Tri Âm Quán - Lục Ngạn - Bắc Giang
Chào bạn đã ghé thăm Tri Âm Quán_Thị Trấn Chũ_Lục Ngạn_Bắc Giang!
Diễn Đàn là nơi giao lưu kết bạn, sưu tầm, lưu trữ, học hỏi và chia sẻ kiến thức.
Để cùng nhau tiến bộ trên con đường hướng thiện.
Chúc bạn sức khỏe và có nhiều thành công mới trong cuộc sống!

Om mani pad me hum
Tri Âm Quán - Lục Ngạn - Bắc Giang
Chào bạn đã ghé thăm Tri Âm Quán_Thị Trấn Chũ_Lục Ngạn_Bắc Giang!
Diễn Đàn là nơi giao lưu kết bạn, sưu tầm, lưu trữ, học hỏi và chia sẻ kiến thức.
Để cùng nhau tiến bộ trên con đường hướng thiện.
Chúc bạn sức khỏe và có nhiều thành công mới trong cuộc sống!

Om mani pad me hum
Tri Âm Quán - Lục Ngạn - Bắc Giang
Bạn có muốn phản ứng với tin nhắn này? Vui lòng đăng ký diễn đàn trong một vài cú nhấp chuột hoặc đăng nhập để tiếp tục.
Tri Âm Quán - Lục Ngạn - Bắc Giang

Mỗi người đều nhận được hai thứ giáo dục: một thứ do người khác truyền cho; một thứ, quan trọng hơn nhiều, do mình tự tạo lấy.
 
Trang ChínhTrang Chính   TUỆ TRUNG THƯỢNG SĨ NGỮ LỤC GIẢNG GIẢI   - Page 2 Icon_portal  Latest imagesLatest images  Đăng kýĐăng ký  Đăng NhậpĐăng Nhập  
Chào mừng các bạn đã ghé thăm Tri Âm Quán_Thị Trấn Chũ_Lục Ngạn_Bắc Giang! Chúc các bạn sức khỏe và thành đạt! Tri Âm Quán_Thị Trấn Chũ_Lục Ngạn_Bắc Giang.

 

  TUỆ TRUNG THƯỢNG SĨ NGỮ LỤC GIẢNG GIẢI

Go down 
Chuyển đến trang : Previous  1, 2, 3  Next
Tác giảThông điệp
Tri Âm Quán
Thành Viên Tích Cực
Thành Viên Tích Cực
Tri Âm Quán


Tổng số bài gửi : 6340
Reputation : 2
Join date : 31/07/2013
Đến từ : Thị Trấn Chũ

 TUỆ TRUNG THƯỢNG SĨ NGỮ LỤC GIẢNG GIẢI   - Page 2 Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: TUỆ TRUNG THƯỢNG SĨ NGỮ LỤC GIẢNG GIẢI     TUỆ TRUNG THƯỢNG SĨ NGỮ LỤC GIẢNG GIẢI   - Page 2 EmptyMon Oct 14, 2019 3:13 pm

5. Dịch:
Cử: Tăng hỏi Thiền sư Vạn Tuế: Đại chúng nhóm họp, cùng bàn việc gì?
Sư đáp: Phẩm tựa thứ nhất.
Thầy nói: - Thứ nhì cũng được.
Tụng:
Nói phẩm tựa thứ nhất
Trên dưới không đồng bậc.
Người trí không thật hư
Kẻ mê sanh được mất.
Người gỗ múa thác chi
Gái đá thổi tất lật.
Muốn tìm rõ ý này
Bát-nhã ba-la-mật.
 
Giảng: Ở Trung Hoa cũng như ở Việt Nam đối với các bậc đức cao đạo cả, để tỏ lòng tôn kính, chúng ta không dám gọi pháp hiệu của các Ngài mà chỉ gọi tên chùa. Ví dụ Hòa thượng ở chùa Phước Hậu thì gọi Hòa thượng Phước Hậu. Cũng vậy, Vạn Tuế là tên ngôi chùa ở núi Cửu Tuyên, Phước Châu, tỉnh Phước Kiến Trung Hoa. Đời nhà Lương, Thiền sư Huệ Cầu trụ trì tại đây nên người đời gọi Ngài là Thiền sư Vạn Tuế.

Tăng hỏi Thiền sư Vạn Tuế: “Đại chúng nhóm họp, cùng bàn việc gì?” Sư đáp: “Phẩm tựa thứ nhất.” Thượng Sĩ nói: “Thứ nhì cũng được.” Tại sao Thượng Sĩ nói vậy? Vì có thứ nhất thì có thứ nhì đối đãi nhau. Cho nên: “Nói phẩm tựa thứ nhất, trên dưới không đồng bậc.” Tức là có trên có dưới, có thứ nhất có thứ hai có thứ ba... có phân biệt sai khác. “Người trí không thật hư, kẻ mê sanh được mất.” Người trí thấy không thật không hư thì nói gì có một, có hai, có ba... Kẻ mê thấy có được có mất hai bên đối đãi, nên mới thấy có phẩm này phẩm nọ. “Người gỗ múa thác chi, gái đá thổi tất lật.” Thác chi là điệu múa; điệu múa này trang bị bằng hai hoa sen lớn bằng giấy, hai cô gái đứng trong hoa sen, tới giờ múa hai hoa sen nở ra, hai cô gái đứng trong hoa sen múa. Tất lật là một loại kèn, thổi lên âm thanh nghe rất buồn thảm. Hai câu này ý nói khi chúng ta không còn phân biệt đây là đệ nhất kia là đệ nhị, hoặc đây thật kia hư thì lúc đó giống như người gỗ, giống như gái đá. Người gỗ gái đá không có niệm phân biệt, nhưng vũ múa thổi kèn được. Đó là diệu dụng không thể nghĩ lường của người vô niệm, không còn thức phân biệt. “Muốn tìm rõ ý này, Bát- nhã ba-la-mật.” Người nào muốn tìm hiểu tột cùng chỗ này là Bát-nhã ba-la-mật. Chỗ đó là chỗ vô phân biệt, là chỗ vô niệm. 
Về Đầu Trang Go down
https://triamquan.forumvi.com/
Tri Âm Quán
Thành Viên Tích Cực
Thành Viên Tích Cực
Tri Âm Quán


Tổng số bài gửi : 6340
Reputation : 2
Join date : 31/07/2013
Đến từ : Thị Trấn Chũ

 TUỆ TRUNG THƯỢNG SĨ NGỮ LỤC GIẢNG GIẢI   - Page 2 Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: TUỆ TRUNG THƯỢNG SĨ NGỮ LỤC GIẢNG GIẢI     TUỆ TRUNG THƯỢNG SĨ NGỮ LỤC GIẢNG GIẢI   - Page 2 EmptyTue Oct 15, 2019 2:50 pm

6. Dịch:
Cử: Tăng hỏi Thiền sư Cảnh Sầm ở Trường Sa: “Con trùn chặt làm hai đoạn, đoạn nào cũng cử động, vậy Phật tánh ở đoạn nào?” Trường Sa đáp: “Động cùng chẳng động là cảnh giới gì?” Thầy nói: Hai bên không động, Động ở bên ông.
Tụng:
Con trùn chặt đứt làm hai khúc
Mỗi khúc lăng quăng, có ai biết.
Hỏi ra Phật tánh toàn khó thay
Cô phụ phanh lòng giấu sáu rùa.
 
Giảng: Có một Thiền khách đến hỏi Thiền sư Trường Sa Cảnh Sầm: Con trùn chặt làm hai đoạn, đoạn nào cũng cử động lăng quăng. Vậy lúc đó Phật tánh ở đầu nào? Phật tánh là cái biết, có động tức là có biết, hai bên đều động, vậy Phật tánh ở bên nào? Câu hỏi này thật khó trả lời, thế mà Thiền sư Trường Sa Cảnh Sầm đáp: “Động cùng chẳng động là cảnh giới gì?” Thiền sư Trường Sa là đệ tử của Thiền sư Nam Tuyền, ban đầu Ngài trụ trì ở chùa Lộc Uyển rồi tùy duyên giáo hóa không nhất định. Về sau Ngài trụ trên núi Trường Sa ở Hồ Nam, giáo hóa đồ chúng rất hưng thạnh. Người đương thời gọi Ngài là Hòa thượng Trường Sa. Ngưỡng Sơn đến hỏi: - Mỗi người trọn có việc ấy chỉ là dùng không được. Ngài bảo: - Mời ông dùng. - Làm sao dùng? Ngài liền đạp Ngưỡng Sơn té nhào. Ngưỡng Sơn nói: - Thật là con cọp to. Qua lối khai ngộ này chúng ta thấy Ngài quá đặc biệt, thuộc hạng người bạo, Ngài mời Ngưỡng Sơn dùng mà Ngưỡng Sơn không biết dùng, Ngài liền dùng bằng cách đạp Ngưỡng Sơn một đạp té nhào. Không bạo là gì? Và, Ngưỡng Sơn cũng là tay cự phách, bị ăn đạp té nhào, liền nói “thật là con cọp to”. Người đời sau gọi Ngài là Sầm Đại Trùng. Chúng ta thấy lối đối đáp của Ngài quá kỳ đặc. Con trùn đứt làm hai, bên nào cũng giãy giụa, hỏi Phật tánh ở bên nào, Ngài đáp bằng câu hỏi: “Động cùng chẳng động là cảnh giới gì?” Có phải ông nghĩ cái động là Phật tánh, còn cái không động là không Phật tánh chăng? - Động cùng không động đâu ngoài Phật tánh, sanh diệt và tịch diệt không ngoài Phật tánh. Đa số chúng ta đều nghĩ Phật tánh chỉ là cái cục cựa nhúc nhích, không ngờ Phật tánh trùm tất cả, nên mới hỏi Phật tánh ở đầu nào? Đây là lối trả lời khéo của Ngài. Thiền sư Trường Sa trả lời như thế, còn Thượng Sĩ thì nói: “Hai bên không động, động ở bên ông.” Nghĩa là hai khúc trùn đứt giãy giụa tự nó không động, tại người khởi niệm hỏi nên người đó động. Cũng giống như gió và phướn tự nó không động, mà động ở nơi tâm người khởi niệm tranh cãi gió động hay là phướn động. Thượng Sĩ làm tụng:
Con trùn chặt đứt làm hai khúc
Mỗi khúc lăng quăng, có ai biết.
Hai câu này rất dễ hiểu tôi không giảng.
Hỏi ra Phật tánh toàn khó thay
Cô phụ phanh lòng giấu sáu rùa.

“Phanh lòng” là mổ bụng. “Giấu sáu rùa”, từ ngữ này lấy từ điển tích Phật dạy tu sĩ đối với sáu trần nên giống như con rùa. Thường khi dã can gặp rùa, nếu dã can cắn cái đầu thì rùa thụt đầu vào cái mai, nếu dã can cắn chân thì rùa rút chân vào cái mai... Như vậy thì dã can không hại được rùa. Cũng vậy, người tu chúng ta sáu căn vừa chạy theo sáu trần thì phải dừng lại, không để cho sáu căn dính với sáu trần thì được bình an giải thoát. Nếu để sáu căn chạy theo sáu trần thì bất an đau khổ. “Cô phụ phanh lòng giấu sáu rùa” là cô phụ người mổ bụng mình để giấu sáu bộ phận con rùa vào trong, tức là cô phụ lời Phật dạy. Vậy, muốn nhận ra Phật tánh, đừng có chạy theo tướng động và tịnh, mà phải biết hướng sáu căn trở vào, không chạy theo trần cảnh bên ngoài thì không cô phụ lời Phật dạy, còn nếu để sáu căn chạy theo sáu trần thì cô phụ lời Phật dạy. 
Về Đầu Trang Go down
https://triamquan.forumvi.com/
Tri Âm Quán
Thành Viên Tích Cực
Thành Viên Tích Cực
Tri Âm Quán


Tổng số bài gửi : 6340
Reputation : 2
Join date : 31/07/2013
Đến từ : Thị Trấn Chũ

 TUỆ TRUNG THƯỢNG SĨ NGỮ LỤC GIẢNG GIẢI   - Page 2 Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: TUỆ TRUNG THƯỢNG SĨ NGỮ LỤC GIẢNG GIẢI     TUỆ TRUNG THƯỢNG SĨ NGỮ LỤC GIẢNG GIẢI   - Page 2 EmptyWed Oct 16, 2019 3:41 pm

7. Dịch:
Cử: Thiền sư Tùng Thẩm ở Triệu Châu. Có vị Tăng vẽ bức chân dung của Sư đem đến trình. Sư bảo: Hãy nói giống tôi không giống tôi? Nếu giống tôi thì đánh chết lão Tăng đi. Nếu không giống tôi thì đốt quách bức họa đi. Vị Tăng lặng câm. Thầy nói: - Đều là phí công.
Tụng:
Mũi nhọn bút lông khuôn giấy báu
Thầm vẽ như nhiên thân bản lai.
Dù cho đánh chết, đem thiêu rụi
Thượng giới trần gian có mấy ai.
 
Giảng: Một vị Tăng vẽ chân dung ngài Triệu Châu đem đến trình. Ngài bảo, hãy nói giống Ngài hay không giống Ngài, nếu giống Ngài thì đánh chết Ngài đi, nếu không giống Ngài thì đốt quách bức họa. Vị Tăng không trả lời được. Thượng Sĩ nói, đều là phí công. Tại sao Ngài nói như thế? Vì nói đốt hay nói giết cũng đều là nói hai bên chỉ uổng công thôi. “Mũi nhọn bút lông khuôn giấy báu, thầm vẽ như nhiên thân bản lai.” Thường họa sĩ dùng bút lông mũi nhọn vẽ hình người trên giấy gọi là tả chân (chân dung). Song, muốn vẽ cho ra cái chân thật chẳng có mấy người dù trên thượng giới hay dưới trần gian, thấy cái chân thật không qua hình thức vẽ hay tướng mạo, thật là ít có. Cho nên Ngài nói “dù cho đánh chết đem thiêu rụi”. Đánh chết thân tứ đại này hay thiêu rụi bức họa đều là giả tướng, còn thân chân thật như nhiên chẳng mấy người nhận được. Ý Thượng Sĩ nói dù cho thân tứ đại này hay bức họa cả hai đều là giả tướng, chỉ có thân chân thật như nhiên của mình mới là quí, nhưng ít người biết được.
 
8. Dịch:
Cử: Qui Sơn gói một tấm gương gởi Ngưỡng Sơn. Ngưỡng Sơn thượng đường đưa lên bảo: “Hãy nói, đây là gương Qui Sơn, là gương Ngưỡng Sơn? Có người nói được thì không đập bể.” Chúng không nói được. Ngưỡng Sơn đập nát tấm gương. Thầy nói: - Chưa khỏi cái họa Qui Sơn. Lại tiếp: - Theo hạnh nhỏ mà bỏ thừa lớn.
Tụng:
Gương báu gói niêm mặt hướng tiền
Đưa lên đẹp xấu tự hiện nguyên.
Đập đi nỡ phụ ý nung nấu
Chỉ nhận sáng trong treo tự nhiên.
 
Giảng: Ngài Ngưỡng Sơn được thầy là Thiền sư Qui Sơn gởi cho tấm gương; gởi gương là ngầm ý truyền trao hay thọ ký. Khi nhận tấm gương Ngài đối trước chúng nói: “Gương này là của Qui Sơn hay của Ngưỡng Sơn? Có người nói được thì để, nói không được thì đập.” Bây giờ quí vị nói coi! Nói của Qui Sơn hay của Ngưỡng Sơn cũng là lối nói hai bên, nên không ai mở miệng được. Thế nên Thượng Sĩ bình: “Chưa khỏi cái họa Qui Sơn.” Họa Qui Sơn là họa gì? - Dù cho đem cái gương đập đi cũng không khỏi họa, đó là việc truyền trao hay thọ ký của Qui Sơn. Lại tiếp: “Theo hạnh nhỏ mà bỏ thừa lớn.” Ngài Ngưỡng Sơn nêu lên cho mọi người thấy để ngộ, mà trong chúng không ai ngộ, đó là Ngài nghĩ cái nhỏ mà bỏ cái lớn, vì sự truyền thừa là việc lớn. Thế nên Thượng Sĩ làm tụng: Gương báu gói niêm mặt hướng tiền
Đưa lên đẹp xấu tự hiện nguyện.
Đập đi nỡ phụ ý nung nấu
Chỉ nhận sáng trong treo tự nhiên.

Ý Thượng Sĩ nói gương báu gói lại để mặt gương hướng ra trước, đưa cái gương lên mọi vật hiện trong gương rõ ràng, vật đẹp hiện đẹp, vật xấu hiện xấu không sai lệch. Gương này biểu trưng cho Đại viên cảnh trí, nếu đem gương đập đi là phụ công nung nấu của thầy tổ, đã bao nhiêu năm rèn luyện cho mình, nên đập bỏ không đành. Cứ tự nhiên nhận đi rồi treo cho sáng không hơn sao? Tâm thể chân thật của mỗi chúng ta cũng giống như cái gương không có niệm phân biệt, nhưng đối trước mọi người mọi vật, thấy biết rõ ràng đúng như thật.
Về Đầu Trang Go down
https://triamquan.forumvi.com/
Tri Âm Quán
Thành Viên Tích Cực
Thành Viên Tích Cực
Tri Âm Quán


Tổng số bài gửi : 6340
Reputation : 2
Join date : 31/07/2013
Đến từ : Thị Trấn Chũ

 TUỆ TRUNG THƯỢNG SĨ NGỮ LỤC GIẢNG GIẢI   - Page 2 Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: TUỆ TRUNG THƯỢNG SĨ NGỮ LỤC GIẢNG GIẢI     TUỆ TRUNG THƯỢNG SĨ NGỮ LỤC GIẢNG GIẢI   - Page 2 EmptyThu Oct 17, 2019 2:45 pm

9. Dịch:
Cử: Lão Tử nói: Vinh nhục đều sợ. Niêm: Tay khéo vẽ nên ngàn sự vật Tâm này nẩy nở muôn mối sầu.
Tụng:
Lạnh thì mặc áo, nực cởi ra
Không lạnh không nực, ai biết mà.
Chỉ xem liễu ngự hoa cung sắc
Đâu chỉ tìm xuân bỏ bốn mùa.
 
Giảng: Lão Tử nói gọn có bốn chữ “vinh nhục đều sợ”. Người ta tán tụng mình như thế nào là vinh? Người ta phỉ báng mình như thế nào là nhục? Xưa Lão Tử sợ cả vinh lẫn nhục, bây giờ chúng ta chỉ sợ thiên hạ phỉ báng, còn tán tụng thì rất thích. Sở dĩ Lão Tử sợ cả vinh lẫn nhục là vì cả hai đều đưa con người đến tâm bệnh. Được tán tụng thì con người khởi tâm ngã mạn, bị làm nhục thì khởi tâm sân hận, bị cái nào cũng bệnh, nên cả hai đều đáng sợ, vì thế mà Thượng Sĩ niêm: “Tay khéo vẽ nên ngàn sự vật, tâm này nẩy nở muôn mối sầu.” Nếu tay chúng ta khéo vẽ ra hàng ngàn bức ảnh đẹp hoặc làm ra hàng ngàn vật dùng tốt, đều do từ tâm dấy khởi nên sanh ra muôn mối sầu, đủ thứ bệnh. “Lạnh thì mặc áo, nực cởi ra, không lạnh không nực ai biết mà.” Nếu lạnh thì mặc áo, nếu nóng thì cởi áo, đó là lẽ đương nhiên, lạnh nực ngầm nói đến vinh nhục. Theo Thượng Sĩ sống là tùy duyên, vinh thì sống theo vinh, nhục thì sống theo nhục có gì mà phải sợ! Không lạnh không nực lúc đó thế nào? “Chỉ xem liễu ngự hoa cung sắc”, câu này dẫn ý từ hai câu thơ của Hàn Duy để bên thành tây: “Ngự liễu sơ trường giá cẩu trĩ, cung hoa vị thức hãi du nhân” nghĩa là cành liễu ở vườn ngự mới già che con chim trĩ, hoa ở trong cung chưa thức làm du khách sợ hãi. Ý nói chúng ta chỉ nhìn vẻ đẹp của cây liễu trong vườn ngự, và chỉ nhìn sắc đẹp của đóa hoa trong cung vua thì không có lâm vào tình huống “đâu chỉ tìm xuân bỏ bốn mùa”. Nghĩa là thời tiết có xuân, hạ, thu, đông, chúng ta không thể chấp nhận có mùa xuân mà phủ nhận mùa hạ, mùa thu, mùa đông. Theo Thượng Sĩ thì người tu hiểu đạo lúc nào thấy cảnh cũng đẹp, chớ không phải cảnh chỉ đẹp ở mùa xuân mà mùa hạ, mùa thu, mùa đông cảnh không đẹp. Ý Ngài dạy chúng ta đừng có tâm mong cầu, tìm cái này bỏ cái kia. Đối với người tu, sự vinh nhục không có gì phải sợ, nếu không khởi niệm phân biệt tốt xấu, vinh nhục thì tâm trong sáng bình lặng, tâm đã trong sáng bình lặng thì đâu còn sợ cái gì.
 
10. Dịch:
Cử: Thiền sư Lâm Tế đến thăm chủ tháp. Chủ tháp hỏi: “Lễ Phật trước hay lễ Tổ trước?” Lâm Tế đáp: “Tổ Phật đều chẳng lễ.” Chủ tháp hỏi: “Tổ Phật cùng Trưởng lão có oán thù gì mà chẳng lễ?” Lâm Tế liền phủi áo đi ra. Thầy nói: Được cỡi đầu cọp Chẳng vuốt râu hùm.
Tụng:
Một lần phủi áo thong thả đi
Chủ tháp trợn trừng chẳng liễu tri.
Phật, Tổ cùng đều không lễ
Thu quang khe sáng ngọc rạng ngời.
 
Giảng: Thiền sư Lâm Tế đến viếng một cái tháp to, người giữ tháp ra tiếp Ngài, hỏi: “Lễ Phật trước hay lễ Tổ trước?” Nếu là chúng ta thì trả lời “vô lễ Tổ rồi lên lễ Phật”. Nhưng ngài Lâm Tế nói: “Tổ Phật đều chẳng lễ.” Nghe Ngài nói ngang ngược quá, nên chủ tháp nói: “Tổ Phật cùng Trưởng lão có oán thù gì mà chẳng lễ?” Ngài Lâm Tế phủi áo đi ra. Như thế là sao? - Trong nhà Thiền còn thấy Phật khác Tổ khác là chưa thấy đến nơi đến chốn, Ngài khai thị ông chủ tháp nên nói “Tổ Phật đều chẳng lễ”. Ông chủ tháp nghe chẳng hội, mà còn khó chịu hỏi lại: “Tổ Phật cùng Trưởng lão có oan gia gì mà chẳng lễ?” Khai thị cho, chẳng hội mà còn khó chịu thì phủi áo đi chớ còn nói gì nữa? Thế nên Thượng Sĩ nói “được cỡi đầu cọp chẳng vuốt râu hùm”. Ngài ví lời nói không kẹt hai bên của ngài Lâm Tế khai ngộ cho chủ tháp là cỡi đầu cọp, nhưng chủ tháp không hội, ngài Lâm Tế không làm sao cho chủ tháp thức tỉnh được, bỏ đi, nên nói chẳng vuốt râu hùm. Tức là cỡi đầu được mà chưa vuốt râu được. “Một lần phủi áo, thong thả đi, chủ tháp trợn trừng chẳng liễu tri.” Ngài Lâm Tế phủi áo đi một cách thong dong tự tại, còn chủ tháp thì bực tức nhìn theo chẳng hiểu gì ý của Ngài chỉ dạy. “Phật, Tổ rốt cùng đều không lễ, thu quang khe sáng ngọc rạng ngời.” Không lễ Tổ, không lễ Phật ví như ánh sáng mùa thu rọi xuống dưới khe nước, nhìn xuống khe như có hòn ngọc rạng ngời. Nói không lễ Tổ không lễ Phật là nói đến tâm thanh tịnh sáng suốt giống như ngọc quí, mà ông chủ tháp không biết, không nhận ra.
 
11. Dịch:
Cử: Trần Tôn Túc hỏi vị Tăng: Ở đâu đến? Vị Tăng trợn mắt nhìn Sư. Sư nói: Kẻ lừa trước ngựa sau Nói thử một câu xem? Vị Tăng lặng câm. Tụng:
Ngựa sau lừa trước chớ ngược ngang
Lừa đá ngựa giày lại thế nào?
Đêm trước trong mơ người ướm hỏi
Hai thây chôn dưới một mồ sâu.
 
Giảng: Ông Tăng này tỏ ra oai, được hỏi ở đâu đến chỉ trừng mắt nhìn lại mà không trả lời. Nếu không phải là Thiền sư chánh hiệu thì cho ông Tăng này ngộ rồi, nên mới có thái độ kỳ đặc như thế. Nhưng ngài Trần Tôn Túc là một Thiền sư chánh hiệu biết rõ người, nên hỏi: “Kẻ lừa trước ngựa sau, nói thử một câu xem?” Vị Tăng không trả lời được nên làm thinh. Như vậy là bị Ngài phá vỡ. Trần Tôn Túc chỗ khác gọi là Trần Bồ Hài, hiệu Đạo Minh, thủ tọa của hội Hoàng Bá, là sư huynh của Thiền sư Lâm Tế. Ngài Trần Tôn Túc nói “lừa trước ngựa sau”, bây giờ Thượng Sĩ nói: “Lừa sau ngựa trước chớ ngược ngang, lừa đá ngựa giày lại thế nào?” Tăng bị hỏi một câu, trả lời không trôi, làm sao đây? “Đêm trước trong mơ người ướm hỏi, hai thây chôn dưới một mồ sâu.” Ý nói vị Tăng này giống như người mơ bắt chước. Thấy các Thiền sư có khi trừng mắt có khi làm thinh, tưởng đâu làm như thế là hay nên bắt chước, nhưng rốt cuộc rồi thì “hai thây chôn dưới một mồ sâu”. Hai thây là thây trợn mắt, thây lặng câm nói không được, nên chôn dưới mồ sâu. Đây là chỉ cho người dốt mà làm cao tưởng như mình giỏi lắm, không ngờ bị các Ngài bẻ lại, điên đầu đáp không được.
 
