Tri Âm Quán - Lục Ngạn - Bắc Giang Mỗi người đều nhận được hai thứ giáo dục: một thứ do người khác truyền cho; một thứ, quan trọng hơn nhiều, do mình tự tạo lấy. | |
Chào mừng các bạn đã ghé thăm Tri Âm Quán_Thị Trấn Chũ_Lục Ngạn_Bắc Giang!
Chúc các bạn sức khỏe và thành đạt!
Tri Âm Quán_Thị Trấn Chũ_Lục Ngạn_Bắc Giang. |
|
| ÔN CỐ TRI TÂN (tập 1) | |
| | |
Tác giả | Thông điệp |
---|
Tri Âm Quán Thành Viên Tích Cực
Tổng số bài gửi : 6340 Reputation : 2 Join date : 31/07/2013 Đến từ : Thị Trấn Chũ
| Tiêu đề: Re: ÔN CỐ TRI TÂN (tập 1) Tue Aug 01, 2023 7:45 pm | |
| SÁI-HẦU, TỨC-HẦU VÀ ĐÀO-HOA PHU-NHÂN Cò ngao tranh nhau, ngư ông đắc lợi. Bấy giờ nước Sở đang hồi cường thịnh. Các nước chư hầu đều quy phục, nạp cống lễ. Riêng nườc Sái cậy có thân với nước Tề không chịu quy phục nước Sở. Sở- Văn-Vương tuy có ý giận nước Sái, nhưng chưa dám hưng binh chinh phạt, vì còn sợ nước Tề họp binh. Do đó, Sái và Sở vẫn ở trong thế quân bình. Nước Sái ở gần nước Tức, ngoài tình láng giềng lại còn có thêm tình anh em bạn rể nữa. Vì Sái-hầu và Tức-hầu đều cưới con gái nước Trần. Sái-hầu cưới người chị, Tức-hầu cưới người em. Vợ Tức-hầu là nàng Tức-Vi nhan sắc tuyệt vời. Đã có sắc đẹp mà tánh tình lại đoan-chính, trông rất khả-ái. Một hôm, Tức-Vĩ được phép Tức-hầu cho về nước Trần để thăm viếng quê hương. Khi đi ngang qua thành nước Sái. Sái-hầu hay tin, bụng bảo dạ: — Tức phu-nhân là em vợ ta, nhan sắc tuyệt diễm, nhân lúc này nàng đi ngang qua đây, ta cũng nên mời vào thành đãi tiệc để xem nhan sắc người đàn bà đẹp ấy sau khi có chồng đã mờ phai chưa. Bèn sai người đón Tức phu-nhân rước vào cung đãi tiệc. Thấy vẻ đẹp của Tức phu-nhân đã không phai lạt còn tăng vẻ đậm đà, trong lúc ăn uống Sái-hầu dùng lời trêu ghẹo, tỏ ra không đứng đắn. Tức phu- nhân nổi giận bỏ tiệc ra đi. Tức hầu hay được chuyện Sái-hầu vô lễ, chọc ghẹo vợ mình lòng căm phẫn, nghĩ cách báo thù, Bèn sai sứ vào triều cống nước sở. và mật báo với Sở Văn-Vương : — Sái hầu cậy thế có Tề che chở nên không phục Sở. Vậy xin Sở cứ giả cách đem binh sang đánh nước tôi. Nước tôi sẽ sang cầu cứu với nước Sái. Sái-hầu là người nông nổi, thế nào cũng đem quân đến giúp. Chừng ấy, quí quốc sẽ hiệp binh với nước tôi bắt Sái-hầu trị tội. Sở Văn Vương được kế, mừng lắm, cất quân sang nước Tức. Quân sĩ rầm rộ đến vây thành. Tức-hầu liền viết thư sang nước Sái cầu cứu. Đúng như lời Tức-hầu đã dự tính. Sái-hầu không suy nghĩ gì cả, cử binh đến nước Tức giải vây. Nhưng vừa đến nơi thì bị binh Sở phục nơi yếu lộ đánh một trận tơi bời, quân sĩ rối loạn Sái-hầu thất kinh, toan chạy vào thành nước Tức mà trốn nhưng Tức-hầu đóng chặt cửa thành không cho vào. Biết mình đã mắc kế, oán hận thấu trời. Sái-hầu đành bó tay nạp mình cho nước Sở. Sở Văn Vương dẫn Sái-hầu về nước truyền quân đem xử trảm. Quan cận thần nước Sở là Dục-Quyền can gián. Sở Văn-Vương mới tha chết, và mở tiệc tiến hành đưa Sái-hầu về nước để mua lòng các chư hầu khác. Trong tiệc, Sở Văn-Vương truyền bọn mỹ nữ đờn ca hát xướng tưng bừng. Lại truyền bọn mỹ nữ dâng rượu. Trong lúc đang đối ẩm, Sở Văn-Vương chỉ vào một mỹ nữ nói : — Nàng này đã đẹp lại có tài hát hay. Nói xong bảo mỹ nữ ấy dâng cho Sái-hầu một chung rượu. Sái-hầu tiếp lấy uống cạn rồi tự tay rót một chén đầy bước tới dâng cho Sở Văn Vương, để tạ ơn. Sở Văn - Vương tiếp lấy chén rượu vừa cười vừa nói : — Hiền hầu đã bao giờ trông thấy một người đàn bà tuyệt sắc chưa ? Sái-hầu nghe nói sực nhớ đến mối thù của Tức- hầu vừa rồi đã xui Sở đánh nước mình, bèn đáp : — Tâu Đại-vương, theo nhận xét của tôi trên thế gian này không ai đẹp bằng Tức-Vi. Nàng ấy quả sánh với tiên nga trên cung Quảng. Sở-Vương hỏi : — Cái đẹp của Tức-Vi như thế nào ? Sái-hầu nói : — Mắt trông như thu thủy, má ửng như nhụy đào mình mai vóc liễu, gót sen uyển chuyển như áng mây chiều trước gió, tưởng không tài nào tả hết. Sở Văn-Vương nói : — Người đẹp đến thế, tiếc rằng ta không làm sao thấy mặt. Sái-hầu nói : — Uy-đức của Đại-vương dẫu Tề Khương. Tống- Tử cũng chẳng khó gì, huống chi Tức-Vi chỉ là người đàn bà trong vòng thế lực của mình. Sở Văn-Vương nghe nói đẹp lòng. Tiệc mãn Sái-hầu bái tạ về nước. Sở Văn-Vương muốn thấy mặt Tức-Vi, liền mở cuộc tuần du Sang nước Tức. Tức-hầu hay tin, ra khỏi thành tiếp đón rất trọng thể. Hai vua cùng dắt nhau vào thành mờ tiệc chung vui. Tức-hầu bưng chén rượu dâng cho Sở Văn-Vương mừng cuộc hội ngộ, và cũng để tạ ơn Sở Văn-Vương đã giúp minh trong việc trả thú Sái-hầu vô lễ chọc ghẹo vợ mình. Sở Văn-Vương tiếp lấy ly rượu uống cạn rồi nói: — Ngày trước ta cũng có chút công mọn với quý phu-nhân, vậy nay mời quý phu-nhân tương kiến, để mời ta một chung rượu cho vui. Tức-hầu không dám trái ý, vội bước vào cung gọi Tức-Vi ra, giữa lúc ấy Sở Văn-Vương ngồi một mình mắt mơ màng nhìn vào nội cung, tay mân mê ly rượu tỏ vẻ nóng lòng. Cánh màn se sẽ động, những chuỗi ngọc lóng lánh dưới ánh huyền đăng, nàng Tức-Vi từ từ bước ra, gót hài thoăn thoát, hơi hương ngào-ngạt, khiến cho Sở-Vương cảm thấy như mình đang lạc vào chốn non Bồng. Tức-Vi đến sụp lạy Sở Văn-Vương, rồi đưa tay lấy ly rượu rót đầy. Bàn tay ngọc với ly ngà không phân màu sắc. Sở Văn-Vương ngẩn ngơ nhìn, rồi đứng dậy tiếp lấy chén rượu, nhưng Tức-Vi đã trao cho cung nữ để dâng lên cho Sở Văn-Vương. Sở Văn-Vương vừa cạn chén thì Tức-Vi đã lui ra bái tạ vào cung. Rèm châu khép kín bóng hồng, Hơi hương còn thoảng, rượu nồng chưa phai. Ngày hôm sau, Sở Văn-Vương lại bày tiệc nơi quán dịch, cho quân giáp sĩ phục chung quanh, rồi mời Tức-hầu ra dự tiệc. Lòng đã định trước, nên tiệc đến nửa chừng, Sở Văn-Vương giả say rượu quở trách Tức-hầu : — Ta có công với quý phu-nhân rất nhiều, nay quân ta đến đây quý phu-nhân lại không vì ta mà khao thưởng quân sĩ. Tức-hầu tâu : Nước tôi nhỏ bé, không sẵn vật thực để khao thưởng quân sĩ cho đủ, xin Đại-vương cho phép tôi được sắp đặt đã. Sở-Văn-Vương đập tay xuống bàn làm mặt giận nói: — Thật là đứa bội phản, tìm lời khéo léo để lừa ta. Quân bay hãy bắt đứa vong ân trói lại. Quân sĩ nhảy xổ ra bắt Tức hầu tức khắc. Nàng Tức-Vi hay tin chồng bị bắt, ngửa mặt lên trời than: — Ôi, bởi rước cọp về nhà nên mới sanh tai họa. Than rồi chạy thẳng ra vườn hoa, toan nhảy xuống giếng tự vận. Giữa lúc đó Sở Văn Vương đã kéo binh vào cung để tìm bắt Tức-Vi, nhưng khống thấy Tức-Vi đâu , mới truyền các tướng tỏa ra khắp nơi lục soát. Nàng Tức-Vi chưa kịp tự vận liền bị tướng nước Sở bắt lại và nói : — Phu-nhân không muốn sống để cứu mạng chồng sao ? Tội gì cả hai vợ chồng chịu chết ? Tức-Vi lặng thinh. Tướng Sở dẫn nàng nạp cho Sở Văn-Vương. Sở Văn-Vương kiếm lời dịu ngọt dỗ dành : — Nếu nàng chịu về Sở, ta sẽ tha chết cho Tức-hầu- Tức-Vi đôi giòng lệ long lanh như mặt nước hồ thu nổi sóng, đứng im không thốt ra lời. Sở Văn-Vương phong cho nàng làm phu-nhân, và thấy đôi má nàng tựa như hoa đào nên gọi nàng là Đào- hoa phu-nhân. Kế đó Sở Văn-Vương đày Tức-hầu ra đất Nhữ - Thủy. Chẳng bao lâu Tức hầu đau buồn lìa trần. Nhận xét: — Kẻ có chí lớn, lúc nào cũng nhẫn nhịn những điều tức giận nhỏ nhen, để đạt những điều to tác. Sắc đẹp của đàn bà làm cho người ta mù quáng Lời người xưa nói : “Sắc đẹp là liều thuốc độc” thật quả không sai. Kẻ nào đã nhiễm độc rồi thì không còn đủ lý trí để phán đóan nữa. Tỉ như Sái-hầu, dù cho em vợ mình có sắc đẹp đến đâu thì nàng cũng là gái có chồng, bày chuyện trêu ghẹo làm gì cho mang tiếng đời. Tức-hầu có vợ đẹp, việc trêu chọc vợ mình tâm lý người đời ai cũng tức, nhưng nếu Tức-hầu là người cao thượng hơn Sái-hầu thì nên cười mà bỏ qua. Một cái cười vừa khinh Sái-hầu vô đạo vô luân, vừa khoái trá là đã có một người vợ đẹp hơn kẻ khác. Sở Văn-Vương trông thấy vợ người khác đẹp tìm cách đoạt vợ giết chồng thì quả là vô đạo. Tất cả đều bị nhiễm độc hết. Những kẻ nhiễm độc mất cả lý trí, chúng ta không cần luận làm gì ở đây. Chúng ta thử xét những cái hèn hạ của Sái-hầu và Tức-Hầu, đôi bạn cột chèo của họ. Tức-hầu thù với Sái-hầu sao không dám tự minh trả thù lại đem lễ vật cầu cạnh với kẻ khác để báo thù cho mình để đến nỗi vua nước Sở cướp mất vợ ? Đó là chuyện sai đáng chê. Sái-hầu đã lầm lỗi, ôm hận rồi, nếu muốn trả thù Tức-hầu thì thiếu gì việc làm quân tử hơn lại làm chuyện “ăn miếng trả miếng” mượn tay vua Sở quật lại kẻ có tình gia đình với mình. Trong hành động rửa nhục, cả hai đều trông thấy việc nhỏ mà không kể đến cái hại lớn. Trong việc này, nếu không kể đến lương tâm độc ác thì chỉ vua Sở- thủ lợi. Vua Sở với lực lượng hùng mạnh, thủ vai tuồng ngư ông thật phải lúc. Giam cầm Sái-hầu, thủ tiêu Tức- hầu, ôm ấp được mỹ-nhân, tóm thâu vàng ngọc châu báu nước Sái về kho nước Sở... thật là dịp hiếm có. Hai con vật vì tranh miếng mồi cắn xé nhau thì kẻ thủ lợi bao giờ cũng là kẻ đứng ngoài vòng nhảy vào. Tâm gương xưa còn nêu rành rành như vậy, thế mà người đời nay nhiều kẻ chỉ vì tranh chấp quyền lợi nhỏ nhen, khiến cho huynh đệ tương tàn, anh em chém giết lẫn nhau, cầu cạnh người ngoài xen vào việc mình để cho bao nhiêu quyền lợi rơi vào người ngoài hết, rốt cuộc anh em trong nhà mắt ếch nhìn nhau, nhìn tấm thảm họa tương tranh. Lúc biết mình dại thì, than ôi, việc đã rồi, những vết thương lòng chẳng bao giờ còn hàn gắn được nữa. | |
| | | Tri Âm Quán Thành Viên Tích Cực
Tổng số bài gửi : 6340 Reputation : 2 Join date : 31/07/2013 Đến từ : Thị Trấn Chũ
| Tiêu đề: Re: ÔN CỐ TRI TÂN (tập 1) Wed Aug 09, 2023 10:20 am | |
| CÁI DŨNG CỦA TÀO-MUỘI VÀ LỜI HỨA CỦA TỀ HOÀN-CÔNG
— Dẫu kẻ thất phu đã hứa với ai câu gì cũng không sai lời, huống hồ ta là chúa một nước. Vào năm thứ nhất của vua Ly-Vương nhà Châu, Tề Hoàn-Công giao việc triều chính cho Quản-Trọng, trong nước dân tình yên ổn, bình lương dồi dào. Tề Hoàn-Công muốn lấy danh nghĩa vua nhà Châu triệu tập các nước chư hầu để định kỷ cương, gây thế lực cho mình, nắm quyền bá chủ. Vua nhà Châu chấp thuận ý kiến ấy, ủy thác cho Tề Hoàn-Công lập đài cao nơi đất Bắc-Hạnh “thuộc đất Tề” bố cáo khắp chư hầu đến đó họp mặt. Cuộc họp này chỉ có bốn nước Tống. Trần, Châu, Sái đến dự. Nhưng sau cuộc họp vì nước Tống không phục nước Tề nên kéo quân bỏ về trước. Tề Hoàn-Công tức giận muốn cử binh đánh Tống. Quản-Trọng khuyên nên đánh Lỗ trước, vì Lỗ là nước gần. Tề Hoàn-Công y lời kéo quân đến đánh Lỗ. Khi quân Tề kéo đến nơi, Quản-Trọng lại bàn với Tề Hoàn-Công nên gửi thư trách nước Lỗ trước, và buộc Lỗ phải đến hội kiến thì sẽ bãi binh. Lỗ Hoàn-Còng tiếp được thư, dùng dằng chưa quyết, Thi-Bá là mưu sĩ nước Lỗ khuyên Lỗ Trang- Công nên xin lỗi nước Tề và dự hội giao hòa. Lỗ Trang-Công nghe theo lời viết thư phúc đáp. Tề Hoàn-Công liền rút quân ra khỏi nước Lỗ đóng tại đất Kha, để chờ Lỗ hầu đến hội kiến. Trước khi sắp sửa đến đất Kha, Lỗ Trang- Công hỏi triều thần : — Có ai dám theo ta đến đất Kha hội diện với Tề chăng ? Tào-Muội bước ra xin đi. Lỗ Trang Công nói : — Ngươi ba lần giao chiến bị thua nước Tề, nay đến đó không sợ nước Tề chê cười sao ? Tào-Muội nói: — Chỉ vì trước kia tôi đã thua Tề ba lần để cho Chúa-Công mất đất Vấn-Dương, nên nay tôi muốn xin theo Chúa-công để rửa nhục. Lỗ Trang-Công nói : — Ngươi muốn rửa nhục mà lại theo ta trong chuyến đi nầy thi còn nhục thêm, vì đến ăn thề với họ để cầu hòa, tự nhiên mình là kẻ chiến bại rồi. Tào-Muội nói : — Tôi quyết không để cho nước Lỗ mang cái danh hiệu xấu xa ấy. Lỗ Trang-Công nhận lời cùng Tào-Muội lên đường. Khi đến đất Kha, Tề Hoàn-Công sai người đắp một cái đài rất lớn, bày sẵn lễ vật, đợi Lỗ Trang- Công đến làm lễ Huyết-thệ. Lại truyền lịnh chỉ cho một người được theo Lỗ Trang-Công lên đài thôi, còn bao nhiêu quân sĩ phải đứng xa, cách hai trăm thước. Tào-Muội trong mạc áo giáp, tay cầm gươm đi theo sau lưng Lỗ Trang-Công. Lỗ Trang-Công có ý sợ, trái lại Tào-Muội rât hùng dũng. Hai người vừa bưởc khỏi thềm. Đông-quách-Nha là quan hầu Tề Hoàn-Công bảo Tào-Muội : — Ngày nay hai nước giao hoà. xin tướng quân hủy bộ đồ binh khí đi. Tào-Muội trừng mắt nhìn Đông-quách-Nha, hai khoé mắt toét ra rơm rớm máu. Đông - quách - Nha sợ hãi lùi ra sau. Tào-Muội ung dung bước theo Lỗ Trang-Công đến trước bàn hương án. Tháp Bàng bưng bát máu dâng lên để Lỗ Trang-Công cùng Tề Hoàn-Công ăn thề Tào-Muột mặtt hằm hằm, một tay sắn áo Tề Hoàn-Công, một uy tuốt gươm nói : — Hãy khoan ! Quán-Trọng vội vã xen vào giữa hỏi Tào Muội: — Quan Đại-phu làm gì thế ? Tào-Muội đáp : — Nước Lỗ bị suy cũng đã hao tổn nhiều vì chiến tranh, thế mà ngày nay những nước tự xưng minh là minh chủ hội chư hầu để cứu giúp những kẻ suy yếu lại đến làm khổ nước Lỗ nữa. Như vậy dám tự hào là chinh đáng sao ? Quán Trọng nói: — Nước tôi đã làm điều gì hại cho quý quốc? Tào-Muội nói : — Cậy sức mạnh đem quân lấy đất Vấn-Dương của nước tôi sao lai bảo là không làm hại ? Nếu quý quốc thực tình giao hảo hãy trả đất ấy lại cho Lỗ, Chúa-công tôi mới chịu ăn thề, còn không tôi nhất định liều chết. Quản-Trọng ngoảnh lại nói với Tề Hoàn Công : — Xin Chúa-công chấp thuận lời xin ấy. Tề Hoàn-Công nói : — Thôi quan Đại-phu hãy bước ra, tôi hứa sẽ trả đất ấy lại. Tào-Muội nghe nói vội bỏ thanh kiếm xuống,, bưng lấy bát máu trong tay Thấp-Bằng dâng lên Lỗ Trang Công cùng với Tề Hoàn-Công làm lễ huyết-thệ xong, Tào-Muội lại nói : — Quản-Trọng giữ quyền bính nước Tề. Tôi xin cùng Quản-Trọng ăn thể để khỏi điều hối hận. Tề Hoàn Công nói : — Bất tất phải làm như vậy.. Lời ta đã hứa,. lẽ nào lại làm trái được sao ? Lễ tuyên thệ xong, các quan nước Tề ai nấy hậm hực, muốn tìm cách trả thù Tào-Muội, Tề Hoàn- công nói : — Ta đã hứa với Tào Muội rồi. Dẫu kẻ thất phu đã hứa với ai câu gì cũng không nên sai lời, huống hồ ta là chúa một nước. Bấy giờ các quan mới chịu thôi. Sáng hôm sau, Tề Hoàn - Công lại bày tiệc ở Công-quán để tiễn biệt Lỗ Trang-Công, rồi đem đất Vấn-Dương trả lại cho nước Lỗ. Các nước chư hầu nghe được việc ấy cho Tề Hoàn-Công là người tín nghĩa, hai nước Vệ và Tào sai sứ-đến tạ tội và xin ăn thề .. Nhận xét: Coi cái chết như không trước thiên hạ trong lúc làm việc nghĩa,ấy là kẻ dũng. Một lời nói không thay đổi dù trong lúc nguy cơ, ấy là kẻ tín. Trên đàn thề, trước bao nhiêu tai mắt của các nước tham dự, thế mà một ông vua làm bá chủ chư hầu lại bị một viên tướng của một nưởc nhỏ uy hiếp. Bắt phải chấp thuận một vấn đề trái với ý muốn của mình. Đó là một chuyện nhục nhã, có hại đến quốc thể của một cường quốc. Tề Hoàn-Công dĩ nhiên phải lúng túng. Ở đây, chúng ta thấy trước nhất Tào-Muội, một dũng sĩ, không sợ sệt trước Sự uy nghiêm của nước Tề, dám một mình một thanh gươm làm cái chuyện mà không ai có thể tưởng tượng làm được. Cứu lấy quốc thể, đem lợi ích cho nước mình, dù có hy sinh thân xác vẫn hiên ngang, đó là hành động của kẻ dũng. Kinh-Kha. một dũng sĩ, thọ ơn Thái-tử nước Yên, xách thanh gươm vào nước Tần ám sát Tần-thủy-Hoàng cũng chỉ là tinh thần dũng cảm như thế thôi. Chỉ có những kẻ phi thường mới làm nên chuyện phi thường như vậy. Ở đây, chúng ta cũng lại thấy Quản- Trọng, con người lanh trí, sáng suốt vô cùng. Tào-Muội hành động một cách bất ngờ, đột ngột và chớp nhoáng, nếu là người kém bình tĩnh và sáng suốt ắt phải sinh lớn chuyện, nguy hại cho sinh mạng Tề Hoàn-Công mà còn đổ vỡ việc lớn là việc đồ vương định bá của nước Tề nữa. Tuy nhiên, khen Ọuản-Trọng là khen chí nhẫn nhục trong lúc quốc thể của một cường quốc bị chạm thôi, còn như Việc khuyên Tề Hoàn-Công chấp thuận lời yêu cầu của Tào-Muội, chính là việc làm nằm trong chủ trương chính trị của Quản-Trọng rồi. Trước kia, Ọuản-Trọng đã có chủ trương lấy uy đức bang giao với các nước chư hầu bằng cách trả lại những đất đã chiếm được, thế thì việc làm của Tào-Muội sở dĩ thành công là do nhằm vào đường lối của Ọuản-Trọng, mà Quản-Trọng khuyên Tề Hoàn-Công như vậy là đã dùng lập trường của mình. Ngoài những việc trên, ở đây chúng ta còn thấy câu chuyện “ Tái-ông thất mã”. Thật vậy, Lỗ Trang-Công đắc thắng trong chuyện ăn thề này thật, nhưng cái thắng ấy lại là cái bại của mình. Tề Hoàn-Công nhờ trả đất Vấn-Dương cho Lỗ mà được các nước chư hầu trọng vọng, cho Tề Hoàn- công là một ông vua tín nghĩa, đáng mặt làm bá chủ, do đó, địa vị Tề Hoàn-Công được củng cố thêm và các nước chư hầu tiếp tục đến đầu phục. Cho hay, trong cái xấu có chứa đựng cái tốt, trong cái bất lơi lại có điều lợi. Trước một Ọuản-Trọng có tài trị nước, chủ trương lấy tín nghĩa thu phục chư hầu, Tề Hoàn-Công cũng trở nên sáng suốt. Ông ta nói: “Dầu là kẻ thất phu đã ước với ai cũng nên giữ lời huống hồ ta là một ông vua của một nước lớn”. Lời nói của Tề Hoàn-Công quả là một câu danh ngôn, mà các nhà chính trị không nên bỏ qua vậy. | |
| | | Tri Âm Quán Thành Viên Tích Cực
Tổng số bài gửi : 6340 Reputation : 2 Join date : 31/07/2013 Đến từ : Thị Trấn Chũ
| Tiêu đề: Re: ÔN CỐ TRI TÂN (tập 1) Wed Aug 09, 2023 4:54 pm | |
| NINH-THÍCH VỚI LỐI CHỌN CHÂN CHÚA Không sợ người ta không dùng mình, chỉ sợ mình không có tài khi họ cần đến. Quản-Trọng chuyển quân qua núi Dao Sơn. dọc đường gặp một người chăn trâu, quần ngắn, áo cộc, đầu đội nón mê, chân đi đất, đang gõ vào sừng trâu hát nghêu ngao. Quản-Trong nghe tiếng hát biết không phải người thường. khiến quân đem rượu thịt đến cho. Người chăn trâu ăn xong hỏi quân sĩ : — Tôi muốn được yết kiến quan Tể-tướng có được không ? Quân sĩ đáp : — Xe của quan Tể-tướng đi xa rồi. Vậy thì cứ ăn cho no mà thôi, cần gì phải gặp mặt ? Người chăn trâu nói : — Thôi được, ta có một lời muốn nói với Tể- tướng. — Lời gì ? Nếu chỉ cần nói một lời thì chúng ta nói giúp cũng được. Người chăn trâu nói : “Nước trong leo lẻo ». Quân sĩ chạy theo kịp xe Quản-Trọng và thuật lại câu nói của Ninh-Thích, người chân trâu ấy. Quản-Trọng suy nghĩ mãi, nhưng không hiểu câu nói nước trong leo lẻo có nghĩa là gì. Bấy giờ Quản-Trọng có người hầu thiếp là Tỉnh- Nương, rất thông minh, học rộng. Quản-Trọng rất yêu quí, đi đâu cũng đem theo. Quản-Trọng đem lời ấy hỏi lại Tỉnh-Nương. Tỉnh- Nương thưa : —Thiếp có nghe một bài thơ xưa, trong ấy có câu rằng : « Nước trong leo lẻo, cá lội giữa dòng, người đến triệu ta ta cũng bằng lòng” Ý chừng người ấy muốn ra làm quan. Quản-Trọng dừng xe lại sai người đòi gã chăn, trâu đến hỏi. Gã chăn trâu cúi đầu thi lễ chứ không lạy. Quản-Trọng hỏi tung tích. Người chăn trâu nói: — Tôi là Ninh-Thích, người đất Vệ, được nghe Tướng quân là kẻ ưa hiền, chuộng sĩ, nên tìm qua nước Tề để tiến thân, ngặt không có ai tiến dẫn nên phải chăn trâu cho người trong làng mà nuôi sống. Quản-Trọng thử thách tài học vấn, Ninh-Thích ứng đáp rất rành mạch. Quản-Trọng nói : —Kẻ hào kiệt lúc chưa gặp vận, khó thi thố tài năng mình được. Đại binh của Chúa-công ta cũng sắp đến đây, ta viết cho nhà ngươi một phong thư, nhà ngươi an lòng ở đây mà chờ lúc nào Chúa-công ta đến sẽ trình ắt được trọng dụng. Nói xong Quản-Trọng viết một phong thư trao cho Ninh-Thích rồi lên xe giã từ. Cách ba ngày sau, Ninh-Thích vẫn còn chăn trâu ở núi Dao-sơn như cũ, và đại binh của Tề Hoàn- Công đến. Ninh-Thích lại ngồi trên mình trâu gõ sừng ca hát vang trời. Hát rằng : Mặt Thường-Lan nhấp nhô đá trắng, Thân Lý-Ngư thầm lặng xuôi dòng. Đời không hiền sĩ. Đất thiếu minh quân. Thương thân ta lại tuổi thầm, Hỡi con trâu trắng. Hỡi cụm rừng thảm, Hùng anh sống với âm thầm mãi ư ? Tề Hoàn-Công nghe giọng ca lấy làm lạ, khiến kẻ tả hữu bắt dẫn đến hỏi tên họ và quê quán. — Tôi người nước Vệ lưu lạc nơi đây. Tề Hoàn-Công hỏi : — Ngươi là một đứa chăn trâu, cớ sao lại dám chê bai thiên hạ. Ninh-Thích nói : -Tôi đâu dám chê bai, tôi chỉ tiếc rằng đời nay không có người hiền. Tề Hoàn-Công hỏi : — Sao ngươi lại dám chê rằng đời thiếu Minh- quân, trong lúc Thiên-tử nhà Châu đang trị vì thiên hạ, còn ta một nước chư-hầu giàu mạnh, trên phục Thiên-tử, dưới chế ngự chư-hầu, đem lại thái bình cho thiên hạ ? Ninh-Thích nói : — Một Minh-quân tất phải biết mình, hiểu người, rõ được thời bình, thấy được lúc loạn, đem ân đức rải khắp nhân gian, lấy lòng nhân trị thiên hạ Như nhà Châu hiện nay mỗi lúc một suy, trong thì dân tình không phục, ngoài thì chư-hầu bất tuân, tài trị nước không có thì sao gọi là Minh-quân ? Đến như Chúa-công giết anh ruột mình cuớp ngôi, mượn uy Thiên-tử chế ngự chư-hầu, nhưng chư-hầu đều không phục. Sao gọi là giàu mạnh ? Tề Hoàn-Công nghe nói nổi giận mắng lớn : — Đứa thất phu dám nói càn. Liền hô kẻ tả hữu bắt Ninh-Thích đem chém. Ninh-Thích không chút sợ hãi, ngước mắt lên trời than : — Ngày xưa, vua Kiệt giết Long-Bàng, Vua Trụ giết Tỷ-Can, nay tôi cùng với hai ông ấy kể là ba người. Thấp-Bằng thấy thế tâu với Tề Hoàn-Công : — Người này lời nói không dua mị, lòng không sợ uy lực, chắc chắn không phải là người tầm thường, xin Chúa-công chớ nên giết. Tề Hoàn-Công sực nghĩ lại, cơn giận đã nguôi, bước tới mở trói cho Ninh-Thích và nói : — Ta thử nhà ngươi đó thôi, nhà ngươi thật là người khí phách. Ninh-Thích thò tay vào túi lấy bức thư của Quản- Trọng dâng cho Tề Hoàn-Công. Tề Hoàn-Công nói : — Nhà ngươi đã có bức thư của Trọng phụ sao không tâu trình cho sớm ? Ninh-Thích nói : — Tôi nghe nói vua hiền chọn người ngay, tôi trung chọn Chúa có đức. Nếu Chúa-công ghét người thẳng ưa kẻ nịnh thì thà tôi chết đi còn hơn đưa 1á thư nầy để được trọng dụng. Tề Hoàn-Công rất đẹp lòng, truyền Ninh-Thích ngồi chung xe. Tối hôm ấy đóng quân lại nghỉ. Tề Hoàn-Công sai thấp đuốc tìm áo mão để phong chức cho Ninh-Thích. Thụ-Điêu là người hầu cận của Tề Hoàn-Công thấy thế, tâu : — Từ đây đến nước Vệ không xa, xin Chúa- công đợi đến đó hỏi xem Ninh-Thích có quả là người hiền không đã. Rồi sẽ phong cũng chẳng muộn. Tề Hoàn-Công nói : Đã nghi thì không nên dùng, đã dùng thì đừng nghi. Giả thử Ninh-Thích trước kia có một vài lỗi nhỏ đi nữa, nay ta cũng không vì lỗi nhỏ ấy mà phải bỏ qua một nhân tài. Rồi ngay đêm ấy, Tề Hoàn-Công phong chức Đại- phu cho Ninh-Thích, để cùng Quản-Trọng coi việc quốc chánh. Ninh -Thích lạy tạ lui ra. Tề Hoàn-Công truyền lệnh tấn binh. Chẳng bao lâu, đại binh của Tề kéo đến biên giới nước Tống, hợp với binh các nước chư-hầu đông nhu kiến cỏ. Tề Hoàn-Công họp các tướng bàn kế lấy thành. Ninh Thích tâu: — Chúa-công phụng mệnh Thiên-tử đem quân chế ngự chư-hầu, mục đích bắt họ phục tùng chứ không phải chiếm đất. Ấy vậy, quân lực chỉ làm cho người ta sợ uy chứ không mến phục. Theo ý tôi chớ nên -đánh vội. Tôi dẫu hèn mạt, dám xin đem ba tấc lưỡi bảo vua nước Tống giảng hòa. Tề Hoàn-Công nghe theo, truyền lệnh đóng quân lại, sai Ninh-Thích vào trước thuyết phục Tống Hoàn- Công. Ninh-Thích ngồi một chiếc xe nhỏ, đem theo mấy tên gia nhân thẳng đến Thư-Dương xin vào yết kiến. Tống Hoàn-Công hỏi Đái-thúc Bì : — Ninh-Thích là người thế nào ? Đái-thúc Bì thưa : — Tôi nghe người ấy là một kẻ chăn trâu, được Tề-hầu mới dùng làm quan, chắc người ấy có tài ứng đối. Tống Hoàn-Công nói : —Vậy thì nên đối xử như thế nào ? Đái-thúc Bì thưa : —Xin Chúa-công triệu vào lấy lễ mà đãi, để xem ý tứ Ninh-Thích như thế nào. Nếu mà có điều gì lỗ mãng tôi sẽ vuốt giải mão làm hiệu, Chúa-công khiến võ sĩ bắt giam lại, như thế mưu của Tề ắt phải hư. Tống Hoàn - Công gật đầu khen phải, truyền võ sĩ mai phục xong xuôi rồi mới cho Ninh-Thích vào. Ninh-Thích mặc áo rộng thắt đai lớn, ung dung bước vào xá Tống Hoàn-Công một cái. Tống Hoàn- Công ngồi yên không đáp lễ, Ninh-Thích ngước mặt lên trời than : — Nước Tống đã đến lúc nguy khốn rồi. Tống Hoàn-Công nghe nói lấy làm lạ hỏi : -Ta làm đến bậc Thượng-Công, phẩm trật đứng trên các chư-hầu, trong nước binh hùng tướng mạnh, dân chúng an vui, sao gọi là nguy khốn ? Ninh-Thích nói : — Hiền hầu có thể sánh được với Châu-Công ngày xưa không ? Tống Hoàn-Công nói : — Châu-Công là bậc thánh, ta làm sao sánh được. Ninh-Thích nói : — Châu-Công ngày xưa trong lúc thiên hạ thái bình thế mà còn phải trọng người hiền sĩ. Lúc đang ăn cơm nghe người hiền sĩ vào, vội vàng nhả miếng cơm để ra tiếp đón. Trong lúc đang tắm nghe người hiền sĩ đến, vội vã vấn tóc để ra mời!. Nay hiền-hầu là dòng dõi một nước đã mất rồi, lại gặp buổi loạn lạc, các liệt quốc tranh hùng, dẫu bắt chước như Châu- Công, hết lòng cầu kẽ sĩ, chưa chắc kẻ sĩ đã tìm đến, huống hồ lại còn tự đắc kiêu căng thì có bao giờ người trung trực lại chịu đến qui phục hiền hầu. Thế mà lại không cho là nguy khốn sao ? Tống Hoàn-Công nghe nói sững sỡ, giây lâu mới đứng dậy nói có vẻ ăn năn : — Ta mới lên ngôi chưa được nghe lời giáo huấn của quân tử, vậy xin tiên sinh miễn chấp. Thúc-Bì đứng hầu một bên thấy Tống Hoàn-Công có ý xiêu lòng, vội đưa tay vuốt giải mão. nhưng vuốt đến đôi ba lần mà Tống Hoàn-Công vẫn không thèm để ý tới. Tống Hoàn-Công hỏi Ninh-Thích : — Chẳng hay tiên sinh đến đây có điều chi dạy bảo tôi chăng ? Ninh-Thích nói : — Nay Thiên-tử suy yếu, chư hầu lộng quyền, việc tranh chấp càng ngày càng quyết liệt, dân gian đồ thán. Tề-hầu không nỡ để cho thiên hạ lâm cảnh tóc tang, phải phụng mệnh Thiên-tử liên kết chư hầu để lo việc tương thân và trách phạt. Hiền hầu bội tín làm cho Thiên-tử nổi cơn thịnh nộ, nên sai chư hầu đến đây vấn tội. Nếu hiền hầu Cự với binh triều, thì chưa đợi giao binh đã thấy được lẽ thắng phụ rồi. Tống Hoàn-Công hỏi : — Theo sở kiến của tiên sinh thì việc này phải thế nào ? Ninh-Thích nói : — Theo ý tôi, hiền hầu nên dùng chút đỉnh lễ vật mà cầu hòa, trên chẳng trái với Châu-Vương, dưới vẫn đặng quyền cùng Minh-chúa. Như thế Tống không cần động binh mà vẫn vững vàng như non Thái. Tống Hoàn-Công nói : — Trước kia ta đã không trọn ước, nửa đêm kéo quân bỏ về không dự hội, nay Tề-hầu đã đem quân đến đây biết có chấp thuận việc hòa ước của ta chăng ? Ninh-Thích nói : — Tề-hầu là một người đại nhân đại độ, không kể đến lỗi lầm của kẻ khác, trước đây Lỗ-hầu không chịu dự hội, sau đến xin ăn thề nơi đất Kha. Tề hầu vẫn đem đất Vấn-Dương trả lại, huống chi hiền hầu là kẻ đã có lòng đến dự hội, lẽ nào Tề-hầu lại không cho giải hòa. Tống Hoàn-Công hỏi : — Bây giờ phái dùng những lễ vật chi để cống hiến ? Ninh-Thích nói : — Là một kẻ đại nhân đại độ không bao giờ xem của cải là trọng, hiền hầu chỉ dùng một vật mọn cũng đủ. Tống Hoàn-Công mừng rỡ, sai sứ mang lễ vật sang dinh Tề giao hòa. Đái-thúc Bì hổ thẹn lui ra. Sứ Tống đến trại Tề dâng mười cặp Bạch ngọc, ngàn nén vàng ròng mà tạ tội. Nhận xét: Người có tài và kẻ biết dùng người tài là hai yếu tố tương quan để đi đến chỗ thành công. Từ xưa đến nay, kẻ có tài thường hay có tật. đó là tật “hợm mình” Kẻ có tài thường không muốn để ai lợi dụng tài mình, mỗi khi họ đem tài ra giúp việc gì tất họ phảị đắn đo rất kỹ, cho nên từ ngàn xưa, chúng ta đã thấy nào Khương-tử-Nha ngồi câu thời vận, nào Khổng-.Minh Gia -Cát nằm ép mình trong chốn thảo lư, v.v . đợi cho các nhà chính trị đến cầu cạnh mới đem thân ra giúp. Một khi họ đã giúp thì đem hết lòng mình ra phục vụ, không kể đến mạng sống. Đó là kẻ chân tài. Kẻ chân tài thường chọn người có chí lớn mà thờ. Ở đây việc Ninh-Thích gõ sừng trâu hát nghêu ngao để tiến thân với Tề Hoàn-Công cũng chỉ là chuyện “ hợm mình” ngày xưa thôi. Ngày nay, theo gương ấy, chẳng thiếu chi người, tài năng không có gì cũng ra mặt kẻ sĩ không gặp thời, ngồi rung đùi chê trách thế sự. Những kẻ ấy nếu không được dùng thị họ đi nói xấu thiên hạ đủ thứ để tỏ cái biết thấp kém của họ, nếu được dùng thì họ lại mưu lợi riêng, làm những việc tồi tàn hơn là những việc mà họ chê trách kẻ khác. Ôi, thói đời vàng thau lẫn lộn. Bởi vậy, cái khó khăn nhất là kẻ dùng người. Một cây không làm nổi một sườn nhà, một giọt nước không làm thành bể cả. Việc quốc gia cần phải được đa số nhân tài không phải là chuyện dễ. Kẻ tìm nhân tài không nên thích những lời dua mị, cũng không nên căn cứ vào lời nói suông của họ mà phải xét ở chỗ có thực tài hay không. Tề Hoàn-Công đốt đuốc phong Ninh-Thích, với những ý kiến kiên quyết và rắn rỏi, thật đáng là một nhà lãnh đạo sáng suốt. Không phải như thời nay, nhiều nhà lãnh đạo một nước mà không xem nhân tài là trọng, hễ có cảm tình với ai, hay thấy ai xu phụ mình thì kéo bày kéo cánh vào, còn kẻ nào chỉ trích mình; không ưa mình thì không dùng đến, mặc dù kẻ ấy có đủ tài giúp mình trong công cuộc cứu nước, mưu lợi cho dân. Tấm gương Tề hoàn-Công phong chức cho Ninh-Thích trên đây đáng là một tấm gương lưu hậu thế. | |
