cẩn, vâng nghe lời Phật khai thị.
 
LƯỢC GIẢI
Ðoạn này Phật khen Ngài Di Lặc Bồ tát: Nhở lời ông hỏi, để Phật chỉ giáo, nên khiến các vị Bồ tát hiện tại, mắt trí huệ được sáng tỏ và chúng sanh đời sau cũng nhờ câu hỏi này mà vĩnh viễn ra khỏi luân hồi.
 
_________
(1) Thật tướng:  Tướng chơn thật, không hư vọng, không bị thời gian thay đổi, không gian chuyển đổi, suốt xưa thấu nay, nó vẫn thường như; cũng một biệt danh của “Viên Giác”.
(2) Vô sanh nhẫn: Chữ “Nhẫn” là an nhẫn, an trụ hay là chứng. Chữ “vô sanh” là không sanh.  Nghĩa là: an trụ chỗ Ngã và Pháp không còn sanh khởi, tức là an trụ “chơn tâm”
 
********
3.   Phật dạy: Ái và Dục là gốc rễ của sanh tử luân hồi
-Này Thiện Nam!  Tất cả chúng sanh từ vô thỉ đến giờ, đều do món “ân ái và tham dục” cho nên mới bị sanh tử luân hồi.  Tất cả chúng sanh trong thế giới tóm lại có bốn loài:
1.  Loài sanh trứng
2. Loài sanh con
3.  Loài sanh chỗ ẩm ướt
4.  Loài hóa sanh
Các loại chúng sanh này, đều do “dâm dục” mà tạo thành tánh mạng của nó (nhứt thế chúng sanh giai dĩ dâm dục nhi chánh tánh mạng).
Bởi thế, nên các ông phải biết: gốc rễ của sanh tử luân hồi là “Ái” và “Dục” vậy.  Vì có “dục” cho nên mới sanh ra ái luyến, do “luyến ái” nên mới sanh tử tử sanh, nối luôn không dứt.
 
LƯỢC GIẢI
Ðoạn này Phật chỉ ngay gốc rể của sanh tử luân hồi là “ân ái và tham dục”.  Chính như thân mạng của các chúng sanh đây, cũng đều do dâm dục tạo thành.
Bởi thân mạng đã do ái dục sanh, nên thân mạng còn thì ái dục còn, ái dục còn thì thân mạng còn.
Trong kinh Phật danh chép: “Có ái dục thì sanh, ái dục hết thì diệt; cho biết gốc rễ của sanh tử là tham ái (hữu ái tắc sanh, ái tận tắc diệt, cố tri sanh tử, tham ái vi bổn).
Trong kinh Niết bàn cũng nói: “nhơn ái sanh ưu, nhơn ưu sanh bố, nhược ly tham ái, hà ưu hà bố”.  Nghĩa là: Vì tham ái nên mới sanh lo, nhơn lo mới sanh sợ, nếu nguời lìa được ái dục rồi, thì có lo gì và sợ gì?
Bốn lòai:
1.    Noãn sanh: loài sanh trứng, như loài chim, cá v.v..
2.    Thai sanh: loài sanh con, như loài người và thú v..v...
3.    Thấp sanh: loài sanh chỗ ẩm ướt, như lăng quăng, vi trùng v.v...
4.    Hóa sanh: như loài nhộng hóa làm bướm, hoặc như loài địa ngục, ngạ quỷ và chư Thiên v.v...
 
****
-Này Thiện nam!  Nhơn ái luyến nên sanh ra “dục”, do dục nên mới có thân mạng.  Bởi thế, nên truy tầm đến cội gốc của nó, thi chúng sanh ái luyến thân mạng tức là ái luyến “Dục”.  Ái luyến dục là “nhơn”, mà ái luyến thân mạng là “quả”.
 
LUỢC GIẢI
Ngài Tôn Mật nói: “Do cảnh dục trần bên ngoài nó trêu ghẹo, làm cho tâm sanh ái luyến; do tấm ái luyến, cho nên mới sanh ra tham dục.  Vì tham dục nên tạo nghiệp, do tạo nghiệp nên mới thọ quả.  khi thọ quả khổ rồi trở lại tạo nghiệp nữa.  Vì thế nên sanh tử không cùng”.
 

******** 

_________________________________
Tri Âm Quán_Thị Trấn Chũ_Lục Ngạn_Bắc Giang
http://quoccuonglucngan.blogspot.com/
Về Đầu Trang Go down
https://triamquan.forumvi.com/
Sponsored content





Phật Học Phổ Thông - Page 14 Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Phật Học Phổ Thông   Phật Học Phổ Thông - Page 14 Empty

Về Đầu Trang Go down
 
Phật Học Phổ Thông
Về Đầu Trang 
Trang 14 trong tổng số 24 trangChuyển đến trang : Previous  1 ... 8 ... 13, 14, 15 ... 19 ... 24  Next
 Similar topics
-
» THÔNG ĐIỆP CỦA ĐỨC PHÁP CHỦ GIÁO HỘI PHẬT GIÁO VIỆT NAM
» KÍNH MỪNG ĐẠI LỄ PHẬT ĐẢN VESAK Phật lịch 2568 Dương Lịch 2019.
» Ý NGHĨA LỄ PHẬT VÀ LẠY PHẬT
» THÔNG BÁO TẶNG XE MÁY CŨ
» Nấm âm đạo và những thông tin chị em cần năm bắt

Permissions in this forum:Bạn không có quyền trả lời bài viết
Tri Âm Quán - Lục Ngạn - Bắc Giang :: Căn Bản Phật Pháp-
Chuyển đến