12. Dịch:
Cử: Thiền sư Cảnh Thông về sau trụ trì ở Hoắc Sơn có cư sĩ đến hỏi: “Thế nào là đại ý Phật pháp?” Sư liền lễ bái. Cư sĩ nói: “Hòa thượng vì sao lễ người thế tục?” Sư nói: “Ngươi chẳng nghe nói tôn trọng đệ tử sao?” Thầy nói: Vâng, dạ và ừ Cách nhau bao nhiêu? Lại Cảnh Thông hỏi vị Tăng: “Từ đâu đến?” Vị Tăng đưa tọa cụ lên. Sư nói: “Đầu rồng đuôi rắn.” Thầy nói: “Bóng trăng không phải là sanh kế một nhà.” Lại vị Tăng hỏi Cảnh Thông: “Thế nào là Phật?” Sư liền đánh. Vị Tăng đánh lại. Sư nói: “Ông đánh ta có đạo lý, ta đánh ông không đạo lý.” Vị Tăng lặng câm. Sư liền đuổi ra. Thầy nói: Một bên dùng bạo binh, sẽ vô nghĩa vậy, Một bên đem gà bẫy chồn, chó con chạm cọp.
Tụng:
Tướng quân ba trận chẳng thành công
Hoàng đế lệnh truyền sáu nước xong.
Vừa buông ngàn giáo trận chiến dứt
Lại nghe muôn ngựa tiếng thu vang.
 

Giảng: Ngài Cảnh Thông là đệ tử của Thiền sư Ngưỡng Sơn. Một hôm Ngài đến tham vấn, Thiền sư Ngưỡng Sơn ngồi nhắm mắt. Sư nói: - Như thế, như thế! Hai mươi tám vị Tổ ở Tây thiên cũng như thế! Sáu vị Tổ ở Trung Hoa cũng như thế! Hòa thượng cũng như thế! Cảnh Thông cũng như thế! Nói xong, Ngài đến bên phải đứng một chân, Thiền sư Ngưỡng Sơn đứng dậy lấy gậy mây đánh cho bốn gậy. Nhân đây, Ngài tự xưng Tập Vân Phong Hạ Tứ Đằng Điều Thiên Hạ Đại Thiền Phật. Có một lần Ngài đến Thiền sư Bí Ma (Bí Ma có cây gậy trên đầu gậy có cái nạng. Thiền khách đến tham vấn, Bí Ma lấy gậy đè cổ, Thiền khách nói được hay không được cũng đều bị ông đập, thành ra ai cũng ngán) trụ trên ngọn núi ở Ngũ Đài Sơn. Bí Ma thấy Ngài liền nói: - Ma quỉ nào dạy ông đi xuất gia? Ma quỉ nào dạy ông đi hành cước? Nói không được cũng bị nạng đập chết, nói được cũng bị nạng đập chết. Nói mau! Nói mau! Ngài Cảnh Thông nhảy vào lòng Bí Ma ngồi, Bí Ma vỗ vào lưng Cảnh Thông ba cái. Cảnh Thông chạy ra nói: - Lừa dối tôi cách ba chục ngàn dặm. Đó là cái kỳ đặc của ngài Cảnh Thông. Vì thế mà Thiền tông đời Tống gọi Ngài và Trí Thông là hai Đại Thiền Phật. - Ngài Trí Thông ở trong hội Thiền sư Trí Thường, bỗng một hôm, giữa đêm Ngài la lên: “Tôi ngộ rồi! Tôi ngộ rồi!” Hôm sau Thiền sư Trí Thường gọi lên hỏi: “Hôm qua ông nói ông ngộ là ông ngộ cái gì?” Ngài đáp: “Ni cô nguyên là cô gái.” Thiền sư Trí Thường gật đầu. Vì lý do đó mà ngài Trí Thông có biệt hiệu là Đại Thiền Phật. -Ngài Cảnh Thông có phong độ mà người đời không lường nổi. Khi Ngài trụ ở Hoắc Sơn có cư sĩ đến hỏi: “Thế nào là đại ý Phật pháp?” Ngài không nói gì hết, sụp xuống lạy cư sĩ. Cư sĩ thắc mắc hỏi: “Hòa thượng vì sao lễ bái người thế tục?” Ngài nói: “Ngươi chẳng nghe nói tôn trọng đệ tử sao?” Câu nói của Ngài là câu nói qua lề. Nếu là Thiền sư Hoàng Bá thì đánh bằng gậy. Thay vì đánh bằng gậy thì Ngài lạy. Đó là cái đặc biệt của Ngài. Ông cư sĩ không lãnh hội được ý chỉ, tưởng Ngài lạy ông, nên ông hoảng sợ, hỏi lại: “Hòa thượng vì sao lễ bái người thế tục?” Hỏi thì Ngài đáp: “Ngươi chẳng nghe nói tôn trọng đệ tử sao?” Kỳ thật cái lạy của Ngài không mang ý nghĩa tôn trọng đệ tử, mà có ý nghĩa như tôi đã nói ở trên. Thượng Sĩ bình: “Vâng, dạ và ừ, cách nhau bao nhiêu?” Vâng, dạ và ừ là ba từ cùng một ý nghĩa. Nhưng, thông thường người đời thích đáp vâng hay dạ chớ không thích đáp ừ. Vì vâng, dạ thì cung kính, còn ừ thì ngang ngược. Ý Thượng Sĩ nói cung kính và ngang ngược cách nhau bao nhiêu? Cũng như đứng thẳng người hay lễ bái chỉ là hình tướng tạm bợ thôi. Cảnh Thông hỏi vị Tăng: “Từ đâu đến?” Vị Tăng đưa tọa cụ lên. Sư nói: “Đầu rồng đuôi rắn.” Thượng Sĩ bình: “Bóng trăng không phải là sanh kế một nhà.” Về đêm, nhà không có đèn mà muốn ăn cơm, người ta phải dọn cơm ở ngoài sân, nếu mặt trăng thật hiện trên không thì mới thấy để gắp thức ăn mà ăn. Nếu là bóng trăng trong gương hay bóng trăng trong nước thì không phải là chỗ để chúng ta dọn cơm ăn, vì không có ánh sáng. Ý nói vị Tăng đưa tọa cụ lên giống như bóng trăng chớ không phải mặt trăng thật, đó là hành động bắt chước. Tăng hỏi Cảnh Thông: “Thế nào là Phật?” Sư liền đánh, Tăng đánh lại. Sư nói: “Ông đánh ta có đạo lý, ta đánh ông không đạo lý.” Tăng lặng câm. Tăng hỏi thế nào là Phật, Ngài đánh để khai ngộ là có đạo lý, tại sao Ngài nói không đạo lý? Còn vị Tăng đánh Sư là vô lễ sao Sư nói có đạo lý? Trong nhà Thiền nói để cho người suy gẫm đạo lý là câu nói chết là tử ngữ. Nói không để cho người suy nghĩ gì được là câu nói sống, là hoạt ngữ. Ngài đánh cốt để khai ngộ cho vị Tăng, mà vị Tăng này không ngộ, lại suy lường đánh lại Ngài, nên Ngài nói “ta đánh ông không đạo lý, ông đánh ta có đạo lý” vị Tăng không đáp được nên bị đuổi ra. Thượng Sĩ bình: “Một bên dùng bạo binh, sẽ vô nghĩa vậy, một bên đem gà bẫy chồn, chó con chạm cọp.” Vị Tăng không thông lý Thiền được khai ngộ bằng cái đánh, đánh trả lại Thiền sư là dùng bạo binh nên vô nghĩa. Còn Thiền sư Cảnh Thông thì nói lừa: Ông đánh ta có đạo lý. Ví như đem gà bẫy chồn chó, song vì chó nhỏ không biết nguy hiểm nên chạm phải cọp, đó là vị Tăng vấp phải lỗi với Ngài. “Tướng quân ba trận chẳng thành công.” Tướng quân chỉ cho vị Tăng, ba trận: trận thứ nhất hỏi đại ý Phật pháp, trận thứ hai đánh lại ngài Cảnh Thông, trận thứ ba lặng câm không đáp được. Hành động, nói, nín của vị Tăng đều không hợp đạo, nên nói ba trận không thành công. “Hoàng đế lệnh truyền sáu nước xong.” Ngài Cảnh Thông chỉ ra lệnh một chút là muôn việc đều yên ổn. “Vừa buông ngàn giáo trận chiến dứt.” Nghĩa là hai bên đối đáp. “Lại nghe muôn ngựa tiếng thu vang.” Vào mùa thu nghe tiếng muôn ngàn con ngựa nó ré vang, biểu hiện quang cảnh thanh bình. Thượng Sĩ ca ngợi tán thán Thiền sư Cảnh Thông. 
Về Đầu Trang Go down
https://triamquan.forumvi.com/
Tri Âm Quán
Thành Viên Tích Cực
Thành Viên Tích Cực
Tri Âm Quán


Tổng số bài gửi : 6340
Reputation : 2
Join date : 31/07/2013
Đến từ : Thị Trấn Chũ

 TUỆ TRUNG THƯỢNG SĨ NGỮ LỤC GIẢNG GIẢI   - Page 2 Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: TUỆ TRUNG THƯỢNG SĨ NGỮ LỤC GIẢNG GIẢI     TUỆ TRUNG THƯỢNG SĨ NGỮ LỤC GIẢNG GIẢI   - Page 2 EmptySat Oct 19, 2019 2:10 pm

13. Dịch:
Cử: Hòa thượng Đàm Không có vị Ni đến xin phép khai đường thuyết pháp. Ngài nói: “Hàng Ni phụ nữ không nên khai đường.” Ni thưa: “Long nữ tám tuổi thành Phật, là sao?” Sư bảo: “Long nữ có mười tám pháp biến hóa, ngươi biến một pháp cho lão tăng xem?” Ni thưa: “Biến được chỉ là loài chồn thành tinh.” Sư liền đánh đuổi ra. Thầy nói: - Phải thì phải, còn kẹt một mối.
Tụng:
Thương thay diệu pháp muốn bàn huyền
Đâu chỉ cầm lan (giỏ) hay buông lan (giỏ)
Đánh đuổi hồ tinh là chỉ yếu
Trước ba ba sau lại ba ba.
 
Giảng: Tôi không có tài liệu về lịch sử của Hòa thượng Đàm Không. Thượng Sĩ nêu lên, có một cô Ni đến xin Ngài khai đường thuyết pháp, Ngài ngăn không cho Ni giới khai đường thuyết pháp, nên cô Ni mới nhắc Long nữ tám tuổi thành Phật và hỏi tại sao Ngài không cho cô thuyết pháp. Ngài nói Long nữ có mười tám pháp biến hóa, bảo cô hãy biến một pháp cho Ngài xem. Cô Ni này bắt chước lời của Thiền sư, cô nói: “biến được chỉ là loài chồn thành tinh”, nên bị Hòa thượng đánh đuổi đi. Sự việc này Thượng Sĩ bình: “Phải thì phải còn kẹt một mối.” Đánh đuổi thì phải, nhưng kẹt một mối là thấy nam thấy nữ. Thượng Sĩ mới làm tụng: “Thương thay diệu pháp muốn bàn huyền, đâu chỉ cầm lan hay buông lan.” Diệu pháp muốn giảng giải đâu phải chỉ có người cầm giỏ hay bỏ giỏ mới làm được. Ý nói không phải chỉ có người nam mới làm được, người nữ làm không được. “Đánh đuổi hồ tinh là chỉ yếu.” Nói biến hóa hay nói hồ tinh, bị đánh là phải, nhưng “trước ba ba sau lại ba ba”. Tới chỗ tuyệt đối không thể dùng lời để diễn tả. Thượng Sĩ nói Hòa thượng Đàm Không còn thấy có tướng nam tướng nữ nên còn kẹt chút đó. Đối với tất cả Thiền sư mà chúng ta được đọc qua thấy vị nào đã thâm nhập được bản thể chân thật thì chỗ nhắm không khác. Nhưng sở dĩ thấy có sai biệt là tùy cơ người hỏi cao hay thấp, các Ngài dùng phương tiện khác nhau. Vì vậy mà những lời đối đáp có lúc thấy rất bạo, có lúc thấy rất từ bi nhẹ nhàng. Các Thiền sư Việt Nam thường thì đối đáp nhẹ nhàng, lâu lâu mới có vài câu bạo như “đạp lão Cồ-đàm cóng lạnh”. Nhưng đó chỉ bạo trên ngôn ngữ, chớ không bạo ở hành động như các Thiền sư Trung Hoa đấm đá... Phương tiện các ngài dùng cốt làm sao cho người đương cơ tỏ ngộ là mục đích chánh.
 
D THI CA Dịch:
BÀI CA TÂM PHẬT
Phật! Phật! Phật! Không thể thấy
Tâm! Tâm! Tâm! Không thể nói.
Nếu khi tâm sanh là Phật sanh
Nếu khi Phật diệt là tâm diệt.
Diệt tâm còn Phật chuyện không đâu
Diệt Phật còn tâm khi nào hết?
Muốn biết Phật tâm, sanh diệt tâm
Đợi đến sau này Di-lặc quyết.
Xưa không tâm, nay không Phật
Phàm, Thánh, người, trời như điện chớp.
Tâm thể không thị cũng không phi
Phật tánh chẳng hư cũng chẳng thật.
Bỗng dưng dấy, bỗng dưng dừng
Xưa qua nay lại luống nghĩ bàn.
Đâu chỉ chôn vùi thừa Tổ tông
Lại khiến yêu ma nhà mình lộng.
Muốn tìm tâm, đừng tìm ngoài
Bản thể như nhiên tự rỗng lặng.
Niết-bàn sanh tử buộc ràng suông
Phiền não Bồ-đề đối địch rỗng.
Tâm tức Phật, Phật tức tâm
Diệu chỉ sáng ngời suốt cổ kim.
Xuân đến, tự nhiên hoa xuân nở
Thu về, hiện rõ nước thu sâu.
Bỏ vọng tâm, giữ chân tánh
Như người tìm bóng mà quên kính.
Đâu biết bóng có từ nơi gương
Chẳng rõ vọng từ trong chân hiện.
Vọng đến không thật cũng không hư
Gương nhận không cong cũng không thẳng.
Cũng không tội, cũng không phước
Lầm sánh ma-ni cùng bạch ngọc.
Ngọc có vết chừ châu có tỳ
Tánh vốn không hồng cũng không lục.
Cũng không được, cũng không mất,
Bảy lần bảy là bốn mươi chín.
Tam độc cửu tình nhật trong không
Lục độ vạn hạnh sóng trên biển.
Lặng, lặng, lặng, chìm, chìm, chìm
Cái tâm muôn pháp là tâm Phật.
Tâm Phật lại cùng tâm ta hợp
Lẽ ấy như nhiên suốt cổ kim.
Đi cũng thiền, ngồi cũng thiền
Trong lò lửa rực, một hoa sen.
Ý khí mất thì thêm ý khí
Được nơi an tiện hãy an tiện.
Chao! Chao! Chao! Ối! Ối! Ối!
Bọt trong biển cả nổi chìm rỗng.
Các hạnh vô thường tất cả không
Linh cốt Tiên sư chỗ nào thấy?
Tỉnh tỉnh thức, thức tỉnh tỉnh
Bốn góc đạp đất chớ chinh nghiêng.
Người nào nơi đây tin được đến
Trên đảnh Tỳ-lô cất bước đi Hét!
 