| | | Tri Âm Quán Thành Viên Tích Cực
Tổng số bài gửi : 6340 Reputation : 2 Join date : 31/07/2013 Đến từ : Thị Trấn Chũ
| Tiêu đề: Re: ÔN CỐ TRI TÂN (tập 1) Thu Aug 10, 2023 8:52 am | |
| DỤC-QUYỀN CAN-VUA
Làm tôi thấy vua sai mà sợ chết không can gián là bất trung, can vua mà vua vẫn không nghe theo là bất-lực. Sở Văn-Vương đem quân đánh Sái. Sái-hầu thua bị Sở Văn-Vương bắt đem về nước. Vì giận Sái-hầu cậy thế nước Tề không tùng phục mình, Sở Văn-Vương truyền đem chém. Dục-Quyền bước ra can : — Đại-vương đang muốn mở mang thế lực khắp Trung-quốc, đáng gì một Sái-hầu mà không thể dung thứ để cho thiên hạ cho nước Sở ta không phải là một nước đại-độ ? Sở Văn-Vương nói : — Sái-hầu là một đứa vô lễ, lâu nay không đầu phục, hận ấy chưa nguôi, nay đã bắt được lẽ nào lại không giết ? Nói rồi truyền quân đem chém. Dục-Quyền cản lại nói : —Không, không, xin Đại-vương nghĩ lại. lẽ nào vì một hận nhỏ mà quên đại sự. Nếu Đại-vương cho Sái-hầu về nước chắc từ nay Sái-hầu không dám ngạo mạn nữa. Đã vậy , các chư hầu khác trông thấy sẽ mến đức Đại-vương. Sở Văn Vương nhất định không nghe. Dục Quyên nổi giận, mội tay nắm áo Sở Văn-Vương, ...một tay rút gươm nói lớn : — Thà tôi cùng chết với Đại- vương còn hơn để Đại vương mất cả đại nghiệp. Sở Văn-Vương thấy thế sợ sệt nói: -Thôi, thôi, ta chịu nghe theo lời khanh. Nói xong truyền tha Sái-hầu. Dục Quyẻn thấy vua đã tha chết cho Sái-hầu, vội vã quăng gươm quỳ tâu : — Tâu Đại-vương, Đại-vương đã nghe lời can gián của tôi, thật may mắn cho nươc Sở nhưng tôi phạm tội hiếp vua thực đáng chết. Sở Văn-Vương nói : — Lòng trung thành của ngươi đã vượt quá tội lỗi. Ta không thể vì lỗi nhỏ ấy mà làm lu mờ- tấm gương trung nghĩa. Dục Quyền tâu : — Tâu Đại-vương, Đại-vương tưởng tình tha chết cho tôi, nhưng tôi không thể tha thứ cho tôi được. Nói xong cúi lượm thanh gươm, cắt đứt một chân, rồi hét to: — Kẻ nào làm tôi vô lễ với vua hãy xem đây. Sở Văn-Vương quá cảm động, truyền đem cái chân của Dục-Quyên cất vào kho để ghi lỗi mình không nghe lời can gián. Đoạn sai ngự y chuyên chữa cho Dục-Quyên. Sau một thời gian, Dục-Quyền được lành bịnh, nhưng không đi được, Sở Văn-Vương phong cho làm chức Đại-môn để giữ cửa thành... Nhận xét: Bất kể làm cách nào mà giác ngộ được kẻ khác trở về với lẽ phải thì kẻ ấy quả có tài rồi. Có được bầy tôi như Dục-Ọuyền sáng suốt thấy rõ cái hại trong việc làm của vua mà can ngăn thì làm gì vua không hiền, tôi không trung ? Dám liều chết uy hiếp vua. Bắt vua phải nghe theo lẽ phải. Dục-Ọuvền làm nổi bật được cái can đảm và cương quyết trong hành động của mình. Xưa nay biết bao nhiêu trung thần đã liều chết can vua, nhưng không ai áp dụng lối liều chết như vậy. Dục-Ọuyền áp chế vua, nhưng lại tỏ được lòng trung, làm cho vua dù không giận mà còn mến thì thật Dục- Quyền là một kẻ khôn khéo vô cùng. Đã vậy, Dục-Ọuyền còn chặt chân mình để răn những ai đã phạm tội như mình. Tự mình phạm tội, rồi lại tự răn mình, khiến cho mọi người ai cũng thấy hành động của Dục-Ọuyền đối với vua chỉ là việc bất đắc dĩ, đáng thương. Can vua,bắt vua trở về với lẽ phải, mà phải bắt cho được, để khỏi đổ vỡ việc lớn,kẻ ra cũng táo bạo đối với luật lệ phong kiến thật, nhưng xét ra cũng phải, vì quyền hạn của ông vua là quyền hạn tuyệt đối.Nếu cứ dùng lời ngay lẽ thật mà ông vua không chịu nghe, đến lúc hối hận thì việc đã đổ vỡ rồi làm sao chuộc lại được. Cho nên. Nếu mỗi một vị tôi thần đều áp dụng quyền can gían như Dục-Ọuyền cả thì dù cho ông vua nào ương ngạnh, thối nát đến đâu cũng không thể độc tài làm bậy được. | |
| | | Tri Âm Quán Thành Viên Tích Cực
Tổng số bài gửi : 6340 Reputation : 2 Join date : 31/07/2013 Đến từ : Thị Trấn Chũ
| Tiêu đề: Re: ÔN CỐ TRI TÂN (tập 1) Thu Aug 10, 2023 9:38 am | |
| CÁI CHẾT CỦA PHÓ-HÀ VỚI Ý NGHĨA « VUI ĐÂU CHÚC ĐẤY » Kẻ biết tự trọng không phải thấy ai mạnh thì theo hùa. Công-tử Nghi nước Trịnh chiếm ngôi anh là Trịnh Lệ-Công, được Tế-Túc theo phò. Từ khi nắm được quyền bính, Công-tử Nghi cậy mình thân với Sở không chịu tùng phục nước Tề. Tề Hoàn-Công có ý ghét Trịnh muốn đem binh chinh phạt. Quan Đại-phu Ninh-Thích nói : Không cần đem binh đánh Trịnh mà chỉ cần làm cho nội tình nước Trịnh rối ren, ắt nước Trịnh phải đầu phục Tề. Tề Hoàn-Công hỏi : — Muốn làm cho Trịnh rối ren phải làm cách nào ? Ninh-Thích nói : — Công tử Đột ở bên nước Trịnh trước kia lên ngôi chỉ mới hai năm bị Tế-Túc đuổi ra nước ngoài, hiện cư ngụ tại đất Lịch. Nay Công Công chỉ cần cho quân đến đất Lịch đưa Trịnh-Đột về nước, giúp cho Trịnh-Đột đánh Công tử Nghi chiếm lại ngôi cũ. Được vậy Trịnh-Đột thế nào cũng mang ơn Chúa- Công mà tùng phục nước Tề, chúng ta không cần phải đánh Trịnh làm gì cho hao binh tổn tướng lại mang tiếng hiếu chiến Tề Hoàn-Công khen phải liền khiến Tân-tu Vô đem hai trăm binh ra đóng nơi đất Lịch, rồi sai người đến tỏ ý với Trịnh Đột. Lâu nay Trịnh-Đột đã nghe tin Tế-Túc qua đời, thường cho nguời dò sét nước Trịnh, có ý muốn mưu việc phục nghiệp, nay nghe được tin nước Tề giúp mình về nước lòng mừng khôn xiết, cho người đến đón Tân tu-Vô vào thành thiết đãi. Trong lúc ăn uống Tân-tu-Vô hỏi: Chẳng hay nước Trịnh hiện nay ai thay cho Tế -Túc ? Trịnh Đột đáp . — Người thay Tế Túc là Thúc-Thiêm. Người này có tài trị nước, nhưng không có tài cầm binh. Giữa lúc ấy có quân vào bảo : — Kinh thành nước Trịnh vừa xảy ra một chuyện rất lạ. Phía trong cửa nam môn có một con rắn dài tám thước, đầu xanh đuôi vàng cắn lộn với con rắn phía ngoài cửa dài hơn một trượng. đầu đỏ đuôi xanh. Hai con cắn nhau đến mười bảy ngày thì con rắn trong bị con rắn ngoài cắn chết. Con rắn ngoài chạy thẳng vào thành đến nhà thái miếu thì biến mất. Thiên hạ đến xem đông nghẹt, nhưng chẳng ai dám lại gần Tân-tu-Vô nghe nói đứng dậy chúc mừng Trịnh Đột: Như thế chắc chắn hiền hầu sẽ khôi phục được ngôi nước Trịnh-Trịnh-Đột hỏi : — Sao ngài biết được ? Tân-tu-Vô đáp : — Con rắn ngoài tức là hiền hầu, vì hiền hầu là anh nên rắn ấy dài đến một trượng, còn con rắn trong cửa tức là Công-tử Nghi, công-tử Nghi là em, nên chỉ dài có tám thước. Đến ngày thứ mười bảy con rắn bên trong chết, nghiã là từ khi hiền hầu bỏ ngôi cho đến nay đã mười bảy năm, nay trở về phục quốc được thành công. Đó là điềm trời cho biết trước Trịnh-Đột mừng rồi nói: — Nếu quả như vậy, trọn đời tôi chẳng dám quên ơn Tề hầu. Nói xong rót rượu mời Tân-tu-Vô. Hai người nâng chén rất tương đắc. Sáng hôm sau, Tân-tu-Vô bàn với Trịnh-Đột đem quân lẻn về lấy đất Đại-Lăng. Quan giữ thành Đại-Lăng là Phó-Hà, nghe được tin Trịnh-Đột kéo quân đến đánh, vội điểm quân khai thành đối địch, chẳng ngờ Tân-tu-Vô phục binh nơi phía sau kéo ùa vào chiếm thành. Phó-Hà tưởng quân Trịnh-Đột, sau biết được có binh Tề giúp sức, liệu thế không chống lại, phái xin đầu hàng. Trịnh-Đột vốn căm hờn Phó-Hà, trong mười bảy năm qua, đã giữ thành rẫt gắt chống lại quân mình, nên truyền quân đem chém Phó-Hà la lớn- — Nếu muốn về nước Trịnh phục nghiệp mà Chúa-công đem giết tôi là thất sách. Trịnh-Đột nghe nói vội bảo đao phủ thủ dừng tay rồi hỏi : — Ngươi có kế gì hay sao ? — Tôi có thể lấy đầu Công-tử Nghi được Trịnh-Đột lắc đầu nói: — Ngươi là một tiểu tướng, tài cán, mưu mô gì mà làm được chuyện đó, chẳng qua vì tham sanh húy tử, ngươi kiếm lời gạt ta để Khỏi chết thôi. Phó-Hà nói ; — Quyền chính trong nước ngày nay thuộc uy Thúc-Thiêm. Tôi với Thúc-Thiêm thân nhau lắm Nếu Chúa-công không chê tôi bất tài, để tôi sống, tôi sẽ về bàn mưu với Thúc-Thiêm. giết Công-tử Nghi đem đầu nạp cho Chúa-công Trịnh-Đột hét to. — Tên lão tặc, đừng gạt ta. Mi muốn trở về bàn với Thúc-Thiêm đem quân đến đây chống cự với ta, ta đã biết rõ. Nói rồi truyền đao phủ thủ đem chém Tân-tu-Vô cản lại nói . — Vợ con Phú-Hà còn ở trên đất Đại-Lăng này ta hãy giam hắn lại để làm tin. Phó-Hà nghe nói quỳ mọp xuống đất rên rỉ. — Vợ con tôi còn đó, chẳng lẽ tôi ham sống một mình bỏ vợ bỏ con tôi sao ? Nói xong ngước mắt lên trời thề, lúc đó Trịnh Đột mới tin, truyền quân mở trói thả đi. Đêm ấy Phó-Hà lẻn về Kinh đô nước Trịnh vào yết kiến Thúc-Thiêm. Trông thấy Phó-Hả, Thúc Thiêm ngạc nhiên hỏi : — Nhà ngươi đang trấn thủ Đại-Lăng sao lại về đây? Phó-Hà nói : — Tề-hầu sai tướng Tân-tu-Vô đem quân đưa Công-tử Đột về nước, nay đa chiếm được Đại-Lăng sớm muộn ắt có đại binh kéo đến kinh thành. ngài nên làm cách nào chém được Công-tử Nghi đem đầu dâng cho Công-tử Đột mới khỏi mất ngôi công khanh. Vả lại, công-tử Đột là anh, đáng lý phải ở ngôi mới thuận Thúc-Thiêm ngẫm nghĩ một lúc rồi nói : — Trước kia ta đã có ý đưa Công-tử Đột là vua cũ về nước nối ngôi, nhưng bị Tế-Túc ngăn cản. nay Tế-Túc đã thác, việc này không khó. Phó-Hà hỏi : — Nếu vậy thì liệu kế nào ? Thúc-Thiêm nói : — Tin cho binh Tề kéo đến lúc đó ta giả đò mở cửa thành đối địch tất nhiên công-tử Nghi phải lên mặt thành đứng xem, nhà ngươi theo hầu rút gươm chém đầu Công-tử Nghi, còn ta, ta mở cửa rước Công-tử Đột vào tôn lên ngôi. Hai người bàn tính xong, sai người mật báo cho Trịnh-Đột. Phó-Hà lại vào ra mắt Công-tử Nghỉ nói: — Quân Tề giúp công-tử Đột chiếm được Đại- Lăng rồi. công-tử Nghi giật mình nói : — Thế thì phải tức tốc sang nước Sở cầu cứu mới được. Thúc Thiêm bên ngoài ra lệnh, nhưng bên trong có ý chần chừ đã hai ngày mà không sai sứ qua nước Sở. Bỗng có tin quân Tề kéo đến vây thành. Thúc-Thiêm xin phép Công-tử Nghi khai thành chống cự rồi khiến Phó-Hà lên mặt thành mà phòng giữ công-tử Nghi lầm kế cũng theo Phó-Hà lên mặt thành xem xét binh tình. Vừa đến nơi, Phó-Hà rút gươm chém Công-tử Nghi một nhát nhào xuống đất tắt thở. Bên ngoài Thúc-Thiêm mở cửa đón Công-từ Đột và Tân-tu-Vô vào Thành Cung, bắt hai con của Công tử Nghi giẽt đi, rồi cùng nhau tôn Công-tử Đột lên ngôi lấy hiệu cũ xưng là Trịnh Lệ-Công Người nước Trịnh lâu nay vẫn mến Trịnh Lệ- Công nên dân tình vẫn được yên ổn Trịnh Lệ-Công cảm ơn Tân-tu-Vô lo lắng-đãi đằng. khao thưởng binh Tề rồi tiễn Tân-tu-Vô về nước. Bấy giờ Trịnh Lệ-Công mới đòi Phó-Hà đến nói : — Ngươi giữ đất Đại-Lăng trong mười bảy năm. Cố sức cùng ta chống cự, thật đã hết lòng với Chúa cũ, nay tham sống sợ chết giết bỏ Chúa cũ để theo ta, như vậy ngươi là kẻ nham hiểm khó lường, tâm địa phản trắc ta phải giết nhà ngươi đi mới khỏi lo hậu hoạn. Nói xong truyền võ sĩ đem Phó-Hà ra chém, còn vợ con thì cho về... Nhận xét: — Gia bần tri hiếu tử, — quốc loạn thức trung thần. Chỉ có lúc lâm nguy mới rõ được ai trung ai nịnh. Thói đời trong lúc đang hưng thịnh thì thiếu gì hạng tiểu nhân theo xu phụ để dựa thế kiếm ăn. Lúc công-tử Nghi đang ngồi trên chiếc ngai vàng vững chắc, tiền hô hậu ủng ai dám cho Công-tử Nghi là kẻ phi nhân, tiếm đoạt ngôi anh, chỉ thấy toàn những kẻ theo xu nịnh, bợ đỡ cho Công-Tủ-Nghi là bậc Thánh- Chúa thôi. Ấy thế mà lúc Trịnh-Đột mang quân về, có binh Tề giúp sức, các nịnh thần coi cái mối công-Tử-Nghi đã suy. Liền phản phúc giết Công-tử Nghi, đem thành dâng cho Công-Tử-Đột lập tức Phản phúc thường là những kẻ gần gũi mình, tỏ ra là những người tận tâm nhứt. Ai biết Thúc-Thiêm làm đến bậc Tể-tướng mà còn phản, ai biết Phó-Hà đã phò Công-tử- Nghi giữ thành mười bảy năm mà lại phản phúc ? Nếu bảo rằng Phó-Hà, Thúc- Thiêm không phục Công-tử Nghi thì sao lại phò công- tử Nghi suốt mười bảy năm trời không tỏ ý gì phản đối? Cùng một người đó mà lúc cao cho là tốt, lúc bảo là xấu, xấu tốt không chừng, thật đúng là những ý của những kẻ xu thời trục lợi. Đời nay, những người như Phó-Hà. Thúc-Thiêm. không thiếu gì, họ vẫn sống vinh thân phì da từ thời này sang thời khác, nay xu phụ người này, mai xu phụ người kia để kiếm ăn. Nếu những kẻ cầm quyền lãnh đạo giàu kinh nghiệm như Trịnh Lệ-Công lúc về nước, đem đầu những bọn như Phó-Hà chặt hết ráo đi thì có lẽ những bọn nay xu phụ mai phản-phúc. dựa the0 tình thế, hùa gió bẻ măng mới hết đường sống. Hành động của Trịnh Lệ-Công và cái chết của Phó- Hà là một tấm gưong quý cho người đời sau nghiền ngẫm. | |
| | | Tri Âm Quán Thành Viên Tích Cực
Tổng số bài gửi : 6340 Reputation : 2 Join date : 31/07/2013 Đến từ : Thị Trấn Chũ
| Tiêu đề: Re: ÔN CỐ TRI TÂN (tập 1) Fri Aug 11, 2023 5:31 pm | |
| VƯƠNG-TỬ ĐỐI MẾN TRÂU HƠN THƯƠNG DÂN Nếu không yêu dân mến nước, Thì chớ nên dựa vào quốc sự. Trước kia vua Trang-Vương nhà Châu yêu nàng Diên-Cơ. có sanh được một con là Vương – Tử Đối Châu Trang-Vương rất mến Vương-tử Đối lắm, sai quan Đại phu là Vi – Quốc làm Thái-phó để dạy dỗ. Vương-tử Đối có tánh thích chơi trâu, một mình nuôi trong nhà hơn hai trăm con trâu, ngày nào cũng cho ăn. cho uống rất kỹ lưỡng, lại cho trâu mặc toàn gấm vóc và đặt tên là Văn-Thú... Vương-tử Đối đi đâu đều có đàn trâu đi theo, giẫm nát cả ruộng nương vườn tược mà không ai dám nói. Hơn nữa. Vương-tử Đối lại kết thân với năm viên quan Đại-Phu là Vĩ-Quốc, Biên-Bá, Tử-Cầm, Chúc- Quy. và Thiêm-Phủ là những kẻ có thế lực trong triều, nên lúc nào Châu Ly-Vương còn ở ngôi cũng phải kính nể. Thời gian sau, Châu Ly-Vương chết, con là Huệ- Vương lên ngôi, Vương-tử Đối ỷ mình là chú càng lên mặt kiêu ngạo hơn nữa Châu Huệ-Vương rất ghét. Tìm cách trấn áp Vương-tử Đối cùng bè đảng chẳng ngờ trong cung có kẻ phản nghịch, bên ngoài vua nước Vệ là Vệ-Sóc có cựu thù với vua nhà Châu nên đem binh giúp Vương-từ Đối chiếm ngôi vua đuổi Châu Huệ-Vương trốn sang nước Yên. Bấy giờ Trịnh Lệ-Công muốn giúp nhà Châu để lấy oai trấn áp chư hầu, nên đem quân đến đất Yên rước Châu Huệ-Vương về, một mặt cho người sang hiểu dụ Vương-tử Đối nhường ngôi. Vương-Tử Đối lưỡng lự chưa quyết thì Vĩ Quốc quỳ tâu : Tâu bệ-hạ, ngày nay bệ-hạ chẳng khác nào như kẻ cỡi trên mình cọp. nếu bước xuống ắt bị cọp phân thây. Vả lại mình đang làm Thiên-tử mà trở xuống làm tôi là chuyện không thể được Trịnh-Đột (tức Trịnh Lệ-Công) muốn lừa bệ hạ đó xin bệ hạ chớ nghe theo Vương-tử Đối nghe theo, đuổi sứ Trịnh về nước. Trịnh Lệ Công nổi giận họp binh với Quắc Công (Chúa nước Quắc) cất quân phò Châu Huệ-Vương ồ ạt kéo đến Lạc-Dương vấn tội. Vĩ-Quốc vội vã vào tâu với Vương-tử Đối, nhưng gặp lúc Vương-tử Đối đang bận cho trâu ăn, nên không ra tiếp. Vĩ-Quốc nói lớn : — Việc nguy cấp lắm rồi. Liền giả mệnh vua, sai các tướng đem quân đối địch. Quân-sĩ nhà Châu vốn không phục Vương-tử Đối, nên lúc ra khỏi thành đều chạy về phía Châu Huệ- Vương. Vĩ-Quốc thấy vậy vội vã thảo chiếu sai sứ sang nước Vệ cầu cứu. nhưng tờ chiếu thảo chưa xong đã nghe quân báo : — Châu Huệ-Vương đã vào thành ngự triều rồi. Vi-Quốc biết không thể thoát được liền đâm gươm vào họng tự vẫn. Vương-tử Đối chạy ra cửa Tây, khiến Thạch-Tốc lùa trâu đi trước, nhưng vì trâu qúa mập nên đi chậm, bị quân Trinh hay được đuổi theo bắt lại. Châu Huệ-Vương khiến quân dẫn Vương-tử -Đối| ra pháp trường xử trảm. Nhận xét : Có nhiều kẻ lập nên sự nghiệp chỉ vì cơ hội, thì kẻ ấy cũng sẽ vì cơ hội mà mất sự nghiệp. Vương- tử Đối đoạt ngôi của Châu Huệ-Vương chỉ là một cơ hội thúc đẩy mà thôi, thực tình Vương-tử Đối không phải là kẻ có đủ tư cách để làm một ông vua trị nước. Đành rằng mỗi người có một sở thích riêng, nhưng đã làm một ông vua không thể vì sở thích riêng của mình mà quên cả nhiệm-vụ cứu quốc trị dân. Vương-tử Đối trong đời chỉ thích có trâu, mê trâu đến nỗi quân giặc đã vây thành mà còn lo cho trâu ăn, quân giặc đã chiếm thành mà còn lo lùa trâu đi, thế thì ông ta lo trâu hơn lo cho dân chúng rồi. Một ông vua như thế còn cai trị ai ? Vương-tử-Đối lên chiếm ngôi chỉ do động cơ thúc đẩy của nhóm cường thần, thực ra ý ông ta cũng chưa chắc đã thích làm như vậy. Đã không đủ tư cách làm vua thì dự vào việc quốc sự làm gì cho hỏng việc để tiếng cười lại thiên thu. Một tấm gương sáng cho người sau, những ai thấy mình không gánh vác nổi việc lớn thì thôi, chớ nên vì một cơ hội thuận tiện nào đó cũng mang râu đội mũ ra sân khấu để rồi làm cái chuvện hề không ra hề, tướng không ra tướng. Người ta nói kiếp ngựa trâu là khổ, ví phỏng ngựa trâu sanh nhầm vào thời Vương-tử Đối làm vua, cho mặc gấm vóc, cho ăn cành hồng thì kiếp ngựa trâu lại sung sướng hơn người vậy. | |
| | | Tri Âm Quán Thành Viên Tích Cực
Tổng số bài gửi : 6340 Reputation : 2 Join date : 31/07/2013 Đến từ : Thị Trấn Chũ
| Tiêu đề: Re: ÔN CỐ TRI TÂN (tập 1) Sun Aug 13, 2023 4:15 pm | |
| NÀNG LY-CƠ VỚI THẾ TỬ THÂN-SANH - Cái lưỡi của người đan bà đẹp còn sắc bén hơn lưỡi gươm của đao phủ thủ. Vị tướng tài thường múa gươm nơì trận chiến, thì người đàn bà lại thường múa lưỡi nơi chốn phòng khuê. Vua nước Tấn là Tấn Hiến-Công lúc còn ở ngôi Thế-tử .cưới nàng Giả-thị làm chánh thất, nhưng không con, sau đó cưới cháu gái của Khuyển Nhung là Hồ-Cơ làm thứ nhất, sinh đặng một trai là Trùng-Nhĩ, sau nữa lại cưới thêm con gái vua Tiểu-Nhung sanh con la Di-Ngô. Lại nửa, trong lúc vua cha là Tấn Võ-Công còn sống có cưới nàng Tề-Khương, con nhà tôn thất nước Tề làm tiểu thiếp, nhưng vì Tấn Võ-Công đã già, còn nàng Tề-Khương đang tuổi xuân xanh cho nên Tấn Hiến-Công tư thông với Tề-Khương (tiểu thiếp của cha) ăn ở với nhau sanh đặng một trai là Thân-Sinh Đến lúc Hiến-Công lên ngôi, thì chính thất Giả- thị qua đời. Tấn Hiến Công bèn lập Tế -Khương lên làm chánh-thất, và con nàng Tế-Khương là Thân-Sanh được lên làm Thế-tử, mặc dù lúc đó Trùng-Nhĩ và Di-Ngô cũng là con của Tấn Hiến-Công, đã lớn tuổi hơn. Sau đó Tế-Khương sanh thêm một gái nữa mới mãn phần. Nàng Tế-Khương chết. Tấn-hiến-Công cưới em gái của nàng Giả-thị là Giả-Quân làm tiểu thiếp, nhưng Giả-Quân không con. Chưa hết, Tấn Hiến-Công lên ngôi được mười lăm năm, cử binh đi đánh nước Ly-Nhung, Chúa nước Ly- Nhung bị thua, dâng hai người con gái cho Tấn Hiến- Công mà cầu hòa. Hai người con gái ấy người lớn tên là Ly-Cơ, người nhỏ là Thiêu-Cơ. Nàng Ly-Cơ xinh đẹp phi-thường, nhan sắc không thua Tức-Vĩ, tướng mạo không nhường Đắc-Kỷ, lại thêm lòng dạ nham hiểm, đủ mánh khóe làm say lòng, do đó Tấn Hiến-Công rất yêu chuộng. Chẳng bao lâu Ly-Cơ sanh đặng một trai là Hề- Tề, Còn Thiêu-Cơ cũng sanh đặng một trai là Trác- Tử Vì quá yêu nàng Ly-Cơ Tấn Hiến-Công không còn thiết gì đến mối tình nàng Tế-Khương thuở trước, muốn lập nàng Ly-Cơ lên làm chánh thất, bèn đòi quan Thái-Bốc là Quách-Yển vào triều bảo : — Khanh thử bói một quẻ xem ta lập Ly-Cơ lên làm chánh thất có được không ? Quách-Yển tuân lời bói một quẻ rồi nói : — Quẻ không tốt !. Điềm ứng thay đổt lộn xộn không hay. Tấn-Hiến-Công không tin, truyền quan Sử Tô bói lại. Quan Sử-Tô cũng cho là xấu và nói : — Tâu Chúa-công. chư hầu không ai được cưới vợ hai lần, nay Chúa-công đã lập chánh-thất rồi, mặc dù chánh-thất sớm lìa trần nhưng vẫn có con trai. Nếu Chúa- công lập chánh-thất nữa thì trái lẽ. Tấn Hiến Công không nghe, chọn ngày cáo với Thái-miếu, lập nàng Ly-Cơ lên làm chánh thất. Thiêu Cơ làm thứ thất. Sử-Tô thấy vậy thở dài nói riêng với quan Đại- phu Lý-Khắc : — Nước Tấn ta sắp mấi rồi, biết làm sao . Lý-Khắc nghe nói giật mình hỏi : —Sao thế , Ai làm mất nước Tấn ? Sử-Tô đáp : — Nước Tấn ắt phải bị mất về tay nước Ly-Nhung. Ngày xưa vua Kiệt nhà Hạ. đánh nước Thi, người nước Thi dâng nàng Muội-Hỷ, vua Kiệt yêu Muội-Hỷ mà nhà Hạ mất. Vua Trụ nhà Ân đánh nước Tô, người nước Tô dâng Đắc Kỷ, vua Trụ yêu Đắc-Kỷ mà nhà Ân mất. Vua U-Vương nhà Châu đánh nước Bao, người nước Bao dâng Bao-Tự, vua u - Vương yêu Ba0 – Tự nên nhà Châu phải suy mất. Nay Chúa-công đi đánh nước Ly-Nhung, người Ly-Nhung dâng gái đẹp mà Chúa-công say mê như thế lẽ nào nước Tấn còn được ? Lúc đó có quan Thái-Bốc Là Quách-Yển bước vào. Lý-Khắc đem những lời Sử-Tô thuật lại, Quách Yển nói : — Cứ theo quẻ thì nước Tấn ta bị loạn chứ chưa mất, vì tiên quân ta mới được phong ở nước Tấn mà, nên vận nước còn dài. Lý-Khắc hỏi : — Đến bao giờ thì loạn ? Quách-Yển nói : —Chỉ trong vòng mười năm nữa mà thôi. Hai vị đại thần nhìn nhau buồn bã rồi lui về. Kế đó Tấn Hiến-Công muốn lập con trai nàng Ly- Cơ lên làm Thế-tử. Một hôm nói với Ly-Cơ : — Nay phu-nhân ở chức chánh-cung, chẳng lẽ con trai phu-nhân là Hề-Tề không lập lên làm thế tử sao phải lẽ. Ly-Cơ nghe nói lòng mừng khấp khởi. nhưng nàng vốn là một kẻ mưu mô, thâm hiểm, bèn nghĩ thầm : Thân-Sanh được phong Thế-tử đã lâu. nay vô cớ mà phế đi, ắt quần thần không phục. Hơn nữa Trùng-Nhĩ vá Di-Ngô lại thân mật với Thân-Sanh lắm, nếu bây giờ nói ra chưa làm chi được, mà họ lại biết trước đề phòng thì sau này rất khó. Nghĩ như vậy bèn tâu với Tấn Hiến-Công — Khi chúa công lập thế tử Thân-Sanh cả chư hầu đều biết, nay Thế-tử không có tội gì mà Chúa Công tính việc phế lập, thiếp thà chết chứ không dám vâng mạng . Tấn Hiến-Công ngỡ Ly-Cơ có lòng tốt khen ngợi vô cùng rồi bỏ qua việc ấy không nói đến nữa. Trong triều có hai người tôi được Tấn Hiến- Công rất yêu mến, một người là Lương-Ngũ và một người là Đông-quan-Ngũ, cả hai hợp sức với Tấn Hiến-Công lo việc chấp chính. Vì được yêu dùng nên hai người nầy làm lắm chuyện lộng quyền, đến nỗi người nước Tấn gọi là Nhị-Ngũ. Nghe tiếng Nhị-Ngũ ai cũng phải sợ. Cũng trong ấy lúc có một phường hát tên Ưu-Thị, trẻ tuổi, đẹp trai, có tài khôi hài rất duyên dáng, vì vậy Tấn Hiến-Công rất thích, cho phép đuợc tư do ra vào cung điện, không ai ngăn cấm cả. Ly-Cơ được thể tư tình với Ưu-Thi, hai bên tỏ ra tương đắc. , Một hôm Ly-Cơ đem ý muốn lập Thế-tử Hề- Tề nói với Ưu-Thi, Ưu-Thi đáp : — Ba vị Công-tử kia còn ở tại Kinh-đô, việc đó khó thực hiện được, nay phải tìm cách đưa ba người ra trấn cõi ngoài rồi tùy cơ ừng biến. Ly-Cơ hỏi : —Thế thì ta đem ý ấy bàn với Chúa-công có được chăng ? Ưu Thi nói : —Không nên. Nay có Nhị - Ngũ nói gì mà Chúa-công chẳng nghe theo, phu nhân nên bàn bạc mà mua lòng giao kết với họ, hễ Nhị-Ngũ thỏa thuận thì việc chẳng khó gì. Ly-Cơ liền đưa vàng bạc cho Ưu-Thi đem lo lót cho Lương-Ngũ và Đông-quan-Ngũ. Ưu-Thi vâng mạng đến nhà Lương-Ngũ trước và nói : — Thưa ngài, phu nhân muốn làm đẹp lòng ngài nên cho tôi đem lễ vật đến đây, mong ngài không từ chối. Lương-Ngũ nghe nói ngạc nhiên hỏi : - Phu-nhân có dặn điều chi chărg ? Nếu không nói rõ tôi đâu dám nhận ? Ưu-Thi đem mưu kế của Ly Cơ thuật lại, Lương Ngũ nói : — Việc này phải có Đông-quan-Ngũ giúp sức mới xong. Ưu-Thi nói : — Phu nhân cũng có lễ vật biếu Đông-quan Ngũ như ngài . Hai người liền dắt nhau đến nhà Đông-quan- Ngũ để cùng nhau đàm luận. Sáng hôm sau, Lương-Ngũ vào triều thưa với Tấn Hiến-Công : — Đất Khúc-ốc là chỗ tiên quân thuở xưa lập nghiệp, hiện nay tôn miếu hãy còn; còn đất Bồ và đất Khuất tiếp giáp với Nhung-Đích là một nơi trọng địa, ba chỗ ấy- cần phải có người trấn thủ, xin Chúa- công sai Thái-tử Thân-Sanh ra trấn nơi Khúc -óc, công- tử Trùng-Nhĩ ra trấn nơi đất Bồ, và công-tử Di-Ngô ra trấn nơi đất Khuất, được như vậy giang san nước Tấn mới vững vàng. Tấn Hiến-Công nói : — Đất Khúc-ốc thì phải rồi, còn đất Bồ và đất Khuẵt hai nơi hoang địa, tại sao lại phải cho hai vị công tử ra trấn giữ ? Đông-quan-Ngũ quỳ tâu : — Tuy hoang địa, nhưng lại là nơi trọng địa, nếu xây thành sửa sang cho kiên cố thì đất ấy trở nên trù mật, và nước Tấn sẽ giàu mạnh hơn các chư hầu. Tấn Hĩến-Công nghe lời sai Thế-tử Thân-Sanh ra trấn nơi Khúc-ốc, có quan Thái-phó Đỗ-nguyên-Khoản theo hầu, công-tử Trùng-Nhĩ ra trấn nơi đất Bồ, có Hồ-Mao theo hầu, Công-Tử Di-Ngô ra trấn nơi đất Khuất có Lã-di Sảnh theo hầu. Ba vị công-tử đi rồi trong triều chi còn có Hề-Tề và Trác-Tử gần gũi với Tấn Hiến-Công. Nàng Ly- Cơ lại tìm hết rnánh khóe để làm say lòng vua Tấn. Lúc bấy giờ Tấn Hiến-Công chia quân ra làm hai đạo, thượng quân và hạ quân. Đạo Thượng-quân thì do Tấn Hiến-Công điều khiển, còn đạo Hạ quân thì giao cho Thế-tử Thân - Sanh sử dụng. Thân-Sanh cùng với quan Đại-phu Triệu-Túc và Tất-Vạn kéo quân sang chinh phục nước Cảnh, nước Quắc và nước Ngụy, ba nước này đều đánh không lại phải đầu hàng, vì vậy, công lao của Thế-tử Thân-Sanh rất lớn, khiến cho nàng Ly-Cơ ngày đêm buồn bã tính không ra kế để làm hại Thế-tử Thân-Sanh. Nhưng nàng vốn là một kẻ nham hiểm, làm sao chịu được lâu, nàng nghĩ ra một kế. Tối hôm ấy nàng rỉ tai nói với Tấn- Hiến Công: — Lâu nay Thế-tử ở nơi Khúc-ốc nuôi lòng căm thù thiếp. Nay xin Chúa-công triệu về, nói là thiếp có lòng nhớ mong Thế-tử để thiếp lấy sự nuông chiều làm cho mối hờn kia khuây khỏa, may ra Thế-tử dung mạng sống cho thiếp chăng ? Tấn Hiến-Công nghe lời viết chiếu sai triệu Thân- Sanh về. Thân-Sanh vào ra mắt Tấn Hiến-Công rồi cung chúc mừng Ly-Cơ, Ly-Cơ tiếp đón niềm nở, và đêm ấy xin phép Tấn Hiến-Công làm tiệc thiết đãi Thân-Sanh. Mãn tiệc, Ly-Cơ trở vào gặp Tấn Hiến-Công, nàng sụt sùi khóc lóc. Tấn Hiến-Công ngạc nhiên hỏi : — Thế-tử có điều gì không được hài lòng phu nhân sao ? Ly-Cơ nói : —Thiếp cũng tưởng mở tiệc đãi đằng để mua lòng Thế-tử, cởi mở oán thù, ai ngờ Thế-tử lại vô lễ, đùa bỡn với thiếp, giở trò trêu hoa ghẹo nguyệt, thiếp chống cự mãi mới chạy thoát. Tấn Hiến-Công cau mày suy nghĩ : — Thân-Sanh lâu nay là một đứa con thảo thuận, lẽ nào lại có cử chỉ loạn luân ấy ? Ly-Cơ nói : —Nếu Chúa-công không tin lời thiếp vậy Chúa công thử cho thiếp cùng Thế-tử dạo chơi trong vườn hoa, Chúa-công đứng núp trên đài nhìn xuống thì rõ sự tình. Tấn Hiến-Công y lời. Sáng hôm sau, Ly-Cơ triệu Thế-tử Thân-Sanh cùng vào chơi trong vườn hoa. Ly-Cơ đã lập kế sẵn, lấy mật bôi vào mái tóc, nên lúc bước vào vườn hoa ong bướm đua nhau bay đậu. Ly-Cơ nói với Thân-Sanh : — Sao Tnế-tử không đuổi hộ cho ta ? Thân-Sanh vô tình đâu rõ được kế độc, lấy tay áo xua đuổi đàn ong bướm. Tấn Hiến-Công đứng trên đài cao trông thấy, đinh ninh Thế-tử có ý trêu ghẹo Ly-Cơ nên muốn đem giết. Ly-Cơ nói : — Mặc dầu Thế-tử bất hiếu, nhưng nay thiếp triệu về mà Chúa-công đem giết ắt thiên hạ cho thiếp âm mưu. Vả lại việc đó trong vòng ám muội chưa ai biết được, xin Chúa-công nên nhẫn nhục. Tấn Hiến-Công liền cho Thân-Sanh về Khúc-ốc, rồi mật sai người bới lông tìm vết để hãm hại. Một hôm Tấn Hiến-Công đi săn nơi đất Dịch- hoàng, Ly-Cơ bàn luận với Ưu-Thi rồi cho người ra nói với Thế-tử Thân-Sanh : -Chánh cung vừa nằm mộng thấy Tế Khương (mẹ Thân-Sanh) kêu đói không có gì ăn, nên đến bảo Thể-tử phải lo cúng mẹ. Thân-Sanh tuân lời bày tiệc lễ tế mẹ, rồi gởi phần về dâng cho Tấn Hiến-Công. Nhưng lúc ấy Tấn Hỉến- Công đi săn chưa về, món ăn phải để lại đến sáu ngày sau. Trong thời gian đó, Ly-Cơ tẩm thuốc độc vào các thức ăn và rượu, đợi Tấn Hiến-Công về đem dâng. Khi Tấn Hiến-Công về triều, Ly-Cơ tâu : —Thiếp nằm mộng thấy Tế-Khương kêu đói, lòng thiếp quá thương tâm, sai người đến Khúc-ốc bào Thế- Tử lập đàn tế lễ, Thế-tử đã tế xong và gởi phần về dâng Chúa-công đấy . Tấn-Hiến Công toan rót rượu uống. Ly-Cơ cản lại nói: — Món ăn từ ngoài đưa vào xin Chúa-công phải thận trọng mới được. Tấn Hiến-Công rót rượu xuống đất thấy hơi độc bốc lên thất kinh khiến đưa vào một con chó để thử, chó vừa ăn xong một miếng thịt, tức khắc lăn ra chết. Ly-Cơ lại khiến một tên nội thị ăn thử. Tên nội thị chần chờ, nhưng Ly-Cơ bắt buộc phải ăn cho được. Nội thị ăn xong hộc máu chết. Ly-Cơ làm ra vẻ kinh hãi hét to : — Ôi, cơ nghiệp này là của Thế-tử, Chúa-công đã già rồi. Thế-tử không thể chờ được ít lâu nữa sao ? Nói xong nước mắt chảy ròng ròng, bước đến trước mặt Tấn Hiến-Công tâu : — Thế-tử sở dĩ bày ra kế này chỉ vì mẹ con thiếp mà thôi. Nay muốn cho Chúa-công và Thế-tử được hòa hảo, thiếp xin ăn thế những món đồ độc này mà chết. Nói xong, câm đũa toan gắp đồ ăn đưa vào miệng. Tấn Hiến-Công cản lại, mặt biến sắc, ôm Ly-Cơ vào lòng nói ; — Thôi phu nhân chớ buồn, để ta tuyên cáo với triều thần giết Thân-Sanh đi là xong. Nói rồi lâm triều, triệu các quan đến thương nghị. Các quan hiểu rõ lòng Tấn Hiến-Công đã quyết, nên chẳng dám cản ngăn. Đông Quang-Ngũ thưa : — Thế-tử đã bất hiếu như vậy, tôi xin đem quân đến Khúc-ốc bắt Thế-tử đem về cho Chúa-công trị tội. Tấn Hiến-Công liền sai Lương - Ngũ làm chánh tướng, Đông Quang-Ngũ làm Phó tướng kéo binh đến Khúc-ốc Hai tưóng tuân lệnh kéo quân ra đi. Giữa lúc ấy tại triều có Hồ-Đột, vẫn đóng cửa nằm nhà, chừng hay được tin, viết một mật thư sai người đến Khúc-ốc tin cho Thế-tử Thân-Sanh hay trước. Thân -Sanh xem thư xong bàn bạc với quan Thái- phó Đỗ Nguyên-Khỏan. Đỗ Nguyên-Khoản nói : — Phần tế để trong triều đã sáu hôm thì rõ là người trong cung bỏ thuốc độc, nay Thế-tử làm một minh trạng gởi về triều kêu oan, lẽ nào trong triều không có ai biện bạch cho Thế-tử sao ? Thân-Sanh nói : —Phụ-thân tôi ngày nay đã mê Ly-Cơ đến nỗi quên ăn bỏ ngủ, dù có minh oan thì chẳng ích gì. Làm vua mà đã ghét con thì sớm muộn gì đứa con cũng phải chết, chi bằng tôi chết đi cho vừa lòng phụ- thân tôi. Đỗ Nguyên-Khoản nói : — Thế-tử tìm một nước khác lánh nạn, đợi cho tai biến qua sẽ trở về phục nghiệp. Thân-Sanh nói : — Đến một nước khác với lý do nào ? Nếu đổ lỗi cho thân-phụ tôi chẳng té ra bêu tiếng xấu cho thân phụ tôi, lòng tôi không an, còn nếụ tự gán cho mình tội giết cha thì còn mặt mũi nào đến nước người ? Thôi thì chỉ có chết là trọn vẹn hơn cả. Nói xong liền tự viết thư tạ ơn Hồ-Đột rồi tự thắt cổ mà chết. Sáng hôm sau Lương-Ngũ và Đông Quang-Ngũ kéo quân đến, hay tin Thế-tử Thân-Sanh đã bỏ mình, liền bắt quan Thái Phó Đỗ Nguyên-Khoản đem về triều nạp cho Tấn Hiến-Công. Đỗ Nguyên-Khoản đến trước mặt Tấn Hiến-Công tỏ nỗi oan tình của Thế-tử : — Thế-tử Thân-Sanh là một kẻ hiếu thảo, đồ ăn để trong cung có thể là chuyện ám muội, vì nếu thuốc từ ngoài đem vào, đồ ăn để đến sáu ngày được sao ? Ly-Cơ đứng núp sau bình phong hoảng vía hét to : — Đỗ Nguyên-Khoản là Thái-Phó của Thân-Sanh, mưu tính việc dữ, sao Chúa-công không giết đi còn để làm gì ? Tấn Hiến-Công khiến lực sĩ cầm dùi đồng đánh Đỗ Nguyên-Khoản bể óc chết tươi. Các quan trong triều ai thấy cũng động lòng nhưng không dám nói ! Khi bãi triều Đông Quang-Ngũ và Lương-Ngũ nói với Ưu-Thi : —Trùng-Nhĩ và Di-Ngô cùng một phe với Thân- Sanh, nếu không hạ được hai kẻ ấy chúng ta còn phải lo ngại. Ưu-Thi vào nói với Ly-Cơ. Đêm ấy Ly-Cơ khóc nức nở nói với Tấn Hiến-Công : — Trùng-Nhĩ vi Di-Ngô cùng dự mưu với Thân- Sanh, nay Thân-Sanh chết đi chắc hai vị Công-tử ấy đổ lỗi cho thiếp, đem Quân về đánh. Chúa-công cũng nên tiên liệu việc ấy. Tấn Hiến-Công tỏ ý không tin. Sáng hôm sau khi lâm triều có kẻ vào bảo : -công tử Trùng-Nhĩ và Di -Ngô định vào triều, nhưng khi đến cửa ngọ môn nghe tin Thế tử Thân- Sanh chết, hai vị Công-Tử quay xe lại bỏ đi hết. Tấn Hiến-Công nói : — Đã về triều mà không vào yết kiến ta, quả Trùng-Nhĩ và Di-Ngô có dự mưu đó. Nói xong liền sai Bột-Đề đem quân đến đất Bồ bắt Công-Tử Trùng-Nhĩ, còn Giả-Hoa đem quân đến đất Khuất bắt Công-tử Di-Ngô. Hồ-Đột hay tin vội gọi đứa con thứ của mình là Hồ-Yển nói : Công – tử Trùng-Nhĩ tướng mạo khác thường, xương sườn dính liền nhau, con mắt có hai đồng-tử, lại là người có hiếu, ắt sau này thay cho Thân-Sanh mà gìn giữ Sự nghiệp tiên quân được. Con đến đất Bồ hợp sức với anh con là Hồ-Mao ủng hộ đưa Trùng-Nhĩ đi trốn. Hồ Yển tuân lời lập tức đến đất Bồ phò Công- từ Trùng-Nhĩ. Trùng-Nhĩ đang bàn với Hồ Mao và Hồ-Yển tìm đường đi trốn bỗng có tin Bột - Đề đem quân đến vây bắt. Hồ-Mao và Hồ-Yển vội vã dẫn Trùng-Nhĩ trốn ra khỏi nhà. Nhưng Bột-Đề nắm vạt áo của Trùng-Nhĩ lôi lại toan rút gươm chém Hồ-Mao nắm tay Trùng-Nhĩ kéo tới làm chỗ vạt áo đứt mất. Bột-Đề đuổi theo không kịp phải đem vạt áo trở về triều dâng cho Tấn Hiếu-Công. Còn Trùng-Nhĩ thì trốn sang nước Địch. Trong lúc đó thì công tử Di-Ngô được bọn quần thần hộ vệ trốn sang nước Lương... Nhận xét: Thuận ý trời, chiều ý người là thành công. Trái ý trời, nghịch ý người thì thất bại. Xưa nay không thiếu gì bậc nữ lưu, đem sắc đẹp, thể xác mình để mưu cầu lợi riêng. Họ sử dụng sắc đẹp như một vị tướng tài sử dụng vũ khí ngoài chiến trận. Ở đây, câu chuyện nàng Ly-Cơ đối với Công-tử Thân-Sanh có những nét đặc sắc của một người đàn bà khôn quỉ, xảo quyệt, man trá và thâm độc. Đã thực hiện việc cướp ngôi Thế-tử cho Hề-Tề, đứa con trai mình, Ly-Cơ không phải bôn chôn, hối hảr mà thực hiện với một chủ-trương, đường lối có kế hoạch, có thời gian định trước, chẳng khác nào một chính trị gia mưu một cuộc đảo chánh. Trước hết, Ly-Cơ mua chuộc một số tay chân gần gũi vua Tấn để làm hậu thuẫn sai khiến, rồi giả cách thương yêu những kẻ mình muốn hãm hại, để Tấn Hiến- Công lầm tưởng lòng đại nhân đại độ của mình. Sau đó, Ly-Cơ không từ bỏ một biện pháp nào mà nàng có thể lập Hề -Tề lên ngôi Thế tử. Một người đàn bà khôn ngoan như vậy bảo sao Tấn Hiến-Công không sa ngã, Thế-tử Thân-Sanh không lụy thân, và Công-tử Trùng-Nhĩ, Di-Ngô không lưu vong trốn chạy. Điêu-Thuyền dùng sắc đẹp ly khai cha con Đổng- Trác, việc thành công là do kế hoạch Vương-Doãn. Tây- Thi hạ được nước Ngô là nhờ- kế hoạch Phạm-Lãi. Riêng nàng Ly-Cơ tự mình tạo lấy hoàn cảnh, điều kiện và tự sắp xếp cho mình. Đàn bà như vậy, nếu không kể về mặt đạo đức thì cũng có thể gọi là một nữ lưu tài trí vậy. Đời nay; có một vài người đàn bà cũng muốn noi gương nàng Ly-Cơ xưa, đem nhan sắc mình mê hoặc kẻ có quyền thế để mưu cầu địa vị, sự nghiệp cho chồng con, gia đình mình. Nhưng những kẻ này không phải mua chuộc một ông vua. mà mua chuộc những ông quan thầy, những kẻ làm chủ chồng mình. Rồi cũng có những ông chồng đành để vợ con mình đem xác thịt dâng cho bề trên để hưởng lấy một lợi riêng hay một quyền thế nào đó. Thương ai thì đem quyền lợi lại cho người đó, thói thường như vậy, chúng ta không trách Tấn Hiến- Công là một ông vua tầm thường sống trong vòng sắc dục. Lúc đầu yêu Tế-Khương thì lập Công-tử Thân- Sanh lên ngôi Thế-tử, đến lúc yêu Ly-Cơ thì lại mưu lập Hề-Tề. Sắc đẹp và lời dua mị của đàn bà là một thứ thuốc mê, mà Tấn Hiến-Công là kẻ thích uống thuốc mê thì tránh đâu được lẽ thường tình ấy. Tuy nhiên, chúng ta cũng thừa nhận Tấn Hiến-Công ở đây mặc dù mê sắc, nhân tính vẫn còn, bời vậy ông ta đã có một lần không tin Thế-tử Thân-Sanh có tư tưởng loạn luân. Ông ta nói : —Thân-Sanh là đứa con hiếu đạo, làm gì có tư tưởng ấy. Ý thức ấy không phải là trí sáng suốt của Tấn Hiến-Công mà chính là do hành động hiếu thảo của công-tử Thân-Sanh ảnh hưởng vào. Lời thánh-nhân có nói : “Người ta ở tốt với mình thì mình phải ở tốt với người ta. Người ta ở xấu với mình thì mình vẫn phải ở tốt với người ta. Mình không xấu với họ, lẽ nào họ xấu với ta sao ? ” Đây là quan niệm thánh nhân dạy ta lấy đức răn người, dùng nhân đạo để giác ngộ kẻ làm trái. Hành động hiếu đạo của Thế-tử Thân-Sanh chính là hành động lấy ( lành » trả (dữ », gây ảnh hưởng phần nào trong tâm khảm Tấn Hiến-Công. Tuy nhiên, vẫn không sao giác ngộ được một ông vua bị đầu độc đã quá nặng. Nhiều người chê cái chết của Thân-Sanh là hèn yếu. Tại sao lại tự hủy mình một cách dễ dàng trước âm mưu một người đàn bà thâm độc như vậy ? Xét cho kỹ thì Thế-tử Thân-Sanh đã nói : — Làm vua mà ghét con thì sớm muộn gì đứa con cũng phải chết, chi bằng tôi chết đi cho vừa lòng phụ thân tôi. Tuy quan niệm ấy có vẻ tiêu cực thật, nhưng cũng là một lý thuyết khá vững chắc. Thật vậy, khi một ông vua, người có quyền tuyệt đối muốn hãm hại một tôi thần thì nhất định vị tôi thần kia phải chết, chỉ trừ- khi đứng ra dùng lực chống lại. Huống hồ ông vua ấy là cha muốn hại mạng con. Nếu muốn giữ tròn tấm gương hiếu đạo thế nào đứa con cũng phải lấy cái chết mà thôi. Cái chết của Thân-Sanh không phải là hèn nhát vô ích đâu. Chính cái chết của Thân-Sanh là một đòn tâm lý đánh mạnh vào đầu óc của Tấn-Hiến Công, để cho Tấn Hiến-Công giải độc, và cũng để minh oan cho mình trước con người đàn bà nham hiểm ấy. Ly-Cơ vu cho Thân-Sanh vì muốn sớm đoạt ngôi vua nên bỏ thuốc độc vào đồ ăn giết cha mình. Thế mà Thân-Sanh lại tự vận, chứng tỏ Thân-Sanh không có ý ấy rồi. Chết mà chưa tiếc thì còn ước muốn ngai vua làm chi ? Cái chết của Thân-Sanh tự nó đã giải oan cho Thân-Sanh, chống lại lời vu khống của Ly-Cơ rồi, đồng thời cũng để giải độc cho Tấn Hiến-Công nữa. Nhưng khổ thay. Tấn Hiến-Công là người quá u ám, bị liều thuốc mê về sắc đẹp quá nặng, nên cái chết của Thế-tử Thân-Sanh không làm cho ông ta thức tỉnh nổi. Tiếp theo cái chết của Thân-Sanh là cái chết của Đỗ Nguyên-Khoản. Cái chết của Đỗ Nguyên-Khoản ý nghĩa không khác nào như cái chết của Thân-Sanh, ông ta đã bỏ thêm một liều thuốc giải độc hợp sức với Than- Sanh, nhưng lại cũng không làm cho Tấn Hiến-Công tỉnh dậy. Đau đớn thay ! Có hai cái chết của Thân-Sanh và Đỗ Nguyên- Khoản mà Hiến-Công vẫn không mở được mắt ra nhin sự thật thì đủ biết tài năng mê hoặc của Ly-Cơ đến bực nào rồi. | |
| | | Tri Âm Quán Thành Viên Tích Cực
Tổng số bài gửi : 6340 Reputation : 2 Join date : 31/07/2013 Đến từ : Thị Trấn Chũ
| Tiêu đề: Re: ÔN CỐ TRI TÂN (tập 1) Mon Aug 14, 2023 10:30 am | |
| VƯƠNG-TỬ NGUYÊN VỚI SẮC ĐẸP NÀNG TỨC-VĨ Sắc đẹp là một sức mạnh thúc đẩy tâm hồn con người vượt qua gian nguy. Nhưng nó cũng là một sức mạnh xô con người đến vùng nhơ bẩn. Từ khi vua Văn-Vương nước Sở tạ thế thì con là Hùng-Hi lên nối ngôi. Hùng-Hi và Hùng-Vận là hai anh em ruột do nàng Tức-Vi sinh ra, nhưng Hùng-Vận tài trí hơn anh, do đó Tức Vĩ có lòng yêu dấu, cả đến người trong nước cũng mến phục. Hùng-Hi thấy vậy muốn kiếm kế giết Hùng-Vận để khỏi di hại về sau, ngặt vì Hùng-Vận được các quan trong triều che chở nên Hùng-Hi không thể nào thực hiện được dự tính. Lần hồi Hùng-Hi chán nản bỏ bê việc triều chính, thích săn bắn nơi chốn hoang vu. Vì vậy Hùng Hi lên ngôi đã được ba năm mà chưa chỉnh đốn được việc gì cả. Một hôm Hùng-Vận mật sai người đón đường giết Hùng-Hi rồi nói với Tức-Vĩ là Hùng-Hi đi săn gặp tai nạn mà thác. Tức-Vĩ lòng nghi ngờ nhưng không tiện nói ra, bèn truyền cho các quan lập Hùng-Vận lên nối ngôi, hiệu là Sở Thành-Vương. Sở Thành-Vương phong cho Vương-tử Nguyên làm Tể-tướng. Vương-tử Nguyên từ khi Sở Văn-Vương chết đi. đã có ý muốn cướp ngôi, lại thấy chị dâu là Túc- Vĩ nhan sắc đẹp tuyệt mới đem lòng ham muốn, trước kia vì sợ Đấu Bá-TỈ một vị đại thần cương trực, lại có nhiều tài trí nên chẳng dám làm càn, nay Đấu Bá-Tỉ đã chết, Vương-tử Nguyên không còn kính trọng ai nữa, mới lập lên một ngôi nhà bên cạnh cung Tức- Vĩ ngày đêm bắt vũ nhạc múa hát, cốt làm cho Tức- Vĩ say lòng. Tức-Vĩ nghe tiếng hỏi bọn thế nữ : —Tiếng đàn đâu mà gần thế ? Bọn thế nữ tâu : — Đó là tiếng nữ nhạc bên nhà mới của quan Tể-tướng đó. Tức-Vĩ thở dài nói : — Tiên quân ngày xưa chăm luyện tập binh sĩ, đánh dẹp các chư hầu, vì vậy mà các nước đều thần phục. Bây giờ quân nước Sở ta không tiến được nửa bước trên đất Trung quốc, thế mà quan Tể-tướng không nghĩ những điều xấu hổ ấy, lại bày việc đàn ca hát xướng bên cung gái góa này, thật lạ lùng làm sao ! Nội thị đem mấy lời ấy thuật lại với Vương- tử Nguyên. Vương-tử Nguyên lấy làm xấu hổ nghĩ thầm : — Một người đàn bà có chí như vậy, lẽ nào ta đây là một đấng trượng phu lại chẳng nghĩ đến sao ? Nếu không đánh được nước Trịnh ta thề chẳng làm người. Nói rồi điểm sáu trăm cỗ binh xa. Khiển Đẩu Ngự-Cương và Đẩu-Ngô làm tiên phương, Vương Tôn- Du và Vương Tôn-Gia đi hậu tập rầm rộ kéo đến nước Trịnh. Trịnh Văn-Công hay tin quân Sở kéo đến đánh liền hội quần thần thương nghị. Đỗ-Thúc nói : — Quân Sở rất hùng mạnh, ta làm sao địch lại chi bằng xin giao hòa rồi sẽ tính. Sư-Thúc nói : — Nước ta có minh thệ với nước Tề. nếu cầu cứu ắt nước Tề đem binh đến giúp. Xin cứ cố thủ chờ viện binh. Thế-tử Hoa bấy giờ còn trẻ tuổi lòng bồng bột nghe nói xin đem binh đối địch. Trịnh Văn-Công chưa quyết lẽ nào, Thúc-Thiêm quỳ tâu : — trong ba lời nói vừa rồi chỉ có lời của Sư- Thúc là hợp ý tôi. Tôi đoán chẳng bao lâu quân Sở kéo về. Trịnh Văn-Công hỏi : — Vương-tử Nguyên đã đem binh đến đây nếu không bị thua !ẽ nào lại chịu kéo về ? Thúc-Thiêm nói : —Xưa nay vua nước Sở đi đánh nước ngoài chưa bao giờ dùng binh lực nhiều như thế. Lần này Vương-tử Nguyên có ý làm vừa lòng Tức-Vĩ. Nhưng đã cố thắng tất sợ thua. Vì vậy không đáng Sợ. Các quan còn đang thương nghị, bỗng có tin báo : —Binh Sở đã phá được Kiết-thất-quan và vào đến Thuần-môn rồi. Đỗ-Thúc nói : —Nếu không muốn giải hòa thì phải qua nơi đất Đông-khâu đề tránh nhuệ khí của giặc. Thúc-Thiêm nói : — Đừng sợ gì cả. Tôi đã có kế làm quân giặc phải lui. Nói xong liền cho quân mai phục trong thành, rồi khiến mở hết bốn cửa thành ra. Dân chúng chợ búa vẫn đi lại như thường. Tướng nước Sở là Đẩu Ngự-Cương vừa kéo quân đến, thấy vậy lòng nghi ngờ nói vời Đẩu-Ngô : —Ta đến đây mà quân Trịnh không chút gì xao động, tất có mưu kế chi đây, ta không nên tiến quân vộỉ, phải án binh chờ quan Tể-Tướng đã. Nói xong truyền đóng quân ngoài thành cách xa năm dặm. Được một lúc, đại binh của Vương-tử Nguyên kéo đến. Đẩu Ngự-Cương báo lại tình hình. Vương-tử Nguyên lấy làm lạ, trèo lên chỗ cao xem, thấy trong thành Trịnh quân sĩ có thứ lớp, cờ xí rộn ràng bèn thở dài nói : —Nước Trịnh có ba người tài (ý nói Thúc Thiêm, Đỗ-Thúc và Sư-Thúc) ắt có mưu kế chi đây. Nếu ta sơ xuất còn mặt mũi nào trông thấy nàng Tức-Vĩ, chi bằng cho quân thám thính kỹ, nắm được địch tình rồi sẽ liệu. Ngày hôm sau có quân thám thính về báo : — Quân nước Tề, Lỗ,. Tống đồng hưng binh sang cứu Trịnh. Vương-tử Nguyên giật mình bảo các tướng : — Nay các nước chư hầu đem binh đến đây, trong đánh ra, ngoài đánh vào quân ta cự sao lại. Thôi thì ta tiến quân đến đây cũng gọi là thắng trận rồi.. Bây giờ rút lui về nước thì tiện hơn. Nói xong, truyền quân cuốn cờ im trống. Ngay đêm hôm ấy lén ra khỏi địa giới nước Trịnh Nhưng khi về đến biên giới nươc Sở lại truyền mở cờ dinh trống lên ầm ĩ. Về chưa đến kinh thành, Vương-tử Nguyên sai người báo cho Tức-Vĩ hay tin quân Sở đắc thắng khải hoàn. Tức-Vĩ nói : —Nếu quan Tể-tướng đã đắc thắng thì cáo tế với nhà Thái miếu rồi truyền bá cho dân chúng biết chớ nói với gái goá nầy làm chi. Quân về bẩm lại. Vương-tử Nguyên thẹn thùng, lểnh mểnh đem quân vào thành, mặt buồn khôn xiết. Từ khi đánh nước Trịnh không được, lại bị Tức- Vĩ thờ ơ lãnh đạm, lòng Vương-tử Nguyên áy náy muốn cướp ngôi nước Sở. Tuy nhiên, Vương-tử Nguyên quyết ý tư thông với Tức-Vĩ trước khi thực hành việc lớn ấy. Gặp lúc Tức-Vi bị bệnh, Vương-tử Nguyên giả cách vào thăm rồi ở mãi trong cung không chịu về. Quan Đại-phu là Đấu-Liêm hay được, liền vào cung thấy Vương-tử Nguyên đang soi gương chải đầu. Đẩu- Liêm nói : — Quan Tể-tướng dẫu là chú vua, nhưng vẫn là kẻ bề tôi, vả lại Quốc mẫu goá chồng, nam nữ nên tị hềm, sao Tể-tướng không nghĩ đến việc ấy ? Vương-tử Nguyên nổi giận : — Quyền bính nước Sở hiện ở trong tay ta, sao ngươi dám nói càn. Liền sai bọn thủ hạ bắt Đẩu-Liêm trói lại giam vào ngục. Tức-Vĩ thấy hành động dâm loàn của Vương-tử Nguyên liền sai nội thị đến báo với Đẩu-Cấu Ô-Đồ (con của Đẩu-bá-Tỳ) tim mưu diệt loạn. Đẩu Cấu tâu với Sở Thành-Vương, rồi cùng với Đẩu Ngự Cương, Đẩu-Ngô và Đẩu-Bàn (con của Đẩu- Cấu) đem quân đến cung. Vương-tử Nguyên đang vui say với bọn cung- nữ, nằm ngủ mơ màng, nghe tiếng quân reo giật mình thức dậy cầm gươm chạy ra, vừa đến cửa gặp Đẩu- Bàn bên ngoài cầm kiếm xốc tới, Vương-tử Nguyên hét to : — Thằng ranh con này dám đến đây tác loạn sao ? Đẩu-Bàn nói : —Ta đâu có làm loạn. Ta đến đây đề trừ loạn đấy chứ. Nói xong vung kiếm chém Vương-tử Nguyên. Hai bên đánh nhau một lúc thì Đẩu-Ngô và Đẩu Ngự- Cương đến tiếp ứng, Vương-tử Nguyên nhắm thế cự không lại, bỏ chạy. Đẩu-Bàn rượt theo chém một nhát rơi đầu... Nhận xét: Khi đã bị sắc đẹp của người đàn bà sai khiến, thì giá trị của người đàn ông tự nhiên giảm sút. Vương-từ Nguyên làm đến chức Tể-Tướng, kể ra cũng đã cao sang quyền quý lắm rồi, thế mà còn nuôi chí tiếm đoạt ngôi vua. Đứng núi này trông núi nọ, được voi đòi tiên, túi tham của con người không đáy. Người có chức vị nhỏ thì mưu tiếm đoạt quyền lợi nhỏ, người có chức vị lớn thì mưu đoạt quyền lợi lớn. đó là cái xấu xa nhất của chế độ phong kiến. Kể như Hùng-Hi, Hùng-Vận, hai anh em ruột, cùng chung một lòng mẹ sinh ra, thế mà còn nỡ giết nhau để tranh ngôi vua, thì người ngoài giết vua tranh ngôi, hưởng phú quý tưởng cũng không đáng trách. ở đây có những nét buồn cười nhất là anh chàng Vương-tử Nguyên, một gã anh hùng rơm mê gái đẹp; Kéo quân đánh nước Trịnh mục đích không phải vì nước vì dân mà chỉ vì để cho nàng Tức-Vĩ khen mình anh hùng thôi. Thúc-Thiêm, quan cận thần nước Trịnh biết ý gã đàn ông ngáo ấy, nên đánh cho một đòn tâm-lý thật thâm thía. Cũng như những kẻ mang tiền đánh bạc, hễ sợ thua thì không đánh lớn, mà không dám đánh lớn làm sao ăn được nhiều. Thúc-Thiêm bỏ thành trống mà Vương-tử Nguyên không dám vào chỉ vì sợ rủi thất bại làm trò cười cho người đẹp. Mê gái, trong đời không phải chuyện lạ, nhưng ở đây khác với những việc đàn bà lợi dụng sắc đẹp, dùng lời ong tiếng én mua chuộc đàn ông. Mà ở đây chỉ có một Vương-tử Nguyên mơ tưởng, dù sự mơ tưởng đó không được một tình yêu nào đáp lại. Đời nay cũng có nhiều người chạy theo những sắc hoa tưoi, mòn hơi mệt sức mà rốt cuộc ôm hận khóc thầm. Một bài học cho những ai không hiểu mình, không hiểu người, lao đầu vào tình yêu phiến-diện, rồi phải than thân trách phận. Vương-tử Nguyên tuy là tướng, nhưng trên chinh trường lại đóng vai một anh hề. | |
| | | Tri Âm Quán Thành Viên Tích Cực
Tổng số bài gửi : 6340 Reputation : 2 Join date : 31/07/2013 Đến từ : Thị Trấn Chũ
| Tiêu đề: Re: ÔN CỐ TRI TÂN (tập 1) Tue Aug 15, 2023 10:32 am | |
| CÔNG-TỬ BAN VÀ NGỮ-NHÂN-LẠC Đối với tiểu nhân vô lễ, một là bỏ qua hai là giết đi. Lỗ Trang-Công lấy nàng Mạnh-Nhân làm vợ, sanh được một con là Công-tử Ban. Một hôm nhân tiết trời không mưa, Lỗ Trang- Công đi đảo Vũ, truyền bọn nữ nhạc tập dượt nơi sân nhà quan Đại-phu Lương-thị. Quan Đại-phu Lương-thị có một đứa con gái khá đẹp, thường đi lại với Công-tử Ban, hai bên trao tình cá nước. Một hôm, công-tử Ban đến nhà chơi, con gái Lương-thị ra tiếp, hai bên nói chuyện trao tình Công-tử Ban hứa sau này lên nối ngôi sẽ phong làm phu nhân. Vì đã gặp nhau nhiều lần, nên hôm ấy con gái Lương-thị bắc thang lên đầu tường để xem diễn nhạc, và cũng để nhìn ngắm Công-tử Ban. Chẳng may gặp Ngữ Nhân-Lạc là tên giữ ngựa đứng ngoài trông thấy. Dầu là phận tôi đòi, nhưng khát vọng của con người đâu cách biệt, Ngữ Nhân-Lạc cất lên vài điệu hát đưa tình để ghẹo hoa : Hát rằng : Hoa xuân hơ hớ nhụy đào, Tiếc thay ong bướm chưa vào vườn xuân. Tường cao vòi vọi, Bóng nguyệt mông lung Ước ao cá nước tương phùng Ấp yêu mộng đẹp cho lòng phôi-phai. Công-tử Ban nghe tiếng hát chạy đến. trông thấy ‘Ngữ Nhân-Lạc lòng căm tức, truyền bắt vào đánh ba trăm roi, máu tuôn lai láng. Ngữ Nhân-Lạc khóc lóc van xin, công-tử Ban mới tha cho và đem việc ấy thuật lại với Lỗ Trang-Công. Lỗ Trang-Công nói: — Đối với đứa tiểu nhân, vô lễ, một là bỏ qua, hai là giết đi, con đánh nó như vậy không khỏi gây thù oán. Vả lại, Ngữ Nhân-Lạc là đứa có sức mạnh phi-thường, mọi người ai cũng biết, con khá cẩn thận. Quả vậy, Ngữ Nhân-Lạc tuy là một kẻ tôi đòi, song sức mạnh ít ai sánh kịp. Đã có lần Ngữ Nhân- Lạc trên chòi canh cao hai mươi trượng nhảy xuống đất mà vẫn đứng như chơi, lại cầm cột chòi canh rung rinh làm cho mọi người phải khiếp sợ. Bị Công-tử Ban đánh đập, Ngữ Nhân-Lạc đem lòng thù oán, đến xin làm tôi cho Khánh-Phủ là anh vua Lỗ Trang-Công. Khánh-Phủ liền thu dụng. Năm sau, Lỗ Trang-Công bị bệnh biết mình không sống được lâu, liền kêu Quí-Hữu là em vua Lỗ Trang- Công ủy thác phò Công-tử Ban kế vị mình sau này. Chẳng bao lâu Lỗ Trang-Công từ trần, Quí-Hữu lập Công-tử Ban lên kế vị. Kế đó, ông ngoại Công-tử Ban qua đời, Công- tử Ban nghĩ đến tình mẹ mình là Mạnh-Nhâm, nên đến tận nhà thăm viếng. Khánh-Phủ hay được kêu Ngữ-Nhân-Lạc đến nói nhỏ : — Ngươi không nhớ cái thù thuở xưa ? Ngày nay con giao long đã ra khỏi mặt nước thì sức một người có thể bắt được, sao nhà ngươi không đến nhà họ Đảng (cha Mạnh-Nhâm) mà trả thù ? Ngữ Nhân-Lạc nói : — Nếu có điều gì xin nhờ Công-tử bênh vực thì tôi mới dám. Khánh-Phủ nói : — Điều đó ngươi khỏi lo. Ngữ Nhân-Lạc liền giắt ruột con dao găm vào mình thừa lúc đêm tối vào nhà họ Đảng, đứng núp trước cửa phòng. Trời tang tảng sáng, nội thị mở cửa ra lấy nước, Ngữ-Nhân-Lạc lẻn vào buồng ngủ. Lúc ấy công-tử Ban cũng đã thức dậy, vừa bước chân xuống đất. thấy Ngữ Nhân-Lạc, công-tử Ban sợ hãi hét lớn : — Mày đến đây làm gì ? Ngữ Nhân-Lạc nói : — Ta đến để báo thù trận đòn năm trước Công-tử Ban bèn rút thanh kiếm ở đầu giường chém một nhát vào trán Ngữ Nhân-Lạc đến lòi tủy óc ra. Ngữ Nhân-Lạc vốn có sức mạnh, tay trái chụp lưỡi kiếm, tay phải cầm dao đâm mạnh vào cạnh sườn Công-tử Ban đến lút cán. Công-tử Ban té nhào xuống đất tắt thở. Bọn nội thị sợ hãi kêu ầm lên. Còn Ngữ Nhân-Lạc sau khi đâm được Công-từ Ban một nhát trả thù, cũng té xỉu xuống đất chết ngay. Nhận xét: Kẻ tiểu nhân không hành động theo lý tính mà chỉ hành động theo cảm tính. Khác với những bậc quân tử, mọi hành động đều cân nhắc phải trái, đúng với nhân đạo, thì kẻ tiểu nhân trái hẳn lại. Kẻ tiểu nhân hành động theo cảm tính của bản năng, không cần suy nghĩ phải trái, chỉ cần thỏa mãn sự tức bực, hoặc sự say mê của mình thôi. Ấy vậy, đối với một kẻ tiểu nhân nhiều khi cũng phải có một đường lối hẳn hoi mới giác ngộ kẻ ấy được. Ngữ Nhân-Lạc oán Công-tử Ban, oán ấy nằm lòng chờ dịp báo thù, mặc dù cái oán của Ngữ Nhân-Lạc không đúng. Xưa cũng như nay, trong lòng nguời đều có tự ái, dù là kẻ nghèo khó, sang giàu, quân tử hay tiểu nhân. Lấy vũ-lực, quyền thế trấn áp, đều bị phản ứng. Sức phản ứng ấy có thể ngầm, hoặc bộc phát cũng như dân chúng đối với những kẻ cầm quyền lực trấn áp, tuy lúc đó không thấy dân chúng có phản ứng gì, song lòng hận thù ấy phát ra, Cho nên, một kẻ đang cầm quyền lực, lúc còn thịnh thì chỉ thấy toàn là bọn xu nịnh, tai chỉ nghe những lời nói tâng bốc, rồi đến lúc thất thế, bên tai lại nghe toàn những lời nhục mạ, chửi rủa. Việc ấy rất thông thường, chỉ vì lòng căm phẫn của họ trong lúc bị trấn áp họ đành lặng thinh đấy thôi. Ngữ Nhân-Lạc giết Công-tử Ban đó là trong trường hợp dùng quyền lực trấn áp, gây căm phẫn chứa đựng trong lòng người vậy | |
| | | Tri Âm Quán Thành Viên Tích Cực