Giảng: Thiền tông nói tâm tức Phật, Phật tức tâm. Nghĩa là Phật chính là tâm, tâm chính là Phật. Theo con mắt nhà Thiền thì Phật hay tâm có sẵn nơi mỗi người, không hai. Bây giờ quí vị kiểm lại coi có người nào không có tâm không? - Ai cũng có tâm Phật hết, vậy ai cũng là Phật, thế mà không ai chịu nhận mình là Phật, cứ cho mình là chúng sanh! Trước khi giảng Bài Ca Tâm Phật của Thượng Sĩ, tôi nói rộng về nghĩa này để quí vị thấy được lẽ thật đó. Bây giờ chúng ta phải hiểu từng chữ một; Tâm là gì? - Tâm là biết. Phật là gì? - Phật là Giác. Vậy, nơi mỗi người chúng ta ai cũng có tri giác, ai cũng có tâm Phật hết; tri là biết, giác là tâm, tri giác là thấy biết đúng như thật. Vậy có giác nào không tri và có tri nào không giác? Tri không rời giác, giác không rời tri, dường như hai mà không phải hai. Nếu thấy được lẽ thật đó, chúng ta mới hiểu được nghĩa tâm tức Phật hay Phật tức tâm. Bây giờ tôi nói lẽ thật mà các Thiền sư chứng nghiệm. Ở đoạn trước có nói Thiền sư Trí Thông trong hội ngài Qui Tông. Một hôm, nửa đêm Trí Thông la lên: “Tôi ngộ rồi! Tôi ngộ rồi!” Hôm sau ngài Qui Tông gọi lên hỏi: “Hôm qua ông nói ông ngộ là ông ngộ cái gì?” Trí Thông đáp: “Ni cô nguyên là cô gái.” Ngài Qui Tông gật đầu. Ngộ gì lạ lùng vậy? Cô gái và Ni cô là một hay là hai? - Nói một thì không được, vì vóc dáng Ni cô khác với cô gái; lúc cô gái còn tóc sao không gọi Ni cô? Khi cạo tóc ở chùa mới gọi Ni cô? Song, nói khác cũng không được, vì không có cô gái thì không có Ni cô. Câu chuyện này nói lên ý nghĩa ngộ lý “Phật tức là tâm”. Mới nghe qua thấy rất dễ, nhưng kỳ thật rất thâm thúy. Lại, có một vị Tăng, một hôm cũng nói: “Tôi ngộ rồi! Tôi ngộ rồi!” Ông thầy kêu hỏi: “Ông ngộ cái gì?” Tăng đáp: “Nếu biết đèn là lửa, cơm chín đã lâu rồi!” Nấu cơm cần lửa, có cây đèn để trên bàn Phật, mà không nhớ, chạy xin lửa ở hàng xóm, quên lửa ở cây đèn trên bàn Phật. Nếu nhớ lửa ở cây đèn trên bàn Phật thì đâu có chạy đi xóm làng để xin lửa quá lâu. Nên nói: “Nếu biết đèn là lửa, cơm chín đã lâu rồi!” Đó là ý nghĩa “tức tâm tức Phật”. Như vậy chúng ta phải hiểu tâm Phật không hai thứ. Nhưng hiện tại thì chúng ta thấy có hai, vì khi nói tới tâm ai cũng nghĩ tới tâm phân biệt của phàm phu mê loạn và nói tới Phật là nghĩ tới tâm giác ngộ sáng suốt. Do nghĩ như thế mới thấy chúng sanh và Phật khác nhau. Tôi xin đặt một câu hỏi để quí vị nghiệm lại chỗ này. Muốn có tâm giác ngộ sáng suốt thì phải làm sao? Có phải chuyển tâm phàm phu mê loạn thành tâm giác ngộ sáng suốt không? Rời tâm mê loạn phàm phu đâu có tâm giác ngộ sáng suốt. Hiểu như vậy quí vị mới nhận được ý nghĩa tức tâm tức Phật. Tức là dừng ngay tâm động loạn phàm phu thì tâm thanh tịnh sáng suốt hiện. Tâm thanh tịnh sáng suốt là tâm giác, tâm Phật. Như vậy, tâm mê hay tâm giác cũng là tâm, chỉ khác nhau ở chỗ mê và giác. Nói tâm mê hay tâm giác là nói theo cái thấy phân biệt của phàm phu. Biết theo mê loạn thì gọi là tâm phàm phu, biết theo giác ngộ thì gọi là tâm Phật. Vậy, đặt Phật và tâm riêng có được không? - Riêng có Phật ngoài tâm, riêng có tâm ngoài Phật không thể được. Hiểu rõ chỗ này chúng ta học Bài Ca Tâm Phật mới thấy cái đặc biệt của Thượng Sĩ. Câu đầu của bài ca là “Phật! Phật! Phật! Không thể thấy”. Tại sao Ngài nói ba lần Phật như vậy? - Có hai trường hợp: trường hợp thứ nhất là nhìn theo ý trước sau, Ngài dùng ba chữ trùng điệp là nói mạnh, nhắc cho chúng ta thâm nhập cho được ý nghĩa này, chớ không phải ba chữ Phật có ba nghĩa khác nhau, ba chữ Phật điệp khúc ba lần, để cho chúng ta nhớ sâu “Phật không thể thấy”. Phật thờ trên bàn mỗi ngày chúng ta lễ lạy, sao nói Phật không thể thấy? Phật ngồi trên bàn thờ và Phật tức tâm có khác nhau không? - Phật ngồi trên bàn thờ là Phật tượng, Phật cốt, không phải nghĩa Phật tức tâm. Phật tức tâm thì không thể thấy, song chúng ta tu ai cũng đều có sở nguyện thành Phật, mà Phật không thể thấy làm sao thành? Nếu chúng ta thấy Phật, tức là thấy tâm giác ngộ, vậy thì tâm giác ngộ là ai và ai thấy? Thấy tâm giác ngộ là người thấy và tâm giác ngộ là cái bị thấy. Người thấy và cái bị thấy là hai, như vậy, đâu phải là mình. Không phải là mình thì đâu có nghĩa Phật tức tâm. Thế nên Thượng Sĩ nói không thấy Phật nếu thấy là sai, vì thấy Phật bên ngoài, không phải Phật tức tâm ở nơi mình. Phật tức tâm là chỉ Tánh giác ở nơi mình thường lặng lẽ sáng suốt. Nếu mình thấy nó thì nó là cái bị thấy, là cảnh không phải là mình. Chẳng hạn cái hoa này là cái bị mắt tôi thấy, mắt tôi thấy và cái hoa không phải là một; vì hoa là cái bị thấy là đối tượng bên ngoài, mắt là cái hay thấy là cái bên trong. Nếu Phật là tâm giác ngộ sáng suốt là cái bị thấy, thì Phật không phải là tâm giác ngộ, cho nên nói: Phật! Phật! Phật! không thể thấy. “Tâm! Tâm! Tâm! không thể nói.” Nãy giờ chúng ta nói rất nhiều về tâm, sao nói tâm không thể nói? Quí vị thấy sao? Chúng ta nói, chỉ là diễn tả bằng ngôn ngữ để cho người nghe mường tượng hiểu. Thật ra tâm là cái không thể nói tới được. Tại sao vậy? Khởi nói năng là tâm khởi, vì tâm mới biết khởi. Nếu không tâm thì không khởi không nói. Cái biết đó là động cơ sử dụng cái lưỡi phát ra ngôn ngữ, nó là chủ, còn ngôn ngữ phát ra là cái bị sai khiến là tớ. Chủ sai tớ chớ tớ không sai chủ được, chẳng qua chỉ là ngôn ngữ tạm nói ra cho người hiểu thôi. Tâm tự nó biết nói, chớ không phải cái nói biết tâm. Mới nghe qua thì thấy rất khó hiểu. Nhưng đi sâu chúng ta mới thấy cái kỳ đặc của lỗi diễn đạt này. Vậy, “Tâm, tâm, tâm, không thể nói” là ngôn ngữ không thể nói về tâm, vì tâm là chủ khởi ra tiếng nói, chớ không phải tiếng nói biết nói về tâm. Đó là cái ý nghĩa chủ yếu mà Thượng Sĩ dùng điệp ngữ chữ Phật và chữ tâm. Ngài dùng điệp ngữ là nhắc chúng ta nhớ kỹ nhớ sâu, chớ không phải để cho chúng ta cắt nghĩa. Nếu lấy đây cắt nghĩa thì ở dưới có câu “lặng, lặng, lặng, chìm, chìm, chìm” cắt nghĩa ra sao? Ba chữ Phật có thể cắt nghĩa là Phật pháp thân, Phật hóa thân và Phật báo thân. Ba chữ tâm có thể giải nghĩa A-lại-da thức là tâm chứa đựng, mạt-na thức là tâm chấp ngã, năm thức trước là tâm phân biệt... Nhưng giải nghĩa như thế là mất hết ý nghĩa của bài ca. Lệ thường chúng ta gặp chữ là cứ giải nghĩa, dùng mọi cách để giải, nhưng rốt cuộc rồi không nắm được tinh thần trọn bài. Ở đây, những điệp ngữ này nhằm nhắc chúng ta nhớ sâu, đánh mạnh khiến cho chúng ta thấy được tường tận ý chỉ của bài. “Nếu khi tâm sanh là Phật sanh, nếu khi Phật diệt là tâm diệt.” Tâm là Phật, nên tâm sanh tức là Phật sanh. Phật tức tâm, nên Phật diệt tâm cũng diệt. Đó là ý nghĩa tức tâm tức Phật. “Diệt tâm còn Phật chuyện không đâu, diệt Phật còn tâm khi nào hết?” Người tu kềm cho tâm lặng lẽ mất tri giác, mong có trí tuệ sáng suốt được không? Đó chỉ là chuyện không đâu không thể nào được. Tại sao? Vì tâm tức là Phật, nếu chúng ta đoạn cái nhân Phật thì làm sao có được quả Phật? Đã diệt nhân Phật thì không có quả Phật. Hiện giờ chúng ta tu có diệt nhân Phật không? Nếu không, sao bảo bỏ hết vọng tưởng? Vọng tưởng là tâm hay không phải tâm? Chúng ta phải nhìn cho thật kỹ, hiểu cho thật sâu chỗ này kẻo lầm. Tôi xin hỏi: Tất cả vọng tưởng có vọng tưởng nào không biết chăng? - Tuy là vọng tưởng, nhưng có biết; biết vọng động sanh diệt. Tu là không theo cái biết vọng động sanh diệt, mà hằng biết lặng lẽ thanh tịnh, không động. Cái hằng biết không động là cái biết của nhân Phật, do tu hành thì cái biết đó càng ngày càng sáng đến viên mãn gọi là quả Phật. Cho nên bỏ cái tâm (cái biết) là nhân Phật mà được quả Phật là chuyện không có. Đâu bây giờ quí vị kiểm tra lại coi, nơi mình cái nào là cái biết nhân Phật bất động? Chúng ta thử ngồi một phút, không khởi nghĩ, giả sử có con muỗi chích vô da, quí vị có biết không? - Biết rõ ràng. Như vậy da thịt chúng ta có cái biết hằng hiển hiện, nên cái gì chạm tới là biết liền. Và nếu chúng ta ngồi yên không khởi lên ý niệm nào, mắt có thấy, tai có nghe không? - Vẫn thấy vẫn nghe. Vậy, mắt thấy, tai nghe, thân có cảm giác... đó là hằng biết; hằng biết mà không động. Còn khởi suy nghĩ là cái biết động. Thế nên tu là lặng cái biết động, để còn thuần cái biết không động. Cái biết của thấy, của nghe, của cảm giác... tự nó không tốt không xấu, không phải không quấy. Thấy thì cứ thấy, nói đẹp nói xấu là do khởi nghĩ mới nói đẹp xấu. Ví dụ tôi nhìn cái hoa thấy rõ ràng là cái hoa. Bây giờ tôi muốn biết cái hoa này đẹp hay xấu, tôi nhớ lại quá khứ có lần tôi thấy hoa hồng to, mới đem ra so sánh với cái hoa này, rồi nói hoa này nhỏ hơn xấu hơn. Bây giờ tôi nói hoa này xấu là do trước tôi đã thấy hoa kia đẹp hơn, nên mới nói hoa này xấu. Nếu từ trước tôi chưa từng thấy cái hoa, bây giờ mới thấy thì đâu có so sánh hoa đẹp hoa xấu. Vậy, khi mở miệng nói đẹp xấu là có niệm so sánh hình ảnh đã thấy trong ký ức với hình ảnh mới vừa thấy. Nên khi khởi niệm nghĩ là đã sống với tâm phân biệt so sánh; phân biệt so sánh là vọng động. Thế nên cả ngày lúc nào chúng ta cũng biết, nhưng mà biết vọng động, gọi là tâm sanh diệt, tâm tạo nghiệp. Khi chúng ta thấy đẹp xấu liền khởi niệm yêu ghét, rồi tạo nghiệp, đã tạo nghiệp là đi trong sanh tử. Vậy, nếu sống với tâm sanh diệt thì chúng ta tạo nghiệp, đã tạo nghiệp rồi thì phải sanh tử luân hồi. Bây giờ muốn không luân hồi sanh tử thì đừng sống với tâm sanh diệt, tâm không sanh diệt thì không tạo nghiệp, không có nghiệp thì cái gì dẫn đi luân hồi sanh tử? Thế nên tu là Biết mà không được phân biệt. Mỗi ngày ngồi thiền năm sáu tiếng đồng hồ, cốt để lặng niệm phân biệt, tâm vô phân biệt hằng hữu hiện tiền là thành Phật. Tu đơn giản như vậy chớ không có gì lạ, thế mà chúng ta cứ đi tìm kiếm ông Phật đâu đâu, thật là chuyện hoang đường vô ích. Người biết tu thì ngay nơi tâm phân biệt sanh diệt nhận ra tâm vô phân biệt hằng giác tri là Phật ở nơi mình. Song, nếu tu mà ngồi bất động vô tri như gỗ như đá không biết gì hết là đã đoạn nhân Phật thì làm sao có được quả Phật, nên nói “Diệt tâm còn Phật chuyện không đâu, diệt Phật còn tâm khi nào hết?” Chúng ta ngồi thiền không phải diệt cái biết (tâm hay Phật), mà là không theo niệm loạn động, chỉ một bề theo cái biết thanh tịnh là nhân Phật. Chúng ta huân tu lâu ngày thuần thục, nhân Phật tròn sáng, thấy người thấy vật đúng như thật đó là giác ngộ thành tựu quả Phật. “Muốn biết Phật tâm, sanh diệt tâm, đợi đến sau này Di-lặc quyết.” Nếu muốn biết tâm Phật hay Phật tâm, mà căn cứ trên tướng sanh diệt của tâm thì phải chờ đức Phật Di-lặc ra đời Ngài giải quyết cho, chớ bây giờ không ai giải quyết được. Nghĩa là tâm sanh diệt là cái chạy theo cảnh vật có sanh có diệt. Tuy cũng là tâm, nhưng là tâm loạn động tạo nghiệp. Vậy, nghe nói tâm tức Phật rồi cho rằng tâm tôi biết suy nghĩ là Phật, như thế là sai, tu đến Phật Di-lặc ra đời cũng chưa chắc được thành. “Xưa không tâm, nay không Phật, phàm, Thánh, người, trời như điện chớp.” Cái biết hằng hữu nơi mỗi người là tâm là Phật. Tại sao Thượng Sĩ nói “xưa không tâm nay không Phật”? Tâm là một danh từ, chỉ là giả danh, chớ cái biết hằng hữu thanh tịnh không có tên tâm nên không có tên Phật. Chúng ta nhìn lại thời nguyên thủy nó chỉ là cái biết, không có tên tâm thì tên Phật ngày nay cũng không có. Tóm lại do cái biết phân biệt của con người gọi là tâm khi mê, gọi là Phật khi giác. Đó là do người đặt ra tạm gọi, nó chỉ là cái tên giả không thật. Vậy, tất cả tên Phàm, Thánh, Người, Trời... do con người hư dối đặt ra, nên nói như điện chớp, sao xẹt, tạm bợ không thật. “Tâm thể không thị cũng không phi, Phật tánh chẳng hư cũng chẳng thật.” Đứng về Thể chân thật thì không sanh không diệt, không phải không quấy. Nhưng lúc nào chúng ta mở miệng ra cũng nói phải nói quấy, đó là chúng ta nói theo tâm phân biệt vọng động. Người sống được với Thể chân thật nghe nói phải nói quấy hơn thua thì không can dự vào, chỉ cười thôi, vì biết đó là cái nhân sanh tử luân hồi. Thế mà người đời ai cũng ưa cãi lý, cả ngày cứ hơn thua, cái này phải cái kia quấy, không biết chán. Không ngờ, tu mà cãi như thế là đã lạc đường rồi. Con đường mình đi là đường giải thoát sanh tử, thế mà mình tranh chấp hơn thua phải quấy, dù có thắng một trăm phần trăm cũng không đạt được mục đích giải thoát. “Tâm thể không thị cũng không phi, Phật tánh chẳng hư cũng chẳng thật.” Thị là phải, phi là quấy, hư là giả. Nói phải, nói quấy, nói giả, nói thật là nói theo niệm phân biệt đối đãi. Tâm thể tức Phật tánh không đối đãi làm gì có phải có quấy có giả có thật? “Bỗng dưng dấy, bỗng dưng dừng, xưa qua nay lại luống nghĩ bàn.” Chợt khởi nghĩ liền lặng mất, cứ nghĩ suy, suy nghĩ chuyện xưa chuyện nay lăng xăng hoài, không dừng nghỉ. Như vậy thì “đâu chỉ chôn vùi thừa Tổ tông, lại khiến yêu ma nhà mình lộng”. Nếu cứ dấy niệm lăng xăng hoài thì chẳng những chúng ta làm mất tông chỉ nhà Thiền, lại còn khiến cho yêu ma chui vào nhà làm não lộng nữa. Quí vị có thấy yêu ma chui vô nhà quí vị làm não lộng không? Nếu có là do chủ nhà quá hời hợt. Đã là chủ, cái gì chân chánh đứng đắn thì cho vào, còn đồ yêu ma bất chánh không cho vào; không cho vào thì đâu có loạn! Vậy mà ai cũng rộng rãi hời hợt, mở cửa thoải mái cho yêu ma vào làm loạn trong nhà, rồi kêu trời, than: Tôi khổ quá! Trời nào tới cứu được cái khổ này? Chúng ta phải biết rõ niệm nghĩ bàn chợt hiện chợt mất nó làm mất bản chất Thiền của mình. Yêu ma làm mất bản chất Thiền tại sao không đuổi ra lại nuôi dưỡng trong nhà, làm cho mình điên đảo? Tất cả chúng ta hiện giờ điên đảo cũng vì yêu ma đó. Tu rất đơn giản, chúng ta chỉ làm một việc là đừng để những ý niệm chợt khởi chợt mất làm loạn động tâm, luôn luôn phải giữ cho bản thể thanh tịnh sáng suốt hằng hiện nơi mình, thì không bao giờ yêu ma có thể đột nhập, làm não loạn mình được. Đó là Thượng Sĩ dạy cho chúng ta thấy rõ cách tu. “Muốn tìm tâm, đừng tìm ngoài, bản thể như nhiên tự rỗng lặng.” Muốn tìm tâm thể chân thật đừng tìm đâu hết, nó là bản thể tự rỗng lặng như nhiên có sẵn nơi mình, chớ không có ở bên ngoài. “Niết-bàn sanh tử buộc ràng suông.” Niết-bàn là vô sanh; vô sanh và sanh tử hai cái buộc ràng suông. Niết-bàn và sanh tử buộc ràng như thế nào là buộc ràng suông? - Khi chúng ta mới vào đạo, được quí thầy dạy “sanh tử là việc lớn, vô thường nhanh chóng” để nhắc chúng ta nỗ lực tu hành; muốn dứt sanh tử là phải dẹp sanh tử để đạt Niết-bàn. Một bên sanh tử là khổ, một bên Niết-bàn là vui. Có ai tu mà chẳng sợ sanh tử khổ, thích Niết-bàn vui không? Vì sợ khổ cầu vui nên cố gắng tu, mong thoát khỏi sanh tử, để được cái vui Niết-bàn. Đó là một lẽ thật mà người tu nào cũng đang mơ ước. Nhưng tại sao ở đây Thượng Sĩ nói Niếtbàn sanh tử buộc ràng suông? Sanh tử từ đâu có? Có phải từ tâm mê lầm sanh diệt mà ra không? - Song, tâm mê lầm sanh diệt không thật. Cái nhân sanh diệt không thật thì cái quả sanh tử cũng không thật. Chúng ta đang ngồi đây là thật hay giả? - Ai cũng nói thật một trăm phần trăm. Nếu không thật thì sao có mình sống, mình đi, mình ăn, mình uống...? Tuy hiện giờ chúng ta có sống, nhưng sống trong mê lầm, giống như kẻ ngủ mộng. Trong giấc mộng có người làm việc tốt, có người làm việc xấu, việc tốt việc xấu cũng đều là mộng. Còn đang ở trong mộng thì việc tốt ra việc tốt, việc xấu ra việc xấu, đang mộng thì thấy thật, ai nói giả là không chịu. Nhưng khi thức rồi mới biết là mộng không thật. Lúc ngủ mê giấc mộng dài nhất chừng nửa giờ, còn ngắn thì mười phút năm phút. Giấc mộng dài nửa giờ sánh với cuộc sống bảy tám mươi năm, chúng ta nói là thật. Nhưng nếu sánh với cuộc sống trên những tầng trời dục giới thời gian một ngày một đêm bằng năm trăm năm ở cõi người thì, các vị tiên thấy cuộc sống con người như giấc mộng thôi. Còn nếu sánh với những tầng trời sắc và vô sắc dài gấp ba gấp bảy lần thì thấy kiếp người rõ là giấc mộng, thế mà loài người chúng ta đâu chịu là mộng. Cũng giống như con phù du, hay gần nhất là con chó, kiếp sống con chó khoảng mười năm khá ngắn ngủi đối với kiếp người. Nhưng nó thấy dài, vì cũng sanh ra, cũng trưởng thành, rồi già chết. Có đủ tướng trạng của một kiếp sống như con người. Như vậy, tùy theo nghiệp của mỗi chủng loại chúng sanh mà có cái nhìn khác nhau. Chư thiên nhìn kiếp sống con người thấy ngắn như giấc mộng, loài người nhìn thấy kiếp sống của con phù du ngắn như giấc mộng, mới thấy đó liền mất đó, không mộng là gì? Vậy, cuộc sống ngắn so với cuộc sống dài thì cuộc sống dài là thật, cuộc sống ngắn là mộng. Và nếu sánh với các cõi trời thì chúng ta ở cõi này cũng là mộng. Đã là mộng thì sanh tử có thật đâu? Sanh tử đã không thật thì dứt sanh tử (Niết-bàn) cũng không thật. Vậy, sanh tử, Niết-bàn chỉ là những từ ngữ, những khái niệm mà con người sợ và thích chớ không có thật thể. “Phiền não Bồ-đề đối địch rỗng.” Tu cốt yếu là dứt phiền não để được Bồđề. Song, đa số chúng ta đều sống với tướng sanh diệt nên mới thấy có phiền não có Bồ-đề đối đãi nhau, nếu tướng sanh diệt không còn thì phiền não Bồ-đề chỉ đối địch rỗng mà thôi. Phiền não Bồ-đề chỉ là những tướng rỗng thì, những chuyện được mất phải quấy tốt xấu... càng rỗng hơn. Vậy mà cả ngày chúng ta cứ bàn những chuyện rỗng như thế thì chúng ta đang sống trong thế giới rỗng. Nếu biết tu mới thấy những thứ mà thiên hạ gọi là phiền não và cái gọi là Bồ-đề cũng không thật, chỉ là những danh từ rỗng. Vì mê chấp nên thấy cái gì cũng thật, thấy mình thật, người thật, phiền não thật, Bồ-đề thật... Hết mê chấp thì phiền não Bồ-đề như hoa đốm không thật. Giả sử bây giờ có người nhìn miệt khinh, nói lời sỉ vả quí vị, quí vị có phiền não không? Nếu có phiền não, thì tôi xin hỏi tại sao lúc họ chưa nhìn chưa nói, quí vị không phiền não, đợi họ nhìn họ nói mới phiền não? Vậy phiền não đâu có thật. Nếu phiền não thật thì đã có tự bao giờ, đâu đợi ánh mắt khinh khi câu nói nặng nề phiền não mới khởi lên! Phiền não không thật mà cứ chấp; nhớ ông A khinh tôi, ông B nói nặng tôi, ông C ăn hiếp tôi... cứ nhớ những chuyện không đâu, nên phiền não hoài. Ông A ổng ngó ngay thì con mắt ổng tốt, ổng ngó xéo thì mắt ổng lé, có liên hệ gì tới mình mà phiền não? Những gì người ta làm là người ta chịu, mình không dính dáng gì cả. Thế mà cứ ôm ấp những chuyện của người, rồi ôn tới ôn lui nên mới khổ, sống không an ổn rồi than trời trách đất. Quí vị xét kỹ xem cái khổ đó phát nguồn từ chỗ nào? Có phải từ chỗ chạy theo niệm sanh diệt không? Do khổ nên sanh bệnh, bệnh hoài thì chết yểu. Nếu chết mà còn ôm giận hờn thì khổ mãi từ kiếp này sang kiếp kia, khổ không cùng. Nếu chúng ta thản nhiên nghe lời nói của người thấy như gió thổi ngang tai thì đâu có phiền não. Giả sử có người gọi mình là con chó; mình là người bình thường mà họ nói mình là con chó, như vậy họ đã mất bình thường rồi, nên thấy không đúng sự thật, giận họ làm chi? Nếu giận họ mình cũng thành người mất bình thường như họ. Vậy là mọi người cùng sống trong điên loạn như nhau, có ai tỉnh đâu? Xét kỹ thì chúng ta là những người điên loạn đáng thương. Người này muốn cho người kia điên, chỉ cần chỉ vào mặt nói “anh là thằng ngu”. Nghe xong là chúng ta phát điên lên liền, lòng bực tức, miệng nói lảm nhảm, tay chân múa may... Cho nên mọi điên loạn gốc từ mê lầm mà ra. Vì vậy, chúng ta phải biết sống, trước mọi thử thách thuận hoặc nghịch tâm tỉnh sáng bình thản, thì không cái gì làm cho mình bất an được. Đó mới là hạng người khôn thứ thiệt. Chớ còn bị người xúi giục hay gài bẫy đánh lừa, chúng ta vui theo người, buồn theo người là chúng ta sống trong quyền sai sử của người khác. Đó là nỗi đau khổ mà lâu nay chúng ta mắc phải. Qua những sự việc vừa nêu cho chúng ta thấy phiền não không thật. Phiền não đã không thật thì Bồ-đề đối với phiền não có thật đâu, chỉ là những danh từ đối đãi suông. “Tâm tức Phật, Phật tức tâm, diệu chỉ sáng ngời suốt cổ kim.” Diệu chỉ sáng ngời đó là tâm tức Phật hay Phật tức tâm. Nếu nhận ra tâm tức Phật hay Phật tức tâm là chúng ta đã nắm được diệu chỉ sáng ngời từ xưa tới nay không đổi dời sai chạy. “Xuân đến, tự nhiên hoa xuân nở, thu về, hiện rõ nước thu sâu.” Muôn sự muôn vật tùy theo thời tiết chuyển biến đổi thay, mùa xuân đến thì hoa nở, mùa thu sang thì nước trong. Nước trong hoa nở tùy theo thời tiết nhân duyên, mọi cái nó đã sẵn vậy, không do tâm người nghĩ tưởng mới có, mà đúng thời tiết đủ nhân duyên thì mọi cái nó có. Nơi mỗi người chúng ta ai sanh thân cũng muốn trẻ trung, sống mãi. Nhưng đến lúc nào đó, đầu bạc răng rụng, lúc đó muốn trẻ trung cũng không được, muốn sống mãi cũng không xong, phải đi đến chỗ bại hoại. Vậy, chúng ta biết rõ vô thường luôn luôn chi phối kiếp người, không ai tránh khỏi thì, chúng ta có mừng khi sanh và có buồn khi già chết không? Nếu mừng khi sanh thì buồn khi già chết. Biết rõ muôn vật tùy duyên chuyển biến, khi duyên hợp cũng cười, khi duyên tan cũng vui; ngoại cảnh đổi thay mình không chao đảo khổ sở, đó là biết sống với đạo. Hồi còn nhỏ mình vui với tuổi trẻ thơ, lớn lên vui với tuổi thiếu niên, trung niên thì vui với tuổi trung niên, già rồi thì vui với tuổi già và chết đi thì vui nhất. Ví dụ ở thế gian này có xứ nào mà mình chưa biết, bây giờ có ai nói chỗ đó anh chưa biết, tôi sẽ tạo điều kiện anh đến cho biết, anh có thích không? Lâu nay chúng ta sống mà chưa biết chết ra sao, bây giờ chết để biết là toại ý là vui chớ gì? Vậy, kiếp sống hiện tại năm bảy mươi năm, cũ quá, quen quá rồi; bây giờ đi tới chỗ mới thì vui có gì đâu mà buồn. Vậy thì mai mốt sửa soạn tắt thở ra đi, quí vị vui cười nghe, vì bắt đầu một chuyến du lịch vào cõi mới lạ. Nếu hối tiếc cái cũ thì ra đi không vui sướng đâu! Vậy, cuộc sống nếu chúng ta biết tùy duyên thì cuộc sống vui, không chướng ngại không khổ. Ví dụ chúng ta đang nói chuyện, hồi lâu khô cổ, cần uống nước, mọi người có mặt ở đây được mời mỗi người một ly nước cam, còn mình thì được mời một ly nước lã. Chúng ta vì nhu cầu khát nước uống ngon lành, không thắc mắc gì cả. Nhưng nếu so sánh ly nước cam ngon hơn ly nước lã thì buồn uống không ngon. Biết tùy duyên thì duyên gì đến mình cũng hoan hỉ, nếu không tùy duyên khởi niệm so bì hơn thua thì buồn khổ. Sống như thế là tu nhiều rồi đó. Đừng tưởng tụng kinh nhiều ngồi thiền giỏi, làm việc gì cũng ưu hết mới là tu hay. Trong những hạnh nhỏ hằng ngày chúng ta biết tùy duyên không tạo nghiệp có lúc nào không vui, không tự tại? Đó mới là đạo. Còn nếu mong ngồi thiền cho có hào quang, không được hào quang thì buồn tự than tu mấy mươi năm mà không có kết quả. Tu như thế thì khổ vì muốn mà không được. Chúng ta biết tùy duyên thấy rõ lẽ thật, không mong cầu, không sợ chê, thích khen, lòng không dính mắc với mọi việc bên ngoài, như thế mới thật tu. Còn nếu mình tu hay mà bị chê tu dở thì buồn, như thế là mình đã chứng minh mình tu dở. Nếu mình tu hay, mà bị chê, hay được khen, vẫn dửng dưng không buồn không vui, như thế mới hay thật. Quí vị chớ để vấp cái dở này. “Bỏ vọng tâm, giữ chân tánh, như người tìm bóng mà quên kính.” Chỗ này đa số chúng ta tu đều hiểu lầm và mắc kẹt. Quí vị tu có bỏ vọng tâm giữ chân tánh không? Tôi có dạy quí vị tu như thế không? Pháp tu tri vọng là thấy vọng tưởng khởi không theo, vọng tưởng tự lặng. Vọng tưởng lặng thì chân tánh hiện tiền. Đâu có bỏ đâu có giữ. Chúng ta có cái bệnh hay kềm giữ. Chân tánh là cái hiện tại đang thấy đang nghe, đang có cảm giác, đang biết vọng tưởng khởi và đang biết không có vọng tưởng khởi. Thể sáng suốt hiển hiện linh hoạt như vậy giữ cái gì? Chân tánh chính là mình, mình là chân tánh. Nếu giữ thì mình là người hay giữ, chân tánh là cái bị giữ đối đãi nhau. Vọng tưởng khởi, biết là vọng tưởng, không theo, vọng tưởng tự lặng, chính đó là chân tánh. Vọng tưởng đâu rời chân tánh, nếu bỏ vọng tưởng giữ chân tánh chẳng khác nào tìm bóng mà quên kính. Chỗ này tôi e một số người hiểu lầm tu sai. Quí vị hiện có mặt đây có ai hiểu lầm tu sai không? Chắc là có! Thấy vọng tưởng là thứ quấy nhiễu làm cho mình khổ đau, cần phải bỏ, ráng giữ chân tánh của mình để được yên. Vọng tưởng và chân tánh không phải hai, bỏ một giữ một sao được? Tôi thường dụ vọng tưởng là sóng, chân tánh là mặt biển. Sóng và mặt biển là một hay hai? Nói một cũng không được, nói hai cũng không được, vì rời mặt biển không có sóng. Sóng không dấy động thì toàn là mặt biển lặng yên, chớ không phải đùa sóng đi chỗ khác bỏ, giữ lại mặt biển yên lặng. Việc này có thể làm được không? Đâu hôm nào quí vị xuống biển tắm, hễ có lượn sóng nào nổi lên đùa đến chỗ khác bỏ, để giữ cho mặt biển phẳng lặng, xem coi kết quả ra sao? Chắc chắn là làm không được. Sóng từ mặt biển nổi lên, rồi sóng lặng về mặt biển; không bỏ không giữ. Bỏ và giữ là hai mà sóng và mặt biển không hai thì bỏ giữ sao được? Vậy nên chúng ta phải nhìn cho thật kỹ thấy cho thật đúng thì sự tu của chúng ta mới không chướng ngại. Nếu bỏ vọng tâm giữ chân tánh đó là người ngu, “đâu biết bóng có từ nơi gương, chẳng rõ vọng từ trong chân hiện”. Đâu có ai nghĩ rằng bóng mà chúng ta thấy đó là từ nơi gương hiện ra. Cũng vậy, vọng tưởng khởi lên là khởi từ chân tánh, cũng như sóng khởi từ mặt biển; rời mặt biển làm gì có sóng, rời chân tâm làm gì có vọng tưởng? Vậy, vọng tưởng đáng sợ hay không đáng sợ? Nếu không đáng sợ thì cứ để nó khởi liên tục phải không? Đây là điều quan trọng, mọi người tu phải biết cho thật kỹ. Vọng tưởng là niệm hư dối không đáng sợ, nhưng đừng theo. Nghe nói đừng theo nhẹ quá! Dễ quá! Tuy vọng tưởng không đáng sợ, nhưng nếu theo thì nguy. Vì vậy không sợ mà cũng không theo, nhớ kỹ là chỉ làm chừng đó thôi, không thêm mà cũng không bớt. “Vọng đến không thật cũng không hư, gương nhận không cong cũng không thẳng.” Vọng tưởng dấy khởi không phải thật không phải hư, vì nó không có cái gì để xác chứng là thật hay hư, chẳng qua nó chỉ là một chuyển hóa tạm bợ. Nếu là thật thì phải hằng hữu, không mất, mà vọng tưởng như bóng như mây, có đó rồi mất đó. Đây dụ tâm thể thanh tịnh sáng suốt là cái gương không cong không thẳng, vọng tưởng là bóng hiện trong gương thì thấy có cong có thẳng. Cũng vậy, chúng ta tu tuy vọng tưởng có dấy lên, biết rõ nó không theo, hằng sống với tâm hiện hữu nơi mình, không chạy theo nó thì nó có thật có hư gì đâu? Thể nó là an nhiên tự tại, sẵn vậy mà! “Cũng không tội, cũng không phước, lầm sánh ma-ni cùng bạch ngọc.” Thượng Sĩ nói không tội không phước, vậy tu tha hồ muốn làm gì làm sao? Ngài nói không tội không phước là đứng trên tâm thể chân thật thanh tịnh mà nói. Nếu dấy niệm chạy theo duyên theo cảnh tạo nghiệp thì có tội có phước rõ ràng. Tạo nghiệp thiện thì gọi đó là phước, tạo nghiệp ác gọi đó là tội. Nếu tâm thể tỉnh sáng thanh tịnh không tạo nghiệp thì nói gì tội phước? Ngài nói người đời nhận lầm; bạch ngọc là loại ngọc trai thường đem sánh với ngọc ma-ni là loại bảo châu rất quí. Tội phước là tướng đối đãi tầm thường, chân tánh không hình tướng vượt trên tướng đối đãi tội phước. Chân tánh dụ như hạt châu như ý không có vật gì sánh được. “Ngọc có vết chừ châu có tỳ, tánh vốn không hồng cũng không lục.” Tuy ngọc ma-ni quí hơn bạch ngọc, nhưng nó vẫn là vật có hình tướng, có loại tướng tròn, có loại tướng dẹp, có loại tướng vuông thành ra nó có tỳ có vết, nhưng thể của nó trong suốt, tùy để vật màu hồng thì thấy ngọc màu hồng, để vật màu lục thì thấy ngọc màu lục... Đó là màu của vật bên ngoài chiếu rọi, chớ không phải màu của hòn ngọc. Cũng vậy, tâm chân thật thanh tịnh sáng suốt của chúng ta không có tội không có phước. Nhưng vì chúng ta mê khởi niệm tạo nghiệp nên thấy có tội có phước, có khổ có vui, thực tế thì tâm chân thật không có tất cả thứ ấy. “Cũng không được, cũng không mất, bảy lần bảy là bốn mươi chín.” Tại sao Thượng Sĩ đưa cửu chương vào đây? Ở đời cái gì đến với mình trong vui vẻ thì nói là được, cái gì rời bỏ mình thì gọi là mất. Cái được cái mất là cái bên ngoài, nó không thật mà chúng ta tưởng là thật, nên được thì vui, mất thì khổ. Vì vậy mà sống trong lo âu sợ sệt. Nếu không còn thấy được, không còn thấy mất thì bảy lần bảy là bốn mươi chín. Nghĩa là cái lẽ thật là như vậy, cũng như một với một là hai, hay đen là đen trắng là trắng vậy. Người không bị được mất chi phối thì người đó sống trong lẽ chân thật, không còn gì lay chuyển lôi kéo cuốn hút họ được. “Tam độc cửu tình nhật trong không, lục độ vạn hạnh sóng trên biển.” Tam độc là tham sân si, cửu tình là chín loài hữu tình. Đối với Thượng Sĩ thì tham, sân, si và chín loài chúng sanh hữu tình hư dối không thật không làm ngăn ngại che mờ Ngài được. Giống như mặt trời trong hư không tỏa ánh sáng khắp bầu trời không gì che đậy được. Sở dĩ chúng ta thấy có ngăn che là vì chúng ta nhìn qua lớp mây nên không thấy mặt trời, nói là che đậy, chớ có gì che đậy được mặt trời? Lục độ là bố thí, trì giới, tinh tấn, nhẫn nhục, thiền định, trí tuệ. Vạn hạnh là hàng ngàn hạnh lành mà người tu ai cũng muốn thực hành cho đầy đủ. Nhưng dưới mắt Thượng Sĩ thì lục độ vạn hạnh chỉ là sóng nổi trên mặt biển. Tại sao? Đa số người tu chúng ta ai cũng cho rằng bố thí, trì giới, tinh tấn... là nền tảng căn bản tu hành. Nhưng xét kỹ thì những hạnh đó là những phương pháp dụng công tu; phương pháp dụng công tu thì có khởi có diệt, đó chỉ là tướng của dụng thôi. Cho nên lục độ vạn hạnh chỉ là cái dụng trên bản thể, giống như sóng trên mặt biển. Vậy, dưới mắt Thượng Sĩ xấu như tam độc, tốt như lục độ vạn hạnh, đều là tướng sanh diệt như sóng trên mặt biển mà thôi. Nói như vậy là không tu sao? Trên Thể chân thật thì không có tu. Xưa có vị quan họ Mã đến hỏi Thiền sư Triệu Châu: - Hòa thượng có tu hành chăng? Sư đáp: - Lão tăng nếu tu hành là việc họa. - Hòa thượng đã chẳng tu hành thì dạy người nào tu hành? - Đại phu là người tu hành. - Con sao bảo là tu hành? - Nếu không tu hành thì đâu được đánh đập người, ở trong địa vị nhân vương đói có cơm, lạnh có áo, không biết ngày ra khỏi. Sao lạ vậy? Ngài khuyên người tu mà Ngài không tu, có mâu thuẫn không? Vì chúng ta đang sống trong sanh diệt nên phải tu, có sợ tội mới không tạo nghiệp ác, mà tạo nghiệp thiện để có phước, phải bỏ tham sân si, thực hành lục độ vạn hạnh... Nếu chúng ta sống được với tâm thể bất sanh bất diệt thì tất cả chuyện hơn thua phải quấy, thấy như trò huyễn thuật thì đâu cần tu, nếu khởi tu là khởi động niệm sanh diệt rồi! Ngài Triệu Châu hằng sống được với tâm thể nhất như, việc tốt đến không mừng, việc xấu đến không buồn lo, không động niệm, nếu Ngài tu là phải dụng công, dụng công tu là động niệm, nên Ngài nói tu là họa. Đối với Ngài là như thế, còn chúng ta thì phải tu, bắt chước Ngài không tu cũng là họa. “Lặng, lặng, lặng, chìm, chìm, chìm, cái tâm muôn pháp là tâm Phật. Tâm Phật lại cùng tâm ta hợp, lẽ ấy như nhiên suốt cổ kim.” Tất cả vọng tưởng vui buồn, thương ghét... đang sôi nổi bồng bột cho lặng xuống hết, không phải lặng một lần, mà phải thường xuyên lặng, lặng, lặng và phải cho nó chìm sâu, cho nó ngủ yên. Ngủ bằng cách nào? Có phải ngủ gục không? Ngài Ngưỡng Sơn tới hỏi Thiền sư Trung Ấp: - Làm sao thấy được nghĩa Phật tánh? - Ta vì ông nói một ví dụ: “Như một nhà có sáu cửa, trong có một con khỉ, ngoài có một con khỉ từ bên đông kêu ‘chóe! chóe!’. Bên trong cũng kêu ‘chóe! chóe!’ đáp lại, sáu cửa đều kêu, đều đáp như thế. Ngưỡng Sơn lễ tạ thưa: - Vừa rồi nhờ Hòa thượng ví dụ, con đều biết rõ, lại có một việc: Ví như con khỉ ở trong ngủ, con khỉ ở ngoài muốn gặp phải làm sao? Thiền sư Trung Ấp bước xuống giường thiền, nắm tay Ngưỡng Sơn múa, nói: - Chóe! Chóe! Cùng ông thấy nhau rồi!” Khỉ ở ngoài dụ cho sáu trần. Khỉ ở trong nhà dụ cho tâm sanh diệt. Bên ngoài vừa có sắc thanh... thì tâm sanh diệt liền dấy lên chạy theo, phản ứng liền liền. Đó là con khỉ trong nhà đang thức nên kêu chóe chóe. Nếu con khỉ trong nhà ngủ sâu, khỉ ở ngoài nó kêu mặc nó, không đáp lại, cứ nằm ngủ. Cũng vậy, khi tâm sanh diệt lặng rồi, dù có đối trước bao nhiêu ngoại trần, tâm vẫn thấy biết tường tận mà không dính mắc. Muốn được như vậy là phải “lặng, lặng, lặng, chìm, chìm, chìm”. Hiện tại chúng ta ngồi thiền là để chi? Để cho vọng tưởng lặng chìm, ấy thế mà thân ngồi yên đó, ngoại trần không làm động, nhưng ở trong tự nó cứ giãy giụa chạy nhảy lung tung, vẫn chưa chịu lặng chìm. Vậy, mỗi lần lên bồ đoàn ngồi tréo chân, phải tự nhắc mình ba lần: Lặng, lặng, lặng. Ngồi một hồi phải nhắc tiếp: Chìm, chìm, chìm. Lặng chìm mà phải sáng, biết, chớ không được tối, không hôn trầm thùy miên chẳng biết gì. Đây Thượng Sĩ nói “cái tâm muôn pháp là tâm Phật”. Nghĩa là tâm chạy theo muôn pháp lặng chìm, tức là tâm Phật nơi mình, đó là lẽ thật từ xưa đến nay vốn là như vậy, nên nói “lẽ ấy như nhiên suốt cổ kim”. “Đi cũng thiền, ngồi cũng thiền, trong lò lửa rực, một hoa sen.” Nếu chúng ta sống được với tâm Phật rồi thì đi là thiền, ngồi là thiền, nằm cũng thiền, tất cả mọi oai nghi đều là thiền. Bởi lúc nào cũng ở trong thiền định nên tâm thể an nhiên không sanh không diệt hiển hiện tròn sáng. Tâm thể hiện ngay nơi thân năm uẩn đang bị lửa vô thường thiêu đốt này đây. Thân năm uẩn bị lửa vô thường thiêu đốt, tâm thể an nhiên thanh tịnh không bị thiêu đốt, vẫn an nhiên tươi mát, nên nói “trong lò lửa rực, một hoa sen.” Lửa vô thường đang cháy rực trong lò năm uẩn, vậy mà tâm thể không cháy vẫn tươi mát như hoa sen. Đó là người đang sống trong sanh tử mà đã giải thoát sanh tử. “Ý khí mất thì thêm ý khí, được nơi an tiện hãy an tiện.” Chúng ta tu, nếu thấy mình lười mỏi thì phải phấn phát chấn chỉnh lên, đừng để chìm trong yếu đuối, thoái lui. Chúng ta tu có lúc thì hăng hái phấn chấn lắm, có khi dã dượi lười mỏi, lúc đó là lúc ý chí cùn lụt, cần phải phấn phát tăng thêm bằng cách đọc lại hành trạng của các Thiền sư, nghe lại các bài giảng cho ý chí phấn phát mới có sức mạnh vươn lên. Chớ còn lười mỏi mà buông xuôi nằm ì ngủ là không được, như thế sẽ đi tới chỗ chết chìm thoái bộ. Và, nếu “được nơi an tiện hãy an tiện” tức là được chỗ đủ phương tiện thì an trụ trong chỗ phương tiện an ổn đó, đừng đang có cái này đòi cái khác. Người đời hay có bệnh đứng núi này trông núi nọ, không bằng lòng cái gì cả bởi tham muốn không dừng. Vì vậy mà cả đời lao xao lộn xộn bất an, kiếp người có mấy mươi năm, cứ chạy hoài bao giờ mới đạt đạo? Thế nên phải biết tùy nghi với hoàn cảnh hiện có để tu, để tiến đạo. Thượng Sĩ nhắc nhở người tu khi cảm thấy mình mệt mỏi yếu đuối phải phấn phát tăng trưởng ý chí. Và, gặp được cảnh an ổn thuận hợp thì ngay đó mà sống, chớ không tránh né, hoặc đòi hỏi cảnh tốt hơn. “Chao! Chao! Chao! Ối! Ối! Ối! Bọt trong biển cả nổi chìm rỗng.” Kiếp sống của con người giống như hòn bọt trong biển vậy. Sóng dồn qua bọt nổi lên, sóng dập lại bọt tan đi, cứ như thế mà nổi mà tan, bao nhiêu lần sanh tử nổi chìm không cùng. Thượng Sĩ thương cho thân phận mỏng manh của kiếp người đang nổi chìm trong biển khổ, giống như hòn bọt nổi tan trong chốc lát. Thế mà chúng ta bám chặt, thật là đáng thương và cũng đáng sợ, nên Ngài có lời than Chao! Chao! Chao! Ối! Ối! Ối! “Các hạnh vô thường tất cả không, linh cốt Tiên sư chỗ nào thấy?” Nếu chúng ta cứ bám víu vào cái giả dối tạm bợ, mải chấp nhận sanh tử nổi chìm như bọt biển thì chừng nào thoát khỏi cảnh vô thường? - Tất cả hành đều là vô thường, có rồi trở thành không thì cái chân thật đó ở ngay nơi mình chừng nào mới nhận ra được? Câu “linh cốt Tiên sư chỗ nào thấy” xuất xứ từ câu chuyện Thiền sư Đạo Ngô và đệ tử là Tiệm Nguyên hai thầy trò đi đám tang một người Phật tử. Đứng tụng kinh gần quan tài, tụng xong, Tiệm Nguyên vỗ quan tài hỏi thầy: - Sanh ư? Tử ư? Đạo Ngô nói: - Sanh cũng chẳng nói, tử cũng chẳng nói. - Tại sao chẳng nói? - Chẳng nói, chẳng nói. Khi về, ra khỏi nhà Phật tử, Tiệm Nguyên nhắc lại: - Thầy nói cho con cái câu khi nãy, nếu Thầy không nói con đánh Thầy. - Đánh mặc đánh, nói thì không nói. Đi nửa đường Tiệm Nguyên lại nói với Đạo Ngô: - Thầy phải nói, nếu không nói con đánh Thầy. - Đánh mặc đánh, nói không nói. Tiệm Nguyên thoi vào hông Đạo Ngô một thoi. Đi một đoạn đường, Đạo Ngô bảo Tiệm Nguyên: - Ông nên đi nơi khác, việc này nếu tới tai Tri sự thì ông ở không yên. Tiệm Nguyên dọn tới chùa khác ở, một đêm nghe Phật tử ở trong chùa tụng kinh tới câu “ưng hiện Tỳ-kheo thân đắc độ giả, tức hiện Tỳ-kheo thân nhi vị thuyết pháp” Ngài bừng ngộ, rõ được ý “sanh cũng chẳng nói, tử cũng chẳng nói”. Tiệm Nguyên trở về chùa cũ tìm thầy, nhưng Đạo Ngô đã tịch rồi. Bấy giờ ngài Thạch Sương thay thế Đạo Ngô hoằng hóa. Tiệm Nguyên tìm tới Thạch Sương, hỏi lại câu trước: - Sanh ư? Tử ư? Thạch Sương đáp: - Chẳng nói! Chẳng nói! - Tại sao chẳng nói? - Chẳng nói! Chẳng nói! Tiệm Nguyên ngộ sâu hơn nữa, Ngài bèn dừng lại đây. Một hôm ở trong pháp đường Ngài dùng cái mai đi từ bên đông qua bên tây, từ bên tây qua bên đông. Thạch Sương hỏi: - Ông làm gì? - Tôi tìm linh cốt của Tiên sư. - Ta trong ấy nước dâng lênh láng, sóng dậy ngập trời, tìm cái gì là linh cốt của Tiên sư? - Nên khéo gắng sức! Vậy là hai vị đã thông cảm nhau. Thạch Sương biết chỗ Tiệm Nguyên ngộ và Tiệm Nguyên đã trình được sở ngộ của Ngài. Qua câu chuyện này, chúng ta thấy người xưa có những cử chỉ thái độ dường như trái đạo. Nhưng sự thật thì hiểu nhau thông cảm nhau giúp cho tiến tới chỗ giác ngộ, chớ không có ý xấu hại nhau. “Tỉnh tỉnh thức, thức tỉnh tỉnh.” Thượng Sĩ lập tới lập lui từ “tỉnh”, “thức” nhằm đánh mạnh vào tâm thức chúng ta, nhắc chúng ta luôn luôn phải thức tỉnh, chớ để mê lầm. “Bốn góc đạp đất chớ chinh nghiêng.” Cái ghế có bốn chân, bốn chân đều sát đất thì ghế vững khó ngã. Ghế có bốn chân nếu ba chân sát đất một chân hỏng đất thì ghế dễ ngã. Ghế bốn chân hai chân sát đất, hai chân hỏng đất lại càng dễ ngã. Cũng vậy, chúng ta tu luôn luôn phải sống với Thể chân thật không thiếu không lệch thì vững vàng không mê lầm, không bị ngoại cảnh giả tạm chi phối làm cho lay động, chúng ta mới an ổn tự tại, thế nên Thượng Sĩ nói “Người nào nơi đây tin được đến, trên đảnh Tỳ-lô cất bước đi. Hét!” Những điều mà Thượng Sĩ nói từ trước tới đây ai mà tin rốt ráo thì bước đi trên đảnh Tỳ-lô. Tỳ-lô là Phật Pháp thân. Bước đi trên đảnh Phật Pháp thân có tội không? Đa số người đời đều nghĩ xâm phạm tới Phật là tội. Đó là đứng trên nghiệp tướng mà nói. Còn Phật Pháp thân là cái Thể chân thật, nếu sống được với Thể chân thật an nhiên thì mỗi bước mỗi bước đều đi trong thể Phật, chớ không có ở ngoài. Thơ của Phó Đại Sĩ có câu “đêm đêm ôm Phật ngủ, ngày ngày cùng Phật đi”. Mình và Phật rất mật thiết không rời nhau, đi cùng đi, ngủ cùng ngủ. Quí vị có dám xem thường mình không? Nơi mình có Phật mà không chịu sống với Phật, cứ theo sống với ma, nên bị nó gạt gẫm làm lộng cả ngày, điên đảo khổ đau không cùng. Thượng Sĩ nhắc chúng ta phải hằng sống với ông Phật hằng tỉnh sáng nơi mình thì mới “trên đảnh Tỳ-lô cất bước đi” được. Đó là Bài Ca Tâm Phật. Chỉ một bài ca này quí vị học thuộc rồi thực hành, sống đúng như lời dạy của Thượng Sĩ, thì tôi cho quí vị ca trong lúc làm vườn làm công tác, không ngăn cấm, không rầy. Mỗi người học hiểu nhắc tới nhắc lui cho nhớ, để ứng dụng tu, chớ không phải ca suông. Những bài ca như thế này mới có diệu dụng làm cho người ca luôn luôn tỉnh sáng. 
Về Đầu Trang Go down
https://triamquan.forumvi.com/
Tri Âm Quán
Thành Viên Tích Cực
Thành Viên Tích Cực
Tri Âm Quán