Tổng số bài gửi : 6340 Reputation : 2 Join date : 31/07/2013 Đến từ : Thị Trấn Chũ
| Tiêu đề: Re: ÔN CỐ TRI TÂN (tập 1) Wed Aug 16, 2023 9:21 am | |
| VỆ-Ý-CÔNG VỚI BẦY CHIM HẠC — Sự ăn năn muộn màng của một ông vua Vệ Ý-Công lên ngôi đã chín năm trời mà tính tình biếng nhác chẳng lo chính sự, chỉ thích chơi một giống chim gọi là chim hạc. Giống chim này tính ưa sạch sẽ, hình dung đã tao nhã, lại thêm hát hay, múa khéo. Người trong nước thấy vua ưa thích, đua nhau bắt chim hạc đem đến dâng rất nhiều. Hễ chim nào tốt thì được Vệ Ý-Công phong hàm phẩm, cấp lương bổng, chim nào đẹp thì được ăn lộc Đại phu, xem như một triều đình chim hạc. Mỗi khi Vệ Ý-Công đi chơi đâu, trên cỗ xe loan chim hạc đậu bao quanh, gọi Là Hạc-Tướng-quân. Các người nuôi hạc lúc bấy giờ ăn lương rất hậu. Trều đình phải thu thuế rất nặng, để đủ tiền cấp lương cho hạc Trong triều có hai người tôi trung liệt là Thạch- Kỳ và Ninh-Tốc thấy vậy nhiều lần can gián, nhưng Vệ- ý-Công không nghe. Vì thế dân nước Vệ sống ngoắc ngoải mãi dưới sự xa hoa vô ý thức của một ông vua có tánh kỳ quặc ấy. Dân chúng khổ sở đêm ngày rên siết. Chẳng bao lâu, quân nước Bắc-Dịch kéo đến đánh. Gặp lúc Vệ ý-Công đang sai người đẩy xe chim hạc đi chơi, nghe báo thất kinh, hạ lệnh gọi quân đi đánh giặc. Dân nước Vệ bỏ trốn cả, không ai dám ra đi lính. Vệ-ý-Công sai quan Tư-đồ bắt khắp nơi mới được hơn trăm người dẫn về triều tra hỏi. Dân nước Vệ thưa : —Chúa-Công chỉ dùng một giống vật cũng có thể dẹp được quân Bắc-Dịch, hà tất phải gọi lính làm gì ? Vệ Ý-Công hỏi : —Giống vật gì lại có thể đuổi được giặc ? Dân nước Vệ thưa: —Giống chim hạc. Vệ Ý-Công quát mắng ; —Giống chim hạc làm thế nào đánh giặc được. các ngươi dám dùng lời khi quân như thế sao ? Dân nước Vệ vẫn không sợ sệt đáp : —Chim hạc không đánh được giặc thì nó là vật vô dụng, thế mà Chúa-Công đã dùng vật vô dụng cho hưởng ơn vua, lộc nước, còn kẻ hữu dụng thì lại bỏ đi, như vậy làm sao trong cơn hữu sự dân chúng không bỏ trốn ? Vệ Ý-Công tỉnh ngộ, dịu giọng nói : —Nay ta đã hối lỗi. Ta sẽ làm theo ý dân đuổi hết chim hạc đi. Thạch-Kỳ tâu : —Xin Chúa-Công thực hành ngay ý định ấy. Tôi e bây giờ thì đã trễ lắm rồi. Vệ ý-Công tức khắc cho người đi đuổi chim hạc, nhưng chim hạc lâu nay được nuôi nấng, quen nơi ăn chỗ ở, cứ quanh quẩn mãi trong cung. Thạch-Kỳ và Ninh-Tốc thân hành ra đứng giữa chợ giảng dụ dân chúng, nói rõ lòng hối hận của Vệ Ý-Công dân chúng mới chịu nhập vào quân ngũ thì lúc đó quân Bắc-Dịch đã kéo đến đất Huỳnh- Trạch rồi. Thạch-Kỳ bàn với Vệ Ý-Công : —Quân Bắc-Dịch mạnh lắm, chớ khinh thường. Tôi xin sang nước Tề cầu cứu, nhờ binh Tề giúp sức mới được. Vệ Ý-Công nói ; —Ngày trước Tề phụng mệnh Thiên-Tử đem quân chinh phạt nước ta dẫu không bắt tội, nhưng từ ấy đến nay ta chưa sang tạ tội, nay chắc gì Tề chịu đến giúp ? Chi bằng ta liều quyết chiến với giặc một phen cho rồi. Ninh- Tốc tâu : — Nếu vậy xin Chúa-công lo bảo vệ thành trì, để tôi cầm quân quyết tử cho. Vệ Ý-Công nói : —Nếu ta không thân hành ra trận, lòng căm thù của dân chúng không thể nào cởi mở được. Nói xong, trao cho Thạch-Kỳ một cái ngọc quyết và dặn : —Ta giao việc nước cho khanh, hãy rán vì ta mà tận tâm. Lại giao cho Ninh-Tốc một mũi tên và nói : —Khanh khá lo việc giữ thành. Nếu không đánh lui được quân địch ta nguyện không trở về. Thạch-Kỳ và Ninh-Tốc điều ứa nước mắt nhìn Vệ ý-Công, nghẹn ngào không nói được nửa lời. Vệ Ý-Công cùng với tướng Cừ-Khổng khai thành, kéo quân đi. Tuy Vệ Ý-Công đã ăn năn, nhưng lòng oán hận của dân chúng chưa nguôi. Lúc đi đường dân chúng hát lên nhiều câu ngập tràn uất ức. Hát rằng : Hỡi chim hạc, hỡi chim hạc ! Lầu son bát ngát, Chim hạc ăn lương. Đồng rẫy ruộng nương Dân thường lo cày cấy. Hạc vui chơi bay nhảy, Hạc xuống ngựa lên xe. Dân khổ cực trăm bề, Khi hữu sự bắt lê ra chiến trận. Đi phen này số phận mong manh. Vệ Ý-Công nghe hát, lòng buồn rũ rượi. Khi đến đất Huỳnh-Trạch trông thấy quân Bắc-Dịch ngựa xe lộn xộn, hàng ngũ không chỉnh tề, Cừ-Khổng nói : — Quân Bắc-Dịch như vậy mà bảo là mạnh thì thật chúng ta đã lầm to. Nói xong giục trống cho quân sĩ xáp chiến. Quân Bắc-Dịch giả thua bỏ chạy, dụ quân Vệ đến chỗ phục quân đổ ra đánh. Quân Vệ không có lòng đánh giặc, lại chưa được tập luyện gì cả, thấy quân địch quá mạnh hè nhau bỏ chạy. Vệ ý-Công và Cừ-Khổng bị quân Bắc-Dịch vây vào giữa rất ngặt. Cừ-Khổng nói với Vệ Ý-Công : — Tình thế quá hiểm nghèo, xin Chúa-công bỏ Cờ hiệu, thay y phục rồi xuống xe chạy trốn may ra mới thoát được. Vệ Ý-Công thở dài nói : — Ta thà liều chết để tạ tội với bá tánh còn hơn. Quân Bắc-Dịch vây mỗi lúc một dày thêm, các tướng Vệ lần lượt bỏ mạng, quân sĩ chết không biết bao nhiêu mà kể, máu tuôn như suối. Vệ Ý-Công cầm cự đến phút cuối cùng rồi cùng chết trong đám loạn quân. Nhận xét: — Lạm dụng quyền thế để thỏa mãn một ý riêng, kẻ đó thiếu trách nhiệm đối với Tổ quốc. Rượu ngon, gái đẹp, địa vị cao, nhà lầu, xe hơi là những thứ làm cho người ta mê hoặc, sát phạt nhau, bỏ cả nghĩa vụ làm người, bỏ cả luân thường đạo lý, còn như chim hạc mà cũng mê đến nỗi mất nước mất thành thì thật là chuyện hi hữu. Đó là chuyện đời xưa, còn như thời buổi văn minh này cũng không thiếu gì hạng người giàu có, đối với một việc nghĩa nhỏ cũng không dám làm, nhưng lại có thể bỏ ra một sỗ tiền lớn để mua chó tốt. mèo đẹp. Nhiều giống lạ của các nước đem về nuôi chơi. Chó đi máy bay, chó đi xe hơi nhà lộng lẫy, chó ăn thịt bò, uống sữa... trong lúc đó đồng bào Của họ quần rách ống, áo thủng bâu, không có nhà ở, ngủ đầu hè xó chợ, đau không được viên thuốc uống, thế mà họ không hề nhìn đến đừng nói chuyện giúp đỡ. Cũng như đám thần dân nước Vệ đói khổ, phải chịu sưu cao thuế nặng đóng góp để nuôi đàn hạc của nhà vua, rồi cuối cùng nước mất nhà tan, gieo tang tóc trong nhân gian một thảm họa tày trời dưới gót giày xâm lăng của quân Bắc-Dịch. Dân chúng nước Vệ không thể đáp lời Vệ ý~Công là phải Biết ăn năn hối cải, đặt Tồ-quốc lên trên ý thích riêng, liều thân ra chiến trường để tạ tội , đem cái chết đền nợ non sông, Vệ Ý-Công chỉ đáng thương ở chỗ ấy mà thôi. | |
| | | Tri Âm Quán Thành Viên Tích Cực
Tổng số bài gửi : 6340 Reputation : 2 Join date : 31/07/2013 Đến từ : Thị Trấn Chũ
| Tiêu đề: Re: ÔN CỐ TRI TÂN (tập 1) Wed Aug 16, 2023 2:23 pm | |
| HOẰNG DIỄN TRƯỚC CÁI CHẾT vệ Ý-CÔNG — đem xác mình làm quan tài để liệm buồng gan của vua. Vệ Ý-Công lên ngôi chỉ thích nuôi chim hạc, không kể đến đời sống của dân. Chẳng bao lâu bị quân Bắc-Dịch vào xâm chiếm, Vệ Ý-Côg bắt dân sung vào lính đánh giặc, dân chúng trước kia khổ vì Sưu cao thuế nặng để nhà vua nuôi chim, nay oán hận vua, không phục tùng. Vệ Ý-Công biết lỗi mình, đuổi hết chim hạc, và tự mình cầm quân ra trận để tạ tội với bá tánh. Nhưng vì quân lính lâu nay không tập luyện, nên kỹ thuật chiến đấu không có, tướng tá đều bị tử thương, quân sĩ thây chật đất, Vệ Ý-Công cũng bị quân địch giết chết trong đám loạn quân. Thạcb-Kỳ và Ninh-Tốc là hai tôi trung của Vệ Ý-Công vội đưa Công-tử Thân đi lánh nạn. Dân chúng hay tin hai quan Đại-phu là Thạch-Kỳ và Ninh-Tốc đã bỏ thành, liền bồng con dắt vợ bỏ nhà ra đi, tiếng kêu khóc thảm thiết. Hay tin thành nước Vệ bỏ trống, quân Bắc-Dịch kéo vào, một mặt đốt phá cung thất, một mặt giết người vơ vét của cải. Sau khi tàn phá Kinh thành nước Vệ, thu góp vàng bạc lúa thóc, quân Bắc-Dịch kéo quân về nước chỉ đề lại một cảnh điêu tàn, tang tóc thê lương. Giữa lúc đó có quan Đại-phu nước Vệ là Hoằng- Diễn khi trước phụng mạng Vệ Ý-Công sang sứ nước Trần, nay trở về thấy thành quách cháy rụi, nhà cửa không còn, dân chúng trong thành thây chết ngổn ngang, mùi tanh hôi nồng nực. lại nghe Vệ Ý-Công tử trận ở Huỳnh-Trạch. Lòng đau xót vô cùng, Hoằng- Diễn vội vã đến Huỳnh-Trạch để tìm xác Vệ Ý-Công. Dọc đường Hoằng-Diễn thấy đâu đâu xác chết cũng dẫy đầy, mùi tanh hôi không chịu nổi. Khi đến Huỳnh-Trạch, Hoằng-Diễn xông vào các đống xác chết tìm kiếm khắp nơi, chợt thấy cây cờ hiệu bỏ dưới đất, Hoằng-Diễn mừng thầm nói : —Cờ hiệu rớt nơi đây. xác Chúa-công không đâu xa. Bèn tiến đến hai bước, bỗng nghe trong dòng thịt người lại có tiếng rên rỉ, Hoằng-Diễn bới lên xem, thì thấy một người nội thị chưa chết, nhưng bị cụt cả chân tay, nằm mẹp ở đấy. Hoằng-Diễn hỏi : —Ngươi có biết Chúa công chết chỗ nào chăng ? Người nội thị hất hàm sang một bên, nói : — Đây là đống thịt của Chúa-công, quân giặc băm nhỏ ra, chính mắt tôi trông thấy, vì vậy dầu bị gãy cả tay chân tôi vẫn cố nằm nơi đây đợi người nước Vệ đến mà chỉ. Hoằng-Diễn rơi lệ, hai tay bới đống thịt đã tan nát từng mảnh, chỉ tìrn được một buồng gan còn nguyên vẹn mà thôi. Bèn để buồng gan trước mặt vừa lạy, vừa khóc. Lạy xong, Hoằng-Dịch nói : —Nay Chúa-công đã bỏ xác như vậy không lấy gì mà mai táng, vậy ta hy sinh tấm thân của ta làm áo quan mà tẩn liệm cho Chúa-Công. Nói xong quay lai bảo tên gia nhân: — Khi ta chết, ngươi đem chôn ta vào khu vườn này, đợi lúc nào nước Vệ có vua mới tường trình câu chuyện này lại. Đoạn cầm dao mổ bụng, xách buồng gan cùa Vệ Ý-Công bỏ vào bụng mình. Qua một lúc Hoằng-Diễn tắt thở. Tên gia nhân tuân lời dặn, đem Hoằng-Diễn mai táng trong rừng, rồi sửa chữa một chiếc xc hư, đưa người nội thị về thành để dò xét tin tức trong nước Nhận xét: — Tuy vua hư hỏng, nhưng có được bầy tôi trung thì nước chưa đến nỗi mất. Hoằng-Diễn dùng thân hình làm áo quan để tẩn liệm buồng gan Vệ Ý-Công. Thật là mội ý kiến ngộ nghĩnh, và một hành động là lùng từ xưa nay chưa từng thấy. Cái chết Hoằng-Diễn nổi bật lòng trung can với vua. Tuy nhiên, những tấm gương trung liệt chẳng thiếu gì. Nhiều kẻ cũng đã hy sinh thân mình đã chết theo vua rồi. Ở đây, với cái chết của Hoằng-Diễn chúng ta tìm thấy hai khía cạnh. Thứ nhứt về quan niệm Á-Đông : Dù cho người tàn ác đến đâu, lúc chết không được một mảnh chiếu để bó thân, thân hình bị lồ lộ thì ai cũng cho là tội nghiệp. Bởi vậy, trước cát chết mà thi thể bị tàn phá, hoặc vất bỏ đầu đường, bờ bụi, thiên hạ cho là vô phúc. Ngươi Á-Đông trọng cái chết hơn là cái sống. Hoằng-Diễn dùng thân mình làm áo quan khâm liệm vua Vệ làm nổi bật tâm cảm của người Á- Đông về phương diện này. Thứ hai về ý thức lễ nghi : Biết đâu cái chết của Hoằng Diễn có một dụng ý. Đem thân làm áo quan chôn Vệ Ý-Công, tất nhiên cái « áo quan kia” phải được qúy trọng, suy tôn. Xác của Hoằng- Diễn xem ngang hàng với xác vua Vệ, nấm mồ vua Vệ tức là nấm mồ của Hoằng-Diễn, được con cháu dòng vua thờ cúng mãi mãi. Hy sinh cách nào cũng là hy sinh, mà hy sinh như vậy, ngoài cái tiếng trung liệt còn được hưởng mọi sự cúng tế, tôn thờ cúa dân nước Vệ trong nhà Thái-miếu. | |
| | | Tri Âm Quán Thành Viên Tích Cực
Tổng số bài gửi : 6340 Reputation : 2 Join date : 31/07/2013 Đến từ : Thị Trấn Chũ
| Tiêu đề: Re: ÔN CỐ TRI TÂN (tập 1) Fri Aug 18, 2023 2:46 pm | |
| TỀ VÀ SỞ GIAO HÒA Một ý thức chính trị của Quản-Di-Ngô. Tề Hoàn-Công phụng mệnh Thiên-tử nhà Châu họp chư-hầu kéo đến phạt sở, vì lý do Sở tiếm xưng Vương-vị và bất phục tùng nhà Châu bỏ lệ triều cống hàng năm. Sở-vương lúc bấy giờ uy thế đang mạnh, tuy nhiên lực lượng của 7 nước chư hầu hùng hổ lắm, nên vua Sở liệu thế khó đương cự, liền sai sứ thần là Khuất-Hoàn sang dinh Tề cầu hòa. Quản Di-Ngô vâng lệnh Tề Hoàn-Công ra tiếp sứ thần. Khuất-Hoàn hỏi : — Tề và Sở hai nước cách nhau, mỗi nước đều có vua và có cương giới rõ rệt, nay vì cớ gì quý quốc đem binh đến xâm chiếm nước tôi ? Quản Di-Ngô nói : — Chúa-Công tôi phụng mịnh Thiên tử nhà Châu làm bá chủ chư hầu, nước nào không tuân mệnh Thiên-tử thì Chúa-Công tôi có quyền đem quân đến vấn tội. Nước Sở các ông có lệ cống hiến cỏ thanh mao hàng năm để dùng vào việc cúng tế. Chỉ có mấy bó cỏ thôi mà nước các ông cũng không giữ lễ để cho nhọc lòng chúng tôi phải đem binh đến đây. Khuất-Hoàn nói : —Từ khi nhà Châu suy yếu đến nay các nước chư hầu đều bỏ lệ triều cống, không riêng gì nước Sở chúng tôi. Nếu quý quốc đến đây chỉ đòi hỏi Cỏ thanh mao thì việc đó không khó gì. Tôi sẽ về thưa lại với vua Sở. Nói xong, từ giã quay xe về. Sở Vương thấy Tề Hoàn-công kéo quân chư hầu đến mà chỉ đòi cống lễ cho nhà Châu mấy bó cỏ thanh mao, mỉm cười nghĩ thầm : —Tưởng đòi việc gì quý giá chứ mấy bó cỏ thì ta tiếc gì mà không đem nạp. Liền y tấu sai Khuất-Hoàn sang trại Tề nhận tội và hứa sẽ cống hiến cỏ thanh mao cho vua nhà Châu. Chiến sự chấm dứt, quân sĩ hai bên đều tỏ vẻ vui mừng vì tránh được cuộc đổ máu. Bảo Thúc-Nha hỏi Quản Di-Ngô : —Nước Sở tiếm Vương-vị, tội ấy trọng, còn việc bỏ cống hiến cỏ thanh mao là việc nhỏ, sao Trọng phụ lại chú trọng đến cái tội nhỏ mà bỏ cái tội lớn của nước Sở ? Quản Di-Ngô nói : —Nước Sở tiếm Vương-vị đã ba đời nay, nếu chúng ta đột ngột bắt chúng bỏ ngay cái danh hiệu ấy thì khi nào nước sở lại chịu cúi đầu mà nghe ta liền. Nếu Sở không nghe tất ta phải đánh mà hễ đánh thì nước ta và nước Sở phải rối loạn ít ra cũng phải vài ba năm. Nay ta trách Sở về việc không cống hiến cỏ thanh mao, khiến cho vua Sở phải bằng lòng nhận tội. Sở đã nhận tội tức là chịu quy phục nhà Châu rồi, từ chỗ giác ngộ nhỏ đi đến chỗ giác ngộ lớn mà không phải đổ máu, gieo tang tóc cho dân hai nước. Bảo Thúc-Nha nghe Quản Di-Ngô giải thích như vậy liền khen Quản Di-Ngô là người cao kiến. Nhận xét: Sửa đổi con người, phải sửa đổi từ cái nhỏ đã. Việc gì cũng vậy, tùy theo khả năng của người ta mà đòi hỏi. Bắt người ta làm một việc không thể được thì sự bắt buộc ấy dù có phải đến đâu cũng vô ích. Trái lại. khả năng mình không có mà buộc kẻ khác phải phục tùng mình một cách quá đáng thì cũng không thể nào được. Binh lực nước Tề đối với Sở lúc bấy giờ cũng không hơn gì bao nhiêu, nếu đưa ra đấu chọi nhau chưa chắc ai đã thắng. Ngược lại, nước Sở dù phải tan tành dưới nạn đao binh cũng không bao giờ chịu truất bỏ Vương-vị. Đó là yếu tố quan trọng trong thế cờ Tề, Sở lúc ấy. Quản Di-Ngô kéo binh đến vấn tội nước Sở mà không buộc nước sở trút bỏ Vương-Vị, Chỉ đòi cống hiến cỏ thanh mao chính là Quản Di-Ngô đã có một lập trường chính-trị vững chắc, không đòi hỏi những cái đối phương không thể làm được, cũng như liệu khả năng mình không đủ sức đỏi hỏi. Một nhà chính trị có tài phải thấy trước thế cờ, không nên đi quá bước, sa vào ngõ bí. Đời nay có nhiều người thường không lượng sức mình, sức địch, không hiểu mình, hiểu người, đòi hỏi cái gì thì đòi cho quá đáng, được việc này lại muốn đòi cho được việc nọ, rốt cnộc việc lớn đã không đòi được mà việc nhỏ cũng không xong. Việe giao hòa Tề, Sở chính là một tấm gương cho những nhà chính trị đó. | |
| | | Tri Âm Quán Thành Viên Tích Cực
Tổng số bài gửi : 6340 Reputation : 2 Join date : 31/07/2013 Đến từ : Thị Trấn Chũ
| Tiêu đề: Re: ÔN CỐ TRI TÂN (tập 1) Tue Aug 22, 2023 8:03 pm | |
| NƯỚC NGU VÀ NƯỚC QUẮCMôi hở răng lạnh.Ngu và Quắc là hai nước láng giềng thường tương trợ nhau. Hễ nước Ngu bị xâm chiếm thì nước Quắc đem binh giải cứu. Ngược lại, nước Quắc bị nạn đao binh thì nước Ngu đem quân giải nguy. Vì vậy hai nước coi như răng và môi, giữ vững tinh thần tương thân tương ái, nứơc ngoài không thể nào xâm chiếm nổi.Bấy giờ nước Tấn hùng cường. Tấn Hiến-Công muốn đem binh chinh phục Ngu và Quắc, nhưng không biết cách nào được, liền triệu quần thần đến vãn kế.Đại-thần Tuân-Túc nói :—Tôi nghe vua nước Quắc là người háo sắc, Chúa-công nếu tuyển một số gái đẹp trong nước dạy nghề ca hát cho tinh, cho ăn mặc cho đẹp, rồi đem hiến cho vua nước Quắc. Vua Quắc hễ được gái đẹp tất say mê, bỏ bê triều chính. Chừng đó ta lại đem lễ vật lo lót cho vua Khuyển-Nhung, nhờ vua Khuyển-Nhung cử binh sang đánh. Liệu chừng nước Quắc đã yếu, ta mới đem quân sang chinh phạt.Tấn Hỉến-Công y lời đern bộ nữ nhạc nhan sắc tuyệt trần hiến cho vua Quắc. Vua nước Quắc thấy gái đẹp liền thu nhận và giao tình hòa hảo với nước Tấn.Quan Đại phu nước Quắc đứng ra can vua Quắc:—Tâu Chúa-công, đó là cái lưỡi câu của nước Tấn muốn câu nước ta đó. xin Chúa-công chớ lấy đó mà mừng.Vua nước Quắc không nghe, nhất định giao hảo với Tấn, rồi đem đoàn nữ nhạc vào cung.Từ ấy, vua nước Quắc ngày đêm say đắm tửu sắc không còn thiết đến việc triều chính nữa.Chẳng bao lâu, quân Khuyển-Nhung ham lễ vật của nước Tấn, đem binh sang quấy nhiễu nước Ouắc Mặc dầu vậy binh lực nước Quắc vẫn còn hùng mạnh lắm, quân Khuyển-Nhung đánh không lại nhiều lần phải bỏ chạy.Vua nước Khuyển-Nhung nổi giận liền cử đại binh sang đánh, nước Quắc cũng không nhịn, hai bên dàn quân lập trận nơi đất Tang-điền. Quyết tranh thắng phụ.Tin ấy đến nước Tấn. Tần Hiến-Công hỏi Tuân - Tức.— Ngày nay nước Quắc và nước Khuyển-Nhung đang đánh nhau, ta có nên đem quân đánh nước Quắc không ?Tuân-Tức nói : —Tôi có một kế có thể lấy cả nưóc Ngu và nước Quắc.Tấn Hiến-Công hỏi :—Kế gì vậy ? — Tuân-Tức nói :— Ngu và Quắc hai nước giao hữu nhau nay ta đem lễ vật lo lót cho nước Ngu, mượn đường sang nước Quắc. Hễ nước Ngu nhận lễ vật cho mượn đường thì sẽ không sang cứu Quắc, mà Ngu không cứu thì Quắc ắt mất. Lúc đã lấy Quắc rồi thì Ngu muốn lấy lúc nào chẳng được.Tấn Hiến-Công nói :— Kế ấy rất hay. song nước ta mới giao hảo với nước Quắc. nay lấy cớ gì gây chiến để cho nước Ngu tin ?Tuân-Tức thưa :—Giữ hòa hiếu thì dễ. chứ gây chiến thì khó gì. Chúa-công chỉ cần mật sai một số người sang biên giới nước Quắc quấy rối, thế nào nước Quắc cũng nổi giận trách nước ta. Ta thừa dịp ấy làm duyên cớ nói với nước Ngu.Tấn Hiến-Công y kế. Quả nhiên nước Quắc cho người sang trách, hai bên gây sự bất hòa.Tấn Hiến-Công lại hỏi Tuân-Tức :— Nay phải đem lễ vật gì lo lót cho nước Ngu để mượn đường ?Tuân-Tức nói :— Việc này khá quan trọng, vì nước Ngu và Quắc lâu nay giao-hữu rất thâm-tình, nếu không dùng vật báu để mua lòng thì khó mà thành-công được. Xin Chúa-eông hãy hy sinh vài món quý báu trong cung mới được.Tấn Hiến-công nói:— Ý định của nhà ngươi thế nào cứ việc nói cho ta nghe.Tuân Tức thưa :— Vua Ngu thích nhất là ngọc quý và ngựa quý. Nay Chúa-công có ngọc Thùy-cúc và ngựa Khuất sản. xin đem hai món báu vật ấy trao cho Chúa nước Ngu tất thành công.Tấn Hiến-Công nói :— Hai thứ ấy là hai bảo vật quý giá của ta, lẽ nào lại đem dâng cho kẻ khác.Tuân-Tức nói :— Mượn đường đánh nước Quắc là việc lớn, nếu Chúa-công không dứt bỏ chút ít quyền lợi riêng thì sao thành công được. Vả lại, hễ mượn đường được thì Ngu và Quắc ắt về tay ta, ngọc và ngựa ấy có mất đi đâu mà sợ ? Chẳng qua chỉ tạm cho người khác giữ một thời gian đó thôi.Tấn Hiến-Công còn đang dụ, dự, quan đại phu Lý- Khắc nói ;— Nước Ngu có hai người tôi hiền là Chung Chi-Kỳ vá Bá Lý-Hề hai người ấy thông minh hiểu rộng, chắc gì để cho vua Ngu nhận lễ vặt ấy ?Tuân-Tức nói :— Vua nước Ngu là người tham lam, dù cho có hiền thần can gián vị tất đã nghe. Tấn Hiến-Công nghe theo, liền đem ngọc bích và ngựa giao cho Tuân-Tức đi sang hiến cho vua nước Ngu mượn đường đánh Quắc.Thoạt đầu vua nước Ngu nghe sứ thần nước Tấn sang mượn đường nổi giận la hét om sòm, nhưng đến lúc thấy ngọc tốt và ngựa quý lại đổi giận làm vui, hỏi Tuân-Tức:— Đó là những bảo vật của nước ngươi sao lại đem hiến cho ta ?Tuân-Tức nói:— Chúa công tôi mến lòng hiền hầu, nên mới đem những vật ấy mà dâng, nếu được hiền hầu thu nhận thì Chúa-công tôi không còn gì sung sướng hơn.Vua nước Ngu nói :— Thế thì quý quốc có muốn yêu cầu ta điều gì không ?Tuân-Tức nói :— Người nước Quắc thường hay quấy nhiễu bờ cõi nước tôi, Chúa-Công tôi muốn cho hai nước yên vui nên đã nhiều lần giao hòa. Thế mà nước Quắc vẫn sanh sự lôi thôi. Nay Chúa-Công tôi muốn mượn đường quý quốc để sang đánh nước Ọuắc. Hễ đánh được Ọuắc rồi thì bao nhiêu tiền của lấy được xin hiến quý quốc để cùng với quý quốc giao hảo.Vua nước Ngu tỏ ý mừng rỡ. Cung Chi-Kỳ bước ra nói :— Chúa Công chớ nên nghe. Xưa nay sở dĩ nước Tấn không dám lấn áp nước ta là vì nước ta giao hảo với nước Quắc, bảo vệ lấy nhau. Nay để mất nước Quắc thì nước Ngu sẽ bị mất. Vua nước Ngu nói : — Vua Tấn không tiếc đồ bảo vật đã đem hiến cho ta, lẽ nào ta tiếc một 1ối đi nhỏ hẹp mà không thuận ? Vả lại, thế lực nước Tấn mạnh hơn nước Quắc nhiều. Mất lòng nước Quắc mà được lòng nước Tấn thì hại gì ? Thôi, các ngươi chớ bàn bạc nhiều lời.Cung Chi-Kỳ toan nói nữa, nhưng thấy Bá Lý-Hề nháy nhó nên thôi, vội cúi đầu lui ra.Lúc bãi triều, Cung Chi-Kỳ hỏi Bá-Lý-Hề :—Việc như vậy sao ngài không cùng tôi can vua, lại nháy nhó không cho tôi nói ?Bá Lý-Hề nói:— Tôi thiết tưởng đem lời nói phải mà nói với người ngu chẳng khác nào đem ngọc vãi ra đường cái. Ngày xưa vua Kiệt giết Long Bàng, vua Trụ giết Tỷ- Can cũng chỉ vì hai người ấy cố tình can gián. Nếu ngài không chịu nghe lời tôi ắt nguy đến tính mạng.Chang Chi-Kỳ nói :— Thế thì đành để nước Ngu mất hay sao ? Bá Lý-Hề nói :— Thà để kẻ ngu chịu mất nước hơn là để người hiền phải thiệt mạng.Chung- Chi-Kỳ nói :— Như vậy chúng ta đi nơi khác còn hơn chứ ở Đây mà làm gì ?Bá Lý-Hề nói :— Ngài đi là phải, nhưng rủ thêm một người nữa cùng đi là có tội. Vậy cứ để tôi ở lại đây đã. Chung Chi-Kỳ bèn đem cả gia quyến ra đi. nhưng không ai biết đi đâu.Còn Tuân-Tức trở về nói với Tấn Hiến-Công:— Vua nước Ngu đã nhận báu vật vá hứa cho ta mượn đường rồi.Tấn Hiến-Công mừng rỡ toan cử binh đi đánh Quắc, Lý Khắc thưa :— Nước Quắc tuy đóng đô ở Thượng-dương nhưng Hạ-Dương lại là nơi hiểm địa. Lấy được Hạ-Dương tức là như đã lấy được nước Quắc rồi. Dầu tôi hèn mạt xin đảm đương cái việc nhỏ mọn ấy cho, nếu đánh không thắng tôi xin chịu tội.Tấn Hiến-Công liền khiến Lý-Khắc làm Chánh- tướng, Tuân-Tức làm phó tướng, đem quân qua nước Ngu mở đường đánh Quắc.Lý-Khắc tin cho vua nước Ngu biết ngày kéo quân đến. Vua nước Ngu ra đón tiếp và nói :-Quý quốc đem đồ quý bảo đến tặng nước tôi, nay tôi xin tình nguyện đem quân giúp sức.Tuân-Tức nói :— Hiền hầu đem quân theo giúp đâu bằng cho chúng tôi lấy đất Hạ-Dương ?Vua nước Ngu nói :— Hạ-Dương là đất của nước Quắc, do người –Quắc chiếm giữ, tôi làm thế nào được.Tuân-Tức nói:— Vua nước Quắc hiện tranh chiến với Khuyển- Nhung nơi đất Tang-Điền, chưa phân thắng bại, nay hiền hầu giả đem binh đến giúp nước Quắc, rồi để cho quân nước Tấn chúng tôi trà trộn vào mà lấy Hạ-Dương. Vua nước Ngu nghe lời giả cách đem quân sang giúp nước Quắc.Quan trấn thủ đất Hạ-Dương là Chu Chi-Kiều mở cửạ cho quân nước Ngu sang. Chẳng ngờ quân nước Tấn lộn vào đó, nên sau khi qua khỏi cửa thành, quân Tấn nổi dậy đánh rất dữ.Quân nước Quắc vỡ chạy tứ tán. Chu Chi-Kiều sợ vua nước Quắc bắt tội. phải xin đầu hàng nước Tấn.Lý Khắc và Tuân-Tức thừa thế kéo quân lấy đất Thượng-Dương.Vua nước Quắc đang ở đất Tang-Điền, hay tin Thương-Dương bị vây lập tức kéo quân về cứu, lại bị quân Khuyển-Nhung rượt theo đánh một trận tơi bời. Khi về đến Thượng-Dương. vua nước Quắc luống cuống không biết làm cách nào nữa. đành phải đóng cửa thành cố thủ.Chẳng bao lâu lương thực hết, quân sĩ đói khát, tình trạng rất nguy ngập. Biết không thể giữ thành được nữa, vua nước Quắc dẫn cả gia quyến bỏ trốn sang nhà Châu lánh nạn.Tuân-Tức và Lý-Khắc kéo quân vào thành chiêu an bá tánh, vơ vét kho tàng, bảo vật đem biếu cho vua Ngu. Vua Ngu lòng mừng không xiết.Kế đó Tuân-Tức một mặt cho người về nước báo tin cho Tấn Hiến-Công biết, môt mặt kéo quân sang đóng quân bên thành nước Ngu, giả đau dồn binh dưỡng bịnh. Vua nước Ngu ngỡ thật, cứ thỉnh thoảng sang thăm viếng.Cách một tháng sau, có tin Tấn Hiến-Công kéo binh đến, vua nước Ngu ngạc nhiên ra ngoài thành hỏi Tuân-Tức : — Chẳng hay Tấn hầu đem quân đến đây có việc gi ?Tuân-Tức nói :— Chúa-Công tôi sợ chưa đánh nổi nước Quắc nên đem binh sang cứu viện.Vua nước Ngu nói :— Ta đã có ý rnuốn hội kiến với Tấn hầu. nhưng chưa có dịp, nay Tấn hầu lại đến đây thì may mắn lắm.Nói xong vội vàng đem quân ra nghênh tiếp.Tấn Hiến-Công đẹp lòng. Hai vua ân cần tâm sự. Chưa bao lâu Tấn Hiến-Công tỏ ý mời vua Ngu đi săn bắn nơi núi Cơ-Sơn, vua Ngu muốn nhân cơ hội ấy pho diễn binh lực của mình, nên đem cả quân giáp sĩ trong thành ra đi.Vừa đến núi Cơ-Sơn, nghe tin trong thành nước Ngu phát hỏa, Tấn Hiến-Công nói :— Đó là dân chúng vô ý gây lửa cháy, chẳng bao lâu rồi cũng dập tắt được có chi mà sợ ?Quan Đại-phu nước Ngu là Bá Lý-Hề mật tâu :— Tôi nghe đồn trong thành có biến, xin Chúa công về ngay mới được.Vua Ngu vội vã xin phép Tấn Hiếu-Công trở về. nhưng về được nửa đường đã thấy dân trong thành bồng con, dắt vợ chạy trốn kêu khóc như ri.Vua Ngu thất kinh hỏi :— Tại sao thế ?Dân nước Ngu thưa :— Ọuân nước Tấn đã chiếm mất thành đô. Vua Ngu nổi giận kéo quân thẳng về thành đô. Vừa về đến nơi thấy một viên tướng Tấn đứng trên mặt thành nói lớn :—Ngày trước hiền hầu cho nước ta mượn đường thì nay cho nước ta mượn thành để đóng quân. Xin hiền hầu chớ buồn.Vua Ngu cả giận xua quân phá thành. Bên trong nổi lên một hồi trống tức thì trên thành tên bắn xuống như mưa Vua Ngu vội vã lui quân trở lại, bỗng có quân Tấn Hiến-Công kéo đến đánh dồn. Vua Ngu ngước mặt lên trời than :— Bởi ta không nghe lời can gián của Chu Chi Kỳ nên ngày nay phải mất nước.Nói xong ngoảnh lại thấy Bá Lý – Hề đứng bên cạnh, vua Ngu trách :—Sao trước đây ngươi không chịu can ta ? Bá Lý-Hề nói :— Chúa-Công không nghe lời Chu Chi Kỳ thì có khi nào Chúa-Công lại nghe lời tôi ? Tôi không can là ý muốn lưu lại cái thân này để theo hầu Chúa công lúc hoạn nạn.Vua nước Ngu chưa biết tính sao, xảy có Chu Chi-Kiều là quan nước Quắc vừa đầu hàng Tấn ngồi xe tiến đến. Vua Ngu trông thấy thẹn đỏ mặt. Chu-Chi Kiều nói :— Hiền hầu nghĩ lầm bỏ nước Quắc tôi đó là điều đáng tiếc. Tuy nhiên, việc đã qua không nhắc đến mà chi, nay nước Ngu đã mất, hiền hầu nghĩ gì mà không đầu Tấn ? Vả chăng Tấn Hiến-Công là một kẻđại lượng, sẽ không đối xử tệ bạc với hiền hầu đâu.xin chớ ngại. Vua Ngu chưa biết nói sao. Kế có người vâng mệnh Tấn Hiến-Công đến mời vua Ngu hội kiến. Vua Ngu bất đắc dĩ phải tuân lời.Tấn Hiến-Công tiếp đón vua Ngu và nói:— Tôi đến đây chỉ đòi lại ngựa quý và ngọc bích. Nói xong cùng với vua Ngu vào thành. Bá Lý-Hề đi theo vua Ngu hầu hạ.Có người thấy thế nói :— Sao nhà ngươi không bỏ đi còn theo làm gì ?Bá Lý-Hề nói :—Ta làm quan ăn lộc nước Ngu đã lâu, nay cốtheo để đền ơn.Tấn Hiến-Công vào thành nước Ngu. Tuân-Tức ra nghênh đón, tay trái cầm bích ngọc, tay phải dắt ngựa nói :— Ngày nay mưu kế tôi đã thành vậy xin đem ngựa và ngọc quý trao lại cho Chúa-Công.Tấn Hiến-Công rất đẹp lòng, lại muốn bắt vua Ngu giết đi.Tuân-Túc thưa :—Vua nước Ngu là người ngu, giết mà ích chi ? Tấn Hiến-Công khen phải, tiếp đãi tử tế, rồi tặng cho một viên bích ngọc và một con ngựa khác nói:— Ta không dám quên ơn đã mượn đường sang đánh nước Quắc.Đoạn phong cho Chu Chi – Kiều làm quan Đại- phu. Chu Chi-Kiều biết Bá Lý-Hề là người hiền nên tiến cử với Tấn Hiến-Công. Tấn Hiến-Công sai người đến dụ Bá Lý-Hề nói :— Bao giờ Chúa công tôi mãn đời, tôi mới phò vua khác.Chu Chi-Kiều nói:— Không chịu làm quan, phò kẻ mất nước mà ích gì ?Bá Lý-Hề cười lớn nói:— Dẫu muốn làm quan cũng không thể làm quan nước địch.Câu nói ấy làm cho Chu Chi-Kiều chạm tự ái bỏ về. thưa lại vởi Tấn Hiến-Công.Nhận xét: Đoàn kết là sống, chia rẽ là chết. Ngu và Ọuắc, hai nước láng giềng, tuy là nước nhỏ nhưng biết cùng nhau tương thân tương trợ thì trở thành một lực lượng bất khả xâm phạm, khiến cho các cường quốc phải kính vì.Đoàn kết là một sức mạnh đáng kể, xưa nay ai cũng trông thấy điều ấy.Chỉ có đoàn kết mới tạo cho mình một thế đứng, không sợ kẻ mạnh ăn hiếp.Ở đây chúng ta thấy vua Ngu ngu thật, ham báu vật nhỏ nhen để cho mất nước.Thói thường, không một cường quốc nào chịu cầu thân hay giúp đỡ một nhược tiểu mà không có ý lợi dụng, cũng như không có một ông nhà giàu nào lại giúp đỡ không cho một nông phu mà không có một dụng ý nào về quyền lợi riêng mình. Ấy vậy, dù mình là một kẻ nghèo, dù mình là một nhược tiểu, khi nhận ân huệ của một kẻ nào, nhất định phải đề phòng lòng tử tế của họ.Đừng cho rằng mình lợi dụng họ. Kẻ nghèo không bao giờ lợi dụng người giàu được đâu, cũng như một nước nhược tiểu không bao giờ lợi dụng một nước cường quốc được đâu, mà chỉ giữ sao cho người khác, nước khác đừng lợi dụng mình là tốt rồi.Thời này cũng không thiếu gì hạng người như vua Ngu, đã ngu mà lại cho mình là khôn.Những kẻ ấy chẳng khác nào vua Ngu, chỉ khi nào thiệt hại đã đến trước mặt họ mới trông thấy. còn lúc chưa mất nước họ chỉ thấy trước mắt họ chỉ toàn tiền bạc báu vật vậy thôi. | |
| | | Tri Âm Quán Thành Viên Tích Cực
Tổng số bài gửi : 6340 Reputation : 2 Join date : 31/07/2013 Đến từ : Thị Trấn Chũ
| Tiêu đề: Re: ÔN CỐ TRI TÂN (tập 1) Fri Aug 25, 2023 7:43 pm | |
| BÁ LÝ-HỀ VỚI BƯỚC ĐƯỜNG CÔNG DANH Đời người hơn nhau chỉ ở chỗ lập chí. Bá Lý – Hề vốn là người nước Ngu, tên tự là Tinh Bá. lúc nhỏ nghèo khổ, ba mươi tuổi mới lấy nàng Đỗ thị làm vợ, sinh đặng một người con trai. Trong cảnh túng thiếu ấy, Bá Lý-Hề muốn lập công danh, song vợ con đơn độc, không biết nhờ cậy ai. Vì vậy cứ nhú nhứ mãi không thể đứt tình. Đỗ thị thấy vậy thưa : Thiếp nghe nói làm trai phải lập chí, nay phu quân không tìm công danh, cứ vướng vào gia đình biết bao giờ làm nên đại sự. Thân thiếp tuy yếu đuối nhưng cũng kiếm ăn được, xin phu quân đừng ngại. Nói xong Đỗ thị bắt con gà mái đang ấp đem đi làm thịt để tiễn chân Bá Lý-Hề. Nhà hết củi, Đỗ thị phải chẻ phên làm củi, nấu một nồi cơm gạo đỏ, bưng cho Lý Bá Hề. Bá Lý-Hề ăn xong từ giã vợ con ra đi. Đỗ thị tay ẵm con, tay níu áo chồng nói : — Lúc phú quý xin chớ phụ nhau. Bá Lý-Hề sang Tề, muốn xin yết kiến Tề Tương- Công nhưng không ai tiến dẫn, đành phải đi ăn xin nơi đất Diệt (thuộc nước Tề) trong thời gian khá lâu. Lúc đó Bá Lý-Hề đã bốn mươi tuổi. Một hôm lang thang trong thôn dã. Bá Lý-Hề gặp một người tên Kiền-Thúc, tính hiền hậu, có dạ thương người. Kiền- Thúc thấy Bá Lý-Hề tướng mạo khôi ngô lấy làm lạ hỏi : -Người như ngươi lẽ nào đến nỗi phải ăn xin ? Bá Lý-Hề nói : — Không gặp vận không thể ngồi không mà có cơm ăn được. Kiền-Thúc mời Bá Lý-Hề về nhà làm cơm thiết đãi, rồi lưu lại trong nhà kết làm anh em. Kiền-Thúc hơn Bá Lý Hề một tuổi nên Bá Lý-Hề gọi Kiền-Thúc bằng anh. Kiền-Thúc nhà cũng nghèo nên Bá Lý-Hề phải đi chăn trâu thuê cho người trong làng để Sinh sống. Đến lúc Công-tử Vô-Tri giết Tề Tương-Công lên ngôi, treo biển cầu hiền. Bá Lý-Hề muốn ra làm quan, Kiền- Thúc nói : — Tiên quân còn một người con trốn đi nước khác, nay Vô-tri cướp ngôi ắt không giữ được lâu. Bá Lý-Hề nghe theo không tính chuyện ra làm quan nữa. Kế đó nghe Vương tử-Đối nhà Châu thích chơi trâu, những người nuôi trâu được ăn lương rất hậu. Bá Lý-Hề nói với Kiền-Thúc Xin qua nhà Châu tìm cơ hội. Kiền-Thúc nói : — Kẻ trượng phu không nên khinh thường đem thân giao cho kẻ khác. Nếu làm quan với người ta đến khi hoạn nạn lại bỏ đi là bất trung, không bỏ đi là bất trí. Em có đi phải cẩn thận trong việc đó mới được. Lúc nào anh thu xếp xong việc nhà sẽ vào kinh đô nhà Châu để thăm em. Bá Lý-Hề vào nhà Châu yết kiến Vương-tử Đối nói về cách nuôi trâu Vương tử- Đối mừng lắm, toan dùng Bá Lý Hề làm gia nhân. Gặp lúc Kiền-Thúc đến thăm, Bá Lý-Hề đem Kiền-Thúc vào yết kiến Vương- tử- Đối, sau khi ra về Kiền-Thúc nói với Bá Lý-Hề : — Vương từ Đối chí lớn nhưng bất tài, lại gần gũi với kẻ nịnh tất có ngày hư việc lớn. Chi bằng chúng ta bỏ đi là hơn. Bá Lý-Hề nói : — Em xa cách quê hương đi lâu ngày, nay trở về nước Ngu thăm vợ con có được chăng ? Kiền-Thúc nói : — Nước Ngu có một người tôi hiền là Cung Chi-Kỳ, người ấy quen biết với anh, nay em về nước Ngu thì anh cũng đi với, qua đó thăm Cung Chi-Kỳ luôn thể. Nói xong, bèn cùng Ba Lý-Hề trở về nước Ngu Lúc bấy giờ vợ Bá Lý-Hề là Đỗ-thị, vì nghèo quá không gì nuôi sống, phải lưu lạc tha phương, không rõ đi về đâu. Bá Lý-Hề không thấy mặt vợ con thương xót vô cùng. Kiền-Thúc vào yết kiến Cung Chi Kỳ thuật chuyện Bá Lý-Hề là người hiền tài, đề nghị tiến cử với vua nước Ngu. Vua nước Ngu cho đòi Bá Lý-Hề vào cho làm quan Đại-phu. Kiền-Thúc nói : -Ta xét Thấy vua nước Ngu là người thiếu kiến thức mà tự đắc thì không phải vua hiền vậy. Bá Lý-Hề nói : — Em lâu nay nghèo khổ, có khác nào như cá mắc cạn đang chờ để dưỡng thân, dẫu chưa phải vua hiền cũng cứ tạm dung thân đã. Kiền-Thúc nói : — Vì nghèo khó mà em phải ra làm quan, anh không thể nào ngăn em được, nhưng mai sau em có đến thăm, em cứ đến làng Minh –Lộc nước Tấn, nơi ấy phong cảnh tịch mịch nên anh có ý định ở đấy. Nói xong Kiền-Thúc từ giã. Bá Lý-Hề ở lại làm quan nước Ngu. Ngày tháng trôi qua, chẳng bao lâu nước Ngu mất, Bá Lý-Hề không nỡ bỏ đi, cứ quanh quẩn phàn nàn một mình. — Tiếng bất trí ta đã mang lấy, thì có lẽ nào còn gánh chịu chữ bất trung nữa. Lúc bấy giờ Bá-Cơ sang nước Tấn. Tấn Hiến- Công sai Bá Lý-Hề đi theo hầu. Bá Lý-Hề than: — Tài của ta mà không được đấng minh quân để thi thố, cứ mãi đi hầu hạ người ta, có khác gì tên đầy tớ thì còn gì nhục bằng. Tuy nhiên lệnh vua không thể không tuân. Vừa đi được nửa đường. Bá Lý-Hề tìm cách trốn sang nước Tống, nhưng đường bị nghẽn nên lại qua nước Sở. Đến đất Uyển-thành (đất nước Sở) Bá Lý-Hề gặp một người đi săn trông thấy tướng mạo của Bá Lý- Hề ngỡ là quân phiến loạn nên bắt trói lại. Bá Lý-Hề điềm tĩnh nói : — Nước Ngu của tôi bị thất thủ nên tôi phải trốn đến đây. Người đi săn hỏi : — Nhà ngươi có biết làm nghề gì ? Bá Lý Hề đáp : — Tôi có tài nuôi trâu. Người đi săn cởi trói cho Bá Lý-Hề và đem về cho nuôi trâu. Bá Lý-Hề nuôi trâu rất mau lớn và rất đẹp, mọi người đều khen tặng. Tiếng ấy đến tai vua nước Sở. Nhà vua bèn triệu Bá Lý- Hề vào hỏi : —Nhà ngươi nuôi trâu cách nào mà béo tốt như vậy ? Bá Lý-Hề tâu : — Cho ăn có điều độ, không bắt nó làm quá sức, luôn luôn chăm sóc không bỏ quên nó. Vua Sở nói : — Nhà ngươi nói rất phải. Không riêng việc nuôi trâu phải như vậy mà nuôi ngựa cũng cần phải thế. Bá Lý-Hề được vua Sở cho làm chức Ngừ-nhân sai ra xứ Đông-hải chăn ngựa. Một hôm Tấn Mục Công ngồi xem sổ kiểm điểm những người theo hầu Ba-Cơ, thấy trong sổ có tên Bá Lý-Hề mà không thấy người, lấy làm lạ liền gọi Công-tử Trí hỏi : — Tên Bá Lý Hề trong sổ theo hầu Bá-Cơ do nước Tấn gửi sang tại sao không thấy người ấy công tử Trí thưa : —Trước đây Bá Lý Hề là bề tôi của nước Ngu nhưng hiện giờ đã trốn đi rồi. Tấn Mục-Công bảo công Tôn-Chi : — Nhà ngươi lúc trước có ở nước Tấn, chắc cũng biết Bá Lý Hề là người thế nào chứ? Công Tôn-Chi thưa : — Bá Lý-Hề là người hiền. Biết vua nước Ngu không thể can nên không nói đến, là người trí, theo vua nước Ngu sang nước Tấn song không chịu phò Tấn ấy là người trung; Kẻ có tài như vậy mà chưa gặp được cơ hội cũng phải đành chịu. Tần Mục Công nói : — Nếu ta dùng được Bá Lý-Hề thật là may lắm. Công Tôn Chi thưa : -Tôi được nghe đồn vợ con Bá Lý-Hề hiện cư trú tại nước Sở, chắc Bá Lý Hề trốn sang nước đó, Vậy ta sai người sang nước Sở tìm hiểu tin tức. Tần Mục- công liền sai người đi tìm. Trong thời gian dò hỏi, người ấy đã hiểu được rõ ràng nên về tâu lại với Tần Mục-Công : Bá Lý Hề chăn ngựa cho vua nước Sở, hiện nay ở tại xứ Nam hải. Tần Mục-Công nói : — Ta muốn cho người đem lễ vật sang xin rước về, không biết vua Sở có thuận chăng ? Công Tôn-Chi thưa: — Đem lễ vật chưa chắc nước Sở đã chịu cho Bá Lý Hề về. Tần Mục Công hỏi : —Tại sao ? Công Tôn Chi thưa : —Vua nước Sở dùng Bá Lý-Hề chăn ngựa tức không biết Bá Lý-Hề là kẻ hiền, nay Chúa-công đem lễ vật sang, chẳng khác nào bảo cho vua nước Sở biết Bá Lý-Hề là hiền sĩ. Chi bằng lấy cớ Bá Lý-Hề trốn đi, nay chuộc về để trị tội, ấy là kế của Quản-Trọng ngày xưa đánh lừa nước Lỗ mà thoát thân đó. Tần Mục-Công khen phải rồi sai người đem bộ da dê biếu cho nước Sở mà nói : —Nước tôi có một kẻ tiện nhân trốn sang quý quốc tên là Bá Lý-Hề, Chúa-Công tôi muốn bắt đem về trị tội để làm gương, nên gửi biếu quý quốc năm tấm da dê để xin chuộc phạm nhân. Vua Sở sợ mất lòng vua Tần liền sai bắt Bá Lý- Hề giao trả. Thấy Bá Lý-Hề bị bắt mọi người đều có ý thương xót, lại có kẻ ứa nước mắt buồn cho số phận long đong, nhưng Bá Lý-Hề mỉm cười nói : —Tôi nghe vua nước Tần có chí lớn, từng mưu đồ đại sự, một người như vậy đâu thiết gì một kẻ theo hầu mà bắt tội. Đây chắc vua Tần muốn đem tôi về để dùng, vậy các bạn chớ buồn bã làm gì. Nói xong dõng dạc bước vào tù xa để quân sĩ giải về nước Tần. Vừa về đến nơi đã thấy Công Tôn-Chi được lệnh Tần Mục Công ra tận biên ải đón rước để triệu vào triều yết kiến. Tần Mục-Công hỏi Bá Lý Hề : — Năm nay nhà nguơi đã bao nhiêu tuổi ? Bá Lý-Hề nói : — Tôi đã hơn bảy mươi tuổi. Tần Mục-Công thở dài nói : — Đáng tiếc thay tuổi nhà ngươi đã quá cao. Bá Lý-Hề nói : — Nếu là việc lên rừng bắt hổ, xuống biển chèo ghe thì tuổi già thật, nhưng nếu bàn về việc chính trị, luận việc phải trái ở đời thì tuổi tôi vẫn còn trẻ lắm Ngày xưa ông Lã Vọng hơn tám mươi tuổi đầu đi câu cá ở sông Vị, vua Văn-Vương đem về làm Thượng- phu rồi giúp nên cơ nghiệp nhà Châu Nay tôi gặp Chúa-công thiết tưởng còn sớm hơn ông Lã-Vọng đến mười tuổi. Tần Mục-Công nghe Bá Lý-Hề nói khí khái như vậy có ý kính trọng, hỏi tiếp : —Nay nước ta tiếp giáp Nhung Dịch là một nước bất tuân Vương mạng, thường quấy rối, thế thì ta phải làm sao cho nước Tần cường thịnh ? Bá Lý-Hề nói: — Nếu Chúa-công không khinh tôi là kẻ bất tài, hỏi đến tôi đâu dám tiếc lời. Đất Ung-Kỳ là nơi hiểm yếu trước kia Văn Vương, Võ-Vương cũng đều dùng nơi đó để lập nghiệp, thế mà nay nhà Châu không biết, cắt cho nước Tần ấy là lòng trời muốn cho nước Tần dựng nghiệp Bá. Vả lại, phía tây nầy có hơn vài mươi nước nhỏ, các nước đó rất lợi hại cho ta. Lúc chưa chinh phục họ là hạị, vì họ sẽ đem quân quấy rối làm cho nước ta bất an, nhưng nếu lúc chinh phục được họ thì nước ta sẽ nắm trong tay một sức nạnh oai hùng, có thể dùng chinh phục được Trung Nguyên nữa. Tần Mục-Công nghe nói như người chiêm bao mới tỉnh, đứng dậy xá Bá Lý-Hề một cái nói : —Ta được nhà ngươi giúp sức khác nào nước Tề được Quản-Trọng. Tần Mục-Công cùng với Bá Lý Hề nói chuyện với nhau trong ba ngày mà không biết chán, Bá Lý- Hề được phong làm chức Thượng-Khanh quyền bính trong nước đều tự lo liệu, vì vậy người ta gọi là “Ngữ- cổ Thượng-Khanh” Bá Lý-Hề đang là kẻ chăn trâu mà được Vua Tần trọng dụng, phong chức lớn như vậy, ai lại không ngạc nhiên. Được ra làm quan, Bá Lý-Hề không quên Kiền- Thúc, liền giới thiệu với Tần Mục Công rước về dùng. Còn vợ Bá Lý-Hề, từ khi bỏ nhà ra đi, lưu lạc khắp nơi, để tìm kế sinh nhai. Sau đó nàng đem con sang nước Tần làm nghề giặt thuê. Con trai Bá Lý-Hề tên là Thi, tự Mạnh-Minh. không được dạy dỗ, lớn lên lêu lổng, thích theo người đi săn bắn, chẳng lo làm ăn gì cả. Đỗ thị đem lời khuyên bảo,nhưng Mạnh-Minh không nghe. Đến lúc Bá Lý Hề làm quan Thượng- Khanh nước Tần Đỗ thị hay tin, nhưng phận mình nghèo khổ không dám ra mặt, lại đã ba lần trông thấy Bá Lý-Hề ngồi xe, mão cao áo dài đi ngang qua đó, nhưng nàng vẫn không dám ra nhận là chồng. Bấy giờ trong dinh Bá Lý-Hề cần một người giặt thuê Đỗ thị tình nguyên vào giặt. Nàng làm việc rất chăm chỉ, người nhà ai cũng thương, song chưa lần nào được gặp mặt chồng. Một hôm, Bá Lý Hề ngồi nơi thư trang, các phường nhạc đến hát dưới thềm Đỗ thị nói với người nhà : — Tôi cũng biết hát xướng, xin cho tôi đến dưới thềm để đàn hát vài bài. Người nhà đưa Đỗ-thị đến dưới thềm, Đỗ-thị nói với các phường nhạc : — Xin các ông cho tôi thưởng thức một vài tài nghệ của các ông. Các phường nhạc hỏi : — Trong các môn âm nhạc, nàng có biết thứ nào chăng ? Đỗ-thị nói : —Tôi cũng biết tập tễnh gảy đàn và biết hát nữa. Các phường nhạc nghe nói đắc ý đưa cho Đỗ-thị một cây đàn. Đỗ-thị cầm đàn gảy. Tiếng đàn nghe ai oán não nề. Các phường nhạc khen hay, vỗ tay tán thưởng, lại bảo Đỗ-thị hát lên một bài nghe chơi. Đỗ-thị nói : —Từ khi tôi đến đây chưa từng cất tiếng hát bao giờ, nay tôi vào thư trang hát hầu quan Thượng- Khanh một bài chẳng biết có được không ? Các phường nhạc thưa lại với Bá Lý-Hề. Bá Lý-Hề chấp thuận. Đỗ Thị cầm đàn khép nép bước lên, rồi phíêm tơ réo rắt. Lẫn với giọng hát du dương : Hát rằng : Bá Lý-Hề Năm bộ da dê ! Nhớ ngày ly biệt, Mổ gà mái ấy, Nấu nồi cơm vàng .,, Tình thiết tha. Nay phú quý . . Nỡ đành quên nhau. Bá Lý Hề.... Năm bộ da dê ! Cha ăn thịt Cá, Con đói khóc dài, Chồng mặc áo gấm, Vợ giặt thuê hoài. Nay phú quý . . . Nỡ đành quên nhau.... Bá Lý-Hề ... Năm bộ da dê ! Nhớ ngày xưa, Chàng ra đi Nặng dòng ly biệt ... Bày giờ chàng ngồi đó Thiếp chẳng dám gần. Nỡ quên nhau sao ? Bá Lý-Hề nghe câu hát ngạc nhiên vội đến hỏi, thì ra là vợ mình khi trước bèn ôm lấy khóc òa. Đoạn hỏi đến đứa con, Đỗ-thị thưa : — Thằng nhỏ ấy theo người trong xóm đi săn bắn. Bá Lý-Hề sai người đi kêu đến, vợ chồng con cái một nhà đoàn viên. Nhận xét: Kẻ có thực tài, dù muộn màng đi nữa, cũng không thể đời không biết đến. Kẻ có chí, dù công danh muộn màng cũng chưa gọi là trẻ. Tài năng và chí hướng của con người thường bị hoàn cảnh xã hội chi phối, làm cho tài năng phải mai một, chí hướng phải lu mờ. Trường hợp Bá Lý-Hề tượng trưng cho lớp người có tài, có chí nhưng bước đường lập thân lận đận mãi vì cảnh gia bần. Người ta thường nói : “muốn lập thân trước hết phải lập chí” Câu nói ấy có nghĩa là phấn đấu, xem thường mọi gian nan khổ cực để đưa mình đến chỗ thành công. Trong đời, không một thành công nào mà không gặp gian nan, chỉ trừ những trường hợp may mắn ngoài dự tính của con người. Gian nan làm cho người nhụt chí nhưng kẻ có chí lại coi thường gian nan. Cho nên, ở đời mọi việc chỉ hơn nhau ở chỗ có chí hay không có chí mà thôi. Không ai phủ nhận sinh họat xã hội con người là cái khó khăn chi phối mọi khả năng và ý thức của con người. Như Bá Lý-Hề, không phải là người bất trí, không biết vua Ngu là kẻ ngu, nhưng vì hoàn cảnh quá cơ cực phải đem thân phò một người ngu, sống tạm cho qua ngày. Đó gọi là những hoàn cảnh bức bách mà đời sống con người phải quyền biến. Mang chí lớn trong lòng, nhưng thân mình vẫn quanh quẩn với bát cơm manh áo, đầu tắt mặt tối mà vợ con vẫn nheo nhóc đói rách thì còn biết làm thế nào ? Và đây cũng lá những trường hợp thường có trong dân gian thời xưa cũng như thời nay. Bá Lỳ-Hề có chí lập thân, lại được một bà vợ đảm đang, biết điều, dám cắt tình âu yếm, để cho chồng cất bước tiến thân .. Với một con gà mái ấp, một nồi cơm gạo đỏ cũng đủ khuyến khích chồng trong lúc hàn vi, và kết chặt mối tình trong lúc chia phôi tưởng như thế dù anh chồng có gặp bước phong ba bão tố trong đường công danh cũng có thêm được một sức mạnh để tiến thân vậy. Đáng kể là tấm lòng chung thủy của Bá Lý-Hề. Thói thường trong thiên hạ : “giàu đổi bạn, sang đổi vợ ». Thế mà Bá Lý-Hề trong thuở hàn vi cũng như lúc cao sang phú quý, một lòng chung thủy với vợ con, bạn bè, không hề thay đổi. Kiền-Thúc, một người bạn tâm giao trong lúc nghèo nàn, vừa mới ra làm quan với nước Tần, Bá Lý-Hề bền lòng chờ đợi chồng nhớ ngay đến tri kỷ, vội giới thiệu để tiến cử Đỗ-thị, một người vợ xa cách hàng bốn mươi năm để theo đuổi công danh, thế mà vẫn một lòng ấp ủ mối tình ấy cho đến ngày gặp gỡ không có một tà tâm nào. Bá Lỳ-Hề là một tấm gương sáng cho đời nay, đối với những ai thiếu chí hướng và bội bạc. Đời nay, lắm người khi còn nghèo khổ thì nhờ đờ bạn bè, hù hỉ với vợ con, vui với gia đình trong thanh bạch, đến lúc có một địa vị nào đó lại xem bạn bè mình trước kia chẳng ra gì, đến nỗi gặp mặt cũng không muốn nhìn, đổi bạn, đổi vợ, làm lắm chuyện bội bạc, Những hạng người như vậy đâu còn biết gì cái nghĩa thủy chung trong xã hội. | |
| | | Tri Âm Quán Thành Viên Tích Cực
Tổng số bài gửi : 6340 Reputation : 2 Join date : 31/07/2013 Đến từ : Thị Trấn Chũ
| Tiêu đề: Re: ÔN CỐ TRI TÂN (tập 1) Wed Sep 06, 2023 7:19 pm | |
| KIỀN-THÚC VƠI BẢN LĨNH KẺ ANH HÙNG Đấng trượng phu không nên khinh thường danh tiết của mình. Khi đã đem thân phò kẻ nào phải đắn đo, suy nghĩ kỹ nếu vì bất ý, không lựa đúng người để đến lúc họ hoạn nạn mình bỏ họ đi là bất trung, còn nếu không bỏ đi là bất trí. Kiền Thúc người đất Diệt, nước Tề. Một hôm gặp Bá Lý Hề đi xin ăn, ngắm tứơng mạo khác thường, hỏi : — Tôi xem anh không phải là người bất tài đến nỗi phải ngửa tay sống trên Sự bố thí của thiên hạ, tại sao lại làm cái nghề này ? Sau khi đã thấu rõ sự tình bèn đem Bá Lý Hề về nuôi rồi kết bạn tâm giao. Nhà Kiền Thúc cũng nghèo, nên Bá-Lý-Hề phải đi chăn trâu thuê cho ngưòi trong xóm. Lúc bấy giờ công-tử Vô-Tri mưu giết Tề Tương- Công, đoạt ngôi vua và treo bản cầu hiền, Bá Lý-Hề toan ra làm quan, nhưng Kiền-Thúc can : — Tề Tương-Công còn có con là Củ và Tiểu Bạch ở nước ngoài. Vô Tri phản loạn cướp ngôi, sự nghiệp không giữ được lâu Quả nhiên như lời nói của Kiền-Thúc, chẳng bao lâu Công-tử Tiểu-Bạch gìanh lại ngôi nước Tề, dùng Quản Trọng làm Tể Tướng. Sau nghe Vương-tử Đối nhà Châu chọn người nuôi trâu, Bá Lý-Hề sang giúp. KiềuThúc bảo : Đấng trượng phu không nên khinh thường, không nên không đắn đo suy nghĩ trước khi đem thân phò một người nào. Nếu đã theo mà đến lúc người ta hoạn nạn lại bỏ đi là bất trung, nếu không bỏ đi là bất trí. Em đi lần này phải nên thận trọng lắm mới được. Anh thu xếp việc nhà rồi cũng sang nhà Châu thăm em. Sang Châu, Bá Lý-Hề trình bày thuật nuôi trâu . Vương-tử Đối rất hài lòng, và sắp phong cho Bá Lý-Hề làm quan. Kiền-Thúc lúc đó cũng vừa đến nơi, được Bá Lý- Hề giới thiệu vào yết kiến Vương-tử Đối. Lúc trở ra Kiền- Thúc bảo Bá Lý Hề : Vương-tử Đối là người có ước vọng lớn, nhưng thiếu tài, lại thường giao du với kẻ nịnh, sớm muộn sự nghiệp cũng đổ vỡ Thế là hai anh em cùng bỏ nhà Châu sang nước Ngu. Sau khi yết kiến vua Ngu. Kiền-Thúc nói : — Anh xem vua Ngu là người kiến thức hẹp hòi. lại hay tự đắc, như vậy không phải là một ông vua hiền. Bá Lý Hề vì nghèo Khổ lâu ngày, nằn nằn ở lại làm quan cho qua buổi cơ cực. Kiền-Thúc nói : — Vì nghèo khổ , buộc lòng em phải ở lại làm quan, anh không thể ngăn em được. Mai sau nếu muốn thăm anh, em nên tìm đến làng Minh-lộc thuộc nước Tống, nơi đó tĩnh mịch, anh sẽ đến cư ngụ. Đoạn anh em từ giã. Quả nhiên vua Ngu vì kiến thức hẹp hòi đến phải mất nước. Bá Lý-Hề lưu lạc sang Sở rồi được rước về Tần. Tần Mục Công trọng dụng, phong cho Bá Lý-Hề làm Thượng-Khanh. Bá Lý-Hề không quên nghĩa cũ, liền cử Kiền- Thúc với vua Tần : — Tôi có người anh là Kiền-Thúc, tài trí hơn tôi gấp mấy lần. Nếu được người ấy nắm quyền Tể-tướng, Còn tôi phụ giúp thì dẫu không muốn Tần cũng nắm ngôi bá chú thiên hạ. Tần Mục-Công hỏi ; — Tài trí người ấy như thế nào ? Bá Lý-Hề thưa : Nguyên khi trước tôi định theo Công-tử Vô-Tri nước Tề, được Kiền-Thúc can, nên tôi bỏ Tấn mà thoát khỏi tai nạn. Sau đó tôi định giúp Vương-từ Đối nhà Châu, Kiền-Thúc cũng can, nhờ vậy tôi bỏ Châu, thoát được tai vạ. Tôi lại sang nước Ngu, Kiền- thúc cũng can, nhưng lần này tôi không nghe lời, cố ở lại làm quan, cho nên bị tù đầy suýt chết Thì ra hai lần trước tôi nghe lời Kiền-Thúc mà tròn danh-tiết, lần sau tôi cãi lại mà gần vong thân. Tần Mục-Công hỏi : — Kiền-Thúc hiện giờ ở đâu ? Bá lý-Hề nói : — Hiện Kiền-Thúc nhàn cư nơi thôn Minh-lộc, nước Tống. Tần Mục-Công liền cho người đến triệu Kiền-Thúc về đàm đạ0. Kiền-Thúc yết kiến vua Tần, nói : — Tần chưa hưng vượng là vì chưa có uy đức mà thôi. Không có uy thì người không kiêng phục, không có đức thì người không mến. Không được người ta kiêng mến thì làm bá chủ thế nào được ? Tần Mục-Công hỏi : — Uy và đức điều nào nên làm trước ? Kiền-Thúc nói : — Đức là gốc, nhưng đức phải có uy giúp vào. Vì vậy hai việc tương quan, thường đi đôi với nhau. Tần Mục-Công hỏi : — Ta muốn sửa đức lập uy thì phải làm sao ? Kiền-Thúc thưa : — Tùy theo tình hình, phong tục mỗi nước mà thực hiện uy đức. Như nước Tần, phong tục còn man rợ, không biết lễ nghĩa, nay phải dùng lễ nghĩa dạy dân, cho dân biết tôn kính kẻ trên, thương người dưới, lấy nhân làm gốc. Đồng thời với việc giáo dục phải đặt ra hình phạt. Có giáo dục thì dân mới biết ơn, hình phạt thì dân mới biết sợ. Làm được như vậy tự nhiên trong nước sẽ có uy quyền. Tần Mục-Công hỏi : — Cứ theo lời của khanh, ta có thể trở thành bá chủ chư hầu được chăng ? Kiền-Thúc thưa : — Như thế cũng chưa đủ. Phải có thêm ba điều Kiện nữa : Chớ nên tham, chớ nên tức giận, chớ nên vội vàng. Tần Mục-Công hỏi : Ba điều kiện ấy quan hệ với việc kiến quốc như thế nào ? Kiền-Thúc nói : Hễ tham lam thì tạo cho mình nhiều lỗi lầm, hễ tức giận thì tạo nhiều khó khăn, hễ vội vàng thì gặp nhiều thất bại. Nếu Chúa Công biết đến ba điều ấy có thể làm bá chủ Chư hầu được. Tần Mục Công khen phải, hỏi Kiền-Thúc : — Tiên-sinh xét thử nước ta ngày nay cần làm việc gì trước ? Kiền-Thúc nói : Hiện nay Tề-Hầu già yếu, công việc nhà nước mỗi ngày một suy kém, nếu Chúa công thu phục được các nước Nhung-Dịch, lấy đó dùng làm sức mạnh tiến vào Trung-nguyên, dùng nhân nghĩa chữa những lỗi lầm của Tề -Hầu thì còn ai tranh được ngôi bá chủ nữa ? Tần Mục Công đắc ý nói : — Tiên-sinh và Bá Lý Hề quả là bậc cao kiến trong thiên hạ. Liền phong cho Kiền-Thúc làm Hữu Thứ-trưởng Bá Lý-Hề làm Tả Thứ-trưởng. Cả hai cùng giữ chức Thượng Khanh lo việc binh chánh. Nhận xét: | |
| | | Tri Âm Quán Thành Viên Tích Cực
Tổng số bài gửi : 6340 Reputation : 2 Join date : 31/07/2013 Đến từ : Thị Trấn Chũ
| Tiêu đề: Re: ÔN CỐ TRI TÂN (tập 1) Mon Sep 11, 2023 7:56 pm | |
| DO-DƯ, MỘT NHÂN TÀI THIẾU ĐỨC — Thấy ai mạnh hùa vào, không kể đến tiết khí của con người thì không phải là người hiền. Do-Dư là người hiền nước Tấn, ở Tấn đã lâu nhưng không ai tiến cử, mà cũng chẳng ai dùng, nên bỏ sang nước Tây-Nhung và được phong làm quan to. Bấy giờ quan Tể-tướng nước Tần là Bá Lý-Hề biết Do-Dư là người hiền, cho người đến triệu, nhưng đã trễ, vì Do-Dư đã sang nước Tây-Nhung rồi. Vua nước Tây-Nhung là Xích-Ban thấy nước Tần cường thịnh, liền sai Do-Dư đem lễ vật sang yết kiến Tần Mục-Công để dò xét tình hình. Do-Dư đến nơi, Tần Mục-Công tiếp đón rất niềm nở , đoạn dắt đi xem tất cả các cung điện, vườn tược vừa mới sửa sang. Do-Dư nói : — Những công trình quý quốc trông đçp mắt thực, song chẳng ích gì cho việc trị nước mà chỉ phô bày những khổ cực của dân. Tần Mục-Công nghe nói cười lớn : — Nước Tây-Nhung không có lễ nhạc pháp độ gì cả thi lấy gì trị nước? Do-Dư nói : Lễ nhạc, pháp độ chỉ là cái đặt ra để bó buộc, bắt mọi người tùng phục mình. Chính vì vậy mà mọi người oán hận, gây ra cuộc chiến tranh, chém giết lẫn nhau. Nước Tây-Nhung chúng tôi không cần những thứ ấy, người trên lấy nhân nghĩa tìếp đãi nguời dưới ; người dưới lấy trung tín phụng thờ người trên. Kẻ trên người dưói không tạo ra một hình thức nào cả. Bởi vì lễ giáo là một phương diện tinh thần, không phải hình thức. Bao giỡ lễ giáo không còn đặt ra những hình thức bắt buộc người phải theo thì mới gọi là thời thạnh trị. Tần Mục-Công nín lặng không nói gì cả. Sau đem lời ấy nói Lại Bá Lý- Hề. Bá Lý-Hề nói — Do-Dư là người cao kiến. tôi vẫn nghe danh đã lâu, lời nói ấy cũng có lý lắm chứ không phải ngụy biện đâu. Tần Mục-Công buồn bã nói : Do-Dư là bậc đại hiền mà lọt vào tay Tây- Nhung ấy là một điều lo cho nước Tần chúng ta đó. Bây giờ biết làm thế nào ? Bá Lý-Hề thưa : — Nội-Sử Sưu là người mưu trí, xin Chúa-công hỏi đến chắc có kế hay. Tần Mục-Công cho triệu Nội-Sử Sưu đến vấn kế. Nội-Sử Sưu thưa : — Vua Tây-Nhung vốn man di, chưa hề nghe âm nhạc Trung-quốc bao giờ, nay Chúa-công sai người đem bộ nữ nhạc dâng cho vua Tây-Nhung, còn Do- Dư thì giữ lại đây không cho về vội, khiến cho vua tôi ngờ vực nhau, chính sự sẽ trễ biếng. Như thế dẫu chúng ta có lấy cả nước Tây-Nhung vẫn còn được thay, huống hồ mua chuộc một Do-Dư. Tần Mục-Công khen phải liền giữ Do-Dư ở lại, đối xử rất hậu, ăn cùng một mâm, ngồi cùng một chiếu. Lại khiến Bá Lý-Hề, Kiền-Thúc. Công-Tôn Chi thay đổi nhau tiếp đãi Do-Dư, mục đích dò hỏi địa thế về nước Tây-Nhung. Kế đó, lại sai Nội-Sử Sưu đem bộ nữ nhạc sang dâng cho vua Tây-Nhung. Vua Tây-Nhung chưa bao giờ được nghe những cung đàn rẻo rắt những khúc hát du dương ở Trung- Nguyên, nên lấy làm thích thú, ngày đêm say sưa, bỏ bê việc triều chính. Cách đó một năm, Tần Mục-Công cho Do-Dư về nước. Vua Tây-Nhung thấy Do-Dư về trễ có ý không bằng lòng, đem lời khiển trách. Do-Dư thưa : — Tôi xin về mãi mà Vua Tần không cho thì biết , làm sao ? Vua Tây-Nhung nghi Do-Dư có ý riêng với nước Tần nên không tin dùng nữa. Tần Mục-Công hay tin, mật cho người sang triệu Do-Dư, sẵn dịp ấy, Do-Dư bỏ Tây-Nhung về đầu vua Tần. Tần Mục-Công cho làm chức Á-Khanh, cùng với Kiền-Thúc và Bá Lý-Hề chăm lo việc nước. Do-Dư liền dâng ké đánh Tây-Nhung. Các quan. ứng tiếng tán thành. Tần Mục-Công cũng nghe theo hưng binh tức khắc. Khi binh đến đất Tây-Nhung, Do-Dư đã thuộc cả đường nẻo, lại biết những chỗ hiểm yếu, nên chẳng bao lâu kéo đến Thành-đô, vua Tây-Nhung cự không lại phải đầu hàng... Nhận xét: Lúc gặp thời đừng quên thủa hàn vi. Do-Dư nổi tiếng là một nhân tài của nước Tấn, nhưng ở Tấn không được dụng, phải sang nước Tây-Nhung là một nước còn man rợ để cầu quan, được vua Tây-Nhang dùng. Xét thấy vua Tây-Nhung đối với Do-Dư là một ân nhân, vì Do-Dư là kẻ thất thời được vua Tây-Nhung nâng đỡ. Thế mà Do-Dư nỡ phản vua Tây-Nhung sao ? Dẫu rằng vua Tây-Nhung là vua một nước man rợ, nhưng Do-Dư ,đã bằng lòng đem thân phò kẻ man rợ kia mà ? Bảo rằng Do-Dư là một người hiền thì không đúng chút nào, Do Dư là người kẻ ham giàu sang, phú qúy, thấy ai mạnh thì theo, thấy ai yếu thì phản, lòng phản trắc thực khó lường. Nếu bảo Do-Dư vì thờ vua không đúng cho nên phải hành động như vậy, xét thấy cũng không đúng. Do-Dư tự đem thân đến phò vua Tây-Nhung tạm bợ ư ? nếu vậy thì đâu phải kẻ hiền. Ngựời hiền bao giờ cũng phải trọng khí tiết của con người chứ. Phò một ông vua đến lúc hoạn nạn lại bỏ đi, đâu phải là người trung liệt ? Nếu bảo rằng vì vua Tây-Nhmg nghi kỵ, không trọng dụng nữa nên phải đầu Tần thì cũng không đúng. Do-Dư tiếng là mật người tài, được vua sai sang Tần để dò xét, thế mà sang Tần lại mắc mưu Bá Lý-Hề và Nội-Sử Sưu không biết gì gở gạc thì sao gọi là người tài ? Vua Tây-Nhung nghi kỵ là lẽ tất nhiên, nếu Do-Dư là người tài thì tất biết cách dùng tài trí mình để chống lại với âm mưu địch chứ. Giả thử không có cách gì thanh minh với vua Tây-Nhung để minh oan đi nữa thì cũng không bao giờ sang Tần. Vị làm quan nước Tần chứng tỏ lòng phản phúc của Do-Dư rồi. Đã vậy, Do Dư còn đề nghị vua Tần kéo quân sang diệt nước Tây-Nhung nữa thì quả là kẻ xu nịnh cầu vinh. Đời nay không thiếu gì kẻ như Do-Dư, ham địa vị giàu sang, xu nịnh không từ một người nào, nay theo người này hại người kia, mai theo người kia hại người nọ, lòng không một chút gì chung thủy, hễ thấy ai mạnh thì tâng bốc, thấy ai yếu thì nói xấu ngay. Bảo Do-Dư là người hiền thật không đúng. Nhưng nếu không có Do Dư làm sao vua Tần diệt được Tây- Nhung ? Không có nhũng người như Do-Dư trong đời này lấy gì sai khiến ? Cho nên, những kẻ như Do-Dư là những tên tay sai đắc lực cho những ai biết cách khai thác lòng phản trắc của họ vậy. | |