Tổng số bài gửi : 6340
Reputation : 2
Join date : 31/07/2013
Đến từ : Thị Trấn Chũ

 TUỆ TRUNG THƯỢNG SĨ NGỮ LỤC GIẢNG GIẢI   - Page 2 Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: TUỆ TRUNG THƯỢNG SĨ NGỮ LỤC GIẢNG GIẢI     TUỆ TRUNG THƯỢNG SĨ NGỮ LỤC GIẢNG GIẢI   - Page 2 EmptyTue Oct 22, 2019 3:04 pm

Dịch: BÀI NGÂM PHÓNG CUỒNG
Trời đất liếc trông chừ sao thênh thang
Chống gậy rong chơi chừ phương ngoại phương. Hoặc cao cao chừ mây đỉnh núi
Hoặc sâu sâu chừ nước trùng dương.
Đói thì ăn chừ cơm tùy ý
Mệt thì ngủ chừ nào có quê hương.
Hứng lên chừ thổi sáo không lỗ
Chỗ lặng chừ đốt giải thoát hương.
Nhọc chút chừ nghỉ đất hoan hỉ
Khát uống no chừ thang tiêu dao.
Qui Sơn láng giềng chừ chăn con trâu nước
Tạ Tam đồng thuyền chừ hát khúc Thương Lang. Thăm Tào Khê chừ chào
Lư Thị Viếng Thạch Đầu chừ sánh lão Bàng.
Vui ta vui chừ Bố Đại vui
Cuồng ta cuồng chừ Phổ Hóa cuồng. Chao! Chao! Chừ giàu sang mây nổi
Năm tháng chừ cửa sổ ngựa qua.
Đi càn chừ đường quan hiểm trở
Chịu sao chừ ấm lạnh tình đời.
Sâu thì xắn chừ cạn thì vén.
Dùng thì hành chừ bỏ thì tàng.
Buông bốn đại chừ đừng nắm bắt Tỉnh một đời chừ thôi chạy quàng.
Thỏa nguyện ta chừ được sở thích
Sống chết bức nhau chừ nơi ta ngại gì?
 
Giảng:
Tuệ Trung Thượng Sĩ là một cư sĩ mà thấy tột cùng được giáo lý Phật. Cuộc sống của Ngài là một cuộc sống thênh thang không bị cột trói gò bó bởi danh lợi quyền thế ở thế gian. Đọc Bài Ngâm Phóng Cuồng này, chúng ta thấy được tâm hồn của Ngài một cách rõ ràng. Trước hết tôi giảng tựa Bài Ngâm Phóng Cuồng này. Phóng là phóng khoáng phóng đạt, rộng thênh thang, tự do không giới hạn, không gò bó trong một khuôn khổ nào. Cuồng là cuồng loạn hay điên cuồng, nhưng cuồng còn có nghĩa là cuồng nhiệt, là ý khí mạnh mẽ. Hiểu theo nghĩa Thượng Sĩ dùng trong bài thì không có nghĩa là điên mà là ý khí mạnh mẽ như cuồng nhiệt. “Trời đất liếc trông chừ sao thênh thang, chống gậy rong chơi chừ phương ngoại phương.” Thượng Sĩ thấy trời đất thênh thang không giới hạn, Ngài chống gậy rong chơi ngoài nơi chốn không chỗ nơi. Ngài thong thả tự tại như thế. “Hoặc cao cao chừ mây đỉnh núi, hoặc sâu sâu chừ nước trùng dương.” Nhìn lên thì thấy mây ấp chót núi, phủ đảnh núi. Đó là chỗ cao. Nếu nhìn xuống thì thấy biển cả mênh mông không giới hạn. Đó là chỗ sâu. Cao như mây trên đảnh núi, sâu như nước mênh mông đầy biển cả. “Đói thì ăn chừ cơm tùy ý, mệt thì ngủ chừ nào có quê hương.” Cơm tùy ý nguyên chữ là hòa la phạn, nghĩa là cơm do tùy ý thí chủ mười phương đóng góp, nên gọi là cơm tùy ý. Các vị Tỳ-kheo đi khất thực đúng pháp là ôm bình bát đi tuần tự từ nhà này đến nhà kia, tùy ý ai phát tâm cúng dường thì cúng chớ không nài ép. Thức ăn này gọi là hòa la phạn. Thượng Sĩ không phải là người xuất gia sao nói ăn cơm của mười phương thí chủ góp? Và, mệt thì cứ ngủ, hoặc dưới gốc cây, hoặc trên bãi cỏ, hoặc trong sân chùa... tùy lúc mệt thì cứ ngủ, không định trước nơi chốn xứ sở. Ý này Ngài dẫn từ câu “hà hữu hương” trong Nam Hoa Kinh của Trang Tử. “Hứng lên chừ thổi sáo không lỗ, chỗ lặng chừ đốt giải thoát hương.” Thường thường người đời thổi sáo có lỗ và đốt hương trầm hoặc hương quế. Ở đây Thượng Sĩ thổi sáo không lỗ, đốt hương giải thoát. Vậy sáo không lỗ là sáo gì và hương giải thoát là hương gì? Khi hứng lên là lúc tâm thanh tịnh sáng rực là thổi sáo không lỗ; khi tỉnh lặng thì nằm chơi hoặc ngồi nghỉ lòng không vướng mắc, cảnh nào cũng là cảnh giải thoát, đó là đốt giải thoát hương. Như vậy, hứng thì hiện tướng thanh tịnh sáng suốt của Thiền, khi lặng yên thì hiện cả tâm trạng giải thoát. “Nhọc chút chừ nghỉ đất hoan hỉ, khát uống no chừ thang tiêu dao.” Nếu nhọc mà nghỉ thì nghỉ đất hoan hỉ; nghỉ ở đâu cũng là đất hoan hỉ; vườn cây, đồng trống, núi rừng... đối với Ngài đều là đất hoan hỉ, Ngài nghỉ ở đâu cũng thấy vui cả. Nếu khát thì uống nước tiêu dao đến no thôi. Giả sử nước lấy từ giếng, Ngài uống cũng thành nước thuốc tiêu dao. Còn chúng ta dù có được uống thang thuốc bổ, song chưa chắc tâm hồn đã được tiêu dao thanh thản, vẫn còn rối loạn nặng nề. Từ câu đầu đến câu này nói lên phong độ sống của Thượng Sĩ, Ngài thảnh thơi tự tại, không có gì giới hạn ngăn ngại, ở đâu đi đâu, ăn, uống, ngủ, nghỉ... đều ở trong tư thái nhàn nhã thong dong, không hề thấy khó khăn vướng bận. Đối với Thượng Sĩ trời đất thênh thang nơi nào cũng là quê hương xứ sở, dù có xin cơm của ngàn nhà Ngài ăn cũng thấy vui, chỗ nào Ngài ngồi cũng thấy thoải mái, uống nước giếng nước suối Ngài cũng thấy tâm hồn thanh thản giải thoát, không có gì chướng ngại. Tóm lại, tất cả mọi oai nghi đi, đứng, nằm, ngồi, ăn, uống, ngủ, nghỉ... bất cứ ở đâu Ngài cũng đều ở trong tư thái tự do tự tại, phong thái này mới hàm nghĩa chữ Phóng. Chúng ta ngày nay ở chỗ này đi tới chỗ khác là đã thấy chướng rồi, lạ nơi lạ chỗ khó ngủ, khó ăn, khó chịu đủ thứ. “Qui Sơn láng giềng chừ chăn con trâu nước.” Qui Sơn nào chăn trâu? Qui Sơn Linh Hựu khi sắp tịch Ngài nói: “Sau khi lão Tăng trăm tuổi đến dưới núi làm con trâu, hông bên trái viết năm chữ ‘Qui Sơn Tăng Linh Hựu’. Khi ấy gọi là Qui Sơn Tăng hay gọi là trâu? Gọi là con trâu hay gọi là Qui Sơn Tăng? Gọi thế nào mới đúng?” Và, người kế thừa trụ trì núi Qui sau khi Thiền sư Linh Hựu tịch là Thiền sư Đại An cũng nói: “Đại An này ở tại núi Qui ba mươi năm, ăn cơm núi Qui, đại tiện núi Qui, mà không học thiền núi Qui, chỉ coi chừng con trâu. Nếu nó lạc đường hay vào trong cỏ, liền lôi nó lại. Nếu nó ăn lúa mạ của người, liền đánh đập điều phục nó. Đáng thương đã lâu chịu người rầy rà, hiện giờ nó đổi thành con
 
trâu trắng đứng trước mặt, trọn ngày hiện sờ sờ đuổi cũng chẳng đi.” Chẳng biết Thượng Sĩ làm bạn với Qui Sơn Linh Hựu hay Qui Sơn Đại An? Thượng Sĩ nói chăn trâu thì chắc là làm bạn láng giềng với Qui Sơn Đại An. “Tạ Tam đồng thuyền chừ hát khúc Thương Lang.” Tạ Tam gọi đủ là Tạ Tam Lang, chỉ cho Thiền sư Tông Nhất pháp danh là Sư Bị ở Huyền Sa. Người đời thường gọi là Huyền Sa Sư Bị. Sư con nhà họ Tạ, mà là con thứ ba nên gọi là Tạ Tam. Ngài quê ở huyện Mân, Phước Châu, thuở nhỏ thích câu cá, Sư sắm một chiếc thuyền nhỏ thường thả câu trên sông Nam Đài. Năm ba mươi tuổi Sư phát tâm cầu giải thoát, liền bỏ thuyền câu, lên núi xuất gia. Sau ngộ đạo, nổi tiếng cả hai mặt đức hạnh và trí tuệ. Thượng Sĩ sánh mình là bạn đồng thuyền với Huyền Sa Sư Bị nên nói Tạ Tam đồng thuyền. Tức là Ngài đi đồng thuyền câu với chàng Tạ Tam, thuyền nổi lênh đênh trên mặt nước, Ngài hát khúc nhạc Thương Lang là khúc nhạc của ông chài. (Thương Lang còn là tên một đoạn sông Hán Thủy). Thượng Sĩ sánh mình là bạn của Qui Sơn Đại An, Ngài cũng chăn trâu nước như Qui Sơn Đại An. Và, Ngài cũng sánh mình là bạn của Huyền Sa Sư Bị cũng đi câu cá như Tạ Tam hát khúc hát ông chài trên khúc sông Thương Lang. “Thăm Tào Khê chừ chào Lư Thị, viếng Thạch Đầu chừ sánh lão Bàng.” Thượng Sĩ oai quá! Ngài đi Tào Khê thăm cư sĩ họ Lư, là Lư Hành Giả tức Lục tổ Huệ Năng. Và, Ngài tự sánh mình như cư sĩ Bàng Long Uẩn tới Thạch Đầu hỏi đạo, được Hy Thiên Thạch Đầu khai ngộ tỉnh ra. “Vui ta vui chừ Bố Đại vui, Cuồng ta cuồng chừ Phổ Hóa cuồng.” Thượng Sĩ có cái vui như cái vui của Bố Đại. Bố Đại là một vị Tăng đời nhà Lương trong thời Ngũ Đại, quê ở Minh Châu, Chiết Giang, Thuận Hóa. Trong Cảnh Đức Truyền Đăng Lục chép Hòa thượng Bố Đại mập mạp, mày rộng, bụng to, nói năng không chừng, ngủ nghỉ tùy ý, vai vác cây gậy, trên đầu gậy quảy một cái đãy, mọi đồ tùy thân đều chứa trong đãy. Người đời gọi là Trường Đinh Tử Bố Đại Sư. Hòa thượng hay nói trước chuyện kiết hung cho người, và hay dự biết mưa nắng. Hòa thượng ngồi trên bàn thạch đông lang chùa Nhạc Long nói kệ: Di-lặc chân Di-lặc Phân thân thiên bách ức Thời thời thị thời nhân Thời nhân tự bất thức.
Tạm dịch:
Di-lặc thật Di-lặc
Phân thân ngàn trăm ức
Luôn luôn chỉ người đời
Người đời tự chẳng biết.