| | | Tri Âm Quán Thành Viên Tích Cực
Tổng số bài gửi : 6340 Reputation : 2 Join date : 31/07/2013 Đến từ : Thị Trấn Chũ
| Tiêu đề: Re: ÔN CỐ TRI TÂN (tập 1) Tue Sep 12, 2023 7:22 pm | |
| MỐI THÔNG GIAO TẦN—TẤN Quyền lợi đặt trên tình nghĩa thâm thúy đến đâu cũng phải mất Công-tử Di-Ngô nhờ nước Tần giúp binh trợ lực về làm vua nước Tấn, và hứa sẽ hiến cho nước Tần 5 thành để đền ơn. Nhưng khi lên ngôi xong, Di-Ngô tức Tấn Huệ- Công lại bội ước. Mặc dù vậy, Tần và Tấn là nghĩa thông giao, Tần Mục-Công bỏ vua không nói gì. Năm sau, nước Tấn bị mất mùa, kho tàng hết sạch, dân chúng đói khát. Tấn Huệ-Công muốn mượn lúa nước ngoài đem về cung cấp, nhưng không biết mượn nơi đâu. Khước-Nhuế nói : — Không phải chúng ta bội ước với Tần, chỉ xin hoãn lại việc ấy mà thôi. Nay nếu mượn lúa mà Tần xử bạc với ta bấy giờ ta mới chính thức bội ước. Tấn Huệ-Công khen phải, sai quan Đại phu Khánh- Trịnh sang nước Tần bày tỏ ý kiến. Tần Mục-Công họp các quan đại thần hỏi ý kiến : — Nước Tấn ngày trước đã bội ước không chịu giao 5 thành, nay mất mùa lại đến vay lúa, ta có nên giúp đỡ chăng? Kiền-Thúc và Bá Lý Hề cùng một ý thưa : —Thiên tai là chuyện lớn, nếu không giúp thì bất nhân. Việc bội tín là tội của một sổ người, việc thiên tai là việc của toàn dân nước Tấn. Ghét một số ít mà bỏ số đông sao đành ? Phi-Báo nói: — Vua Tấn vô đạo, không lo cho dân nên dân mới mang lấy thiên tai như vậy. Nếu thương dân nước Tấn giúp đỡ để kẻ bạo tàn ngồi vững trên ngai, áp bức dân lành, thì cũng chắng làm cho dân Tấn sung Sướng được. Chi bằng nhân Cơ hội này đem quân sang diệt bạo chúa, đem lại yên lành cho dân nước Tấn rồi sẽ tính chuyện cứu giúp sau. Do-Dư nói : — Người có lòng nhân đức không nên thừa lúc người ta gặp tai biến mà trục lợi, xin Chúa công nghĩ lại điều đó. Tần Mục-Công suy nghĩ một lúc rồi nói; — Vua nước Tấn phụ ơn ta, nhưng dân nước Tấn bị đói, ta không thể vì lỗi một ông vua mà làm khổ muôn dân. Nói xong sai người vận tải mấy vạn hộc thóc sang giúp nước Tấn. Dân nước Tấn được ấm no, cảm ơn Tần Mục-Công không ngớt lời. Oái ăm thay, chỉ một năm sau, nước Tần bi một trận bão, mùa màng mất sạch, dân chúng không còn lúa ăn. Tần Mục-Công nói với Kiền-Thúc và Bá Lý-Hề : —May mà năm ngoái ta nghe lời hai ngươi đem lúa giúp nước Tấn nếu không năm nay khó lòng sang mượn lúa nước Tấn được. Phi-Báo nói Giúp lúa cho một kẻ vong ơn có mong gì trả. Vua nước Tấn là kẻ tham lam, chắc gì chịu giúp lại ta ? Tần Mục-Công không nghe, sai Lãnh-Chi mang lễ vật sang yêu cầu Tấn Huệ-Công cứu nạn. Tấn Huệ-Công họp các quan nghị luận. Khước- Nhuế nói : — Chúa công muốn giúp lúa cho nước Tần tức là Chúa-công muốn giữ lại lời hứa giao năm thành trước kia hay sao ? Tấn Huệ-Công nói : — Ta chỉ giúp lúa thôi, có liên can gì đến việc giao đất trước kia ? Khước-Nhuế nói : — Vì cớ gì Chúa-công lại giúp lúa ? Tấn Huệ-Công nói : — Năm ngoái nước Tần giúp lúa ta, nay ta phải báo ơn. Khước –Nhuế nói : — Nếu lấy việc nước Tần giúp lúa làm điều ơn, sao trước kia Tần giúp cho Chúa-Công về nước Chúa- công lại quên ơn ? Trả cái ơn nhỏ mà quên cái ơn lớn không thể làm cho nước Tần thỏa mãn được thì việc trả ơn có ích gì ? Khánh-Trịnh nói : - Năm ngoái tôi phụng mệnh sang nước Tần mượn lúa, nước Tần nhận lời ngay, thế mà ta không biết cái ơn ấy đâu phải nghĩa. Lã Di-Sanh nói : — Ân nghĩa là do chỗ tâm thành, Tần giúp lúa cho ta không phải yêu mến gì ta, mà chỉ ve vãn để cho ta nộp đất năm thành. Nay ta không giúp lúa thì Tần oán ta, mà giúp lúa không nạp năm thành thì Tần cũng oán ta. Thì đừng giúp gì cả là hơn. Khánh-Trịnh nói : — Người ta gặp tai nạn, mình không giúp là bất nhân, mang ơn mà không trả là bất nghĩa. Bất nhân bất nghĩa thi sao giữ nước được Hán-Giản nói : — Khánh Trịnh nói rất phải. Giả thử năm ngoái nước Tần không giúp lúa cho ta thì nước ta sẽ ra thế nào? Ọuắc Xạ nói : — Năm ngoái nước ta bị thiên tai, nước Tần không biết đem quân đánh lấy nước ta mà lại giúp lúa là nước Tần dại. Năm nay trời làm nước Tần đói, nếu ta không thừa cơ đem binh đánh lấy nước Tần thì ta cũng chẳng khôn gì. Cứ ý tôi nên hội với nước Lương đem binh đánh Tần, không nói làm gì chuyện ơn nghĩa. Vi nếu nước nào có nói đến chuyện ơn nghĩa chẳng qua cũug chỉ để giành dậu chiếm đất mà thôi. Tấn Huệ Công nghe lời Quắc-Xạ gọi Lãnh-Chi, sứ nước Tần đến nói : Nước tôi mấy năm mất mùa, thòc lúa thiếu hụt, nay chỉ đủ dùng, không lấy gì mà giúp. Xin quý quốc cảm phiền. Lãnh-Chi thưa: Chúa-công tôi lấy lòng nhân giúp đỡ, thế mà quý quốc trả ơn bằng sự lãnh đạm như thế sao? Khước-Nhuế quát to: — Ngày trước ngươi thông đồng với Phi Trịnh-Phủ đem lễ vật đến đây dụ ta, may mà Chúa ta không mắc lừa. Nay ngươi còn dám nhiều lời ư ? Nhà ngươi về nói với vua Tần, nếu muốn mượn thóc nước Tấn phải đem quân sang đây mà đánh lấy mới được. Linh-Chi tức giận lui ra, đôi mắt nảy lửa. Tấn Huệ-Công truyền bãi triều, các quan ai về dinh nấy. Khánh-Trịnh ra khỏi cửa ngọ môn nói nhỏ với Quách-Yển : — Chúa-Công ta bội ơn trắng trợn tai vạ đến không lâu. Quách Yển nói : — Nước Tấn lâm nguy rồi. Một ông vua bất nhân bất tín như vậy làm sao giữ nước được ? Lãnh-Chi về đến nước Tần, vào ra mắt Tần Mục. Công, nói : — Nước Tấn đã không giúp ta còn hợp với nước Lương kéo binh sang đánh ta. Tần Mục-Công vỗ án hét : — Ta không ngờ vua nước Tấn lại vô đạo như thế ? Ta quyết đem quân đánh lấy nước Lương rồi sẽ phạt Tấn. Bá Lý- Hề nói : — Nước ta đang mất mùa, không nên kéo dài việc chiến chinh. Nay vua nước Lương bắt quân xây thành, lập cung điện, làm khổ muôn dân, người trong nước ai cũng oán. Sớm muộn nước Lương cũng bị nổi loạn, không thể nào giúp nước Tấn được. Xin Chúa-công cứ đem quân đánh thẳng nước Tấn thì hơn. Tần Mục-Công y lời, ủy thác cho Kiền-Thúc và Do-Dư ở lại coi việc triều chánh, rồi cùng các tướng kéo binh sang đánh Tấn. Nhận xét: Dù trong lĩnh vực nào, tín nghĩa cũng không thể bỏ được. Đang là một kẻ lưu vong được người ta đưa về làm vua một nước, hưởng cả vinh hoa phú quý nhất đời, không tốn một mảy may sức lực. Như thế tưởng phải dâng mười thành cũng chưa gọi là quả đáng. Cái đáng chê của Tấn Hiếu-Công ở đây là một ông vua bất tài xem thường tín nghĩa, hứa rồi lại không xem lời hứa mình ra gì cả. Nếu bảo rằng đất đai nước Tấn là của dân Tấn, của tiền nhân để lại, không đem bán cho nước ngoài thì cũng được đi. Nhưng sao lại hứa làm gì ? Không nên coi lời hứa mình một cách quá nhẹ như vậy. Nếu bảo đó là mánh khóe của những nhà làm chinh trị thì lại càng sai hơn. Vì nhà chính trị không phải là kẻ giỏi về thuật lừa đảo, bội tín. Kẻ làm chinh trị là kẻ đem trí óc mình ra đối chọi với kẻ khác trong lĩnh lập quốc và kiến quốc. Trong lĩnh vực này không thể bỏ tín nghĩa mà thành công được. Muốn làm chinh trị phải được lòng dân, mà dân bao giờ cũng đánh giá kẻ lãnh đạo mình trên phương diện tín nghĩa. Có tín nghĩa mới thu phục được lòng dân. Tấn Hiến-Công đã phản bội ân nhân mình một cách trắng trợn như vậy. Để lộ chân tướng cho thiên hạ thấy mình là kẻ bội bạc thì rõ là một kẻ tham lam, thiển cận,không phải là hạng người có bản lĩnh gian xảo. Kẻ có bản lĩnh, dù bên trong giảo-quyệt đến đâu, bên ngoài cũng không để lộ chân tướng của mình cho mọi người thấy. Đã vậy, đến khi lâm nguy, mùa màng mất sạch, kho vựa trống hết, dân chúng vất vả, triều thần sắp chết đói, lại vác mặt đi cầu cạnh người bạn láng giềng mà mình đã phản bội thì thật trơ trẽn không gì che giấu nổi. Ngửa tay nhận thóc nước Tần lần này, người có chút ít liêm sỉ không thể nào làm được. Có gan dạ và lỳ lợm nhận thóc của nước Tần mà không tự lấy đó làm răn mình, đem tình giao hảo hai nước hàn gắn lại vết thương đổ vỡ ngày xưa, còn bội ước lần thứ nhì, thách đố “Phải mang quân sang đánh mới chịu trả thóc cho” thì thật nước Tấn không còn một giá trị đạo đức nào nữa. Những kẻ vong ân lòng trở nên tàn nhẫn : “Năm ngoài nước ta bị thiên tai. nước Tần đã không đem quân đến đánh mà còn giúp lúa thì nước Tần ngu. Năm nay nước Tần bị thiên tai, nếu ta không đem binh diệt nước Tần thì ta cũng chẳng khôn gì.?...” Thật là ý thức của những kẻ phản phúc, mặt dạn mày dày, chỉ thấy cái lợi truớc mắt mà không thấy cái hại sau lưng. Tục ngữ có câu “Mưa hồi nào vuốt mặt hồi nấy.” Thật đúng với hành động và tâm trạng những kẻ phản phúc như triều thần vua Tấn. Một quan cận thần nước Tấn lại còn lý luận : “Không nói đến ơn nghĩa làm gì. Vi kẻ nào nói đến ơn nghĩa cũng chỉ để chiếm nước giành dân thôi." Phải ! Trên trường tranh đấu tất nhiên là thế. Phần nhiều những kẻ thi ân, những người làm ra cách nhân đạo thường lợi dụng đạo đức để mưu lợi cho mình. Tuy nhiên, không phải vì những kẻ ấy mà bỏ đạo đức được. Đạo đức bao giờ cũng tồn tại mãi, chỉ có mưu mô xảo quyệt của con người mới bị nguyền rủa khi đã bị bộc lộ chân tướng. Vua sáng, có bề tôi hiền giúp đỡ, vận nước ắt hưng. Vua dù không sáng mà biết nghe lời phải, thì vận nước không đến nỗi suy. Trái lại vua đã không sáng bề tôi lại không hiền thì họa nước không thể tránh. Tần Mục-Công tuy không minh lắm, nhưng biết phục thiện, biết nghe lời hay của số đông quần thần trung nghĩa, trọng đạo đức, tận tâm phục vụ bên mình thì làm gì mà Tần không hùng cường. Bá Lý-Hề, Kiền-Thúc. Công.Tôn Chi, Do-Dư đều chủ trương một chánh sách viện trợ trên lập trường nhân đạo, vì lợi của dân mà chẳng vì lỗi một ông vua. Tấn Huệ-Công không hiền, không minh, vừa tham lợi vừa ngu, không trọn chữ tín, không biết liêm sỉ và dưới tay lại bị cả một triều thần gồm toàn người bất lương, chì biết có lợi cho mình, không kể đến nhân nghĩa, xúi vua làm căng, thì làm gì nước Tấn không nguy. Dù một Khánh -Trịnh và Hàn- Giản có hiền chủ trương thuyết điều hoà để đem lại tình đoàn kết cho hai nước láng giềng, thì cả một triều đình không chấp thuận, cũng chẳng làm sao sửa đổi được ông vua tham lam ấy. | |
| | | Tri Âm Quán Thành Viên Tích Cực
Tổng số bài gửi : 6340 Reputation : 2 Join date : 31/07/2013 Đến từ : Thị Trấn Chũ
| Tiêu đề: Re: ÔN CỐ TRI TÂN (tập 1) Thu Sep 14, 2023 7:23 pm | |
| KHÁNH-TRỊNH VỚI VUA TÔI NƯỚC TẤN — Trung ngôn nghịch nhĩ Tần Mục-Công giúp công-tử Di-Ngô trở về làm vua nước Tấn. Công-tử Di-Ngô hứa hiến cho nước Tần năm thành, nhưng rồi lại bội ước. Qua năm sau, nước Tấn mất mùa, thiếu lúa ăn, Tấn Huệ-Công lại cho sứ sang Tần vay mượn. Tần Mục-Công bằng lòng giúp lúa. Cách một năm sau, nước Tần bị thiên tai. Tần Mục-Công cho người sang Tấn đòi thóc, vua Tấn đã không trả còn thách vua Tần đem quân sang đánh. Tần Mục Công giận Tấn Huệ-Công phản bội, liền cử binh sang chinh phạt. Tấn Huệ-Công hội các đại thần thương nghị và nói : — Nước Tần tự nhiên đem quân sang chinh phạt nước ta, ta nên dùng cách gì để chống giữ ? Quan Đại-thần Khánh-Trịnh thưa : —Nước Tần dấy quân là vì Chúa-Công bội tín quên ơn sao lại bảo là tự-nhiên ? Huệ-Công nổi giận truyền đem Khánh-Trịnh ra chém vì câu nói khi quân ấy. Các quan hết lời can gián, Huệ Công mời tha. Chiến tranh bùng nổ ... Tấn Huệ-Công dùng ngựa tiểu tứ kéo xe, đem quân ra đối địch với quân Tần. Ngựa tiểu tứ là giống ngựa tầm vóc nhỏ, lông mịn, chạy rất nhanh., kéo xe rất mau của nước Trịnh biếu. Khánh-Trịnh thấy thế nói : —Ngựa tiểu-tứ không phải là giống ngưạ dùng trong trận mạc. Vả lại người nước Tấn dùng ngựa nước Tấn đã quen, khỏi sợ lầm đường, lại hợp với thủy thổ. Chúa- Công dùng ngựa nước Trịnh e không có lơi. Tấn Huệ công nạt : — Ngựa ấy ta dùng đã quen, ..ngươi biết gì mà nói như vậy. Khi hai bên xáp trận, tướng nước Tần là Công- Tôn Chi hét lên một tiếng quá to, ngựa tiểu-tứ chưa quen ra trận, kinh sợ lồng lên nhảy vào vũng bùn. Người giong Xe dùng roi đánh vào ngựa đen đét, nhưng vì ngựa quá nhỏ, ngập xuống bùn sâu, không sao ngoi lên được. Đang lúc nguy ngập, Khánh-Trịnh chạy ngang qua trông thấy, nhưng không dừng lại. Tấn Huệ-Công kêu cứu, Khánh-Trinh ngoảnh lại nói : —Quắc Xa ở đâu mà Chúa-công phải gọi đến Khánh-Trịnh này ? Tấn Huệ-Công nổi giận, nhưng cũng phải làm lành bảo Khánh-Trịnh đem xe khác đến cứu nguy. Khánh-Trịnh nói : —Chúa-công dùng ngựa tiểu-tứ đã quen, sao không điều khiển nó vượt qua vũng bùn, cần gì phải kêu cứu. Nói xong, Khánh-Trịnh bỏ chạy sang phía tả, định gọi Hàn-Giản và Lương Do-Mỹ đem xe đến. Nhưng đã trễ, tướng nước Tần là Công Tôn Chi đã bắt sống được Tấn Huệ Công bỏ vào tù xa giải về nước Tần. Tần Mục-Công muốn chém đầu vua Tấn, nhưng nhờ triều thần và vợ là nàng Mục-Cơ can gián nên Tấn Huệ-Công lại được tha về nước. Có người bạn là Nga-Tích khuyên Khánh-Trịnh nên trốn sang nước khác cho yên thân, nếu để Tấn Huệ- Công về đến nơi thì khó toàn mạng. Khánh Trịnh đáp : — Làm tướng mang quân đi đánh giặc bị thua còn phải bị tội chết huống chi tôi đã làm cho Chúa công bị bắt thì tội tôi còn to biết chừng nào. Nếu Chúa công không về tôi cũng phải mang cả gia quyến sang Tần mà chịu tội. Nay Chúa-công được tha về, tôi cứ để Chúa- công trị tội làm gương kẻ khác, việc gì phải trốn tránh ? Khi Tấn Huệ-Công về đến, các quan tụ họp đón rước. Khánh-Trịnh cũng có mặt. Tấn Huệ-Công nhìn thấy Khánh-Trịnh, hậm hực nói; — Ngươi còn mặt mũi nào trông thấy ta nữa sao ? Khánh-Trịnh thưa : — Lần thứ nhất nếu Chúa-công nghe theo lời tôi đong thóc báo ân cho nước Tần thì đâu đến nỗi sanh ra chuyện can qua binh lửa ? Lần thứ hai, nếu Chúa- công nghe theo lời tôi đừng dùng ngựa Tiểu-tứ thì cũng không đến nỗi sa lầy mà bị bắt. Như vậy tôi đã chứng tỏ lòng trung, hết lòng can ngăn Chúa- công tại sao hôm nay tôi lại không dám ra đây tiếp đón Chúa-công ? Tấn Huc-Công bảo : — Nhà ngươi còn muốn nói gì nữa không ? Khánh-Trịnh thưa : — Bây giờ tôi có mấy tội đáng chết : Dùng lời trung nghĩa can vua mà vua không nghe là một. Thấy vua bị nạn không cứu lại chạy đi kêu người khác là hai. Hai tội ấy xin Chúa-công xử trị. Quan cận thần Lương Do-Mỹ nói với Khánh- Trịnh : — Những điều mà ông vừa kể không đáng tội chết. Ba điều này mới đáng tội chết. Khánh-Trịnh hỏi : — Ba điều gì ? Lương Do-Mỹ nói : — Chúa-công đang kẹt trong vũng bùn, ông không giải cứu lại bỏ chạy đi là một. TÔI và Hàn-Giản đang vây đánh vua Tần sắp bắt sống được, ông lại chạy đến kêu cứu, làm cho vua Tần thoát thân, đó là hai. Khi Chúa công bị bắt, các quan đều cố sức đánh và đều bị bắt như Chúa-công, riêng ông lại thoát thân trốn chạy, đó là ba. Khánh-Trịnh ngảnh mặt lại nói vói quân sĩ : — Các ngươi hãy nghe ta nói lời nầy : Thử hỏi có kẻ làm tướng nào lại không cố sức đánh giặc, ngồi yên một chỗ để xin chịu tội chết bao giờ không ? Nga-Xích quỳ xuống tâu : — Khánh Trịnh biết tội chết mà không trốn thì thật là một kẻ dũng. Chúa - công nên lấy lượng khoan hồng mà tha cho. Gia Bộc-Đồ cũng nói : —Khánh-Trịnh đâu đáng tội chết, nhưng mấy lần đem lời trung nghĩa can vua, như vậy cũng đủ chuộc tội rồi, Chúa-công nên nghĩ lại mà tha cho hắn để được tiếng là nhân từ. Lương Do-Mỹ trong lòng vẫn hặm hực nói : — Nước được trị an là nhờ pháp luật được thi hành nghiêm chỉnh, kẻ có công phải được thưởng, kẻ có tội phải bi trừng phạt. Nay tha Khánh-Trịnh thì từ nay không còn ai chịu đem quân đi đánh giặc nữa. Tấn Huệ-Công nghe theo lời Lương Do-Mỹ giết Khánh-Trịnh. Nhận xét: Mềm quá thì yếu, cứng quá thì gãy. Một ông vua như Tấn Huệ-Công, vong ân, bội tín, mặt dạn mày dày, dám làm bất cứ việc sỉ nhục nào thì lời nói ngay thật còn có nghĩa lý gì. Khánh-Trinh, một kẻ tôi trung, biết điều phải ngăn vua, không sợ uy quyền, không sợ chết, lúc cần nói thì nói, không nể nang. Kể ra cũng gọi là kẻ gan dạ đấy. Tuy nhiên, đứng về mặt chính trị nhiều lúc không nên nói thẳng, vì thẳng quá thì dễ đứt, nhưng cũng không nên quá nể nang, vì nể nang là yếu đuối. Giác ngộ một kẻ bề trên, cũng như giáo dục một kẻ bề dưới, cần phải tùy trình độ nhận thức của người ấy mà nóí làm thế nào cho họ chịu nghe theo lời mình mới là hay. Ở đây, Tấn Huệ-Công đã là ông vua không biết phục thiện, mà Khánh-Trịnh lại là một tôi thần quá gàn. Đành rằng lời can gián của Khánh-Trịnh là phải, nhưng can gián phải đúng cách, đúng lúc, đúng với hoàn cảnh của một triều đình như vậy chứ ? Đàng này, Khánh-Trịnh như tự phụ, đem cái hiểu biết của mình để chế nhạo một ông vua, ngược lại, Tấn Huệ-Công cũng lại là ông vua nhỏ nhen, thù vặt, câu chấp thì bảo sao Khánh- Trịnh không bị giết. Khánh-Trịnh chết là phải. Khi một ông vua đặt nặng lòng căm thù nhỏ nhen lên trên lẽ phải, mà kẻ gây căm hờn lại đầu tới trước lưỡi dao thì bảo sao không mất đầu ? | |
| | | Tri Âm Quán Thành Viên Tích Cực
Tổng số bài gửi : 6340 Reputation : 2 Join date : 31/07/2013 Đến từ : Thị Trấn Chũ
| Tiêu đề: Re: ÔN CỐ TRI TÂN (tập 1) Sun Sep 17, 2023 7:10 pm | |
| TỐNG TƯƠNG-CÔNG VỚI LÁ CỜ NHÂN NGHĨA Tượng trưng cho một kẻ ham địa vị, bắt chước làm đạo đức, nhưng không đúng cách. Tề Hoàn-Công chết nước Tề có nội loạn, các vị Thế tử tranh nhau chiếm đoạt ngôi nước Tề. Bấy giờ vua nước Tống là Tương-Công muốn nhân cơ hội này chiếm lấy uy thế trong chư hầu, nên đem quân giúp Công-tử Chiêu về nước, nối ngôi Tề Hoàn-Công. Công-tử Chiêu lên ngôi, xưng hiệu là Tề Hiến-Công. Nước Tống tự cho mình có công lớn với Tề nên muốn hội chư hầu để thay Tề Hoàn-Công làm bá chủ. Tuy nhiên, Tống Tương Công lại sợ các nước lớn không phục, mới cùng các nước nhỏ hội ước trước để dò ý chư hầu. các nước nhỏ ấy là : Nước Đằng, nước Tào. nước Châu và nước Tằng. Nước Tào và nước Châu y hẹn đến dự, còn nước Đằng đến hai ngày sau mới đến. Tống Tương-Công truyền bắt vua nước Đằng là Anh giam lại, không cho dự hội. Vua nước Tằng hay tin sợ sệt đến sau cùng. Tống Tương-Công nổi giận hỏi quần thần : — Nước Tằng là nước nhỏ mà không chịu đến dự đúng ngày, nay thấy ta thị uy với nước Đằng nên mới sợ sệt mang mặt đến, như thế nếu không trị tội thì còn uy lực gì nữa. Quan đại phu Công-tứ Đảng đề nghị bắt vua nước Tằng giết đi để tế thần gió nơi sông Thu-Thủy. Tống Tương-Công nghe theo. Giết vua nước Tằng. Các nước Tào và Châu thấy hành động bất nhân của Tống Tương-Công âm thầm bàn nhau : —Vua Tống nóng nảy, bạo ngược, không làm được việc gì, chúng ta bỏ về là hơn. Tào và Châu đều bỏ về. Tống Tương-Công nổi giận kéo quân đánh nước Tào Tướng nước Tống là Công-tử Đảng, tướng nước Tào là Hi Phụ-Cơ đánh nhau suốt tháng tại kinh đô nước Tào, nhưng hai bên vân cầm đồng. Trong thời gian đó, các nước Trịnh, tề, Lỗ, Trần, Sái lại họp với nước Sở ở đất Tề để bàn việc giao hảo. Tống Tương-Công nghe tin sợ Tề và Sở tranh mất ngôi Bá chủ, vội vàng triệu Công-tử Đảng thu quân về để thương nghị. Công-tử Đảng nói : Các nước chư hầu hiện nay chỉ có Tề và Sở là lớn hơn cả, nhưng Tề dẫu là dòng bá chủ, nhưng con cháu tranh nhau, thế nước suy yếu, chỉ có nước Sở là cường thịnh, lại tiếm xưng Vương hiệu, ai cũng phải sợ. Bây giờ Chúa-công nên sai người sang lễ nước Sở, mượn thể mà hội chư hầu, rồi lại mượn thể chư hầu mà trị lại nước Sở, ấy là kế quỳên nghi tạm trong một thời. Công-tử Mục-Di can : — Nước Sở vì ta mà hội chư hầu, thì nước Sở cũng không khi nào chịu nhường quyền cho ta. Xin Chúa-công chớ nghe theo kế ấy. Tống Tương-Công không nghe lời Mục-Di, khiến Công-tử Đảng đem lễ vật sang cầu cạnh nước Sở. Bấy giờ Sở Thành-Vương là Hùng Vận thấy vua Tống cố ý như vậy liền thu lễ vật, hẹn với nước Tống đến đầu năm sau sẽ hội chư hầu nơi Lộc-Thượng. Công-tử Đảng về thuật lại, Tống Tương-Công nói : — Đất Lộc-Thượng thuộc Tề, thế thì ta cũng nên tin cho vua Tề biết trước. Nói rồi cho sứ sang nói với Tề Hiến-Công. Tề Hiến-Công chấp-thuận. Đến tháng giêng năm sau, Tống Tương-Công lập đàn sẵn ở đất Lộc-Thượng để chờ Tề Hiến-Công và Sở Thành-Vương đến. Qua đầu tháng sau, Tề Hiến-Công đến, Tống Tương-Công ỷ mình có công vời Tề trước kia, nên tỏ vẻ hiu hiu tự đắc. Tề Hiến-Công vẫn giữ lễ, coi Tống Tương-Công như một ân nhân nên không nói gì cả. Sau đó mười ngày. Sở Thành-Vương mới đến Tống Tương-Công lên đàn, nghiễm nhiên tự nhận mình là chủ tọa, nói với Sở Thành-Vương và Tề Hiến-Công : —Tôi muốn nhờ uy thế hai nước, mời các chư hầu hội tại nước tôi, nếu được hai nước giúp đỡ thì tôi mang ơn lắm. Tề Hiến-Công chắp tay nhường cho Sở Thành- Vương có ý kiến trước. Sở Thành-Vương cũng chắp tay vái nhường cho Tề Hiến - Công. Hai vua cứ nhường nhau mãi, không ai chịu tỏ ý mình. Tống Tương-Công túng thế không biết làm sao, bèn thảo một tờ biên bản, bên trong ghi rõ các điều ước rồi đưa cho Tề và Sở xem để ký tên. Tề Hiến- Công nhường cho Sở Thành Vương ký trước, Sở Thành-Vương lại nhường cho Tề Hiến-Công ký trước. Tống Tương-Công cầm tờ biên bản đưa cho Sở Thành-Vương mời ký trước Tề Hiến-Công thấy thế không bằng lòng, Sở Thành-Vương mở tờ biên bản xem thấy Tống Tương-Công đã ký trước, mỉm cười nói với Tống Tương-Công : Một mình quý quốc triệu tập chư hầu cũng được rồi, cần gì phải có chúng tôi ? Tống Tương-Công nói : — Nước Trịnh lâu nay chịu ơn quý quốc, còn nước Trần và Sái thì vừa rồi có hội với quý quốc ờ đất Tề. nếu tôi không nhờ uy tín của quý quốc e các nước chư hầu không đến. Sở Thành-Vương nói : — Thế thì xin để cho Tề ký trưởc rồi mới đến tôi. Tề Hiến-Công nói : — Tôi chịu ơn nước Tống. Việc có mặt tôi trong biên bản không uy tín bằng nước Sở. Sở Thành-Vương vừa cười vừa ký tên. Ký xong, trao tờ biên bản cho Tề Hiến-Công. Tề Hiến-Công nói : — Có nước Sở ký là đủ, bất tất phải có nước Tề ? Tề Hiến-Công nhất định không chịu ký, vì thấy Tống Tương-Công trọng Sở khinh Tề. Tuy nhiên Tống Tương-Công không hiểu ý, cậy mình có ơn với Tề. cứ ngỡ là Tề Hiến Công thực tình, nên cất tờ biên bản vào túi. Ba nước giã từ ra về. Sở Thành-Vương đem việc ấy nói lại với quan Tể-tướng Tử-Văn. Tử-Văn nói : — Vua nước Tống là kẻ bất cần liêm sỉ như vậy, sao Đại-Vương giúp cho nước Tống hội chư hầu làm gi ? Sở Thành-Vương cười lớn nói : — Ta vẫn muốnlàm Minh-chủ ở Trung – quốc, nay sẵn dịp không lẽ từ chối. Quan Đại-phu Thành Đắc-Thần nói : — Vua Tống là kẻ háo danh, không mưu trí gì, trong kỳ hội chư hầu nầy, nếu đem quân giáp sĩ theo ắt bắt được vua Tống ngay. Sở- Thành-Vương nói : — Đó là dự tính của ta. Tử-Văn nói : — Giúp ngưòi ta hội chư hầu rồi lại bắt người ta, sao cho các nước phục mình ? Thành Đắc-Thần nói : — Ấy chết, chớ nên câu chấp việc nhỏ mà bỏ việc lớn. Vua nước Tống đã háo danh, tự phụ, dĩ nhiên trong lúc nhóm họp sẽ làm cho nhiều người ghét. Ta nhân dịp ấy bắt vua nước Tổng để thị uy rồi tha cho; như vậy ai không phục ? Tâm lý con người ai không muốn làm bỉ mặt những kẻ tự-cao, tự đắc? Sở Thành-Vương liền sai Thành Đắc-Thần và Đấu-Bột truyền năm trăm giáp sĩ, chờ ngày hội chư hầu phục sẵn để bắt Tống Tương-Công. Tống Tương-Công từ khi dự hội với Tề và sở nơi đất Lộc-Thượng trở về có ý hăm hờ nói với Mục-Di : - Nước Sở đã thuận giúp ta hội chư hầu rồi. Như vậy là ta đã thành công một phần nào. Công-Tử Mục-Di nói : — Nước Sở là giống man di, tâm địa khó lường. Tôi e Chúa-công mắc mưu nước Sở đó. Tống Tương-Công nói : — Nhà ngươi tánh đa nghi lắm. Ta đem lòng trung tín mà đãi, lẽ nào người ta lại lừa dối sao ? Nói xong liền truyền hịch khắp chư hầu, hẹn đến hội nơi Vu địa, đất Tống. Lại sai người sửa sang quán dịch để tiếp đón. Tháng bảy năm ấy. Tống Tương-Công sửa sang xe giá đến Vu-địa. Công-từ Mục-Di can : — Nước Sở cậy sức mạnh, không biết giữ lễ nghĩa Chúa - công phải đem quân theo đề phòng mới được. Tống Tương-Công nói : — Hội chư hầu mục