Nói kệ xong Ngài ngồi an nhiên thị tịch. Như vậy là Hòa thượng Bố Đại vui lắm, lúc nào và ở đâu Ngài cũng cười. Hiện tại chúng ta thấy tượng Ngài ngồi cười toe toét, người đời cho là tượng Bồtát Di- lặc. Thực tế thì Ngài mới là con người lịch sử còn Bồ-tát Di- lặc chỉ là hình ảnh biểu trưng. Trước khi tịch Ngài nói bài kệ này thì biết đó là hóa thân của đức Di-lặc, nên người sau tạc tượng thờ Ngài lấy theo hình ảnh hóa thân đó. Thượng Sĩ có cái vui giống như cái vui của Hòa thượng Bố Đại. Và, nếu Thượng Sĩ có nổi cuồng lên thì cuồng như Phổ Hóa cuồng. Phổ Hóa là đệ tử nối pháp của Thiền sư Bảo Tích, núi Bàn Sơn ở U Châu. Bàn Sơn sắp tịch bảo chúng: - Ai vẽ được chân dung ta? Phổ Hóa thưa: - Con vẽ được. - Sao chẳng trình ta xem? Phổ Hóa bèn nhào ngược thân rồi đi. Bàn Sơn bảo: - Gã này về sau như khùng điên tế độ người. Lúc Thiền sư Nghĩa Huyền đến giáo hóa ở đất Lâm Tế, nơi đây Phổ Hóa đã ở trước, Ngài giúp Thiền sư Lâm Tế giáo hóa ở đây với cái hạnh như điên như tỉnh. Thượng Sĩ sánh mình là bạn của Qui Sơn Đại An, của Huyền Sa Sư Bị, Thượng Sĩ là người đi viếng Lục Tổ ở Tào Khê, là người đồng chí với Bàng Long Uẩn, Ngài luôn luôn vui cười như Hòa thượng Bố Đại, và có cái cuồng như Phổ Hóa. Vậy trong bài này có phải tỏ ý khí mãnh liệt không? Nếu ý khí không mãnh liệt đâu dám sánh mình với các Thiền sư nổi tiếng ở Trung Hoa, kể cả Lục Tổ. Ngài tự thấy mình có phần trong những vị ấy nên mới nói như thế. “Chao! Chao! Chừ giàu sang mây nổi, năm tháng chừ cửa sổ ngựa qua.” Những cái sang giàu ở thế gian này đối với Thượng Sĩ giống như đám mây tụ rồi tan, không bền lâu, thế mà người đời ai cũng đuổi tìm tranh nhau nắm bắt. Ngài thấy thương mới than “Chao! Chao! Chừ...”. Còn năm tháng đối với Thượng Sĩ mau chớp nhoáng như ngựa chạy qua cửa sổ. Người đứng trong nhà nhìn ra cửa sổ, bỗng thấy ngựa sải chân chạy qua, vừa thoáng thấy dáng ngựa chạy qua là mất hút. Ngày tháng qua nhanh như ngựa chạy, thế mà người đời không tỉnh; sự giàu sang như mây tụ rồi tan, thế mà người đời không biết. Ngài tỉnh, thấy rõ ràng, cảm thương người đời mê muội nên mới có lời than như thế. “Đi càn chừ đường quan hiểm trở, chịu sao chừ ấm lạnh tình đời.” Đường quan là đường đi tới cửa quan, nói rõ hơn là ra làm quan, là con đường rất hiểm trở, mà người đời đua nhau giành nhau để đi. Đường hiểm trở mà vẫn đua nhau đi càn đi bướng không ngại khó khổ. Chính vì người đời ai cũng chen nhau đi trên quan lộ để được lợi danh, nên mới có xảy ra tình đời khi ấm khi lạnh. Gặp nhau vui vẻ tay bắt mặt mừng là ấm, gặp nhau không nhìn không chào là lạnh. Trong mối quan hệ giữa bạn bè, giữa láng giềng, giữa anh em thân thuộc... Khi làm ăn phát đạt giàu sang, đi tới đâu ai cũng mừng rỡ đón tiếp đó là ấm, khi làm ăn thất bại cảnh nhà sa sút, nghèo thiếu thì bị bỏ rơi không chào hỏi đó là lạnh. Hoặc giả ở trong đường quan được thăng quan lên cấp thì được nể trọng cúc cung, đó là ấm; nếu bị hất ra hay bị giáng cấp thì bị khinh thường xem nhẹ, đó là lạnh. Quí vị chắc đã từng trải qua những ấm lạnh này rồi, chắc cũng thấm thía lắm. Đừng chen vào, chỉ khổ thôi! Qua bốn câu này, chúng ta thấy Thượng Sĩ có vẻ bi quan, nhìn đời với con mắt chán ngán. Nhưng không, Ngài có thái độ tùy thời rất hay. “Sâu thì xắn chừ cạn thì vén, dùng thì hành chừ bỏ thì tàng.” Gặp chỗ nước sâu thì xắn quần xắn áo lên cao cho gọn để đi qua khỏi ướt. Nếu gặp chỗ nước cạn chỉ vén quần là qua được. Ý nói khi gặp tình đời ấm lạnh, tùy duyên tùy thời xử sự sao cho ổn thôi, không cố chấp. Khi thiên hạ cần thì đem hết khả năng ra làm mọi việc để giúp. Lúc thiên hạ không dùng, xã hội không ngó ngàng tới thì ẩn tu dưỡng thần dưỡng trí, có gì đâu mà buồn! Đó là sống tùy thời trong vòng tương đối. Ở đây thái độ sống của Thượng Sĩ còn vượt cao hơn nữa! “Buông bốn đại chừ đừng nắm bắt, tỉnh một đời chừ thôi chạy quàng.” Người đời mắc kẹt với bao thứ: được, mất, khổ, vui, gốc từ chấp thân này mà ra. Bởi chấp thân nên mới có phiền não. Bây giờ đối với thân tứ đại này buông bỏ đi, không bám chặt không chấp giữ nó nữa thì tỉnh táo sáng suốt, sống đời an nhàn tự tại, không còn điên đảo chạy ngược chạy xuôi nữa. “Thỏa nguyện ta chừ được sở thích. Sống chết bức nhau chừ nơi ta ngại gì?” Sống giữa thiên hạ, Thượng Sĩ tự thấy mình đã được thỏa nguyện, vì những sở thích ước muốn Ngài đã đạt được. Giữa trời đất thênh thang núi cao biển rộng Ngài đã dạo khắp. Ăn uống ngủ nghỉ lúc nào Ngài cũng tự tại, Ngài thấy nơi nào cũng là quê hương. Ngài thảnh thơi đi thăm viếng các Thiền sư lỗi lạc ở Trung Hoa. Thái độ vui hay cuồng của Ngài chẳng khác Bố Đại hay Phổ Hóa ở Trung Hoa. Và, việc sống chết đối với Ngài, Ngài không ngại. Kiếp người nay sống tạo nghiệp, mai chết theo nghiệp sanh ra; sanh ra rồi chết, chết rồi sanh. Sống chết cứ đuổi nhau bức ngặt con người không dừng. Song, sống chết không làm ngại Thượng Sĩ. Thượng Sĩ là một cư sĩ mà dõng dạc tuyên bố một câu mạnh mẽ như vậy, chúng ta là hàng tu sĩ xuất gia thấy sao? Đa số chúng ta ở đây đều là những người tu từ mười năm, hai mươi năm trở lên, đối với việc sanh tử có dám tuyên bố câu nào không? Hay tâm còn lo nghĩ về cái chết của mình, không biết mai kia chết rồi sẽ đi về đâu? Sở dĩ chúng ta sợ là vì mình chưa làm chủ được mình nên mới sợ chết sợ sanh. Thượng Sĩ vì đã làm chủ được mình nên Ngài không sợ sanh tử. Qua Bài Ngâm Phóng Cuồng này, tuy Thượng Sĩ nói Thượng Sĩ điên, nhưng Ngài điên trong tỉnh, chúng ta cũng nên điên như Ngài. Nhưng rất tiếc, đa số chúng ta đều điên trong mê loạn, những cái không đáng quí trọng mà cứ đuổi theo để nắm bắt, rốt cuộc rồi vẫn tay không. Điên mà không biết mình điên, cứ nghĩ mình sáng. Còn Ngài nói Ngài điên mà thật sự Ngài không điên. Đó là hình ảnh đẹp của Thượng Sĩ qua bài ca trên. 
Về Đầu Trang Go down
https://triamquan.forumvi.com/
Tri Âm Quán
Thành Viên Tích Cực
Thành Viên Tích Cực
Tri Âm Quán


Tổng số bài gửi : 6340
Reputation : 2
Join date : 31/07/2013
Đến từ : Thị Trấn Chũ

 TUỆ TRUNG THƯỢNG SĨ NGỮ LỤC GIẢNG GIẢI   - Page 2 Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: TUỆ TRUNG THƯỢNG SĨ NGỮ LỤC GIẢNG GIẢI     TUỆ TRUNG THƯỢNG SĨ NGỮ LỤC GIẢNG GIẢI   - Page 2 EmptyThu Oct 24, 2019 3:36 pm

Dịch: SỐNG CHẾT NHÀN MÀ THÔI
Tâm mà sanh chừ sanh tử sanh
Tâm mà diệt chừ sanh tử diệt.
Sanh tử xưa nay tự tánh không
Thân huyễn hóa này rồi sẽ diệt.
Phiền não Bồ-đề thầm tiêu mòn
Địa ngục thiên đường tự khô kiệt.
Lò lửa dầu sôi chóng mát lành
Cây kiếm núi đao liền gãy hết.
Thanh văn ngồi thiền, ta không ngồi
Bồ-tát nói pháp, ta nói thật.
Sống tự dối sống, chết dối chết
Bốn đại vốn không, từ đâu khởi.
Chớ như nai khát đuổi sóng nắng
Chạy đông tìm tây không tạm nghỉ.
Pháp thân không đến cũng không đi
Chân tánh không phải cũng không quấy.
Đến nhà, nên biết thôi hỏi đường
Thấy trăng, đâu nhọc tìm tay ấy.
Kẻ ngu điên đảo sợ sống chết
Người trí thấy suốt nhàn thôi vậy.
 

Giảng: Đa số tu sĩ chúng ta từ lâu chịu ảnh hưởng câu “sanh tử sự đại” nên ai cũng sợ, thấy sanh tử là vấn đề lớn cần phải giải quyết. Nhưng đối với Thượng Sĩ vấn đề sanh tử chỉ là một việc nhàn mà thôi. Vậy “sanh tử sự đại” là đúng hay “sanh tử nhàn nhi dĩ” là đúng? Phật Tổ nói “sanh tử sự đại vô thường tấn tốc” nhằm sách tấn chúng ta tu. Hàng tu sĩ xuất gia cũng như tại gia tuy đã phát nguyện tu theo Phật, nhưng lâu ngày hay sanh bệnh lười mỏi, tu lừng chừng, tu lai rai. Sợ chúng ta thoái bộ không tiến, nên Phật Tổ mới nói sống chết là việc lớn, vô thường nhanh chóng lắm phải gấp rút mà tu, không thể chần chờ, nếu chần chờ thì chết đến tu không kịp luống uổng một đời tu. Đó là Phật Tổ khuyến khích thúc giục chúng ta tiến tu. Đây Thượng Sĩ nói sống chết là việc nhàn có trái với ý của Phật Tổ dạy không? - Thượng Sĩ là người thấy được chỗ tột cùng, thấy rõ sống chết là tướng sanh diệt không thật, nên không lo sợ mới nói như thế. Nếu chúng ta chưa phải là người đạt đạo, chưa sáng mắt thì phải thấy sanh tử là việc lớn cần phải giải quyết phải lo tu, kẻo chết đến tu không kịp thì bị nghiệp dẫn đi trong luân hồi thọ quả báo. Vậy, ai là người trí sáng mắt thì thấy sanh tử nhàn mà thôi, còn ai chưa phải là người trí thì phải thấy sanh tử là sự đại để lo tu. Quí vị ở đây là hạng nào? “Tâm mà sanh chừ sanh tử sanh, tâm mà diệt chừ sanh tử diệt.” Vọng tâm mà sanh thì sanh tử từ đó phát sanh, vọng tâm diệt thì sanh tử từ đó mà diệt. Vậy, sanh tử sanh là do vọng tâm dấy khởi tạo nghiệp, nghiệp mới dẫn đi trong sanh tử. Đó là sanh tử sanh. Nếu vọng tâm lặng, không tạo nghiệp, nghiệp dừng thì sanh tử ngang đó dứt. Vọng tâm là tâm hư dối, tâm hư dối dấy lên thì tạo ra nghiệp hư dối, rồi có sanh hư dối có tử hư dối. Nếu tâm hư dối dừng không khởi nữa, nghiệp hư dối hết thì sanh tử cũng hết. Trọng tâm của chúng ta tu là gì? Tất cả chúng ta tu ai cũng mong thoát khỏi sanh tử. Cái nhân tạo ra nghiệp sanh tử là vọng tâm. Nếu vọng tâm dấy lên chúng ta theo thì có tham có sân rồi tạo nghiệp lành hay dữ, đã tạo nghiệp rồi thì nghiệp dẫn đi trong sanh tử. Nếu vọng tâm dấy lên không theo thì vọng tâm lặng xuống, vọng tâm lặng thì đâu có tham sân, không tham sân đâu có tạo nghiệp, như vậy là nghiệp dừng, nghiệp dừng thì đâu có sanh tử. Hai câu này chỉ rất rõ trọng tâm tu hành của chúng ta. “Sanh tử xưa nay tự tánh không, thân huyễn hóa này rồi sẽ diệt.” Sanh tử do nghiệp, nghiệp có là do vọng tâm khởi. Vọng tâm là nhân mà sanh tử là quả. Vọng tâm đã không thật, quả làm sao thật được. Ngài nói sanh tử xưa nay tự tánh không thật thì, cái thân tứ đại huyễn hóa này, sớm muộn gì cũng hoại diệt không còn. Thương cho chúng ta ai cũng mang thân sanh tử tạm bợ huyễn hóa chợt sanh chợt diệt không bền lâu, mà cứ lo cho nó bảo vệ nó, rốt cuộc rồi nó cũng hoại đi, thật là phí công mà kết quả không được như ý. Người mà đeo đuổi làm một việc không có kết quả, người như thế có khôn không? Biết thân này cố giữ nó cũng mất, thế mà vẫn cứ giữ, thật đáng thương! Gìn giữ để được còn hoài thì mới giữ, giữ cái sẽ mất là tạo cái nhân không đâu, vậy mà cứ cố giữ, người như thế có phải là người trí sáng suốt không? Biết sanh tử tự tánh là không, cái thân huyễn hóa này sớm muộn gì cũng diệt là biết được nguồn gốc của thân. “Phiền não Bồ-đề thầm tiêu mòn, địa ngục thiên đường tự khô kiệt.” Thân này là huyễn hóa không thật thì phiền não là mê lầm khổ đau và Bồ-đề là giác ngộ an vui cũng không thật. Thân đã không thật thì khổ vui làm sao thật được? Thế nên nói phiền não Bồ-đề rồi cũng mất. Phiền não đã mất thì địa ngục đâu còn và Bồ-đề mất thì thiên đường cũng khô kiệt. Thượng Sĩ nói như vậy có trái với lời Phật dạy trong kinh: “chúng sanh đi trong lục đạo luân hồi là do nghiệp dẫn” không? Nghiệp do vọng tâm phát khởi mà ra. Vậy vọng tâm không thật, nghiệp không thật, tất cả quả của nghiệp tạo cũng không thật thì quả dữ của nghiệp dữ là đọa địa ngục, quả lành của nghiệp lành là lên thiên đường cũng không thật. Thiên đường và địa ngục là quả của nghiệp lành và nghiệp dữ; mà nghiệp thì từ vọng tưởng tạo nên, vọng tưởng đã không thật thì nghiệp đâu có thật. Nghiệp không thật thì thiên đường địa ngục cũng không thật. Song, thấy như thế là khi thấy thân này là giả không thật, nếu còn thấy thân này là thật thì thiên đường địa ngục cũng thật. Chỉ khi nào thấy thân này là huyễn hóa, cõi đời này là huyễn hóa, chừng đó nghiệp mới huyễn hóa và thiên đường địa ngục mới huyễn hóa. Chớ còn thấy thân mình là thật thấy sự vật hiện tại là thật, mà nghe nói thiên đường địa ngục không thật rồi chấp thiên đường địa ngục không thật, làm nhiều điều ác hại để mình được hưởng khoái lạc. Thấy có mình hưởng khoái lạc thì nghiệp thiện ác cũng có và thiên đường địa ngục cũng thật. Phải hiểu cho thật rõ chỗ này, kẻo hiểu lầm tu sai. “Lò lửa dầu sôi chóng mát lành, cây kiếm núi đao liền gãy hết.” Kinh Ahàm có bài kể cảnh địa ngục, ngục tốt hành hình tội nhân bằng cách đốt lửa nấu dầu cho sôi, ai có tội thì bỏ vào trong chảo dầu sôi nóng nên nói: “Lò lửa chảo dầu chóng mát lành.” Nếu còn thấy thân mình thật, lò lửa dầu sôi là thật thì vào đó bị nát thây. Nếu đã thấy thân này không thật thì lò lửa chảo dầu cũng không thật. Tôi đơn cử chuyện rất gần cho quí vị thấy. Nếu chúng ta thấy mình không thật ngoại cảnh không thật, thì khi nghe những lời mắng chửi nặng nề, thấy như cơn gió thổi qua tai, lòng bình thản mát mẻ không chút bực bội, tất cả lò lửa dầu sôi ở địa ngục đều mát lạnh. Việc tu hành của chúng ta không có xa rời thực tế, mà ngay ở mình ở vật trong thực tại. Nếu đã thấy mình không thật thì người, cảnh, Niết-bàn, địa ngục đều không thật. Ngược lại, thấy mình thật, thì tất cả đều thật. Thượng Sĩ thấy thân mình không thật, nên thấy địa ngục lửa đỏ dầu sôi mát lạnh. “Cây kiếm núi đao liền gãy hết.” Ở địa ngục có núi đao núi kiếm, người có tội bị ngục tốt bắt leo lên núi ấy; leo lên núi đao núi kiếm thì bị đao kiếm đâm chém nát thân. Song, nếu người tu thấy thân này không thật, vọng tưởng không thật, không sống với vọng tưởng thì mọi cảnh bức hại nguy hiểm của địa ngục đều tan nát hết. Đây Thượng Sĩ chỉ cho chúng ta biết, nguồn gốc của sự sanh khởi chấp trước, đều do nơi vọng tưởng dấy khởi, rồi tạo nghiệp, từ nghiệp mà có tất cả khổ vui của chúng sanh ở thế gian, ở địa ngục hay ở thiên đường. Chúng ta đã biết gốc khổ vui của kiếp người là vọng tưởng hư dối không thật, nên tu để dừng vọng tưởng. Vọng tưởng hết nghiệp theo đó mới dứt sạch. Vậy muốn giải thoát phải làm sao? - Không cách nào khác hơn là đưa mấy chú vọng tưởng vào Vô dư y Niết-bàn. Vọng tưởng vào Niết-bàn rồi thì tất cả được an ổn. “Thanh văn ngồi thiền, ta không ngồi, Bồ-tát nói pháp ta nói thật.” Thượng Sĩ thấy hàng Thanh văn tu thiền đặt nặng Tứ thiền Bát định và định cuối cùng là Diệt thọ tưởng định. Người nhập Diệt thọ tưởng định thân ngồi trơ trơ, không còn thở, chỉ còn chút hơi ấm, không có tri giác, mọi sanh hoạt chung quanh đều không biết. Người nhập Diệt thọ tưởng định ngồi trơ như đá như gỗ dù có sống lâu cũng không làm lợi ích cho người, nên Ngài không thích lối tu thiền này. Theo Ngài, đã làm lợi ích cho mình rồi, phải làm lợi ích cho người là đem pháp Phật giáo hóa chỉ dạy cho chúng sanh biết được lẽ thật, để họ tu cùng được giác ngộ giải thoát. Còn ngồi thiền nhập Diệt thọ tưởng định vô tri vô giác thì Ngài không ngồi. “Sống tự dối sống, chết dối chết, bốn đại vốn không, từ đâu khởi?” Đối với người giác ngộ thấy kiếp sống của con người không thật, nó tạm bợ giả dối. Ngày nay duyên hợp còn sống đây thì biết còn, ngày mai duyên tan thân hoại đi thì biết nó hoại. Thấy rõ thân này giòn bở không có gì bảo đảm chắc chắn. Sự sống là dối tạm thì chết cũng dối tạm. Vì thân này do bốn đại giả hợp tạm có, có không thật có. Phân tích kỹ thì đất do nhiều phần tử bụi kết hợp lại thành, chớ không có thật thể. Nước cũng do những phân tử H2O hợp lại thành, không có thể cố định chân thật. Gió lửa cũng vậy, do duyên mà thành. Cả bốn thứ đất, nước, gió, lửa không có tự tánh cố định, nên không thật. Bốn đại đã không thật thì thân này làm sao có thật được? Thấy rõ thân này vốn không thật nên Thượng Sĩ khuyên chúng ta: “Chớ như nai khát đuổi sóng nắng, chạy đông tìm tây không tạm nghỉ.” Ở những sa mạc lớn, mùa hè trời nắng, từ xa nhìn trên bãi cát thấy như có những vũng nước đọng. Nai khát nước thấy sóng nắng như vũng nước, chạy tới để uống, nhưng tới nơi không có nước. Lại thấy vũng nước ở xa xa, nó chạy tới nơi cũng không có nước. Nó chạy hoài vẫn không có nước uống. Càng chạy càng khát, ngày qua ngày, nai vẫn không có nước uống. Cũng vậy, tứ đại không thật thì thân mình và cảnh vật đâu có thật. Thế mà lúc nào chúng ta cũng yêu mến thân và lúc nào chúng ta cũng thấy cái này đẹp cái kia ngon cái nọ quí... Cứ chạy theo đuổi bắt chẳng biết dừng, đến ngày ngã ra chết cũng chưa thỏa mãn. Con người chúng ta chẳng khác nào con nai khát nước, cứ đuổi theo sóng nắng rốt cuộc rồi vẫn chết khát. Tất cả những món ngon, đẹp, quí... chúng ta tạo sắm cất chứa đầy nhà, ngày tắt thở chúng ta có hưởng và có mang theo được không? Tất cả phải bỏ lại trần gian, thế mà có ai dừng lại đâu? Cứ chạy đua tìm cầu cho đến ngày ngã ra chết. “Pháp thân không đến cũng không đi, chân tánh không phải cũng không quấy.” Đứng về mặt Pháp thân mà nói thì Pháp thân tuy hiện tiền nhưng không hình không tướng cho nên không đến không đi. Thí dụ như ngôi chùa trước đây không có, nay chúng ta xây dựng thành, nói có đến. Lâu ngày ngôi chùa hư hoại mất, nói có đi. Vậy, cái gì có hình tướng thì có đến có đi. Còn cái không hình tướng thì không đến không đi. Cũng vậy, thân này có hình tướng cho nên có sanh có diệt, còn Pháp thân thì vô tướng nên không sanh không diệt. Nếu chúng ta bám vào cái thân có hình tướng thì thấy có đến có đi, nếu chúng ta nhận được Pháp thân vô tướng hằng hữu ngay nơi thân ngũ uẩn thì Pháp thân không đến không đi, không phải không quấy, hằng thanh tịnh hằng liễu tri, cũng gọi là chân tánh. Quí vị chớ hiểu lầm Pháp thân là cái không ngơ như hư không. “Đến nhà nên biết thôi hỏi đường.” Chúng ta rời xa quê hương một hai mươi năm, nay trở về thăm cha mẹ anh em... Trên đường về cảnh cũ đổi thay, nên chúng ta không biết lối về, phải hỏi thăm nhờ người chỉ đường. Khi chúng ta đi về tới nhà gặp cha mẹ, anh em... thì không còn hỏi đường nữa. Còn hỏi đường là đi chưa tới nhà, khi đã tới nhà thì không còn hỏi đường nữa. Cho nên Thiền khách tới các Thiền sư mà còn thăm dò thưa hỏi, các Ngài nghe qua câu hỏi là biết họ tới đâu rồi. Và, có nhiều người ngộ đạo rồi, ông thầy nói thêm một câu, liền bịt tai bỏ đi, không nghe, vì không cần nữa, có nghe cũng dư. Tới nhà rồi mà còn hỏi đường là dư. Thiền sư Hoàng Long thường hỏi Tăng: - Người người trọn có sanh duyên, Thượng tọa sanh duyên tại chỗ nào? Chính lúc vấn đáp qua lại, Sư duỗi tay nói: - Tay tôi sao giống tay Phật? Hỏi chỗ sở đắc của tông sư các vị đến thăm thỉnh, Sư liền duỗi chân nói: - Chân tôi sao giống chân lừa? Hơn ba mươi năm lấy ba câu này hỏi, học giả khó khế ngộ huyền chỉ. Khắp các tùng lâm gọi là tam quan (ba cửa). Nếu có ai đáp thì Sư không nói phải chẳng phải, vẫn khép mắt ngồi thẳng, không ai lường được ý ấy. Phan Hưng Từ thường hỏi lý do ấy. Sư bảo: - Đã ra khỏi cửa thì vung tay đi thẳng chẳng cần biết có kẻ gác cửa. Từ người gác cửa hỏi phải chẳng phải ấy là người chưa qua khỏi cửa. Câu chuyện này giống hệt việc tới nhà rồi thôi hỏi đường vậy. “Thấy trăng đâu nhọc tìm tay ấy.” Đầu tháng, vào khoảng mùng năm mùng sáu âm lịch có trăng lưỡi liềm mọc ở phía tây, người mắt sáng thấy trăng, kêu bạn bè nói: - Hôm nay có trăng rồi. Những người bạn hỏi: - Ở đâu? Người mắt sáng đưa tay chỉ mặt trăng trên không ở hướng tây. Những người bạn nương ngón tay chỉ, thấy mặt trăng rồi thì ngón tay không cần nữa. Nếu cứ nhìn ngón tay mãi mà không nhìn chỗ chỉ thì không bao giờ thấy được mặt trăng. Ý Thượng Sĩ nói người đã ngộ đạo rồi thì không còn thắc mắc không còn tìm kiếm nữa. “Kẻ ngu điên đảo sợ sống chết, người trí thấy suốt nhàn thôi vậy.” Chúng ta xét lại coi mình là kẻ ngu hay người trí? Vì còn thấy thân này thật, nên thấy sống là vui, chết là khổ. Do đó ham sống sợ chết, ấy là kẻ ngu. Người trí thấy thân này không thật thì sự sống chết là chuyện nhàn thôi; sống không thật thì chết đâu có thật, chết không thật có gì mà sợ? Thế nên sống cười chết cũng cười. Thấy suốt được lẽ sống chết thì ở giữa cõi đời này chúng ta an nhàn tự tại, không có gì bận tâm. Đọc hai câu này rồi quí vị tự hỏi mình ngu hay trí? Nếu còn sợ chết là ngu và nếu có ai chỉ mặt mình nói: “anh là đồ ngu”, mình cười, đáp: “Phải, tôi ngu, vì tôi còn ham sống sợ chết.” Còn ham sống sợ chết là còn ngu, vậy mà ai đó nói ngu là giận. Ngu chồng thêm một lớp ngu mà không biết, thật đáng thương! Thượng Sĩ chỉ cho chúng ta thấy rõ sự sống chết không thật. Vì sống chết của thân này không thật, nên địa ngục, thiên đường, phiền não, Bồ-đề v.v... đều không thật. Thấy tất cả không thật, nên an nhàn trước sống chết. Khi đã nhận ra Pháp thân là Thể chân thật không hình tướng không sanh không diệt, không đến không đi, không phải không quấy, giống như người tới nhà, người thấy mặt trăng, không còn quan ngại, thấy việc sống chết chỉ là việc nhàn thôi. 
Về Đầu Trang Go down
https://triamquan.forumvi.com/
Tri Âm Quán
Thành Viên Tích Cực
Thành Viên Tích Cực
Tri Âm Quán


Tổng số bài gửi : 6340
Reputation : 2
Join date : 31/07/2013
Đến từ : Thị Trấn Chũ

 TUỆ TRUNG THƯỢNG SĨ NGỮ LỤC GIẢNG GIẢI   - Page 2 Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: TUỆ TRUNG THƯỢNG SĨ NGỮ LỤC GIẢNG GIẢI     TUỆ TRUNG THƯỢNG SĨ NGỮ LỤC GIẢNG GIẢI   - Page 2 EmptyFri Oct 25, 2019 4:02 pm

Dịch: PHÀM THÁNH KHÔNG HAI
Thân từ vô tướng xưa nay không
Huyễn hóa phân chia thành nhị kiến.
Ta, người như móc cũng như sương,
Phàm, Thánh như sấm cũng như chớp.
Công danh phú quí đồng mây trôi
Năm tháng đời người dường tên bắn.
Chút tình thương ghét chợt dấy lên
Khác nào bỏ bột đi tìm bánh.
Mày ngang mũi dọc cũng như nhau
Phật với chúng sanh không khác mặt.
Ai là phàm chừ ai là Thánh
Nhiều kiếp kiếm tìm không căn tánh.
Không tâm chẳng thị cũng chẳng phi,
Chẳng kiến không tà cũng không chánh.
Đồ tể Quảng Ngạch thành nguyện vương
Tỳ-kheo Khánh Hỷ công đức thánh.
Tự giác giác tha độ đường mê
Khắp cõi mát lành không nóng bức.
Anh thấy chăng Người mất trước đó là ai?
Người được sau đó là ai?
Hai tâm sai khác một dòng mạng.
Rốt cuộc vào tám muôn bốn ngàn pháp môn đà-la-ni.
Đồng nhiếp vào gương trí rộng lớn tròn đầy Như Lai. Chao!
 

Giảng: Ai tu cũng có quan niệm chuyển phàm thành Thánh, hay tiến từ nhân vị phàm phu lên quả vị Thánh. Đây là ước nguyện chân chánh, nhưng sao ở đây Thượng Sĩ nói Phàm Thánh không hai? Đây Ngài giải thích: “Thân từ vô tướng xưa nay không, huyễn hóa phân chia thành nhị kiến.” Thân của chúng ta từ thể vô tướng, xưa nay vốn là không, do duyên hợp tạm có hình tướng huyễn hóa. Thế mà chúng ta phân chia hai thứ ta người, phàm Thánh, phải quấy... Tất cả những cái thấy phân biệt hai bên gọi là nhị kiến. Đã là cái thân huyễn hóa không thật thì thân nào là phàm, thân nào là Thánh? “Ta, người như móc cũng như sương, phàm, Thánh như sấm cũng như chớp.” Thấy ta khác thấy người khác, nhưng sự thật ta và người huyễn hóa tạm bợ như sương như móc, sáng thấy mờ mờ nắng lên tan mất không còn. Và, phàm Thánh cũng vậy. Vừa nói phàm vừa gọi Thánh thoáng chốc là mất đi, giống như sấm vừa nổ vang sau đó liền dứt tiếng, chớp vừa lòe sáng cũng tắt ngay. Vì nó là ý niệm ngôn ngữ hai bên đối đãi, không thật, không bền. “Công danh phú quí đồng mây trôi, năm tháng đời người dường tên bắn.” Sự giàu sang danh vị ở cõi đời, ai cũng thèm khát mong muốn, muốn cho mình có địa vị trong xã hội để nở mặt nở mày, muốn cho mình được giàu sang sung sướng. Nhưng giàu sang danh vị không bền lâu, mới tiền rừng bạc bể đó chẳng bao lâu trắng tay, vừa tiền hô hậu ủng đó trở thành kẻ lưu đày. Giàu sang danh vị chẳng khác nào chòm mây trôi nổi bồng bềnh trong hư không, vừa thấy đó là mất đó. Tuổi đời mấy mươi năm chúng ta tưởng chừng như dài lắm, nhưng ngồi nhớ lại ngày tháng qua thấy nhanh như tên bắn. Những câu này Thượng Sĩ chỉ cho chúng ta thấy tính chất của nhân ngã, phàm Thánh, công danh phú quí, thời gian năm tháng chỉ là ý niệm hai bên không thật, thoáng có rồi không, đừng có mê chấp. “Chút tình thương ghét chợt dấy lên, khác nào bỏ bột đi tìm bánh.” Trong lãnh vực tu hành, muốn nhận ra pháp thân thanh tịnh có sẵn nơi mình mà khởi niệm thương ghét thì pháp thân bị che khuất, không làm sao nhận ra được. Giống như muốn ăn bánh mà bỏ bột, vì bỏ bột thì không có bánh. Vậy, muốn cho pháp thân hiển lộ thì phải dứt niệm thương ghét, vì thương ghét là niệm hai bên; những niệm hai bên lặng hết thì pháp thân hiện tiền. Cũng như biết lấy bột làm bánh thì có bánh ăn. Mục đích tối thượng của sự tu hành là chúng ta nhận ra pháp thân hằng hiện hữu nơi mình, nếu để niệm thương ghét, buồn giận, hơn thua, phải quấy dấy lên là nuôi dưỡng cái thứ phản bội che đậy pháp thân trong sáng của mình. Nó là giặc phá hoại của báu nhà mình, phải gan dạ xa lìa xả bỏ chớ theo nó. Quí vị có gan dạ xa lìa vọng niệm, hay nó dấy lên lưu luyến nuôi dưỡng? Nuôi dưỡng dòng niệm trước độ mười lăm phút mới bỏ, dòng niệm sau khởi tiếp tục nuôi nữa, cứ như thế nuôi hết niệm này tới niệm kia! Nuôi thương ghét buồn vui... hết ngày này tới tháng kia, tới năm nọ, cho tới già chết. Ai nuôi nó thì không nhận ra pháp thân chân thật của mình, ai buông sạch vọng niệm, không cầu ngộ, pháp thân vẫn hiện tiền. “Mày ngang mũi dọc cũng như nhau, Phật với chúng sanh không khác mặt.” Phàm và Thánh là một hay hai? Nói một không được, nói hai cũng không thông. Giả sử có một người phát tâm tu; khi mới phát tâm phiền não vẫn còn, nên gọi là phàm. Nhưng nhờ họ tinh tấn tu hành dẹp bỏ hết phiền não, dứt sạch niệm hai bên, ngộ được pháp thân thanh tịnh gọi là Thánh. Vậy, người còn phiền não khi trước và người ngộ pháp thân lúc sau là một hay hai? Nếu là một tại sao trước kia không gọi người đó là Thánh mà gọi là phàm? Và, tu hết phiền não giác ngộ mới gọi người đó là Thánh? Nói phàm nói Thánh dường như hai, nhưng sự thật không phải hai. Vậy, tất cả người phàm, nếu khéo tu buông hết vọng tưởng, ngộ được pháp thân chân thật thì là Thánh, nên nói Phật với chúng sanh không khác mặt. Chỗ này còn một ý nữa là, đa số người đời cho rằng Phật là nhân vật có ba mươi hai tướng tốt, có hào quang phóng ra sáng rỡ, ngự trên tòa sen rất uy nghiêm. Người tu chỉ là con người bằng xương bằng thịt, tầm thường như bao nhiêu người đời. Giả sử như vị ấy tu dẹp hết vô minh phiền não, hoàn toàn giác ngộ thành Phật, nhưng không đủ ba mươi hai tướng tốt, không phóng hào quang, không ngồi tòa sen, mà đi vào xóm làng để hóa duyên, gặp quí vị, quí vị cho đó là Phật hay là chúng sanh? Nhìn qua thân hình thì thấy cũng như mọi người! Khi còn mê cũng là thân này, cũng mày ngang mũi dọc, khi giác ngộ rồi cũng là thân này cũng mày ngang mũi dọc. Nhưng chỉ khác ở mê và ngộ chớ thân tứ đại không khác. Thế nên Thượng Sĩ nói: “Mày ngang mũi dọc cũng như nhau, Phật với chúng sanh không khác mặt.” “Ai là phàm chừ ai là Thánh, nhiều kiếp kiếm tìm không căn tánh.” Căn cứ vào thân tứ đại này, hỏi ai là phàm ai là Thánh làm sao phân định để trả lời? Phàm và Thánh không cố định, người mê gọi là phàm người giác gọi là Thánh. Mê giác là ở nội tâm người, chớ không do thân thể hình hài mà nên. Con người ai cũng mang thân tứ đại như nhau, không khác; nhưng khi mê là phàm khi giác là Thánh. Muốn tìm kiếm nguồn gốc căn tánh của mê và giác khó mà tìm được, dù trải qua nhiều đời nhiều kiếp cũng không tìm được. Vì mê giác không có cội gốc làm sao mà tìm? “Không tâm chẳng thị cũng chẳng phi, chẳng kiến không tà cũng không chánh.” Không tâm đây không phải là tâm không ngơ, mà là tâm không dấy niệm. Tâm không dấy niệm thì không có chuyện phải (thị) quấy (phi). Sở dĩ chúng ta thấy đây là phải kia là quấy, là do chúng ta khởi niệm phân biệt, nếu tâm hằng lặng lẽ không khởi niệm thì đâu có phải quấy. Người tu mà không khởi niệm phân biệt, không cho đây là phải kia là quấy, thường bị người đời cho là ba phải. Vì người đời khởi động niệm nên nói đây phải kia quấy. Người không khởi niệm làm sao xác định cái nào phải cái nào quấy? Nếu cần phải nói thì nói không phải không quấy, mà nói như thế thì người đời cho là ngu, không biết phải quấy. Người đời do quá khôn nên thấy phải quấy, tốt xấu, hơn thua đủ thứ. Còn người thật tu không phân biệt phải quấy thì bị cho là ngu. Như vậy quí vị có gan dạ làm kẻ ngu không? Đa số người đời thích khôn hơn là ngu, vì khôn mới cãi lý hơn người, còn ngu thì đâu có cãi, cũng không hơn ai. Không khởi niệm phải quấy thì có gì để cãi! Giả sử tất cả Tăng Ni ở đây, không có ai còn khởi niệm phân biệt phải quấy thì, đi từ thiền đường đến phòng tăng đến trai đường, đi đâu cũng không có tiếng cãi lý hơn thua. Còn nếu quí vị còn niệm phải quấy thì đi đâu cũng nghe quí vị nói cãi ồn ào, từ bên Tăng lẫn bên Ni. Chẳng hạn như thấy cành hoa hồng, người nói tốt người nói xấu, rồi cãi nhau. Xế chiều thì hoa hồng rã cánh rụng hết, vậy hoa hồng tốt hay xấu? Thật là vô lý, vật hết sức là tạm bợ, thế mà chúng ta cứ chấp chặt vào đó để tranh cãi, cãi cho ra lẽ, nhưng rốt cuộc rồi chẳng tới đâu! Đó là nghiệp thức của chúng sanh, do có tâm thức phân biệt, nên mới có phải có quấy. Nếu không tâm phân biệt, nào có thị có phi. Và, do tâm phân biệt phải quấy, nên mới khởi kiến chấp pháp này là tà, pháp kia là chánh; tà chánh là do tâm chấp trước mà ra. Nếu không khởi niệm không chấp trước thì cái gì tà cái gì chánh? “Đồ tể Quảng Ngạch thành nguyện vương, Tỳ- kheo Khánh Hỷ công đức Thánh.” Thượng Sĩ trình bày phàm Thánh không khác, không thị phi, không chánh tà. Tiếp theo Ngài dẫn câu chuyện người đồ tể tên Quảng Ngạch bỏ nghề giết hại phát nguyện tu, chẳng bao lâu được giác ngộ, nên nói đồ tể Quảng Ngạch thành nguyện vương (kinh Đại Bát-niết-bàn). Khánh Hỷ nghĩa là vui mừng, là tên của tôn giả A-nan, em con nhà chú của Thái tử Sĩ-đạt-ta. Ngài ra đời ngay khi Thái tử Sĩ-đạt-ta thành Phật. Thái tử thành Phật là niềm vui mừng lớn của nhân loại, nên Ngài được đặt tên là Khánh Hỷ. Khi lớn lên Ngài xuất gia làm Tỳ-kheo, làm thị giả hầu cận bên Phật, là một trong những đệ tử lớn của đức Phật, là bậc đa văn có đức hạnh đầy đủ, tu chứng được quả Thánh. Thượng Sĩ nói Tỳ-kheo Khánh Hỷ hầu cận Phật tu thành Thánh, người đồ tể tu cũng thành Thánh. Chỗ này cho thấy, chẳng riêng người gần gũi Phật như thị giả A-nan tu mới thành đạo, mà tên đồ tể từng làm nghề giết hại sanh vật, nếu khéo tu cũng thành tựu đạo quả. Như vậy nói ai phàm ai Thánh? Đâu phải đồ tể là phàm, đâu phải Tỳ-kheo là Thánh, mà phàm Thánh chỉ ở mê và giác. Vậy, với người giác ngộ không nói ai là phàm ai là Thánh. “Tự giác giác tha độ đường mê, khắp cõi mát lành không nóng bức.” Tự mình tu được giác ngộ rồi, ra giáo hóa giúp cho người người được giác ngộ như mình, cũng ra khỏi mê lầm, khiến cho cõi đời này được an vui thanh thoát. Nói theo Thượng Sĩ là khắp cõi mát lành không nóng bức. Vậy, trọng tâm của người tu là phải làm sao tu cho mình được giác ngộ, sau đó giáo hóa cho người cũng được giác ngộ, như thế mới đem lại an vui lợi ích cho chúng sanh. Ví dụ Tăng Ni trong Thiền viện, nếu ai cũng tỉnh giác biết thân này và ý niệm của tâm là huyễn hóa không thật, biết niệm khởi là gốc tạo nghiệp, không khởi vọng niệm, không chạy theo cảnh, không chấp thân là thật. Toàn chúng cả trăm người ai cũng thấy như vậy thì từ sáng tới chiều đâu có bực bội phiền não, ngày nào cũng an lành mát mẻ. Quí vị thấy như thế nhắc nhở cho mọi người cũng thấy như thế, thì cõi đời này thanh tịnh an vui dường nào! Sở dĩ bây giờ có vui buồn phiền não là tại chúng ta chưa tỉnh giác, nên sanh khởi nhiều chuyện lôi thôi. “Anh thấy chăng, người mất trước đó là ai? người được sau đó là ai?” Thượng Sĩ hỏi chúng ta có thấy chăng, thân này hư hoại chết đi là ai? Và người chết tái sanh thân khác là ai? Thân cũ thân mới (thân tiền ấm thân hậu ấm) dường như là hai thân hai tâm. Song, sự thật nó chỉ là một dòng sanh mạng; thân trước hoại mất là tử, thân sau được tức là sanh. Sanh tử thấy như có đây được kia, nhưng thật chỉ là mình chớ không có ai khác. Thế nên Thượng Sĩ nói: “Hai tâm sai khác một dòng mạng.” Tất cả niệm được niệm mất đều không thật. Nó là gốc của nghiệp dẫn chúng sanh đi trong luân hồi sanh tử. Không phải cái này được sanh cái kia bị mất là hai cái khác biệt. “Rốt cuộc vào tám muôn bốn ngàn pháp môn Đà- la-ni, đồng nhiếp vào gương trí rộng lớn tròn đầy Như Lai. Chao!” Đà-la-ni là tổng trì, gồm giữ tất cả. Tất cả pháp hữu vi có hình tướng sai biệt có sanh có diệt, đồng nhiếp chung một Tánh Giác như nhau, hay nói cách khác là đồng nhiếp chung một gương trí tuệ Phật rộng lớn của mình. Vậy, gương trí tuệ Phật của mình mới là cái gốc, còn tất cả tướng sanh diệt chỉ là cái tạm giả dối không thật. Thấy như vậy mới là thấy tột cùng. Tóm lại, với đôi mắt giác ngộ thấy phàm Thánh không hai. Nhưng người đời thấy là hai và lúc nào cũng nghĩ phàm phu tu để được làm Thánh. Phàm Thánh không hai, mê là phàm, giác là Thánh; tuy mê giác có khác ở nội tâm, chớ thân không khác. Chúng ta tu muốn được giác ngộ là phải biết rõ vọng niệm là si mê dẫn đi trong luân hồi sanh tử, nên không dấy niệm phải quấy hơn thua không chạy theo ngoại cảnh. 
Về Đầu Trang Go down
https://triamquan.forumvi.com/
Tri Âm Quán
Thành Viên Tích Cực
Thành Viên Tích Cực
Tri Âm Quán


Tổng số bài gửi : 6340
Reputation : 2
Join date : 31/07/2013
Đến từ : Thị Trấn Chũ

 TUỆ TRUNG THƯỢNG SĨ NGỮ LỤC GIẢNG GIẢI   - Page 2 Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: TUỆ TRUNG THƯỢNG SĨ NGỮ LỤC GIẢNG GIẢI     TUỆ TRUNG THƯỢNG SĨ NGỮ LỤC GIẢNG GIẢI   - Page 2 EmptyMon Oct 28, 2019 2:24 pm

Dịch: MÊ NGỘ KHÔNG KHÁC
Mê đi sanh không sắc
Ngộ lại chẳng sắc không.
Sắc không mê ngộ ấy,
Một lý xưa nay đồng.
Vọng dấy tam đồ dấy
Chân thông ngũ nhãn thông.
Niết-bàn tâm vắng lặng
Sanh tử biển trùng trùng.
Chẳng sanh lại chẳng diệt
Không thủy cũng không chung.
Chỉ hay quên nhị kiến
Pháp giới thảy bao dung.
 

Giảng: “Mê đi sanh không sắc, ngộ lại chẳng sắc không.” Con người khi còn mê không biết mình từ đâu sanh ra và khi chết cũng không biết mình sẽ về đâu? Nói cách khác là do mê nên không biết đường sanh tử thế nào, vì vậy mà thấy có sắc có không; không là cái không hình tướng, sắc là cái có hình tướng, hai cái đối đãi nhau. Ví dụ như thân người, cái bàn, cái ghế... là sắc, khoảng trống trong không gian thì gọi là không. Do mê nên thấy có sắc có không đối đãi nhau, khi ngộ rồi thì không thấy có sắc có không đối đãi nhau nữa. Tại sao vậy? Vì con người chúng ta ai cũng quen nhìn cái có hình tướng gọi đó là sắc, còn cái không hình tướng gọi đó là không, thành ra có sắc và không tương đối. Nhưng chỗ rốt ráo thì sắc không thật là sắc, không không thật là không. Như thiền đường này, bên ngoài là một lớp trống không, kế đó là một lớp vách, cửa, mái bao bọc phủ kín gọi là cái nhà (sắc ), bên trong nếu đặc kín thì không phải là cái nhà. Bên trong cái nhà cũng là một khoảng trống không. Như vậy, cái trống không trùm cả trong lẫn ngoài cái dáng che đậy tạm bợ gọi là cái nhà, chớ không thật. Đó là đứng trên phương diện đối đãi mà nói, nếu đứng trên bình diện cùng tột thì, thiền đường này trước đây là sắc hay là không? Nếu nói là sắc thì chỉ là những cây thông thôi, chớ không có cái thiền đường. Do duyên hợp lại lập thành cái nhà gọi là thiền đường. Như vậy thiền đường trước không tự có, do duyên hợp tạm có thiền đường. Nhưng, năm bảy mươi năm sau nếu nó hư không sửa, nó cũng trở lại thành không. Vậy trước không sau không, giữa chỉ có tạm bợ, có không thật có. Vậy, sắc thể nó vốn là không, và không thể cũng là không; không và sắc đồng một thể, không hai. Thế nên khi ngộ thấy được tột cùng thì không có cái sắc thật cái không thật, chẳng qua là đối đãi giả lập thôi. Vì vậy mà Thượng Sĩ nói khi mê thấy có sắc và không, khi ngộ thấy sắc và không đều không thật chỉ là giả danh. “Sắc không mê ngộ ấy, một lý xưa nay đồng.” Trước Thượng Sĩ nói sắc không không phải hai, giờ đây Ngài nói mê và ngộ lý xưa nay đồng. Người chưa tu là còn mê, nhưng phát tâm tu công phu viên mãn hốt nhiên ngộ được lý đạo; khi chưa ngộ và khi ngộ rồi vẫn là một người, chỉ khác nhau ở chỗ mê và ngộ thôi. Ví dụ nhà đang tối, bật đèn thì nhà sáng, vừa rồi nhà tối giờ đây nhà sáng, hai hiện tượng tối sáng khác nhau rõ ràng, nhưng cùng ở trong nhà mà thấy có tối và sáng dường như hai. Song không phải hai, vì tối cũng ở trong nhà mà sáng cũng ở trong nhà, chớ không ngoài cái nhà. Khi nhà tối chúng ta nói là tối, khi bật đèn sáng chúng ta nói là sáng. Thấy tối thấy sáng là do mắt nhìn chớ khoảng không gian đâu có tối sáng, không đổi thay vẫn là khoảng không gian trong nhà. Cũng vậy, tâm thể con người không mê không ngộ, vì tâm thức loạn tưởng không thấy suốt được lẽ thật thì gọi là mê, khi thấy suốt được lẽ thật thì gọi là ngộ. Vậy, mê ngộ là do thấy được lẽ thật và không thấy được lẽ thật, chỉ khác nhau chỗ đó thôi, chớ tâm thể trước sau không đổi dời. Như trong nhà trước tối sau sáng, khoảng hư không trong nhà trước sau không đổi. Khi có ánh sáng thì bóng tối chạy đi đâu quí vị có thấy không? Và, khi đèn tắt mất ánh sáng, bóng tối từ đâu chạy tới quí vị thấy không? - Sáng tối có ở đâu đến và có đi đâu không? - Thấy sáng thấy tối là do mắt của người mê loạn thấy, chớ sáng tối không thật, hư không trong cái nhà trước sau là một. Cũng vậy, mê ngộ khác nhau trên cái dụng biết và không biết được lẽ thật, chớ tâm thể trước sau không khác. “Vọng dấy tam đồ dấy, chân thông ngũ nhãn thông.” Khi vọng niệm dấy lên thì tạo nghiệp đi trong luân hồi sanh tử, nếu niệm lành thì tạo nghiệp lành sanh cõi người cõi trời, nếu khởi niệm ác thì tạo nghiệp ác, đi trong ba đường dữ là địa ngục, ngạ quỉ, súc sanh chịu bao nhiêu thứ khổ đau. Và, nếu không khởi niệm, thấu suốt được lý chân thật thì được ngũ nhãn lục thông. Như vậy, nếu chúng ta sống với vọng niệm thì lục đạo tam đồ hiện, nếu chúng ta sống với lý chân thật thì ngũ nhãn lục thông hiện. Hai đường mê ngộ rõ ràng, thế nên chúng ta tu, chủ yếu là phải buông xả vọng niệm, vì còn dấy niệm là còn đi trong luân hồi, dứt vọng niệm thì Thể chân thật hiện bày. “Niết-bàn tâm vắng lặng, sanh tử biển trùng trùng.” Niết-bàn là quả của tâm thanh tịnh vắng lặng, sanh tử là quả của tâm thức dấy khởi dồn dập như sóng biển trùng trùng. Thế nên nói tới sanh tử là nói tới vọng niệm dấy khởi liên miên, giống như sóng biển nối tiếp không ngừng. Còn tâm thanh tịnh vắng lặng chính là Niếtbàn. Như vậy, chúng ta tu không tìm cầu Niết-bàn ở đâu xa mà phải dừng vọng niệm, tâm vắng lặng thanh tịnh thì Niết- bàn hiện tiền. Niết-bàn sanh tử không rời tâm người. “Chẳng sanh lại chẳng diệt, không thủy cũng không chung.” Tâm thể của mỗi người vốn không sanh cũng không diệt, không trước cũng không sau. Nếu tâm mê chạy theo vọng tưởng đó là sanh tử. Nếu tâm giác thì dứt vọng tưởng, thanh tịnh là Niết-bàn. Như vậy, Niết-bàn là cái chẳng sanh chẳng diệt, không trước không sau, nhưng nếu mê khởi vọng niệm thì bao nhiêu thứ trần lao dấy khởi không thể kể hết. “Chỉ hay quên nhị kiến, pháp giới thảy bao dung.” Nhị kiến là cái thấy hai bên theo sở chấp. Như thấy thân mình là thật, thấy thân người là thật, chấp chặt là ta là người... đó là nhị kiến. Giờ chỉ cần buông bỏ cái chấp hai bên thì pháp giới thảy bao dung, tâm trùm cả pháp giới. Nhị kiến là chỉ cho cái thấy hai bên là sắc không, mê ngộ, có không, Niết-bàn sanh tử... Tức là tâm không khởi niệm về sắc không, mê ngộ, có không, Niết-bàn sanh tử... Ý niệm về những sự việc đó là hư dối không thật. Vì nếu hết sanh tử thì không còn nói đến Niết-bàn; Niết- bàn nghĩa là vô sanh; sanh tử là sanh rồi chết, chết rồi sanh lại liên miên. Khi dứt sanh tử thì không còn danh từ sanh tử, danh từ sanh tử đã không thì danh từ Niết-bàn cũng không có. Thế nên, Niết-bàn, sanh tử, mê ngộ... đều không thật. Vậy mà lúc nào chúng ta cũng sống trong tương đối hai bên không thật. Mở mắt ra nhìn sự vật thì thấy thật, mở miệng nói thì nói hai bên, cử động nào cũng hai bên hết. Giờ đây nói sắc nói không, nói thị nói phi... tất cả những cái đó cùng một thể như nhau. Nếu chúng ta biết tất cả pháp đối đãi cùng một thể thì nghe khen cũng như nghe chê không có gì khác. Vậy, nếu chúng ta biết tất cả pháp đối đãi hai bên đều không thật thì tâm không chấp không kẹt, tâm mở rộng khắp cả bầu trời. Nếu thấy tất cả pháp đối đãi hai bên là thật thì tâm chấp trước không kẹt chỗ này cũng dính chỗ kia, lúc nào cũng vướng mắc. Quí vị tu muốn tâm mình bao dung trùm khắp hay lúc nào cũng vướng mắc? - Ai tu cũng muốn mình tự do tự tại, chớ không muốn kẹt dính. Vậy, muốn tự do tự tại thì phải buông xả, không cố chấp, bằng không thì cứ thấy mình đúng người sai, mình tốt người xấu... Cả ngày giận tức, phiền lo, bực bội không yên, đủ thứ khổ. Đứng trên mặt thể mà nói thì thân ai cũng là thân tứ đại, không người nào là không mang thân tứ đại. Tứ đại là cái thể của thân người, nhưng trên thân, phân biệt có đẹp có xấu, có nam có nữ. Từ cái phân biệt đó sanh ra đủ thứ chuyện. Nếu tất cả chúng ta ai cũng thấy thân người do tứ đại hòa hợp mà thành, không ai khác ai thì không còn thấy đẹp thấy xấu, thấy nam thấy nữ. Bấy giờ tâm chúng ta bao dung, không còn nghe khen đẹp thì vui, nghe chê xấu thì buồn... tâm lúc nào cũng thênh thang rộng rãi. Do thấy phải là tốt, thấy quấy là xấu, nên ai cũng thích phải ghét quấy; thấy đúng là tốt, thấy sai là xấu nên làm điều gì ai cũng muốn mình đúng mình hay để được khen. Ngược lại thì bất mãn phiền não. Cái phải, cái đúng, cái hay nó không thật, thế mà chúng ta chấp nên sanh ra bao nhiêu thứ bệnh. Nếu chúng ta thấy tất cả pháp đối đãi không thật, chỉ là giả tướng giả danh thì không kẹt không dính vào đâu cả, tâm tự tại vô ngại. Quí vị có muốn làm người tự do tự tại không? Nếu muốn thì đừng khởi niệm phân biệt chấp trước, kẹt dính hai bên, buông xả niệm phân biệt chấp trước hai bên thì giải thoát mọi ràng buộc. Hiểu như thế mới thấu cái lý mê ngộ không khác và nhận chân lẽ thật. 
Về Đầu Trang Go down
https://triamquan.forumvi.com/
Tri Âm Quán
Thành Viên Tích Cực
Thành Viên Tích Cực
Tri Âm Quán