đích là giữ tình hòa hảo, nay lại đem quân sĩ theo làm sao các nước chư hầu tin phục. Công-tử Mục-Di nói : —Việc nào đáng tin thì nên tin, việc nào đáng phòng thì nên phòng. Nếu Chúa công muốn thủ tín với chư hầu thi nên đi trước, còn tôi, tôi sẽ kéo quân theo sau cách ngoài ba dặm phục sẵn. Tống Tương-Công nói : — Không nên. Nếu nhà ngươi đem quân mai phục như vậy thiên hạ hay được sẽ cười ta. Nói xong, Tống Tương-Công truyền cho Mục-Di theo mình, vì sợ để Mục-Di ở nhà đem quân đi tiếp, thành ra thất tín với chư hầu. Mục-Di nói : — Nếu Chúa - công không cho tôi đem quân, phòng bị thì tôi phải theo Chúa-Công bảo vệ chứ ở nhà sa0 an. Tống Tương-Công cùng Mục Di ra đi. Lúc bấy giờ vua sáu nước Sở, Trần, Sái, Hứa. Tào và Trịnh đã đến đủ cả, chỉ có Tề Hiến Công vì bất phục Tống. Lỗ Hi-Công vi chưa giao hảo với Sở bao giờ nên hai nước ấy chưa đến. Tống Tương-Công sai nghênh tiếp vua sáu nước vào nghỉ nơi công quán, rồi truyền quan Thái-sử chọn ngày khai hội. Ngay ấy, Tống Tương - Công lấy lễ chủ đãi khách, sắp các nước chư hầu theo hai hàng đứng trên đàn. Các vua chư hầu đều sợ uy Sở Thành Vương nên nhường cho Sở Thành-Vương đứng trước. Thành Đắc-Thần và Đấu Bột đứng sau lưng hầu Sở Thành-Vương. Vua các nước cũng đều cho người theo hầu cả. Tống Tương-Công muốn làm chủ tọa, nhưng tự nói ra không tiện, đưa mắt nhìn Sở Thành-Vương có ý nhờ Sở Thành-Vương nói hộ. Sở Thành-Vương cứ cúi đầu nín lặng, không nói gì cả. Các vua chư hầu thấy bầu khí nặng nề, đưa mắt nhìn nhau. Tống Tương Công không biết làm sao, phải nói : — Ngày nay tôi muốn theo bước Tề Hoàn-Công, trên tuân mệnh Thiên-tử dưới giao hiếu với chư hầu, chẳng hay các nước có ý gì dạy bảo chăng ? Vua các nước chư hầu nghe nói đều nín bặt, liếc mắt nhìn nhau dò xét. Sở Thành-Vương hỏi Tống Tương-Công : - Nhà vua nói thế là phải lắm, nhưng không biết trong kỳ hội chư hầu này ai làm chủ tọa ? Tống Tương-Công nói : — Kẻ nào được nhiều công trạng và cao phẩm tước hơn thì làm chủ tọa. Sở Thành-Vương nói : — Như vậy nước tôi là nước Vương vị. Tống vẫn là nước Công, không hơn tước Vương được. Theo lời nói của nhà vua thì hôm nay tôi làm chủ tọa. Dứt lời, Sở Thành-Vương bước lên đàn. Công tử Mục-Di đứng sau lưng Tống Tương-Công thấy vậy nắm tay Tống Tương-Công níu lại, cố ý muốn cho Tống Tương-Công nhẫn nhục rồi sau sẽ liệu. Nhưng Tống Tương-Công vốn là kẻ háo danh, làm sao chịu nổi, liền nói : -Nước tôi tước Công, nhưng tước Công ấy được vua phong, còn nước Sở tuy tước Vương, nhưng là tước Vương giả, làm sao bì với nước tôi được ? Sở Thành-Vuơng trợn mắt nói : — Tôi là tước Vương giả thì ai bảo nước Tống mời tôi tới đây làm gì ? Tống Tương-Công nói: — Vua Sở đến đây là theo lời ước ở Lộc- thượng trước kia chớ phải do tôi mời đâu ? Thành Đắc-Thần hét lớn : — Vậy xin hỏi chư hầu xem các chư hầu vì nước Sở hay vì nước Tống mà đến ? Các vua chư hầu đều sợ Sở, đồng thanh đáp : — Chúng tôi vì nước Sở mà đến đây. Sở Thành - Vương cười khanh khách nói với Tống Tương-Công : — Nhà vua còn lời gì dạy bảo nữa chăng ? Tống Tương-Công thẹn đỏ mặt, toan cãi lại thì Thành Đắc-Thần và Đấu-Bột đã cởi áo lễ phục, bên trong mặc sẵn áo giáp, có đeo gươm và cờ- lệnh. Thành Đắc-Thần phất cờ lên. dưới đàn hơn một nghìn giáp sĩ từ xa kéo lại phủ vây, tay cầm đủ thứ binh khí. Các chư hầu đều sợ sệt Thành Đắc-Thần bắt vua Tống trói lại. Tống Tương-Công ghé tai nói nhỏ với Mục-Di : —Tiếc rằng ta không nghe lời ngươi, nên mới bị lầm mưu Sở. — ……………………. Tống Tương-Công khiến Mục-Di trở về lo việc nước, còn mình đành cam với số phận. Mục-Di gạt lệ trở về, được triều thần bày kế tôn Mục Di lên nối ngôi để cho nước Sở thấy nước Tống có vua, không giết Tống Tương-Công. Quả nhiên nước Sở thấy việc giết Tống Tương- Công không còn ích lợi gì nữa, và Tống Tương - Công được tha về. Công – tử Mục - Di nhường ngôi lại cho Tống Tương-Công để tiếp tục trị nước. Tuy được về nước nối lại địa vị cũ, nhưng Tống Tương Công lòng xấu hổ không vui. Nhân lúc nước Trịnh sang chầu Sở Thành-Vương, muốn tôn Sở- Thành-Vươrg lên ngôi bá-chủ, Tống Tương -Công nổi giận quyết định cử binh đánh Trịnh. Liền khiến Mục Di giúp Thế-tử Vương-Thân ở nhà lo việc triều chính, còn bao nhiêu tướng sĩ đều sửa soạn tòng chinh. Công-tử Mục-Di can : — Sở, Trịnh đang giao hiếu nhau, đánh Trịnh- thì Sở cứu, ta làm sao địch lại quân hai nước, chi bằng ẩn nhẫn chờ dịp khác. Công - tôn cố cũng can. Nhưng Tống Tương - . Công không nghe, nổi giận nói : — Ngươi không muốn đi thì để ta đi một mình Công-tôn Cố không dám nói nữa, cùng với Tống Tương Công kéo binh sang đánh Trịnh. Quân do thám về báo. Trịnh Văn-Công thất kinh, sai người sang Sở cầu cứu. Sở Thành Vương nói với Thành Đắc-Thần : — Nước Trịnh trọng ta lắm, ta phải đem binh đến cứu. Thành Đắc-Thần nói : — Cứu Trịnh không bằng phạt Tống. Sở Thành Vương hỏi : Đó là kế gì? Thành Đắc-Thần đáp : — Từ khi Tống Tương-Công bị bắt được tha về nước, không sửa mình, nay lại không biết lượng sức, đem binh đánh Trịnh chưa chắc đã thắng đâu. Bây giờ trong nước bỏ trống, ta thừa cơ đem quân đoạt thành. Nếu lúc quân Tống hay được đem binh về cứu thì lúc đó quân sĩ đã mỏi mệt, ta có thể thắng một cách dễ dàng. Sở Thành-Vương khen phải, phong Thành Đắc- Thần làm Chánh-tướng, Đậu-Bột làm Phó-tướng, đem quân sang đánh Tống. Tống Tương-Công đang xua quân đánh Trịnh, hay tin binh Sở kéo đến biên giới nước mình lật đật rút về đóng nơi phía Nam sông Hoàng-thủy, chặn đường binh Sở. Thành Đắc-Thần Kéo quân đến nơi hạ trại, sai người khiêu-chiến. Công tôn Cố hay tin bàn với Tống Tương-Công ; — Nay Sở đánh ta vì muốn cứu Trịnh, xin Chúa công bỏ việc đánh Trịnh, cho người đem lễ vật đến tạ Sở ắt tránh được binh đao. Tống Tương-Công nói : — Xưa Tề Hoàn-Công đem binh đánh Sở còn thắng thay, nay Sở đem binh đến lẽ nào ta lại sợ ? Nếu vậy đâu dám nối nghiệp bá chủ của Tề Hoàn Công. Công-tôn Cố nói : — Xưa khác, nay khác, sao Chúa-công dám ví mình với Tề Hoàn-Công mà không lượng sức mình ? Tống Tương-Công không nghe, quyết hạ chiến thư, hẹn ngày giao chiến. Lại khiến dựng cây đại kỳ sau xe,trên cờ đề hai chữ : « Nhân nghĩa ». Công-tôn Cố than thầm với Dược Bộc -Y : Chinh chiến là việc chém giết, mà Chúa-công lại đem việc chém giết nói đến nhân nghĩa. Tôi thật không hiểu ý Chúa-công ra sao cả. Thành Đắc-Thần bắt đặng chiến thư của Tống Tương-Công liền kêu Đấu-Bột vào bàn luận. Đấu- Bột nói : —Đêm nay tôi xin đem binh qua sông trước kẻo binh Tống chặn đường e bất lợi. Thành Đắc-Thần cười đáp : — Tống Tương - công đánh giặc vì háo chiến chớ không thông binh pháp. Ta tới sớm đánh sớm, tới trễ đảnh trễ, có chi phải lo. Thành Đắc-Thần cứ để sáng tỏ mới độ binh qua sông. Công tôn Cố nói với Tống Tương-Công : — Binh Sở để sáng mới qua sông là có ý khinh ta. vậy nhân lúc địch qua nửa sông, ta xua binh đổ ra chặn đánh tất trọn thắng. Tống Tương-Công chỉ cây đại kỳ nói : — Cờ ta đề “Nhân nghĩa » há đâu làm bậy. Công-tôn Cố thở dài không biết nói sao. Giây phút binh Sở qua hết, Thành Đắc Thần đầu đội mão ngọc, mình mặc áo thêu, giáp gấm, tay cầm roi ngồi trên ngựa điểm binh, bố trận trông rất thư thả. Công-tôn Cố lại xin xáp trận, Tống Tương-Công nhổ nước miếng vào mặt, và nói : — Người ham thắng mà chẳng kể đến lời đàm tiếu của người đời hay sao ? Công-tôn Cố một lần nữa thở dài. Thế trận binh Sở dàn xong người ngựa tràn -dày. binh Tống xem thấy khiếp vía. Bấy giờ Tống Tương Công cầm giáo ra lệnh tiến quân, đàng sau có Công-tử Đảng, Hướng-sĩ Phủ. Công-tôn Cố hộ giá. Bên binh Sở. Thành Đắc-Thần ngầm ra hiệu để cho Tống Tương-Công đến gần, mới hét lên một tiếng bao vây binh Tống vào giữa. Công-tôn Cố rán sức phá vòng vây mà chạy, bỗng có tướng Sở là Đấu-Bột chặn lại đánh Công- tôn Cố gần đuối sức, may nhờ có Hướng-sỉ Phủ (tướng Tống) đến trợ lực, Công tôn Cố mới giải phá được trùng vây mà chạy. Bỗng thấy Hướng-sĩ Phủ mặt đầy máu, chạy lại nói : — Ngài mau vào cứu Chúa-công. Khi công-tôn Cố vào đến nơi thì thấy Tống Tương-Công mình mảy đầy thương tích, chân phải bị một mũi tên không đứng lên được nữa, còn Công-tử Đảng cũng đang bị thương nằm trên xe, lá Cờ nhân nghĩa đã bị quân Sở lấy mất rồi. — Ngài cố sức phò Chúa-công, tôi không sống đựơc nữa. Nóì xong tắt thở. Công tôn Cố rán sức phá vòng vây phò Tống tương-Công chạy về Kinh đô nước Tống. Về đến nơi kiểm điểm binh thua thấy mười phần chết hết bảy, ngựa xe, khí giới đều bỏ lại nơi chiến trường. Cha mẹ vợ con các thương binh tử sĩ kéo đến triều oán trách. — Tại Chúa công không nghe lời quan Tư-mã nên mới thảm bại như vậy. Tống Tương-Công nói : — Ta lấy nhân nghĩa mà xử, hiềm vì người Sở quá tiểu nhân nên ba quân mới mang hại như vậy. Nhận xét : — Lòng tham vọng nếu vượt khỏi ta, nặng thì trở thành một quái tượng. Tống Tương-Công là một kẻ dốt nát lại bất tài, thế mà tự ví mình như những người cao kiến, đạo đức. Bắt chước Tề Hoàn-Công, muốn làm bá chủ chư hầu, Tống Tương-Công họp các nước để nghe hiệu lệnh. Muốn bắt chước dùng đạo đức để chinh phục nhân tâm, Tống Tương-Công dựng cờ nhân nghĩa kéo quân ra trận. Thật là tấn tuồng ngây ngô không thể tả. Chưa hiểu thế nào là đạo đức , thế nào là tài năng, chỉ bắt chước học đòi thì làm sao tránh khỏi trò cười trong thiên hạ. Ngày nay, những kẻ như Tống Tương-Công cũng không thiếu gì trong xã hội. Đã bất tài mà cứ ví mình như các bậc vĩ nhân, ước Vọng những việc cao xa, thực ra những việc làm nhỏ nhen nhất cũng không làm nên chuyện. Những người như Tống Tương - Công thường là những kẻ tham địa vị hão huyền, sự ước muốn vượt quá xa với tài năng và khôn ngoan của mình. | |
| | | Tri Âm Quán Thành Viên Tích Cực
Tổng số bài gửi : 6340 Reputation : 2 Join date : 31/07/2013 Đến từ : Thị Trấn Chũ
| Tiêu đề: Re: ÔN CỐ TRI TÂN (tập 1) Tue Sep 19, 2023 7:44 pm | |
| KHƯƠNG THỊ VÀ TRÙNG-NHĨ — Sắc đẹp là liều thuốc mê, nó có thể làm dừng bước chân khách anh hùng, làm tiêu tan những vết đau, đồng thời cũng có thể làm cho chí dọc ngang phải tiêu diệt. Trùng-Nhĩ, công-tử nước Tấn đi tỵ nạn sang nước Tề, lấy nàng Khương-thị làm vợ và ở luôn đấy đợi ngày về nước phục nghiệp. Bấy giờ nước Tấn, Vua Tấn Hiến-Công vô đạo. không theo đường lối chủ trương của cha mình, lại thân với Sở, nghịch với Tống sanh nhiều biến loạn. Bọn Triệu-Thôi theo phò Trùng-Nhĩ thấy thế bàn riêng với nhau. — Chúng ta qua Tề nương náu là muốn cậy uy lực của Tề để mưu lập nghiệp. Nay Tề Hoàn-Công đã suy vi, chư hầu đều phản chắc không thể nào giúp Công tử được, chi bằng chúng ta sang nước khác để lo liệu việc lớn. Cả bọn lúc đó muốn bàn với Trùng-Nhĩ, ngặt vì Trùng-Nhĩ qúa mê đắm Tề Khương sớm tối chẳng rời, không lo gì đến việc phục nghiệp nữa. Bọn Triều- Thôi chầu chực mấy lần mà không gặp mặt. Ngụy thù giận nói ; — Chúng ta tin tưởng Công tử là người biết lo, chẳng nệ khó nhọc đem nhau đến đây giúp sức, ngờ đâu ngày nay người lại quá tệ như vậy. — Hồ-Yển can: nơi đây không thể nói chuyện riêng được. Các ông theo tôi. Mọi người dắt nhau đến một nơi gọi là Tang-âm, trung quanh trồng toàn dâu, tàn cây phủ kín, cả ngày bóng mặt trời không rọi xuống đất được. Triệu-Thôi kêu chín người bạn cùng ngồi lại bàn tính. Triệu Thôi hỏi ! — Hồ Yển có kế gì hay không ? Hồ Yển đáp : — Nay ta phải sắp đặt hành trang cho sẵn, rồi đến với Công-tử đi săn, khi đi ra khỏi thành chúng ta bắt áp công tử theo chúng ta. Song tôi chưa biết chúng ta phải sang nước nào bây giờ ? Triệu Thôi đáp: — Vua Tống đang lo phục hưng, lại là kẻ háo danh. Chúng ta đến đó may ra được việc. Hồ-Yển nói : — Tôi vẫn có quen với Công-tôn Cố, người này hiện làm chức Tư Mã. Chúng ta qua đó may ra có thể nhờ cậy được. Cả bọn bàn tính với nhau suốt buổi mới về, đinh ninh không ai hay biết Không ngờ thị tỳ của -Khương-Thị đang hái dâu, ngồi trên cây, thấy lạ để ý rình nghe rồi về báo cho Khương-Thị biết Khương-thị nghe xong hét; — Chúng bay chớ nói bậy. Rồi sai người đem mấy đứa thị tỳ nhốt vào một nơi, đến đêm đem ra giết hết. Khương-thị lại nói với Trùng-Nhĩ: — Các tướng theo chàng định đem chàng sang nước khác. Mấy đứa thị tỳ của thiếp đi hái dâu nghe được về thuật lại. Thiếp sợ tiết lậu ra ngoài hư việc lớn của chàng nên đã đem bọn thị tỳ giết hết. Vậy xin chàng lo liệu. Trùng-Nhĩ nói : — Trước kia còn trẻ, ta còn lo việc tranh bá đồ vương, chứ nay đã già rồi, ta chi ước mong được an vui là đủ. Khương-thị nói : — Từ khi chàng đem thân bôn ba đến nay. Nước Tấn chẳng đặng yên bởi Di-Ngô bạo ngược, vô đạo. Dân trong nước không ưa. các chư hầu đều ghét, chỉ mong lập người khác, ấy là điềm trời báo cho chàng biết trước, sao chàng lại nản chí ? Trùng-Nhĩ ham mê Khương-thị vẫn không chịu đi. Ngày hôm sau, bọn Triệu-Thôi đứng ngoài cửa cung sai người vào mời Trùng-Nhĩ đi săn. Lúc ấy Trùng- Nhĩ chưa dậy, chỉ sai con thị tỳ ra nói : — Công tử hơi mệt, hôm nay không đi được. Khương-thị nghe nói liền sai người mời riêng Hồ-Yển vào hỏi : Nhà ngươi mời Công tử đi săn có ý chi chăng ? Hồ-Yển thấy trong câu nói của Khương-thị có ý nghi ngờ, nhưng vẫn làm ra vẻ tự nhiên đáp : — Trước kia Công tử ở nước Dịch thường săn bắn, nay đã lâu lắm không đi sợ Công-Tử sanh ra biếng nhác, chúng tôi tổ chức cuộc săn này không có ý gì ngoài việc giúp vui cho Công-tử. Khương-Thị mỉm cười nói: Lần này đi săn, nếu không sang nước Tống cũng sang nước Tấn hoặc Sở, có phải thế không? Hồ Yển giật mình nói : — Đi săn sao lại đi xa như vậy ? Khương-thị nói : — Thôi đừng giấu giếm ta làm gì. Các ngươi muốn đem Công-tử trốn đi, ta đã biết hết. Đêm vừa rồi ta cũng cố khuyên Công-tử nhưng Công-tử nhất định không nghe. Vậy thì chiều nay ta mở một tiệc rượu, ép Công-tử uống thật say, lúc ấy các ngươi cứ việc lên xe mà đem đi là hay hơn cả. Hồ Yển sụp lạy nói : — Nếu phu nhân dứt bỏ được tình rêng, giúp cho chí lớn của công-tử thì hiền đức ấy không ai sánh kịp. Nói xong. Hồ Yển cáo từ lui ra. Thuật chuyện lại với Triệu Thôi. Đoạn thu xếp hàng trang kéo nhau ra đợi sẵn ngoài cửa. Tối hôm ấy, Khương Thị bày tiệc rượu, mời Trùng-Nhĩ nâng chén tâm tình. Trùng-Nhĩ hỏi : Hôm nay có việc gì vui mà phu nhân bày yến tiệc? Khương-thị nói : Thiếp nghe phu quân có ý muốn về nước nên bày chén rượu nhạt tiễn chân. Trùng-Nhĩ nói: Đời người khác nào như bóng ngựa qua cửa sổ, dẫu có dọc ngang trời đất, phơi xương trải mật, rồi cuối cùng chỉ vùi thân dưới ba tấc đất mà thôi. Nay ta đã hưởng được cảnh an nhàn như thế này rồi còn ước mong gì nữa? Khương-thị nói: — Thưa Công-tử, thiếp tưởng cõi trăm năm của loài người hơn nhau ở chổ biết dùng cái thân mình làm lợi cho nhân quần xã hội. Biết rằng đời người ai cũng chết, nhưng có kẻ chết đi để lại cho đời những công đức không quên được, còn có kẻ chết đi chỉ làm mất một giá áo túi cơm mà thôi. Hễ đấng trượng phu thì phải lập chí, nay các người theo hầu Công tử đã tận tâm giúp sức xin Công-tử xét lại. Trùng-Nhĩ có ý giận, bỏ chén rượu xuống không uống nữa. Khương-Thị nói : Công tử thật tình không muốn đi hay đã dối lòng ? Trùng-Nhĩ nói: Tình ta lưu luyến, có bao giờ lại dứt bỏ đi được ? Khương- thị vừa cười vừa nói : — Một bên là chí hướng, một bên là tâm tình, nếu Công tử ra đi thì thiếp vì chí hướng của công-tử mà dâng chén chia phôi, còn nếu Công-tử không đi thì thiếp vì tâm tình của công-tử mà dâng chén tương thân. Thôi, Công-tử chớ buồn, hãy vì thiếp uống cho thật nhiều để vui câu sum hiệp. Nghe vợ nói, Trùng-Nhĩ rất hài lòng. Vợ chồng cùng nhau chén tạc chén thù, lại sai thị nữ múa hát làm cho phòng tiệc tưng bừng. Trùng Nhĩ ham vui, uống quá chén mà Khương- thị vẫn cố ép mời nên Trùng-Nhĩ uống đến lúc không còn ngồi được nữa, say mèm nằm gục trên giường. Khương thị lấy chăn đắp lại rồi cho người mời Hồ Yển vào. Hồ-Yển biết Trùng-Nhĩ đã mắc kế Khương – thị liền khiến Ngụy - Thù và Điêu – Hiệt vào cùng khiêng Trùng-Nhĩ bỏ lên xe, đoạn từ giã Khương-Thị lên đường. Khương-thị ứa lụy quay vào. Đêm ấy, bọn Hồ- Yển ra đến biên ải hiệp cùng bọn Triệu -Thôi đi suốt đêm. Trời tang tảng sáng, Trùng-Nhĩ nằm trong xe mới cựa quậy, gọi người lấy nước uống. Hồ - Yển cầm cương xe, ngồi bên cạnh đáp: — Phải đợi trời sáng rõ mới vào trong xóm xin nước uống được. Trùng - Nhĩ thấy chỗ nằm lắc lư, gọi bọn thị tỳ hỏi : Chiếc giường sao lạ vậy ? Chúng bay đỡ ta ra khỏi chiếc giường này. Hồ- Yển mỉm cười đáp : — Đâu phải giường ? Xe đấy mà ! Trùng-Nhĩ mở mắt nhìn hỏi: — Ai nói thế ? — Tôi là Hồ-Yển đây. Trùng Nhĩ hoảng hốt ngồi dậy hét to : — Chúng bay định đem ta đi đâu vậy ? Sao không nói trước ? Hồ-Yển nói : — Tôi định đem nước Tấn dâng cho Công-tử đó. Trùng-Nhĩ nói : Nước Tấn đâu không thấy, nay bỏ mất Tề ta không muốn đi. Hãy đem ta trở lại. Hồ- Yển nói dối : — Công-tử đã ra khỏi nước Tề hơn trăm rặm rồi. Vua Tề biết Công tử trốn đi thế nào cũng cho người theo bắt. Nếu trễ nải e thiệt mạng, còn luyến tiếc làm gì ? Trùng-Nhĩ nổi giận trông thấy Ngụy-Thù cầm cây giáo đứng hầu bên cạnh liền giật lấy đâm Hồ-Yển. Hồ-Yển thất kinh vội nhảy xuống xe bỏ chạy. Cả bọn xúm nhau khuyên can : — Kẻ trượng phu không vì vương vấn thê nhi mà nhụt chí đến như phận quần thoa mà có kẻ đã chịu dứt tình, hy sinh để bồi đắp nghĩa cả, công-tử há chẳng thấy sao. Trùng-Nhĩ trầm lặng một hồi, nghĩ đến mối tình thống thiết của các tướng đã theo mình, lại nghĩ đến lời nói của Khương-Thị lòng hơi thèn thẹn đáp : — Thôi thì ta cũng chiều theo ý các ngươi. Nhận xét: Một người đàn bà hiền, có thể giúp chồng thành công. Đang lúc Trùng-Nhĩ bỏ nước Tấn lưu vong sang nước Tề, được vua Tề trọng đãi, chu cấp đầy đủ, lại gả nàng Tề Khương làm phu nhân. Lòng tốt ấy tưởng không còn gì hơn. Tuy nhiên nhìn vào thực tế, chúng ta lại thấy vua Tề làm hại chí hướng của Trùng- Nhĩ. Thường tình, con người sống trong cảnh an nhàn , sung sướng hay sinh lòng tự mãn , không thiết tha đến công việc chiến đấu nữa. chính Tề Hoàn-Công đã đưa Trùng-Nhĩ vào con đường ấy. Xưa cũng như nay, các chính-trị gia thường mê hoặc dân chúng bằng lối ,đem những cuộc vui, những trò ủy mị, những thứ thanh nhàn phổ biến trong cuộc sống dân gian, biến thành mục tiêu của đồi trụy Không còn thiết tha đến công cuộc tranh đấu, cứu quốc, lập quốc nữa. Cho nên nhiều nước trên thế giới, chúng ta nhìn vào đâu đâu cũng vui chơi hoan lạc, bề ngoài thật tưng bừng náo nhiệt, tưởng như nước ấy đang tràn ngập vinh quang, nhưng thực ra nước ấy đang lao đầu vào vực thẳm, đưa mình đến chỗ thoái hóa, trong khi các nước khác tuy bề ngoài thấy khắc khổ mà bên trong lại đang vươn lên trên một đà tiến bộ phi thường. Như thế, Tề Hoàn-Công vô tình đã làm nhụt chí Trùng-Nhĩ , đưa Trùng Nhĩ chết dần trong đệm ấm, chăn êm, trút cả chí trượng phu trên giường thê nhi vậy. May thay, Khương- thị lại là người vợ rất hiền. Đàn bà như nàng Khương-Thị tưởng trong thế gian này ít ai bì kịp. Cái thâm thúy hơn hết, là nàng biết trọng tình nghĩa mà cũng biết trọng chí anh hùng, no cho nước non dân tộc, dám hy sinh tình chăn gối riêng mình để giúp chồng đạt được mục đích. Ngoài tánh tốt ấy, Khương-thị còn là kẻ có chí lớn. Hễ chồng được cao sang thì vợ được vinh hiển, hy sinh chút tình chăn gối nhỏ nhen hiện tại để mưu đồ một hạnh phúc lớn lao về sau chẳng phải là người đàn bàa túc trí đa mưu sao ? Khuyên chồng đứng lên đáp lời sông núi, Khương-Thị làm nổi bật chí khí của người đàn bà ân quốc Á Đông, Duyên dáng thay câu nói của nàng, một bên là chí hướng, một bên là tâm tình. Nếu Công-tử ra đi thì thiếp vì chí hướng của Công tử mà dâng chén chia phôi. Còn nếu công tử không đi thì thiếp vì tâm tình của Công-tử mà dâng chén tương thân. Xin Công-tử chớ buồn hãy cùng thiếp uống cho thật nhiều để vui câu sum hiệp . Trùng-Nhĩ nếu không nhờ động lực thúc đẩy của Khương-thị thì chí làm trai đã bị mai một trên giường thê nhi rồi còn đâu. cho nên việc Trùng-Nhĩ sau nầy phục được nước Tấn phải nói là nhờ nàng ở nàng Khương một phần lớn vậy. Lời xưa có nói : “Vợ khôn ngoan làm quan cho chồng. Người đàn ông dù hư hèn, non nớt đến đâu mà có được người vợ biết thúc đẩykhuyên nhủ, thì người chồng cũng sẽ nhờ đó mà hăng hái lên, đảm đương lấy nhiệm vụ, mưu đồ sự nghiệp. Trái lại, người đàn ông dù có chí lớn mà bị người yêu dùng tình cảm lung lạc dùng cái hạnh phúc của ái tình hiện tại mà mê hoặc thì người đàn ông sẽ bị nhụt chí ngay. Người đàn ông cần phải phấn đấu. Sức phấn đấu ấy sẽ làm được nhiều việc phi thường. Thế mà đời nay có nhiều người đàn bà đã không giúp ích gì được cho người đàn ông trên đường xây dựng sự nghiệp mà còn làm cho họ bận tâm, chán nản, để rồi trong gia đình không tao lập được một cơ sở yên vui, ngoài xã hội không làm được điều gì hữu dụng. Những người đàn bà ấy cần phải suy gẫm nhiều về tấm gương của nnàng Khương đối với Trùng-Nhĩ. | |
| | | Tri Âm Quán Thành Viên Tích Cực
Tổng số bài gửi : 6340 Reputation : 2 Join date : 31/07/2013 Đến từ : Thị Trấn Chũ
| Tiêu đề: Re: ÔN CỐ TRI TÂN (tập 1) Wed Sep 20, 2023 7:12 pm | |
| TRÙNG NHĨ VÀ NẮM ĐẤT NƯỚC VỆ Được cơm là chuyện dễ, được đất mới là chuyện cam go. Công-tử Trùng-Nhĩ trốn sang đất Dịch để lánh nạn mưu sát của cha là Tấn Hiến-Công và mẹ ghẻ là Ly-Cơ. Nhưng ở nước Địch cũng không yên, vì em là Di Ngô tức vua Tấn Huệ-Công lại sai người ám hại Trùng-Nhĩ phải lưu vong trốn sang nước khác. Trong khi cơ cực, người tiểu lại Đầu-Tu lại phỗng hết bạc vàng trốn đi mất. Sang nước Vệ, vua Vệ cũng không tiếp, sai quân đóng kín cửa thành. Ngụy-Thù và Điêu-Hiệt giận lắm, bàn với Trùng- Nhĩ cho người đến trách Vệ hầu. Triệu Thôi bảo : —Con rồng vàng mà lúc thất thế cũng không thua gì con dế. Trách người lúc này là chuyện vô ích. Ngụy - Thù và Diêu Hiệt nói : —Vệ hầu thô lỗ thế thì ta còn nể nang làm gì nữa, cứ việc vào làng xóm cưởp lương thực mà ăn —Trùng-Nhĩ nói: Không nên, làm như vậy chúng ta trở thành đạo tặc Thà chết còn hơn. Trùng-Nhĩ và bọn tôi thần lâm vào cảnh đói khát đến phải đi xin ăn. Một hôm lần đến đất Ngư Lộc cả bọn Trùng-Nhĩ đều đói lả, cơ hồ như không còn bước đi được nữa. May sao có người làm ruộng đang ngồi nghỉ mát dưới cội cây mở cơm gói ra ăn. Trùng-Nhĩ bèn bảo Hồ-Yển đến xin. Bọn nông phu nhìn đám người của Trùng-Nhĩ rồi bảo: — Khỏe mạnh như thế mà không biết làm gì để kiếm cơm ăn sao ? Chúng ta cày ruộng mệt nhọc như thế nầy nếu không ăn cho no thì làm sao cầy nổi. cơm không có đủ ăn có đâu dư mà cho các ngươi. Hồ- Yển nói : Các ngươi không cho ta cơm thì cho ta xin một cái bát. Bọn nông phu không hiểu Hồ-Yển xin bát không để làm gì rồi nổi lên cười ồ. Có người trong bọn nông phu lại hốt đưa cho Hồ-Yển một nắm đất và bảo: Đất này bọn ngươi có thể đem nắng thành cái bát được. Ngụy-Thù tức giận vô cùng xốc đến mắng bọn làm ruộng, rồi giành lấy cái bát đập vỡ tan. Trùng-Nhĩ cũng tức giận toan giơ roi đánh bọn nông phu ấy. Hồ-Yển nghiêm trang ngăn lại thưa: được cơm là chuyện dễ, được đất mà là chuyện cam go. Phải chăng đây là triệu chứng báo cho nước Vệ sẽ bị mất. Đó là điềm trời mượn tay các nông dân chất phát này để trao đất cho Công-Tử đấy. Công tử chớ nên giận dữ đánh người ta mà phải lạy người ta để nhận lãnh. Trùng-Nhĩ nghe theo. Xuống xe lạy bọn cày ruộng. Nhận xét: Kẻ trí phải hiểu thời, kẻ dũng phải lượng sức. Không hiểu thời là dại dột. Đơn thân phiêu bạt xứ người để tìm chỗ nương thân, để tìm lấy miếng cơm manh áo cho qua ngày. Thì là hạng vua chúa hay kẻ thứ dân cũng phải đành chịu câu nhẫn nhục mà thôi. Lời xưa có nói: “nhập gia tùy tục, đáo xứ tùy thân”. Kẻ nào muốn phiêu bạt làm ăn cho yên thân, đều phải phục tùng phương pháp ấy. quyền hành đâu nữa, vua chúa đâu nữa khi phải lưu vong nơi tha phương? Một ông vua trong lúc thất thời, thì có khác gì một thường dân đâu? Sở dĩ người ta kính trọng, xua bợ, dua nịnh là vì người ta sợ cái thế lực hiện có trong tay, hoặc người ta cầu cạnh để tìm một địa vị nào đó thôi. Quyền hành, thế lực đã mất đi thì thử hỏi ai còn xua nịnh, bợ đỡ làm gì ? Triệu-Thôi nói : “ Con rồng vàng mà thất thế thì cũng chẳng hơn con dế». Câu nói ấy quả là kẻ hiểu biết sâu xa về thời vận vậy. Chỉ có những người vũ phu như Nguy-Thù, Điêu-Hiệt mới liều lĩnh, muốn dùng cái quyền hiện đã mất đi để bắt kẻ khác tùng phục. Trong thế gian hầu hết chỉ thấy những hoàn cảnh trước mắt. ít ai có tầm mắt sâu xa thấy được việc Vị-lai. Trước mắt những đám người tầm thường ấy hễ thấy ai có tiền của, địa vị thì họ kính vì, ai đói rách, nghèo nàn thì họ khinh khi. Họ có biết đâu thế sự đổi dời,đời người chẳng khác dâu biển, ngày nay không phải là ngày mai, mà tất cả đều phải chịu nằm trong quy luật đổi thay của vũ trụ. Ngược lại, nhiều kẻ cho mình là sáng suốt, trí dũng hơn người, thế mà lúc đắc thế cũng chỉ biết có hiện tại, không nghĩ đến hậu lai. Những hạng người này chẳng khác nào vua nước Vệ, toàn là những người mù qúang thiển cận, thật đáng khinh. Còn như bọn nông dân thực thà chất phác chúng ta chẳng nói làm chi, trước mặt họ chỉ thấy toàn là khổ cực họ không mong gì hơn được an thân, và rất ghét những ai uy hiếp họ. Họ thấy bọn người của Trùng-Nhĩ người nào cũng khỏe mạnh, chân tay còn lành lặn, có xe có ngựa, thế mà lại đi xin những kẻ cơ hàn như họ, bảo sao họ không nghĩ đến đôi bàn tay chai của họ. giọt mồ hôi của họ đã đổ mà chưa đủ cơm ăn để lấy sức làm việc. Chính họ đã giận những người lười mà không cho cơm, ghét kẻ ngồi mát ăn bát vàng mà không tương trợ, chứ thật ra thâm tâm họ không phải khinh người. Vì họ là những người nghèo nàn. Khổ cực nhất còn lên mặt khinh ai ? Hốt nắm đất đưa cho bọn Hồ-Yển cũng không phải là cử chỉ khinh người, nhưng là một cử chỉ đầy khích lệ, một bài học rất sắc và thực tế. Các anh hãy làm việc đi. Các anh hãy đổ mồ hôi đi. Nhồi nặn nắm đất này đi, các anh sẻ có bát mà dùng. Các anh không thể ngồi không mà tự tự nhiên chén bát lăn đến cho các anh dùng được. | |
| | | Tri Âm Quán Thành Viên Tích Cực
Tổng số bài gửi : 6340 Reputation : 2 Join date : 31/07/2013 Đến từ : Thị Trấn Chũ
| Tiêu đề: Re: ÔN CỐ TRI TÂN (tập 1) Fri Sep 22, 2023 7:25 pm | |