Tổng số bài gửi : 6340
Reputation : 2
Join date : 31/07/2013
Đến từ : Thị Trấn Chũ

 TUỆ TRUNG THƯỢNG SĨ NGỮ LỤC GIẢNG GIẢI   - Page 2 Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: TUỆ TRUNG THƯỢNG SĨ NGỮ LỤC GIẢNG GIẢI     TUỆ TRUNG THƯỢNG SĨ NGỮ LỤC GIẢNG GIẢI   - Page 2 EmptyTue Oct 29, 2019 2:49 pm

Dịch: NGÂM BĨU MÔI
Xưa nay một vật chừ cũng sai,
Thân sanh mang nghiệp chừ cũng phải.
Vì sao ngũ uẩn chừ lăng xăng
Bám chặt tứ đại chừ nương tựa.
Bỗng có cao thấp chừ ngắn dài
Tự chịu sanh già chừ bệnh chết.
Người có thạnh chừ thì có suy
Hoa có tươi chừ thì có héo.
Nước có hưng chừ thì có vong
Thời có thái chừ thì có bĩ.
Ngày có chiều chừ thì có mai
Năm có chung chừ thì có thủy.
Trở về ẩn đạo chừ núi rừng
Nguội lạnh lợi danh chừ triều thị.
Thiếu Thất chín năm chừ cùng ta
đồng tâm Hoàng Mai nửa đêm chừ với ta tri kỷ. Tùy phần chừ Liên Xã châu mày
Rộng chí chừ Triệu Châu răng gõ.
Dù cho trước tiếng chừ gật đầu
Đâu được trong giày chừ động ngón
Lò hồng không đúc chừ dùi trong đãy
Cọp mạnh đói chừ chẳng liếc mồi.
Minh châu há ngại chừ sóng gió
Sắc chánh sá gì chừ tía hồng.
Đến đây rồi chừ sự lý toàn bày
Cầm giữ, buông bỏ chừ đâu cần nghĩ ngợi.
Trâu đá giữa đêm vào biển đông
Càn ngã san-hô, trăng như nước.
 
Giảng: Bĩu môi là trề môi tỏ thái độ không bằng lòng, Thượng Sĩ là người đã giác ngộ mà còn bĩu môi tỏ thái độ không bằng lòng việc gì? Chúng ta hãy đọc kỹ sẽ thấy cái bĩu môi của Ngài. “Xưa nay một vật chừ cũng sai, thân sanh mang nghiệp chừ cũng phải” là cái bĩu môi của Thượng Sĩ. Lục tổ Huệ Năng đâu không nói “bản lai vô nhất vật” là bản thể chân thật có sẵn nơi mỗi người; vì không hình tướng, không sanh diệt, không bị vô thường chi phối nên nói không một vật. Nếu nói có một vật là không đúng. Khi ngài Hoài Nhượng tới Lục Tổ. Lục Tổ hỏi: - Ở đâu đến? Hoài Nhượng thưa: - Ở Tung Sơn đến. - Vật gì đến? - Nói in tuồng một vật tức không trúng. - Lại có thể tu chứng chăng? - Tu chứng tức chẳng không, nhiễm ô tức chẳng được. Qua câu nói này Lục Tổ liền ấn chứng cho sau này làm Tổ. Khi ngài Hoài Nhượng đáp: “nói in tuồng một vật tức không trúng” là đã khế hợp với “bản lai vô nhất vật” mà Lục Tổ đã nói. Tuy ngài Hoài Nhượng trả lời khế hợp với chỗ thấy của Lục Tổ, nhưng Lục Tổ muốn trắc nghiệm xem Ngài đã thấu suốt chưa mới hỏi tiếp: “Lại có thể tu chứng chăng?” Ngài đáp: “Tu chứng tức chẳng không (chẳng không tức là có), nhiễm ô không thể được.” Vì Thể chân thật không tướng mạo làm sao nhiễm nhơ được, nên Thượng Sĩ nói “xưa nay một vật chừ cũng sai”. Nhưng, khi đã “sanh thân mang nghiệp chừ cũng phải”. Tại sao lạ vậy? Vì đã mang nghiệp sanh ra trên đời này rồi thì thấy thân mình là thật có, thấy muôn vật là thật có; cái gì có cũng phải hết. Thượng Sĩ nói khi tỉnh ngộ chỉ nói một vật cũng là sai, khi mê tạo nghiệp đi trong luân hồi sanh tử, thì thôi vô số sự vật cái nào cũng phải. Đó là hai câu đầu nói về Thể chân thật xưa nay vốn không một vật của người đã giác ngộ. Và, người mê tạo nghiệp sanh thân thì thấy muôn ngàn sự vật đều có. “Vì sao ngũ uẩn chừ lăng xăng, bám chặt tứ đại chừ nương tựa.” Tại sao chúng ta bị năm uẩn tụ họp làm rối loạn, rồi chúng ta nương bám vào sắc uẩn là thân tứ đại này, cho đó là thân mình? Thượng Sĩ bĩu môi không bằng lòng là không bằng lòng chỗ này. Tại sao trước không có một vật mà bây giờ ngũ uẩn tập hợp, chúng ta nương bám sắc thân tứ đại cho là mình, có vô lý không? “Bỗng có cao thấp chừ ngắn dài, tự chịu sanh già chừ bệnh chết.” Từ chỗ bám chặt vào sắc thân tứ đại cho là mình, nên thấy mình cao người thấp, mình hay người dở, tạo bao thứ nghiệp, rồi chịu quả khổ sanh già bệnh chết. Khi đã mang thân sanh già bệnh chết, cứ chấp chặt vào thân, mất thân này chụp thân khác, tiếp
 

nối kiếp kiếp đời đời không ngừng. Đây là hiện tượng mà Thượng Sĩ bĩu môi không bằng lòng. Đối với hiện tượng này chúng ta bĩu môi hay vui mừng hỉ hạ? - Chúng ta sanh ra là tổ chức ăn mừng, Thượng Sĩ thì thấy vô lý, nên Ngài diễn tả cho chúng ta thấy cái vô nghĩa của cuộc đời. “Người có thạnh chừ thì có suy, hoa có tươi chừ thì có héo, nước có hưng chừ thì có vong, thời có thái chừ thì có bĩ, ngày có chiều chừ thì có mai, năm có chung chừ thì có thủy.” Tất cả mọi sự vật cái nào cũng chịu luật vô thường chi phối. Con người sanh ra có trẻ thì có già, hoa có tươi thì có héo, nước có hưng thì có vong, thời có thái (hưng thạnh) thì có bĩ (xấu), ngày có chiều thì có mai, năm tháng có chung thì có thủy. Sự vật nào cũng ở trong vòng tương đối, ở dạng này rồi đổi qua dạng kia. Không có một vật cố định không đổi dời. Như vậy ở đời cái gì là vui? Nếu trẻ là vui thì già là buồn, nếu hoa nở là vui thì hoa tàn là buồn, nếu đất nước hưng thạnh là vui thì suy vong là buồn, nếu gặp thời cơ thuận tiện được lợi thì vui, thời cơ bất tiện bất lợi thì buồn... Tóm lại tất cả người, vật, thời tiết, năm tháng đều nằm trong pháp đối đãi, đã là pháp đối đãi thì có cái gì là thật, đã là không thật thì bám víu để làm gì? “Trở về ẩn đạo chừ núi rừng, nguội lạnh lợi danh chừ triều thị.” Thôi không bám víu pháp đối đãi ở thế gian, tránh xa thành thị, vào núi rừng ở ẩn để tu hành, bỏ hết chuyện lợi danh chốn ồn náo, mà thiên hạ đang bon chen giành giựt. “Thiếu Thất chín năm chừ cùng ta đồng tâm, Hoàng Mai nửa đêm chừ với ta tri kỷ.” Tổ Bồ-đề- đạt-ma từ Ấn Độ sang Trung Hoa, lúc chưa gặp cơ hội truyền bá thiền, Ngài lên ngọn Tung Sơn ngồi xây mặt vào vách chùa Thiếu Lâm để chờ thời, đủ duyên mới ra giáo hóa. Xưa, ở hội Huỳnh Mai, lúc nửa đêm Lục Tổ được Ngũ Tổ trao y bát xong là vào rừng núi, ở ẩn hơn mười năm. Thượng Sĩ tự thấy Tổ Bồ-đề-đạt-ma lúc ngồi xây mặt vào vách, ở chùa Thiếu Lâm trên ngọn Tung Sơn là bạn đồng tâm với Ngài. Và, Lục tổ Huệ Năng hơn mười năm ẩn náu trong rừng là bạn tri kỷ của Ngài. “Tùy phần chừ Liên Xã châu mày, rộng chí chừ Triệu Châu răng gõ.” Liên Xã châu mày dẫn điển tích Đào Uyên Minh là một nhà văn thơ giỏi, được ngài Huệ Viễn ở Lô Sơn mời đến hội Bạch Liên Xã để chuyên niệm Phật. Tuy không xứng hợp, song Đào Uyên Minh nể tình ngài Huệ Viễn đến, đến với đôi mày nhíu lại, lòng không thích mà cũng phải chiều vậy. Câu chuyện Triệu Châu răng gõ, tôi tra nhiều tài liệu mà vẫn không tìm ra điển tích này, chỉ thấy trong thiền sử, Hàn Văn Công hỏi Thiền sư Bảo Thông: - Hòa thượng tuổi được bao nhiêu? Sư cầm xâu chuỗi dở lên, bảo: - Hội chăng? - Chẳng hội. - Ngày đêm trăm lẻ tám. Văn Công không hiểu trở về. Hôm sau Văn Công lại đến, vừa tới cửa gặp thủ tọa, Văn Công thuật câu nói hôm qua của Sư, hỏi ý kiến thế nào? Thủ tọa vỗ răng ba cái. Văn Công vào trong gặp Sư, hỏi lại ý kiến hôm qua, Sư cũng vỗ răng ba cái. Chuyện Triệu Châu gõ răng, tôi đọc hết Ngữ lục và Quảng lục của Ngài, chỉ thấy có hai trường hợp nói đến răng. Trường hợp thứ nhất: Có một vị Đại vương ở Trấn Châu hỏi Ngài: - Sư tôn năm nay bao nhiêu tuổi? Triệu Châu đáp: - Chỉ có một cái răng. - Làm sao nhai được thức ăn? - Tuy nhiên, một cái từ từ nhai được. Trường hợp thứ hai: Có một vị Tăng hỏi ngài Triệu Châu: - Hoa Phật chưa nở làm sao biện được chân thật? Ngài đáp: - Đã nở. Vị Tăng đem việc này thuật lại cho ngài Lạc Phổ nghe. Nghe xong Lạc Phổ gõ vào răng một cái. Nếu gõ vào răng thì ngài Lạc Phổ gõ chớ không phải Triệu Châu gõ. Triệu Châu răng gõ e dùng lộn một tên chăng? “Dù cho trước tiếng chừ gật đầu, đâu được trong giày chừ động ngón.” Đoạn đầu Thượng Sĩ trình bày cho chúng ta thấy cái Thể chân thật của mình xưa nay không một vật, do mê tạo nghiệp nên có thân năm ấm, chấp thân năm ấm là mình thì thấy có cao thấp, tốt xấu... mới có sanh già bệnh chết khổ đau. Xét kỹ cuộc đời từ con người cho tới muôn vật, cái nào cũng có lúc thạnh lúc suy, có hưng có vong... Không có cái nào trước sau như nhất ở một thể cố định. Thấy rõ như vậy nên không đuổi theo không nắm bắt, mà lui vào núi rừng vắng vẻ để tu, trút hết mọi lợi danh ở chốn thị thành. Việc làm này giống như Tổ Bồ-đề-đạt-ma, khi chưa gặp người truyền đạo, ngồi xoay mặt vào vách ở chùa Thiếu Lâm núi Tung Sơn, giống như Lục Tổ ẩn trong rừng hơn mười năm khi chưa đủ duyên giáo hóa, giống như Đào Uyên Minh bị mời vào hội Bạch Liên Xã, giống như Triệu Châu người chí rộng... Các Thiền sư đã giác ngộ nhận ra Thể chân thật, mà chưa đủ duyên để giáo hóa nên phải ẩn nhẫn chờ đợi cơ duyên. Lúc các Thiền sư chưa gặp thời duyên giáo hóa không khác đoạn: “Dù cho trước tiếng chừ gật đầu, đâu được trong giày chừ động ngón.” Đối diện với người, người chưa nói mà đã biết trước họ muốn nói cái gì rồi nên gật đầu. Thông minh thấu suốt như vậy mà “đâu được trong giày chừ động ngón”. Chân mang giày không thể khoe chân đẹp, chân xấu, vì giày phủ kín che khuất, dù trong giày ngón chân có ngo ngoe cục cựa cũng không ai thấy. Như vậy, khi bị che khuất dù có muốn ngoi đầu lên cũng không ai thấy được, thôi thì cứ yên phận ở trong đó. “Lò hồng không đúc chừ dùi trong đãy, cọp mạnh đói chừ chẳng liếc mồi.” Cây dùi trong đãy lò lửa hồng không đúc được. Ý này dẫn từ điển tích: Bình Nguyên Vương sang nước Sở, Mao Toại xin đi theo. Bình Nguyên Vương bảo: - Người hiền sĩ trong đời giống như chiếc dùi trong đãy, mũi nó tất ló ra ngoài. Cái đãy bằng vải tuy kín, nhưng đựng cây dùi mũi nhọn cây dùi xuyên qua lớp vải ló đầu ra, không giấu kín được mũi dùi. Cũng vậy, ở đời người tài ba, người có khả năng thoát khỏi sanh tử, dù có đúc, đúc cũng không được. Thế nên chư Tổ hay nói dùi ở trong đãy. “Cọp mạnh đói chừ chẳng liếc mồi.” Con cọp mạnh đang đói thấy mồi không thèm ngó. Ý câu này muốn nói, tuy các Thiền sư ẩn dật không làm gì để hiển lộ tài năng và sức mạnh cho mọi người thấy, nhưng ở nơi các ngài đã có sẵn sức sống mãnh liệt và tinh thần lợi tha không giới hạn, cũng giống như con cọp đói tuy thấy mồi mà không thèm nhìn, nhưng bản chất con cọp đó là cọp mạnh. “Minh châu há ngại chừ sóng gió, sắc chánh sá gì chừ tía hồng.” Hạt minh châu để dưới đáy hồ, dầu có gió làm nước dậy sóng chao động trên mặt hồ, hạt minh châu ở đáy hồ vẫn nằm yên, không động lay, nó vẫn tỏa ánh sáng hoặc trắng hoặc vàng..., không ngại màu pha trộn như màu tía màu hồng... Vì nó là sắc chánh. Ý hai câu này nói người thật có tài đức thật giác ngộ dù trú ẩn ở đâu, dù ở hoàn cảnh nào, những chướng duyên không thể chi phối làm lay chuyển được. Khả năng trí tuệ và đức hạnh của họ, lúc nào cũng nguyên vẹn không bị phai mờ hay hao mất. “Đến đây rồi chừ sự lý toàn bày, cầm giữ buông bỏ chừ đâu cần nghĩ ngợi. Trâu đá nửa đêm vào biển đông, càn ngã san-hô trăng như nước.” Người tu mà nhận ra Thể chân thật nơi mình rồi, tuy chưa ra làm việc lợi ích cho đời, nhưng không còn mắc kẹt, không bị lu mờ. Vì đến đây sự lý hiện bày rõ ràng không còn mờ mịt che giấu, ngang đó thì cầm giữ hay buông bỏ không cần nghĩ ngợi. Giống như trâu đá vào biển đông. Ngày xưa nói sắt biết nói, trâu đá chạy là nói chuyện không đâu. Nhưng ngày nay người bằng sắt bằng gỗ, lắp máy vào cũng nói cũng hát được, trâu bằng gỗ bằng đá lắp máy vào cũng chạy được. Ở đây Thượng Sĩ để cập đến trâu đá là để nói, người tu khi tới chỗ không còn thấy hai bên đối đãi là không còn niệm phân biệt, song vẫn hằng giác hằng tri, có diệu dụng không thể lường được. Giống như trâu đá tuy không tri giác, nhưng ban đêm nó nhào xuống biển đông, làm ngã hết những cây san-hô ở dưới biển. Và, thấy trăng cũng như nước. Nước là cái mờ che đậy, trăng thì sáng soi. Khi lý sự toàn bày rồi thì cái mờ cái sáng đều như nhau. Tóm lại, Thượng Sĩ bĩu môi tỏ thái độ không bằng lòng bởi những lý do: Một là Thể chân thật từ xưa không có một vật, thế mà giờ đây ngũ uẩn tụ hợp, bám chặt ngũ uẩn cho là mình, nên mới có ta người, cao thấp, dài ngắn... rồi tự chịu sanh già bệnh chết từ đời này tới đời kia. Hai là cuộc đời từ con người cho đến muôn vật, thời tiết tháng ngày đều ở trong vòng đối đãi sanh diệt vô thường giả dối. Thế mà người đời cứ mải đắm đuối kiếm tìm đuổi bắt. Đối với những sự việc này Thượng Sĩ bĩu môi tỏ thái độ không bằng lòng. Vậy Ngài có lỗi chê khen không? Và, chúng ta có thấy để bĩu môi như Ngài, hay bằng lòng chấp nhận để chịu chung số phận, cho sanh diệt vô thường chi phối hết kiếp này tới kiếp khác? Đối với sự việc này Thượng Sĩ bĩu môi không bằng lòng, dứt khoát sống đời ẩn dật, trước hết là làm lạnh tâm danh lợi, sau làm người đồng tâm với Tổ Bồ-đề-đạtma, làm người tri kỷ với Lục tổ Huệ Năng, chơi với nhà thơ Đào Uyên Minh, chơi với những vị thanh thản như Triệu Châu. Tuy sống ẩn dật, chớ đạo đức giác ngộ không thể che giấu được, giống như ngón chân không cử động được ở trong giày, nhưng không phải không có ngón chân, hay như lò không đúc được dùi trong đãy, cọp mạnh đói mà không thèm ăn mồi, minh châu không sợ sóng gió. Thượng Sĩ thấy rõ kiếp người tạm bợ, cuộc đời giả dối không thật, nên bĩu môi cười không chấp nhận. Ngài sống đời ẩn dật nuôi dưỡng đạo tâm, khi sự lý hiện bày rõ ràng thì không còn cầm giữ hay buông bỏ, không còn niệm hai bên đối đãi thì sẽ được cái diệu dụng không thể nghĩ bàn. 
Về Đầu Trang Go down
https://triamquan.forumvi.com/
Tri Âm Quán
Thành Viên Tích Cực
Thành Viên Tích Cực
Tri Âm Quán


Tổng số bài gửi : 6340
Reputation : 2
Join date : 31/07/2013
Đến từ : Thị Trấn Chũ

 TUỆ TRUNG THƯỢNG SĨ NGỮ LỤC GIẢNG GIẢI   - Page 2 Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: TUỆ TRUNG THƯỢNG SĨ NGỮ LỤC GIẢNG GIẢI     TUỆ TRUNG THƯỢNG SĨ NGỮ LỤC GIẢNG GIẢI   - Page 2 EmptyMon Nov 04, 2019 4:26 pm

Dịch: BÀI VĂN TRỮ TỪ TỰ RĂN
Ngày tháng nước chảy
Giàu sang mây trôi.
Gió lửa tan rồi
Trẻ già thành bụi.
Hồn phách lìa, sắc thân như mộng
Cuộc mưu sinh, con rối kéo lôi,
Hằng ngày đùa, đưa tay bắt bóng.
Hạc cửu cao đầu đỏ có thừa
Cá vũ môn đuôi hồng chẳng đổi.
Chẳng quay đầu, hồi quang phản chiếu
Hợp tâm yếu, thức tánh thông minh.
Cầu giải thoát, chánh giác viên thành
Nơi trần tục, tâm thanh diệu dụng.
Trong mộng tạo tác
Thức rồi đều không.
Trong mộng tạo, sanh thô sanh tế
Tỉnh giấc rồi, không mảy tóc kẽ tơ.
Tâm thanh tịnh chẳng nhơ chẳng bợn
Thân kiên cố không trước không sau.
Sắc xuân hoa đóa đóa tươi hồng
Trăng thu bóng tròn tròn viên diệu.
Buộc niệm phàm thánh
Chỉ hiềm là trái hẳn tướng chân.
Lòng quên tử sanh
Liền liễu ngộ xưa nay tánh thật.
Còn mảy tình tam đồ báo ứng
Tơ hào niệm lục đạo tiếp nhân.
Tùy bảy thức có chán có ưa
Phá ba độc không chân không vọng.
Tướng nhân ngã khó thâu khó nhiếp
Kiếp hà sa luân hồi tứ sanh.
Tham sân si cùng đấu cùng tranh
Số tăng-kỳ lang thang chín loại.
Nhận hướng theo khuôn phép vô minh
Luống uổng mất sắc thân tứ đại.
Khéo chuyển đổi các căn hữu lậu,
Liền chứng vào chánh định chân như.
Điên đảo nhị kiến
Là đem lưới bủa cá đầu non.
Tịch diệt nhất như
Cỡi ngược lừa tiến lên bờ giác.
Trong lòng nếu không thiên không đảng
Tai mặc nghe người mắng người chê,
Cầm lửa đốt trời luống tự nhọc
Mắt được thấy là xót là thương.
Cầu chân như mà đoạn vọng niệm
Dường la to để át tiếng vang.
Bỏ phiền não mà giữ Niết-bàn
Tợ sợ bóng chạy vào nắng trốn.
Chợt vậy theo tâm viên ý mã
Khó tránh khỏi lợi buộc danh ràng.
Không quay về Tổ vức đạo tràng
Đâu tránh khỏi Diêm vương ngục tốt.
Đem bốn chữ “vô thường nhanh chóng”
Không thối chuyển, sáu giặc dẹp yên.
Nhóm lửa hồng chánh định đốt tiêu,
Chứng vào được Vô dư Niết-bàn.
Giăng lưới lớn bủa bắt phượng hoàng
Chớ buông chí theo loài chim sẻ.
Nay muốn câu cá ngạc cá kình
Đừng bận bịu ễnh ương ếch nhái.
Chấp tay trân trọng Bè bạn anh em!
Hoặc mỗi người có thánh có linh
Nên ghé mắt nhìn xem tiến tới. Chao!
 