| HỒ-ĐỘT VỚI TINH THẦN ÁI-QUỐC Chết không đáng sợ, chỉ sợ làm con không giữ được hiếu, làm tôi không giữ được trung. Hồ Đột là một tôi thần nước Tấn. Gặp lúc nước Tấn sa vào bước suy vi, vua cha lập kế hại mẹ, mẹ ghẻ mưu giết con chồng để giành ngôi cho con riêng mình. Các vị công-tử đều bỏ trốn ra nước ngoài mưu đồ phục nghiệp. Hồ-Đột thấy Công tử Trùng-Nhĩ là người hiền có thể thay vua Tấn sau nầy để giữ gìn cơ nghiệp, nên bảo con là Hồ-Yển : — Cha thấy Công-tử Trùng-Nhĩ là người hiền, lại có tướng lạ, xương sườn dính liền nhau, con mắt có hai đồng tử. Nếu được Trùng-Nhĩ sau nầy kế nghiệp thì nước Tấn chẳng những bền vững mà muôn dân được hưởng ấm no. Hiện nay anh con là –Hồ-Mao đã theo hầu Trùng-Nhĩ rồi, vậy con phải lập tức ra đất Bồ, bàn với Trùng-Nhĩ mau trốn ra nước khác để khỏi bị hại về tay Ly-Cơ người mẹ nghẻ độc ác đó. Hồ - Yển tuân lời hợp lực phò Trùng - Nhĩ đến nước Địch. Vua Tấn Hiến-Công chết. Công-tử Di-Ngô trở về đoạt ngôi tức là Tấn Huệ-Công. Huệ-Công lại sợ công-tử Trùng-Nhĩ về đoạt ngôi mình nên ngầm sai Bột-Đề tuyển một số võ sĩ sang nước Địch ám sát Trùng-Nhĩ. HỒ Đột hay tin kinh hoàng liền viết mật thư sai người nhà lén sang nước Địch báo tin, và bảo hai con là Hồ-Mao, Hồ-Yển phò Trùng-Nhĩ đi trốn. Tấn Huệ-Công chết, con là Công-tử Ngữ lên nối ngôi tức là Tấn Hoài-Công. Tấn Hoài-Công cũng lo Trùng-Nhĩ là người hiền, sớm muộn cũng sẽ được chư hầu giúp sức đem quân về đánh, nên ra lệnh ; — Phàm những bề tôi nước Tấn theo Trùng-Nhĩ đi trốn, hạn trong 7 tháng họ phải trở về. Nếu tại triều có ai là thân nhân họ hàng của họ cũng phải viết thư triệu họ về. Ai về đúng hạn thì được ân xá và giữ chức cũ. Kẻ nào không về sẽ bị kết án tử hình vắng mặt, và cha mẹ, anh em ở nhà đều phải tội chết. Bấ y giờ Hồ-Đột có hai người con là Hồ-Mao và Hồ- Yển theo phò Công-tử Trùng-Nhĩ. Khước-Nhuế khuyên Hồ-Đột nên viết thư gọi về. Hồ Đột nhất quyết không nghe. Khước-Nhuế vào tâu với Tấn Hoài-Công : — Hai người con của Hồ-Đột đều thuộc vào hàng hiền sĩ, nay hai người ấy theo Trùng-Nhĩ khác nào hùm vậy, xin Chúa-công buộc Hồ-Đột triệu về mới được. Tấn Hoài-Công cho đòi Hồ-Đột vào hỏi : — Hồ-Mao Hồ-Yển theo phò Trùng-Nhĩ sao quốc lão không viết thư gọi về ? Hồ-Đột nói : — Hai đứa con tôi theo phò Công-tử Trùng-Nhĩ đã lâu ngày tất phải một lòng trung với Trùng-Nhĩ. cũng như các quan tại triều trung với Chúa-công vậy. Phỏng như chúng bỏ Trùng-Nhĩ về đây, tôi còn bắt tội giết đi, huống hồ tôi lại viết thư gọi chúng về sao ? Tấn Hoài Công nổi giận khiến người cầm gươm kề vào cổ Hồ Đột rồi nói : Nếu muốn khỏi chết phải viết thư gọi hai con Về. Khước-Nhuế lại lấy bút mực đặt trước mặt Hồ-Đột, rồi cầm tay bắt Hồ-Đột viết. Hồ Đột nói lớn : — Cứ để ta viết, cần gì mà phải cầm tay ? Nói xong Hồ Đột viết xuống giấy mấy chữ rất lớn: «Con không hai cha, bề tôi không hai vua*. Tấn Hoài-Công giận đến tím mặt hét to: — Ngươi không sợ chết à? Hồ-Đột cười lớn đưa cổ cho hai võ sĩ chém, và nói : — Tôi chỉ sợ làm con khộng giữ được đạo hiếu làm tôi không giữ được đạo trung mà thôi. Còn như cái chết là chuyện thường đời người ai cũng không tránh khỏi có gì mà sợ ? Tấn Hoài-Công dạy đem Hồ-Đột ra ngoài chợ khai đao để răn dân chúng. Hồ Đột chết ai nấy đều rơi lệ. Nhận xét: — Khi mà tư tưởng con người đã có sẵn một chí hướng, thì cái chết đến với kẻ ấy không đáng kể nếu làm trái chí hướng của họ. Trùng-Nhĩ và Thân-Sinh đều là hai kẻ hiền, thế mà bị cha mẹ, em, cháu mưa giết. Cho hay ở đời hiền chưa chắc đã gặp lành. Hiền thật đấy. nhưng nếu cái hiền của mình lại là một chướng ngại vật cho kẻ khác thì cái hiền ấy cũng đáng ngại thay. Hiền là đối tượng với ác. Kẻ ác thường đố kỵ kẻ hiền, họ sợ người hiền chiếm đoạt lấy địa vị của họ, nên họ phải giết kẻ hiền, để củng cố cái ác của mình. Dù là kẻ ác cũng không phủ nhận hiền là một đức tính tốt, lẽ ra họ phải học tập lấy bản thân, tạo cho mình những điều hiền đức để giành lấy ưu thế. Nhưng họ lại không làm vậy mà chỉ hy vọng ở chỗ dùng cái ác của mình để tiêu diệt kẻ hiền. Những kẻ ác không thể nào hiền. Vì vậỵ mà họ đố kỵ với người hiền. Trong lúc đố kỵ họ lại quên rằng càng đố kỵ thì ác càng nhiều, mà ác càng nhiều thì dễ bị tiêu diệt. Hồ-Đột là một tôi thần có chí hướng, có đức trung vì thấy Trùng-Nhĩ hiền mà mến đức, rồi đi đến chỗ phụng thờ, ủng hộ cá nhân của Trùng Nhĩ. Chẳng những thế mà còn bảo hai con theo phò Trùng-Nhĩ trên bước đường lưu vong. Tấn Hòai-Công giết Hồ-Đột không phải vì Hồ-Đột biết kính mến đức hiền lành của Trùng-Nhĩ mà sự kiện thực tế vì Hồ-Đột ủng hộ cái chướng ngại vật có thể làm hại đến địa vị của Tấn Hoài-Công. Hồ-Đột làm quan đã già, thừa hiểu hành động giúp một kẻ chống lại Tấn Hoài-Cônng là không thoát khỏi chết. Tuy nhiên Hồ-Đột lại xem cái chết ấy như một trò chơi. Xem nhẹ cái chết của mình, không phải Hồ-Đột không có chủ trương, hy sinh một cách vô ích chính cái chết của Hồ-Đột là một bài học rõ rệt, dạy cho hai người con của ông không bỏ người hiền, thờ kẻ ác, dù cho phải nát thịt tan xương. Hồ-Đột chết dưới tay Tấn Hoài-Công gieo vào lòng Hồ Mao và Hồ-Yển một mối căm thù, khiến cho Hồ-Mao. Hồ Yển dốc lòng phò Trùng-Nhĩ nhiều hơn, để trả mối thù cha. Cái chết ấy hoàn-toàn có ý nghĩa và có tác dụng mạnh. | |
| | | Tri Âm Quán Thành Viên Tích Cực
Tổng số bài gửi : 6340 Reputation : 2 Join date : 31/07/2013 Đến từ : Thị Trấn Chũ
| Tiêu đề: Re: ÔN CỐ TRI TÂN (tập 1) Sat Sep 23, 2023 7:17 pm | |
| TRÙNG-NHĨ TRÊN ĐƯỜNG VỀ NƯỚC Lúc đắc thế không quên thủa sơ cơ, giàu sang không quên ngày cơ cực. Trùng-Nhĩ lưu vong trên đường lập nghiệp, sang nước Tần mượn quân về phục nghiệp- nước Tấn. Tần Mục Công thuận tình tiếp đãi Trùng-Nhĩ rất hậu, sai dọn yến tiệc nơi núi Cửu-long tiễn đưa Trùng Nhĩ lại ban mỗỉ người một đôi ngọc-bích và vật dụng không thiếu món nào, bù lại với lúc cơ cực, lang thang từ nước này sang nước khác. Trùng-Nhĩ và bọn Triệu-Thôi tỏ lời cảm tạ Tần Mục-Công khiến các quan nước Tần như : Bá Lý.Hề, Do Dư Công-tử Trí; Công-tôn Chi hộ giá đưa Trùng. Nhĩ đến sông Hoàng-hà. Đến nơi, ghe thuyền đã chực sẵn để đưa qua sông. Tần Mục-Công rót một chung rượu đưa cho Trùng-Nhĩ và nói : —Công-Tử về chuyến này rán lo nghiệp cả cho thành, chớ quên vợ chồng ta. Nói xong, khiến Công-tử Trí và Phi-Báo làm tiền phương độ binh sang sông, còn Tần Mục công và các quan Tần kéo nhau trở về. Từ lúc Trùng-Nhĩ lưu lạc ở các nước ngoài cho đến nay, Hồ-Thúc luôn luôn theo hầu một bên không rời. Nay trở về, Hồ-Thúc gom góp đồ đạc, mềm chiếu, mỗi mỗi đều đem theo, dầu rách cũng không bỏ. Trùng-Nhĩ thấy vậy cười nói: — Nay ta về làm Chúa nước Tấn, người đem những đồ ấy về làm gì. Bèn khiến đem những vật đó ném xuống sông. Hồ-Yển thấy vậy than : — Giàu sang chưa thấy mà công-tử đã đổi lòng, quên lúc hàn vi đói khổ. Nay mai công tử được giàu sang chắc cũng đối đãi với chúng tôi như những vật cũ rách này. Nhưng chưa muộn. Chúng ta chưa qua sông. chưa đặt chân lên đất Tấn, chúng ta có thể bỏ đi nơi khác để sau này khỏi buồn lòng. Hồ-Yển bước đến trước mặt Trùng-Nhĩ dâng viên ngọc bích của Tần Mục-Công trao tặng cho mình và nói : — Công-tử qua sông rồi là đến đất Tấn tại triều đã có các lão thần giúp sức, bên ngoài lại có các chư hầu che chở, nước Tấn như đã thu lại trong tay, chẳng lo gì nữa. Vậy xin Công-tử cho tôi ở lại Tần làm ngoại thần cũng được. Tôi xin dâng Công-tử viên ngọc này làm vật giã từ. Trùng-Nhĩ ngạc nhiên hỏi : — Bấy lâu nay cực khổ có nhau, nay sắp được hiển vinh, sau ngươi lại thối thác ? Hồ-Yểu đáp : — Trước Công tử còn cô đơn nên tôi không nỡ bỏ, nay Công-tử sắp sửa về nước làm vua, kẻ hầu người hạ không thiếu gì, vậy xin Công-tử cho tôi ra đi để khỏi phải ân hận sau này vì bị hắt hủi, như những vật cũ rách vừa rồi. — Thật ta có lỗi với các ngươi nhiều lắm. Liền khiến lượm các đồ vật cũ rách lên không chừa lại một món. Lại quăng cục ngọc xuống sông mà thề : -Sau này ta có bội ước con cháu ta sẽ không được an vui, xin thủy thần chứng giám. Nhận xét: Ý thức con người là kim chỉ nam cho hành động. Chưa hành động mà có ý thức thì hành động trước sau cũng đến. Thói thường trong cao sang người ta đổi tánh. Ý thức con người bắt nguồn từ hoàn cảnh vật chất bên ngoài mà ra. Trong lúc lưu vong nơi đất lạ quê người Trùng-Nhĩ đã nhờ tấm chăn manh chiếu mà ấm thân, nhờ mảnh vải mà khỏi lạnh. Tuy là những vật không qúy giá gì, nhưng rất hữu dụng, đã từng gúp Trùng-Nhĩ trong lúc nghèo nàn. Đến nay. chưa bước lên địa vị cao sang mà Trùng-Nhĩ đã hủy bỏ nó đi, không hề luyến tiếc. Đó chính là tư tưởng “Có mới nới cũ. Được cá Quên nơm ». Đời nay, những tư tưởng mất gốc cũng không thiếu gi. Từ một địa vị cao sang họ đã quên ngay cái con người căn bản của họ rồi. Họ tưởng chừng như họ sanh ra trong phong lưu phú qúy vậy. , Những người có tư tưởng vong bản thường là những kẻ phụ bạc. Có những người bạn lúc nghèo nàn chơi thân với bà con hàng xóm trong cơ-cực, lúc cao sang họ quên hẳn những kẻ ấy, và chỉ biết có cao song mà thôi. Bọn Triệu Thôi trách Trùng-Nhĩ không quá đáng. Trùng Nhĩ đã có tư tưởng như vậy làm gì sau này không bỏ rơi bọn Hồ-Yển? May thay, Trùng-Nhĩ cũng là con người có ý thức giác ngộ, kịp thời nhận thức được tư tưởng nguy hiểm của mình, nên sau này mới lãnh đạo được đám hiền thần dựng lên sự nghiệp nước Tấn. | |
| | | Tri Âm Quán Thành Viên Tích Cực
Tổng số bài gửi : 6340 Reputation : 2 Join date : 31/07/2013 Đến từ : Thị Trấn Chũ
| Tiêu đề: Re: ÔN CỐ TRI TÂN (tập 1) Mon Sep 25, 2023 7:47 pm | |
| BỘT-ĐỀ PHẢN BẠN Kẻ tiểu nhân thường nuôi ý thức cầu an. Sau khi giết xong Thế-tử Thân-Sinh, vua Tấn Hiến- công hạ lệnh cho Bột Đề mang quân sang đất Bồ bắt công- tử Trùng-Nhĩ đem về giết. Quân lính bao vây ngôi nhà, nhưng Trùng-Nhĩ đã được mật tin chạy trốn. Bột-Đề rượt theo nắm được vạt áo cắt đứt một mảnh. Lúc Tấn Hiến-Công chết, con là Di-Ngô lên nối ngôi tức là Tấn Huệ-Công. Tấn Huệ-Công lại sợ Trùng-Nhĩ đem quân về cướp ngôi nên sai Bột- Đề một lần nữa tuyển chọn lực sĩ sang nước Địch để ám sát Trùng-Nhĩ. Nhưng chuyến nầy Bột-Đề cũng không thành-công vì vua nước Địch kiểm soát rất ngặt, kẻ gian không thể lọt vào nước được. Việc ám hại Trùng-Nhĩ do đó bất thành. Tấn Huệ-Công chết, con là Ngữ lên nối ngôi, tức là Tấn Hoài-Công. Bấy giờ Trùng-Nhĩ nhờ quân nước Tần ủng hộ về nước để chiếm ngôi. Dân nước Tần và các tôi thần đều oán ghét Tấn Hoài-Công, nên rất hâm mộ Trùng-Nhĩ về kế nghiệp. Tấn Hoài-Công đánh không lại Trùng-Nhĩ nên được Bột-Đề phò tá chạy sang đất Cao lánh nạn. Trùng- Nhĩ mật sai người theo giết Tấn Hoài-Công làm cho Bột- Đề bơ vơ phải quay về nước Tấn. Trùng-Nhĩ lên ngôi lấy hiệu là Tấn Văn-Công. Khi mọi việc an bài liền mở tiệc đãi đằng các tướng, còn việc thưởng phạt thì không hề nhắc đến. Lã Di-Sanh và Khước-Nhuế là tôi thần của Tấn Hoài-Công tuy đã đầu hàng Tấn Văn-Công nhưng lòng vẫn nghi ngại không an. Hai người định tìm Bột-Đề bày mưu tạo phản. Ngày nọ Lã Di-Sanh và Khước-Nhuế bàn với Bột- Đề thừa lúc đêm khuya phóng hỏa đốt cung giết Trùng- Nhĩ. Bột-Đề đồng ý và cả ba cắt huyết ăn thề. Tuy nhiên, Bột-Đề bên ngoài giả bằng lòng hợp tác nhưng bên trong lại nghĩ thầm : —Lúc trước ta lãnh lệnh Tấn Hiến-Công bắt Trùng-Nhĩ, chém đứt vạt áo, sau đó ta lại được sai sang nước Địch tìm giết Trùng-Nhĩ. Hai tội ấy nay có qui hàng chắc cũng không khỏi chết. Còn nếu nghe theo Lã Di Sanh và Khước-Nhuế làm loạn thì cũng không yên thân được với chư hầu. Thôi, thà đến báo việc này cho Tấn quân hay, dẫu có chết cũng cam phận. Tính xong, ngay đêm ấy, Bột-Đề đến ra mắt Hồ-Yển, Hồ-Yển thấy Bột-Đề thất kinh hỏi : — Ngươi là người có tội sao không trốn lại ở đây ? Bột-Đề đáp. : — Tôi có việc cơ-mật, muốn bàn cùng tân quân xin ngài giới thiệu giùm. Hồ-Yển nói : — Ngươi muôn chết hay sao mà đem xác đến dâng ? Bột-Đề nói: — Dầu chết cũng cam, xin ngài cứ làm ơn tiến dẫn Hồ-Yển bèn dẫn Bột-Đề vào cung, nhưng để Bột-Đề đứng ngoài cửa, vào trước tâu trình với Tấn Văn- Công. Tấn -Văn-Công nói : Chắc không có chuyện gì cơ mật đâu. Chắc Bột- Đề vào muốn nhờ người đến dẫn để xin tội đấy thôi. Hồ-Yển nói : Muốn cho mọi người cảm phục, xin Chúa-công rộng lượng với kẻ có tội. Tấn Văn-Công nghe nói đổi giận làm lành, truyền nội thị đòi Bột Đề vào trách . Trước ngươi chém ta đứt vạt áo, sau cố tâm tìm ta hạ thủ may ta thoát được. Nay ngươi còn đến đây làm gì ? Bột-Đề nói : —Chúa-công lưu lạc mười mấy năm trời mà chưa thông hiểu tình đời cho mấy. Và Tiên-vương với Chúa công là cha con. còn Tấn Huệ-Công với Chúa-công là anh em. Cha con, anh em mà còn thù nhau, huống hồ Bột-Đề này chỉ là một kẻ tôi thần chịu dưới sự sai khiến của kẻ khác. Xưa Quản-Trọng vâng lời Công-tử Cử bắn Tề Hoàn-Công trúng đai da. thế mà lại được Tề Hoàn-Công yêu dùng. Nay Chúa-công hẹp lượng với Bột-Đề này sao phải ? Tôi mà không đến đây, Chúa-công không tránh khỏi tai vạ. Hồ-Yển tâu ; — Xin Chúa-công cho khép Bột-Đề tâu, xem có gì hệ trọng chăng ? Tấn Văn-Công hỏi : — Vậy ngươi muốn tâu việc gì ? Bột-Đề không nói, đưa mắt nhìn hai bên. Tấn Văn –Công hiểu ý đuổi hết nội thị ra ngoài. Lúc ấy Bột-Đề mới kể hết âm mưu tạo phản của Lã Di-Sanh và Khước-Nhuế . Kể xong, Bột-Đề nói ; Nay bọn chúng có rất nhiều tay chân thủ hạ trong thành. Muốn trừ tuyệt chúng, Chúa-công phải qua nước Tần cầu viện mới xong. Hồ-Yển nói : — Nay việc đã gấp, tôi xin hộ-tống Chúa-công sang Tần bàn kế. Việc trong nước đã có Triệu-Thôi lo liệu thì chu tất lắm. Bột Đề từ tạ lui ra. Hồ-Yển sửa soạn một chiếc xe nhỏ, chờ đến canh năm, cả hai cải dạng ra khỏi thành sang nước Tần. Rạng ngày trong cung có lệnh truyền ra ; —Chúa-công bị bịnh. Các quan kéo vào cung để vấn an. nhưng cửa cung đóng chặt, lại cò tấm bảng đề “Miễn triều». Kẻ giữ cửa nói : — Chúa-công bị bệnh không tiếp người nào, truyền các quan đến ngày mồng một hãy đi chầu. Ai nấy ngỡ thiệt, thở phào ra về. Lã Di-Sanh nói với Khước-Nhuế : — Thế là trời chiều lòng chúng ta đó. Trong lúc đó Tấn Văn- Công và Hồ-Yển đã cải trang đến biên giới nước Tần, sai người đem mật thư giao cho Tần Mục.Công, mời Tần Mục-Công đến Vương-thành nghị sự. Tần Mục Công xem thư biết Tấn hầu có biến, nên vội vã lấy ngựa đi, nói dối là đi săn, thẳng đến Vương- thành bàn bạc. Tấn Văn-Công bày tỏ mọi việc. Tần Mục-Công mỉm cười nói : —Mạng trời đã định. Bọn Lã Di-Sanh và Khước- Nhuế làm sao thoát được. Ta liệu một mình Triệu-Thôi lo việc ấy đặng, hiền hầu chớ lo. Nói rồi trở về sai Công-tôn Chi đem binh đến đóng nơi Hà khẩu. chờ động tĩnh tùy nghi định liệu. Còn Tấn Văn-Công ở đỡ lại Vương-thành chờ tin. Từ khi có tin Tấn Văn-Công bị bệnh, Bột-Đề sợ Lã Di-Sanh và Khước-Nhuế nghi nên ở luôn nơi nhà Khước-Nhuế, dối là để lo bàn công việc. Đến ngày ấy, Bột-Đề nói với Khước-Nhuế : —Tấn Văn-Công hẹn mai sẽ ngự triều, nay chắc đã mạnh rồi, e thấy lửa cháy chạy trốn được. Hai ngài nên chia nhau giữ cửa trước, cửa sau. Còn tôi giữ cửa triều để ngăn người chữa lửa, dầu Trùng-Nhĩ có cánh cũng không thể thoát được. Tối hôm ấy cả bọn nai nịt, binh khí cầm tay. trang bị đồ dẫn hỏa mai phục bốn phía chờ canh ba hành sự. Đến canh ba. bọn nội thị đang ngủ trong cung giật mình thấy lửa cháy bốn bề, xen lẫn với tiếng người hét. — Rán bắt Trùng-Nhĩ chớ để chạy thoát. Lã Di-Sanh xách gươm vào tìm Trùng-Nhĩ, song kiếm khắp nơi vẫn không thấy. Bỗng thấy Khước- Nhuế cũng đang đi tìm hai người chưa hết ngạc nhiên thi thấy Bột-Đề chạy vào báo : - — Các tướng Tấn đem binh đến, mau mau tẩu thoát. Lã Di-Sinh và Khước-Nhuế thất kinh, gặp ai giết nấy, mở đường ra đến ngọ môn mới lên ngựa chạy. Các tướng Tấn dẫn quân vào cung chữa lửa nhưng không hiểu duyên cớ nào cả. Trời sáng lửa tắt mới biết Lã Di Sanh và Khước Nhuế làm phản. Còn Tấn Văn-Công mất tích, không ai biết nơi đâu. Bỗng gặp người nội thị tâm phúc của Tấn Văn- Công nói : Cách đây vài hôm, vào lúc canh năm, Chúa- Công mặc thường phục ra đi với Hồ-Yển, chẳng rõ đi đâu đến nay chưa thấy trở về. Ngụy-Thù nói : Có lẽ Chúa-Công đã biết trước được âm mưu của bọn phản loạn nên lánh mặt. Nay tuy bọn phản loạn đã bỏ trốn, nhưng chắc đi chưa xa. Tôi xin đem quân đuổi theo bắt lại trị tội. Triệu-Thôi nói : — Hai tên phản nghịch ấy có trốn đi đâu cũng phải chết; Chúa-công đi vắng, chúng ta không nên động binh. Giữa lúc đó, Lã Di-Sanh và Khước-Nhuế cũng hay tin Tấn Văn-Công chưa chết, lại sợ quan đại-phu đem quân vây bắt, bàn mưu trốn ra nước ngoài tị nạn, nhưng chưa biết đi đâu. Bột-Đề không muốn hai loạn tướng thoát vòng pháp luật, nên giả cách bàn : — Các ngài trước kia đã quen biết Tần, nay nên sang Tần nói dối là trong cung phát hỏa. Trùng-Nhĩ bỏ mình, nay xin đón công-tử Ung về kế vị. Khi Công-tử Ung đã lên ngôi rồi thì Trùng Nhĩ có trở về cũng không tranh nổi. Lã Dì-Sanh nói : — Vua Tần trước kia có cùng ta ăn thề ở Vương- thành, nay sang đầu chẳng biết vua Tần có dung nạp chăng? Bột-Đề nói: Tôi xin sang trước, dò xem ý vua Tần thế nào rồi sẽ liệu kế. Lã Di-Sanh và Khước-Nhuế bằng lòng, cùng đi với Bột-Đề ra khỏi biên giới nước Tấn, rồi ở đó chờ tin. Bột-Đề đến cửa sông Hoàng-hà nghe tin Công-tôn Chi đóng quân bên kia sông, liền đến nơi đại dinh, đem sự tình kể lại cho Công-tôn Chi biết. Công-tôn Chi nói : — Bọn phản nghịch đã đến đây nạp mạng. Ta nên dụ má giết đi. Nói xong viết một phong thư giao cho Bột-Đề đem về đưa cho Lã Di-Sanh và Khước-Nhuế. Trong thư đại-lược nói : Trùng-Nhĩ lúc về nước có hứa với Chúa-công tôi nạp năm thành, vì vậy Chúa-công sai tôi đóng quân nơi đây để cho Trùng-Nhĩ không dám bội ước như Tấn Huệ- Công thủa nọ. Nay nghe tin Trùng-Nhĩ bị chết thiêu, hai ngài đón Công-tử Ung về, Chúa công tôi cũng hoan hỉ. xin mời hai ngài mau mau đến đây nghị sự. Lã Di-Sanh và Knước-Nhuế tiếp được thư mừng rỡ không chút nghi ngờ. vội đến yết kiến Công-tôn Chi. Công-tôn Chi ra nghênh tiếp, bày tiệc thết đãi rất hậu. Lã Di-Sanh và Khước-Nhuế vững dạ ở yên Công tôn- Chi sai người phi báo cho Tần Mục-Công hay, và đề nghị Tần Mục-Công đến đất Vương-thành để thấy mặt hai tên phản loạn. Chẳng bao lâu, Công-tôn Chi nói với Khước-Nhuế và Lã Di-Sanh. — Nay Chúa-công tôi hiện ra công du nơi Vương- thành, Hai ngài muốn yết kiến xin để binh mã nơi đây, theo tôi đến đó tôi sẽ tiến cử cho. Lã Di-Sanh và Khước-Nhuế nghe theo lời cùng với Bột-Đề và Công-tôn Chi ra đi. Đến nơi, Công-tôn Chi và Bột-Đề vào trước yết kiến Tần Mục-Công Tần Mục-Công một mặt sai Phi-Báo ra đón Lã Di- Sanh và Khước-Nhuế, một mặt bảo Tấn Văn-Công núp sau bình-phong để nghe kể tội hai tên phản loạn. Lã Di-Sanh và Khước-Nhuế bước vào sụp lậy Tần Muc-Công rồi tâu việc lập Công-tử Ung. Tần Mục-công cười, nói : — Công-tử Ung hiện nay có mặt nơi đây rồi. Lã Di-Sanh và Khước-Nhuế đồng thanh nói : — Nếu vậy xin cho chúng tôi được yết kiến vua mới Tần Mục-Công gọi lớn : — Tấn-Vương đâu, xin mời ra đây hội kiến ? Tấn Văn-Công từ sau bình phong bước ra. Lã Di- Sanh và Khước-Nhuế trông thấy giật mình sụp lạy xin lỗi. Tần Mục Công mời Tấn Văn-Công cùng ngồi rồi nói: — Hai loạn tướng đã đến đây xin giao quý quốc xét định. Tấn Văn-Công chỉ vào mặt Lã Di-Sanh và Khước- Nhuế mắng: — Phản tặc ! Ta không xử tệ với chúng baỵ sao chúng bay lại đang tâm bày trò phản phúc ? Nếu Không Có Bột –Đề tố giác chúng bay đã làm hại cơ nghiệp của ta rồi. Đến bây giờ Lã Di-Sanh và Khước Nhuế mới biết Bột-Đề bội-phản, lòng căm hận nói với Tấn Văn-Công : — Bột-Đề đi cùng chúng tôi uống huyết ăn thề mà bội phản như vậy thì thật là người bất tín, xin Chúa-công giết Bột-Đề đi, đừng dùng. Tấn Văn-Công nói : — Nếu không ăn thề làm sao rõ được âm mưu của các ngươi ? nói xong, truyền võ sĩ đem Lã Di-Sanh và Khước- Nhuế ra chém, lại sai Bột-Đề làm giám sát. Nhận xét: — Làm người cốt ở chữ tín, dù làm bạy đi nữa. Đã hứa với ai cũng không nên quên tín nghĩa. Kể ra Bột-Đề cũng là tay trung trinh đấy. Từ lúc theo phò tá Tấn Hoài-Công chay trốn ra nước ngoài đến lúc hoạn-nạn mà không bỏ, mãi cho đến lúc Tấn Hoài- Công chết mới quay về nước. Đức trung liệt củu Bột- Đề không thiếu. Nhưng Bột-Đề là một mẫu người điển hình cho kiếp con người làm quan của thời phong kiến. Con người ấy không thờ ai thì thôi mà đã thờ ai thì rất trung thành- Quay về nước trong lúc mình là kẻ có tội, lẽ ra nên hợp tác với Lã Di-Sanh và Khước-Nhuế để mưu đồ khôi phục lại địa vị cũ của mình. Bột-Đề lại phản bội hai người bạn mình đem cơ mưu tố giác- với Trùng-Nhĩ. Thế là một lần nữa,Bột-Đề muốn đem thân thờ chúa. Con người Bột-Đề cần có Chúa để thờ,. Và thờ rất trung nghĩa thế thôi. Khác với Di-Sanh và Khước-Nhuế con người thích lật lọng, nay phò, mai phế ; Bột-Đề muốn thờ vua thôi, bất kỳ vị vua ấy thế nào, miễn là có vua để thờ, và có người để tỏ lòng trung thành của mình. Mẫu người như Bột-Đề- trong thế gian này cũng không thiếu gì, đó là những kẻ có tư tưởng làm tôi, Đời sống họ không cần nghĩ gì cao xa hơn là có một địa vị nào đó để rồi cố gắng làm tròn nhiệm vụ của kẻ khác giao phó cho mình. , Phản bạn, Bột-Đề cũng không phải có ác ý với bạn, chỉ vì trong lúc Bột-Đề đang cần có vua thờ, cần có người để sai khiến mình. Phản bạn, Bột-Đề không có dụng ý lập công cầu vinh, mà chỉ chứng minh con người không bao giờ mang tiếng làm loạn. Trong nhiều nước, đời sống công chức cũng không khác gì, đời sống và tư tưởng của Bột-Đề. Các ông công chức bất cần nhà cầm quyền xấu hay tốt, hợp với ý mình hay không. nay người này lên cầm quyền cũng vâng vâng, dạ dạ, tận tụy trên công việc họ sai khiến, mai người kia lên cầm quyền cũng vâng vâng, dạ dạ, và tận tụy với công việc họ sai khiến, trong đầu óc họ hình như chỉ có thừa hành công việc làm, không cần biết kẻ sai khiến mình như thế nào. Những người này trở thành những công cụ cho guồng máy nhà nước, mà tư tưởng họ không còn biết đắn đo đến hậu qủa của công việc làm của họ nữa. Đúng là một cuộc sống công bộc vậy. | |
| | | Tri Âm Quán Thành Viên Tích Cực
Tổng số bài gửi : 6340 Reputation : 2 Join date : 31/07/2013 Đến từ : Thị Trấn Chũ
| Tiêu đề: Re: ÔN CỐ TRI TÂN (tập 1) Fri Sep 29, 2023 7:29 pm | |
| ĐẦU-TU YẾT KIẾN TẤN VĂN-CÔNG Dụng nhân như dụng mộc. Trùng-Nhĩ bị vua cha và dì ghẻ mưu sát nên bỏ trốn sang nước ngoài lánh nạn, được một số tướng lãnh theo phò, trong số đó có Đầu-Tu là người tiểu lại lo việc giữ tiền, nấu ăn. Trên bước đường lưu vong, cực khổ, nay chạy sang nước này mai chạy sang nước khác mà không hề được sự giúp đỡ. Đang khi khổ cực như vậy thì Đầu-Tu lại ẵm hết số tiền bạc làm hành trang, trốn đi một mình mất tích. Trùng -Nhĩ và đòan tùy tùng phải khổ cực đi xin ăn. Sau 19 năm lưu lạc, Trùng - Nhĩ Về nước phục nghiệp, lên ngôi nước Tấn xưng hiệu là Tấn Văn-Công. Để thu phục nhân tâm, chinh phục bọn phản nghịch còn sót lại trong nước, Tấn Văn-Công xuống lệnh đại xá cho tất cả dư đảng của loạn thần. Tuy vậy, những kẻ có tội được tha bao giờ cũng ấp ủ lo âu, nhiều lúc họ tỏ thái độ nghi ngờ không tin ở đức độ khoan hồng của nhà vua. Cũng vì vậy mà Tấn Văn-Công có ý lo lắng lắm. Một hôm trời lờ mờ sáng, có kẻ tiểu lại là Đầu- Tu xin váo yết kiến. Tấn Văn-Công nghe nhắc đến tên Đầu-Tu nổi giận: — Người ấy trước kia trộm tiền bạc của ta, khiến cho ta không còn gì tiêu dùng, phải đi ăn xin ở nước Tào và nước Vệ, bây giờ còn mặt mũi nào đến xin yết kiến ta nữa. Liền khiến quân đuổi ra. Đầu- Tu hỏi bon nội thị ; Có phải Chúa-công đang gội đầu không ? Bọn nội thị giật mình hỏi : — Tại sao nhà ngươi biết được Chúa Công đang gội đầu ? Đầu-Tu nói : — Hễ gội đầu thì phải cúi xuống, trong ruột bị lộn xộn, mà ruột bị lộn xộn thì lời nói cũng đảo-điên. Bởi thế mới không cho ta vào yết kiến. Ngày trước Chúa-công dung tha Bột-Đề mà thoát được nạn Lã Di-Sanh và Khước-Nhuế, bây giờ lại không thể dung tha cho Đầu-Tu nầy được sao ? Đầu-Tu đến đây chắc có kế giữ yên được nước Tấn, nếu Chúa công không cho yết kiến, Đầu-Tu sẽ trốn đi. Nội-thị vội vàng vào tâu với Tấn Văn-Công, Tấn Văn-Công thở dài nói : — Ta đã phạm điều lỗi. Nói xong liền đội mũ, mặc áo chỉnh tề cho Đầu-Tu vào ra mắt. Đầu-Tu vào sụp lạy, rồi nói với Tấn Văn-Công : — Chúa-công có biết những đồ đảng của Lã Di-Sanh và Khước-Nhuế còn bao nhiêu người không ? Tấn Văn-Công cau mày đáp : - Dư đảng chắc hẳn còn nhiều lắm. Bọn ấy tự nghĩ mình tội lớn dầu ta có tha cũng không tin. Đầu-Tư nói : — Ngày trước tôi lấy tiền bạc của Chúa-công làm cho Chúa-công bị vất vả đói khổ, nay nếu Chúa-công đi chơi dùng tôi đánh xe, thiên hạ thấy thế sẽ cho Chúa- công là kẻ đại độ, thì không ai còn nghi ngờ nữa. Tấn Văn-Công khen phải, giả cách đi tuần hành, dùng Đầu-Tu làm người đánh xe. Những đồ đảng của Lã Di- Sanh và Khước -Nhuế thấy vậy bảo thầm với nhau : —Đầu-Tu là kẻ có tội, thế mà Chúa-công đã quên đi dùng làm kẻ thân-cận. Chúng ta không còn lo gì nữa. Từ bấy giờ không ai còn nghi ngờ lòng khoan dung của Tấn Văn-Công nữa. Nhận xét: — Có những hạng người ranh mãnh luôn luôn khai thác hoàn cảnh để trục lợi, và lúc nào cũng xem mình như những nhà hiền triết. Sự thật cái hiền của họ chỉ để mưu lợi riêng mình. Làm tôi mà bỏ vua trốn đi trong lúc hoạn nạn, lại còn lấy trộm mất bạc vàng trong lúc lâm nguy, để cho cả bọn ra đi phải đói khổ ở xứ người thì thật là phường bất trung bất nghĩa. Khi vua trở về nước, làm nên sự nghiệp, lại mang mặt trở về uốn mình cong gối, mọp lạy, đem ba tấc lưỡi hiến kế dâng mưu để cầu lấy địa-vị của mình. Trong lúc khổ không cùng chịu, đến lúc sướng chen chân vào, Đầu-Tu đúng là con người quỷ-quyệt xảo trá, khôn lanh đến có thể nói là lưu-manh, và ra mặt điếm đàng. Con người như Đầu- Tu chỉ làm lợi cho người nào khi thấy trong cái lợi của người ấy đã có cái lợi cho chính mình. Đó là hạng người thuộc lọai phất cờ theo gió, hay theo đóm ăn tàn. Hạng người ấy thật đáng khinh, nhưng cũng có thể dùng được trong giai đoạn nào đó, và phải luôn luôn đề phòng ngày trở mặt của chúng. Nhất là khi thế lực ta bị suy giảm là lúc chúng không lợi dụng cái địa vị của ta hiện tại nữa. Nhưng dù sao, trải qua một thời gian lưu vong, thâu nhập bao nhiêu kinh nghiệm sống, Trùng-Nhĩ chắc hiểu thâm ý và đã áp dụng câu “Dụng nhân như dụng mộc» của người xưa để lại, mà dùng Đầu- Tu vậy. | |
| | | Sponsored content
| Tiêu đề: Re: ÔN CỐ TRI TÂN (tập 1) | |
| |
| | | | ÔN CỐ TRI TÂN (tập 1) | |
|
| Permissions in this forum: | Bạn không có quyền trả lời bài viết
| |
| |
| |
|