Giảng:

“Trữ từ tự răn” là bài văn Thượng Sĩ làm ra để tự răn nhắc mình. Trữ là tuôn chảy tất cả những gì chứa ở trong đều tuôn ra hết. Từ là lời nói hay câu văn. “Trữ từ tự răn” là lời nói, được tuôn ra hết không chứa chấp trong lòng, để tự răn nhắc mình. “Ngày tháng nước chảy, giàu sang mây trôi.” Đây là hai câu mở đầu, Thượng Sĩ tự nhắc mình cũng như nhắc mọi người: ngày, tháng là thời gian trôi qua mau như nước chảy không dừng. Nhưng, giàu có sang trọng giống như mây nổi trôi trên hư không, có đó rồi mất đó, hư ảo không bền chắc. “Gió lửa tan rồi, trẻ già thành bụi.” Khi phong đại và hỏa đại nơi thân tứ đại này không tụ hội nữa, nó tan ra thì người già cũng như người trẻ trở thành cát bụi. Con người khi thở ra không hít vào thì tim ngừng đập, máu ngừng chảy, thân bất động nằm trơ ra đó. Thân thể từ đầu tới chân lạnh dần, rồi sình chướng to lên, da thịt nứt nẻ, nước vàng chảy ra, thịt da rữa nát, gân xương lìa từng khúc, mục nát thành cát bụi. Thượng Sĩ tự nhắc mình cũng như nhắc chúng ta nhớ cuộc đời từ thân tứ đại này cho đến sự giàu sang phú quí, nó phù du giả tạm, không bền, không chắc, không thật. “Hồn phách lìa, sắc thân như mộng, cuộc mưu sinh con rối kéo lôi, hằng ngày đùa, đưa tay bắt bóng.” Hồn phách xa lìa thân xác này rồi thì thân xác này tan rã, mấy mươi năm sống ở cõi đời giống như giấc mộng, có gì đâu! Hiện tại tất cả chúng ta thân xác tuy chưa tan nát, nhưng gẫm lại chúng ta sống mấy mươi năm qua thấy như giấc mộng. Và, cuộc mưu sinh, lúc làm dân khi làm quan, nay làm nghề này mai làm nghề kia lăng xăng, rốt cuộc rồi nhìn lại thấy như con rối múa may, không có nghĩa gì. Chính chỗ này Ngũ tổ Pháp Diễn một hôm ra giữa chúng nói: - Hôm qua Sơn tăng vào thành thấy một hàng rào trong là người gỗ, liền lại gần xem, hoặc thấy đẹp đẽ kỳ lạ, hoặc thấy xấu xa vô kể, chuyển động, đi, ngồi, xanh, vàng, đỏ, trắng mỗi mỗi thấy rõ, khi xem kỹ vốn là miếng vải xanh bọc lại ở trong có người. Lão tăng không thể chịu nổi, bèn đến hỏi ông tên gì? Người kia nói: - Hòa thượng già xem là xong, hỏi tên làm gì? Người đi qua đi lại đẹp xấu đó là gì? - Là con rối, nó đi qua đi lại, thấy khi đẹp khi xấu. Sở dĩ nó hoạt động được như thế là do người ở phía sau giựt dây, hoặc gắn máy điện, nên nó mới múa may đi lại được. Như vậy, con rối hoạt động múa may mà chúng ta thấy đó nó không thật. Cũng thế, cuộc đời chúng ta khi thăng khi trầm, lúc thì phú quí, lúc thì bần cùng, lúc được người tán thưởng, lúc bị miệt khinh... giống như con rối quay cuồng không thật, thấy thì thấy đừng có hỏi. Đó chỉ là chuyện đùa đưa tay bắt bóng hằng ngày mà thôi. Trong cuộc sống chúng ta đuổi theo cái này, chụp bắt cái kia, giống như những đứa trẻ nhà quê xem phim, thấy dọn cơm thịnh soạn chạy tới bưng ăn, nó chỉ tốn công mà không được no dạ. Để thấy chúng ta say mê đắm đuối người cảnh chẳng khác gì người đưa tay bắt bóng, vừa nắm là mất chẳng được gì. Thượng Sĩ tự cảnh tỉnh Ngài, mà cũng cảnh tỉnh chúng ta nhìn cuộc đời là như vậy. “Hạc cửu cao đầu đỏ có thừa, cá vũ môn đuôi hồng chẳng đổi.” Hạc cửu cao được dẫn từ sách Thanh Dị Lục của Đào Cốc, trong câu chuyện Vũ Tống khi làm Vĩnh vương, trong vườn ngự, ông nuôi nhiều chim, mỗi loài ông đặt cho một cái tên. Vịt trắng ông đặt tên là Sách Tiên Sinh, gà ông đặt là Trường Minh Đô Úy, rùa ông đặt là Linh Thọ Tử, hạc ông đặt tên Cửu Cao Xử Sĩ. Xử Sĩ là nhà văn có tài. Hạc cửu cao đầu đỏ ngầm ý nói con người có khả năng thuộc hạng tài giỏi. Cá vũ môn chỉ cho cá chày đuôi đỏ. Ở Vũ Môn bên Trung Hoa tới mùa hoa đào nở thì cá chày đua nhau nhảy, con nào nhảy qua ba cấp liền hóa thành rồng. Con hạc có tài, con cá chày hóa thành rồng, không đổi thay bản chất của nó. Vẫn là hình thức đó, cá chày vượt qua được ba cấp, nó biến thành rồng. Con hạc ở vườn ngự được đặt tên là Cửu Cao Xử Sĩ, nó cũng chỉ là con hạc thôi. “Chẳng quay đầu, hồi quang phản chiếu, hợp tâm yếu thức tánh thông minh.” Tại sao chúng ta không quay đầu lại, để hồi quang phản chiếu cho hợp với tâm yếu của mình, để thấy thức tánh được sáng suốt? “Cầu giải thoát, chánh giác viên thành, nơi trần tục tâm thanh diệu dụng.” Khi thức tánh sáng suốt rồi, nếu cầu giải thoát sẽ được thành tựu chánh giác một cách viên mãn. Tóm lại, khi biết quay đầu hồi quang phản chiếu và hợp với tâm yếu rồi thì thức tánh được sáng suốt. Lúc bấy giờ muốn được giải thoát liền được thành tựu chánh giác viên mãn. Và, nếu chúng ta ở trong trần tục không cầu giải thoát thì tâm vẫn thanh tịnh đầy đủ diệu dụng không thiếu. Ở trước, Thượng Sĩ nêu lên những hình ảnh cảnh tượng buồn giả dối tạm bợ, sau nhắc cho mọi người: nếu có ý chí quyết vượt qua cảnh trần lao sanh tử thì sẽ được thành Phật. Và nếu không thành Phật ở thế gian, tâm cũng được thanh tịnh có đủ diệu dụng. “Trong mộng tạo tác, thức rồi đều không.” Trong mộng chúng ta thấy khi làm cái này khi làm cái kia, có lúc làm quan, có lúc làm giặc... Nhưng khi thức giấc rồi thì tất cả những cái đó không còn. “Trong mộng tạo sanh thô sanh tế, tỉnh giấc rồi không mảy tóc kẽ tơ.” Trong mộng chúng ta tạo tác việc thô (xấu) việc tế (tốt) tức là thấy cảnh dữ cảnh lành, khi tỉnh giấc rồi chẳng còn mảy may nào cả. Cuộc sống của con người giống như giấc mộng. Thế mà chúng ta đâu có thấy như giấc mộng, cứ theo đuổi nắm bắt hoài, nên không nhận ra cái Thể chân thật ở nơi mình. Thể chân thật vốn không sanh không diệt, giống như mặt biển lúc nào cũng phẳng lặng, hễ có gió thổi thì sóng dậy ầm ầm, lát trồi lên lát lặn xuống. Những lượn sóng trồi lên lặn xuống, đối với mặt biển chỉ là cái tạm bợ chợt có chợt không, không thật. Cũng vậy, kiếp người nay còn mai mất đối với tâm thể bất sanh bất diệt, giống như những lượn sóng chợt có chợt không đối với mặt biển phẳng lặng vậy. Những lượn sóng có trong thời gian rất ngắn, cuộc sống của kiếp người cũng ngắn ngủi chừng vài mươi năm hoặc năm bảy mươi năm. Nhìn lại thấy như giấc mộng. Trong mộng cũng có cuộc sống, cũng ăn cũng nói, cũng tranh giành danh lợi, cũng hơn cũng thua... đủ thứ. Khi tỉnh giấc thì mọi sanh hoạt trong mộng không còn. Cũng vậy, những cái hơn thua được mất của kiếp người, khi nhắm mắt vẫn là tay không, chỉ có cái Thể chân thật mới vĩnh cửu không mất, còn những cái chúng ta có trong đời chỉ là tạm bợ không chân thật, nên nói không còn mảy tóc kẽ tơ. “Tâm thanh tịnh chẳng nhơ chẳng bợn, thân kiên cố không trước không sau.” Tâm thể chân thật có sẵn nơi mỗi người vốn thanh tịnh không bợn không nhơ, đó chính là Pháp thân kiên cố, không hình không tướng, nên không có trước có sau. Nếu sống được với tâm thể thanh tịnh không nhơ không sạch, hay Pháp thân kiên cố thì thấy mọi cái trên đời này đều tươi đẹp trong sáng. “Sắc xuân hoa đóa đóa tươi hồng, trăng thu bóng tròn tròn viên diệu.” Mùa xuân từng đóa hoa từng đóa hoa nở sắc hồng tươi thắm, mặt trăng mùa thu tròn sáng thật mầu nhiệm. Người tu khi nhận ra tâm thể thanh tịnh không chút bợn nhơ, đó là thể nhập được Pháp thân, không còn bị thời gian ngoại cảnh chi phối. Lúc ấy nhìn thấy muôn vật trước mắt đẹp tươi sáng sủa không còn u tối nữa. “Buộc niệm phàm Thánh, chỉ hiềm là trái hẳn tướng chân.” Người còn buộc niệm phân chia hai bên đây là phàm kia là thánh thì trái với tướng chân thật, vì tướng chân thật không phàm không Thánh. Nếu còn thấy hai bên, còn phân biệt thì tướng chân thật bị khuất lấp. “Lòng quên tử sanh, liền liễu ngộ xưa nay tánh thật.” Trong lòng không còn chấp, không còn thấy sanh tử hai thứ đối đãi nhau, ngay khi ấy liền liễu ngộ được tánh chân thật của chính mình. “Còn mảy tình tam đồ báo ứng, tơ hào niệm lục đạo tiếp nhân.” Nếu còn một mảy tình cảm dấy khởi là bị báo ứng trong ba đường ác là địa ngục, ngạ quỉ, súc sanh; chỉ một niệm nhỏ nhiệm như sợi tơ cũng là còn cái nhân tiếp nối trong lục đạo. Tóm lại, nếu chúng ta còn chấp còn khởi vọng niệm là còn tiếp tục đi trong tam đồ lục đạo. “Tùy bảy thức có chán có ưa, phá ba độc không chân không vọng.” Nếu sống chạy theo bảy thức (nhãn thức, nhĩ thức, tỹ thức, thiệt thức, thân thức, ý thức, mạt- na thức) thì có chán có ưa, có khen có chê, có thương có ghét… đủ thứ. Vì bảy thức này là bảy thức tạo nghiệp, chỉ có thức thứ tám là A-lại-da thức không tạo nghiệp, song nó chứa tất cả chủng tử nhiễm tịnh. Nếu chạy theo bảy thức là tạo tác các nghiệp sanh tử. Nếu phá được ba độc tham, sân, si thì không còn thấy có chân có vọng nữa. “Tướng nhân ngã khó thâu khó nhiếp, kiếp hà sa luân hồi tứ sanh.” Tướng nhân ngã khó nhiếp phục được, vì lúc nào cũng thấy mình thật người thật, nên thương mình, quí trọng mình, lo cho mình; ai làm vừa ý mình thì mình yêu, ai làm trái ý mình là mình ghét... do đó mà tạo bao nhiêu thứ nghiệp. Nếu còn thấy có mình có người thì không bao giờ ra khỏi vòng luân hồi sanh tử, hoặc sanh ra trong loài sanh bằng thai, hoặc sanh ra trong loài sanh bằng trứng, hoặc sanh ra trong loài ở nơi ẩm thấp, hoặc sanh ra trong loài do biến hóa mà có thân. “Tham sân si cùng đấu cùng tranh, số tăng- kỳ lang thang chín loại.” Nếu còn thấy ta thấy người thì còn tham, còn sân, còn si, còn nuôi dưỡng nó thì còn tranh giành hơn thua với người, sẽ đi trong luân hồi sanh tử... Còn nhân ngã thì lang thang trong tứ sanh, còn tham sân si thì còn lang thang trong chín loài lâu vô số kiếp. “Nhận hướng theo khuôn phép vô minh, luống uổng mất sắc thân tứ đại.” Nếu cứ thấy biết nói làm theo chiều hướng vô minh thì, luống uổng cái thân tứ đại này sanh ra đời không làm lợi ích cho ai hết. “Khéo chuyển đổi các căn hữu lậu, liền chứng vào chánh định chân như.” Nếu khéo chuyển sáu căn, không để sáu căn chạy theo sáu trần, không dính với sáu trần thì sẽ hợp với tâm thể chân như. Ở trước, Thượng Sĩ chỉ cho con đường đưa tới tứ sanh cửu loại. Tứ sanh cửu loại là những chúng sanh sanh bằng thai, sanh bằng trứng, sanh ở chỗ ẩm ướt, sanh bằng cách biến hóa, chúng sanh có sắc, chúng sanh vô sắc, chúng sanh có tưởng, chúng sanh vô tưởng, chúng sanh phi hữu tưởng phi vô phi tưởng. Sau đó Thượng Sĩ nhắc chúng ta khéo chuyển sáu căn hữu lậu, không để cho nó dính mắc với sáu trần mới thể nhập được chánh định chân như. “Điên đảo nhị kiến, là đem lưới bủa cá đầu non.” Nếu còn điên đảo thấy hai bên: có không, phải quấy, hơn thua... mà cầu chân như là đem lưới bủa trên ngọn núi để bắt cá. Đâu hôm nào quí vị thử đem lưới lên ngọn núi Phụng Hoàng bủa giăng để bắt cá, coi có bắt được con nào không? Muốn bắt cá mà đem lưới giăng bủa trên núi để bắt là việc làm của người điên. Cá ở dưới hồ dưới sông... giăng lưới ở hồ sông... mới bắt được cá, chớ đem lưới giăng bủa trên non làm sao có cá? Không điên là gì? Người tu mong cầu giải thoát mà chấp hai bên giống như bủa lưới trên núi để bắt cá vậy. Tôi xin hỏi quí vị hiện có mặt ở đây, có ai không chấp hai bên không? Muốn được giải thoát mà chấp hai bên, giống như ai? Hôm nào có một Phật tử lên đây hỏi: “Quí thầy quí cô có còn thấy mình thấy người không? Còn thấy phải thấy quấy không?” Quí vị gật đầu nói còn. Phật tử ấy không nói gì hết, đem lưới lên giăng ngay trên rừng thông. Quí vị hỏi: “Đạo hữu làm gì đó?” Phật tử ấy trả lời: “Tôi bủa lưới để bắt cá.” Chừng đó quí vị mới giựt mình thức tỉnh. Nhiều người tu mong cầu giải thoát, mà kiến chấp hai bên không chừa thì làm sao giải thoát được? Nếu buông hết kiến chấp hai bên, không còn kẹt không còn dính pháp nào mới được giải thoát. “Tịch diệt nhất như, cỡi ngược lừa tiến lên bờ giác.” Con lừa nếu cỡi ngược thì bốn cẳng chổng lên trời. Cỡi nó chạy lên đầu núi tức là lên tới bờ giác ngộ. Người tu không còn kiến chấp, tâm lặng lẽ nhất như sẽ có diệu dụng như lừa cỡi ngược mà lên được đầu núi vậy. Thượng Sĩ chỉ cho thấy khi tâm còn điên đảo thì thường làm việc vô ý nghĩa, khi tâm được tịch diệt nhất như rồi, thì từ cái vô ý nghĩa biến thành có ý nghĩa, được công dụng lợi ích không thể nghĩ lường giống như lừa cỡi ngược mà vẫn tiến lên bờ giác. “Trong lòng nếu không thiên không đảng, tai mặc nghe người mắng người chê.” Nếu lòng không còn thiên lệch tư vị bè phái, thì tai nghe người chê mắng, thấy cũng như không, chẳng có gì phiền muộn, lòng an nhiên tự tại. Sở dĩ nghe chê mắng lòng buồn phiền giận tức, tại vì tâm có thiên lệch tư vị bè phái. “Cầm lửa đốt trời luống tự nhọc, mắt được thấy là xót là thương.” Đối với người tâm không còn thiên vị bè phái mà chưởi mắng họ, giống như người cầm đuốc đốt trời, trời không cháy, làm như thế chỉ tự nhọc mà vô ích. Cũng vậy, nếu lòng mình không có thiên vị phe đảng thì trước lời chê cười mắng chưởi vẫn thản nhiên vô ngại, tâm rỗng rang như hư không, không một chút vướng bận, giống như châm lửa đốt trời trời không cháy vậy. Ngược lại, thấy họ mắng chửi tạo nghiệp bất thiện sẽ thọ quả báo khổ, lại càng thương xót. Giả sử có người cầm đuốc ra đứng giữa sân đưa cây đuốc lên hư không, nói: “Tôi đốt trời, tôi đốt trời!” Quí vị có thấy thương họ không? Thật ngu si làm việc vô nghĩa không có kết quả tốt, chỉ nhọc sức, thật đáng thương! Người tu, tâm không còn vướng bận trước mọi khen chê, thấy người mê mặt mày đỏ gay tới mắng chưởi đến sôi bọt mồm, mệt lả, lòng thương vô hạn, vì thấy họ mê mờ tạo nghiệp bất thiện thọ quả khổ. Nhưng, bây giờ đụng tới thì quí vị nổi giận là tại vì lòng còn thiên vị bè đảng, động tới thấy xốn xang khó chịu. “Cầu Chân như mà đoạn vọng niệm, dường la to để át tiếng vang.” Nếu còn thấy Chân như ngoài vọng niệm, vọng niệm ngoài Chân như, hai cái khác nhau, nên muốn cầu Chân như dứt vọng niệm. Nhưng kỳ thật thì vọng niệm không rời Chân như. Giống như sóng dấy lên từ mặt biển, bây giờ muốn thấy mặt biển phẳng lặng đùa sóng qua chỗ khác. Làm như vậy có thấy được mặt biển phẳng lặng không? Chừng nào thấy? Muốn thấy được mặt biển phẳng lặng phải chờ cho gió dừng thì sóng lặng, sóng lặng thì mặt biển lặng yên. Khỏi phải ra công đùa sóng làm gì cho nhọc sức. Mặt biển phẳng lặng là nước, sóng cũng là nước, vì gió thổi nên nước dấy lên thành động, dù cho triệu triệu lượn sóng cũng ở trên mặt biển thôi. Khi gió dừng thì sóng lặng mặt biển yên. Cũng vậy, tôi dạy quí vị tu là thấy vọng tưởng khởi, buông, không theo; chỉ nhìn thấy nó khởi, buông là nó lặng, không cần xua đuổi đi đâu cả, vì vọng tưởng khởi động từ tâm thể lặng yên. Đó là chủ yếu của sự tu hành. Chúng ta khéo tu thì công phu ít, kết quả nhiều. Ngược lại, vụng tu thì công phu nhiều kết quả chẳng bao nhiêu. Có nhiều người nghe nói vọng tưởng là cái nhân tạo nghiệp nên sợ, muốn xua đuổi nó đi cho hết nghiệp được giải thoát. Nhưng làm sao đuổi? - Thấy nó, biết nó là vọng, không theo, nó tự lặng. Không cần phải làm gì khác nữa. Quí vị nắm vững then chốt tu hành thì dụng tâm tu không khó. Biết rõ vọng tưởng là động cơ tạo nghiệp dẫn đi trong luân hồi sanh tử. Nhưng vọng tưởng không phải là thứ thật, nên đừng có quan trọng quá, khiến cho việc tu hành trở thành khó khăn. Đó là cầu Chân như mà đoạn vọng niệm và la to để át tiếng vang. La to để át tiếng vang có được không? Tiếng vang dội lại từ tiếng la, bây giờ la to lên để át tiếng vang, đó là việc làm vô nghĩa của người mê muội. “Bỏ phiền não mà giữ Niết-bàn, tợ sợ bóng chạy vào nắng trốn.” Thấy phiền não là xấu xa hèn hạ, cần phải bỏ, Niết-bàn là tốt đẹp quí báu, mong cầu để được. Bỏ cái này để được cái kia, giống như đi ngoài nắng, thấy bóng đi theo, muốn không có bóng theo nữa mà cứ đi mãi ngoài nắng, càng đi bóng càng đuổi theo, không bao giờ hết. Muốn hết bóng là phải đi vào trong mát. Chúng ta đừng quan niệm phiền não là thật, lo bỏ để đạt được Niết-bàn. Nhưng, không bỏ phiền não thì tu cái gì? Tôi xin hỏi quí vị phiền não là gì? Nghe người ta nói trái tai nổi giận là phiền não. Thấy sắc đẹp, thấy tiền tài khởi lòng tham muốn là phiền não. Vậy, tu đối với những thứ này phải làm sao? - Khi nổi nóng chỉ cần nhìn tường tận thấy rõ cơn nóng giận không thật, không khởi thêm một niệm nào khác nữa thì cơn giận từ từ lặng mất, ngay đó là Niết-bàn. Chớ không phải bỏ cái này cầu cái kia. Cái gì cụ thể mới bỏ, chẳng hạn hòn sỏi đang nằm trong túi vất nó đi là bỏ. Nếu trong túi không có sỏi không có cát thì bỏ cái gì? Tuy nhiên, cơn sân giận dấy lên thì hùng hổ lắm, có khi la quát inh ỏi. Chợt tỉnh nhìn lại thấy rõ bản chất nó không thật, chỉ là hơi nóng từ dưới xông lên, hà ra một hồi thì hết. Có gì thật đâu? Tham cũng vậy, khi đối cảnh thấy cảnh đẹp khởi lòng ưa muốn, khi cảnh mất rồi thì tham cái gì? Không có đối tượng thì lòng tham tự mất. Tham sân nó không có chỗ nơi, gặp duyên thì khởi, hết duyên thì dừng vì bản chất nó không thật. Chỉ cần dùng trí Bát-nhã nhìn thẳng nó, thấy rõ nó không thật thì tự nó tan. Từ lâu chúng ta cho rằng phiền não là thật, nên cố bỏ nó, đâu có ngờ phiền não là những ý niệm, là những từ ngữ không thật. Chỉ cần thấy rõ nó không thật thì không bị nó chi phối. Nếu thấy nó thật thì bị nó làm não loạn thân tâm. Tu hành mà có quan niệm bỏ phiền não giữ Niết- bàn, chẳng khác nào trốn bóng mà chạy ra nắng vậy. “Chợt vậy theo tâm viên ý mã, khó tránh khỏi lợi buộc danh ràng.” Tâm viên ý mã là vọng tưởng dấy khởi chạy chỗ này chạy chỗ kia, nhanh như khỉ như ngựa. Người tu mà để tâm chạy rong, thấy cảnh đẹp thì ưa, thấy của quí thì thích, nghe lời khen thì mừng, nghe lời chê thì giận. Người như thế nhất định sẽ bị danh lợi ràng buộc không thể nào thoát được. “Không quay về Tổ vức đạo tràng, đâu tránh khỏi Diêm vương ngục tốt.” Tổ vức đạo tràng là nơi tu hành đạt quả vị Phật Tổ. Nếu không quay về chỗ tu hành, để tu cho thành Phật Tổ thì không tránh khỏi Diêm Vương ngục tốt khảo tra, vì chạy theo tâm viên ý mã tranh danh đoạt lợi tạo tội ác. “Đem bốn chữ vô thường nhanh chóng, không thối chuyển sáu giặc dẹp yên.” Người tu luôn luôn phải nhớ bốn chữ “Vô thường nhanh chóng” không được quên, để nỗ lực tu, không thối chuyển, lo điều phục sáu thằng giặc ở mắt, ở tai, ở mũi, ở lưỡi, ở thân, ở ý. Mắt thấy sắc không chạy theo sắc, tai nghe tiếng không chạy theo tiếng, mũi ngửi mùi không chạy theo mùi, lưỡi nếm vị không chạy theo vị, thân xúc chạm không đắm nhiễm, ý duyên pháp trần liền biết dừng ngay. Vì lúc nào cũng thấy cuộc đời là vô thường, tham làm gì? Sân làm gì? Ngang đó dừng, không đắm nhiễm không chạy theo sáu trần là đã dẹp được sáu thằng giặc yên rồi. “Nhóm lửa hồng chánh định đốt tiêu, chứng vào được Vô dư Niết-bàn.” Người tu Thiền, khi tâm được an định thì trí tuệ phát sáng, những thứ lậu hoặc như tham lam, sân giận, si mê... tự tan vỡ không còn nữa, nên nói nhóm lửa chánh định đốt tiêu. Và, khi vô minh lậu hoặc đã sạch hết rồi, tâm bất động trước mọi duyên cảnh thuận nghịch, không nhập Vô dư Niết-bàn là gì? “Giăng lưới lớn bủa bắt phượng hoàng, chớ buông chí theo loài chim sẻ.” Muốn bắt chim phượng hoàng là loài chim lớn, phải giăng lưới cho thật rộng và thật cao, đừng để ý đến loài chim sẻ nhỏ đang bay lượn ở dưới. Cũng vậy, người tu nếu vì việc giải thoát sanh tử là việc lớn là việc cao thượng, thì việc nhỏ mọn như hơn thua, phải quấy, tốt xấu không đáng phải lưu tâm để ý. Vậy mà có nhiều người lưu tâm để ý. Ý chí thì lớn, tu muốn thành Tổ thành Phật, ai nói hơn một chút là không nhịn được. Như vậy, chẳng khác nào bủa lưới thì lưới phượng hoàng mà lại rình bắt chim sẻ, thật là khờ khạo. “Nay muốn câu cá ngạc cá kình, đừng bận bịu ễnh ương ếch nhái.” Muốn câu những con cá lớn là cá ngạc cá kình, thì đối với loài nhỏ như ễnh ương ếch nhái đừng có bận tâm. Người tu, ý chí xuất gia là ý chí siêu quần bạt chúng, chớ đâu phải thường, thế mà vô chùa nghe một vài câu nói nhẹ nhẹ mà nhịn cũng không được, buồn, thối chí bỏ đi. Hoặc gặp cảnh không vui thì muốn ra đời. Thật là muốn làm chuyện to bằng trời, mà chỉ vì một vài chuyện nhỏ bằng sợi tơ sợi tóc, để hỏng cả đời tu. Bốn câu này Thượng Sĩ cảnh tỉnh người có chí muốn làm việc lớn thì đừng có màng đến việc nhỏ. Ai mà bám vào việc nhỏ thì không bao giờ thực hiện được việc lớn. Bốn câu này Tăng chúng phải thuộc lòng không được quên. Từ nay về sau có việc gì xảy ra không được thưa gởi mà phải tự xử. Nếu thưa kiện thì tôi hỏi: “Muốn giăng lưới lớn bắt phượng hoàng hay buông chí theo loài chim sẻ?” Hoặc hỏi: “Muốn câu cá ngạc cá kình hay bận bịu với ễnh ương ếch nhái?” Hỏi như vậy quí vị mới xấu hổ. Đem ý chí thực hiện việc trên trời trên mây mà tay chân thì cứ bắt trùng bắt dế, thật là trái ngược! “Chấp tay trân trọng, bè bạn anh em! Hoặc mỗi người có thánh có linh, nên ghé mắt nhìn xem tiến tới. Chao!” Thượng Sĩ trân trọng chấp tay chào tất cả anh em bạn bè, nhắc rằng ai cũng có thánh có linh nơi mình, nên để mắt nhìn xem mà tiến tới, đừng để kẹt dính mà thối lui. Chao! Nghĩa là than ôi! Thượng Sĩ làm bài kệ này tự răn mình, mà cũng là răn nhắc tất cả chúng ta nên nỗ lực tiến tu. Cứ mỗi đoạn Ngài nêu lên những cái sai lầm, rồi nhắc tới nhắc lui bảo chúng ta nên khéo tu. Cuối cùng Ngài dạy chúng ta, hễ có chí lớn muốn vươn lên thì phải thực hiện cho kỳ được, đừng quan tâm đến những cái nhỏ nhặt không ra gì làm hỏng mất chí lớn. 
Về Đầu Trang Go down
https://triamquan.forumvi.com/
Tri Âm Quán
Thành Viên Tích Cực
Thành Viên Tích Cực
Tri Âm Quán


Tổng số bài gửi : 6340
Reputation : 2
Join date : 31/07/2013
Đến từ : Thị Trấn Chũ

 TUỆ TRUNG THƯỢNG SĨ NGỮ LỤC GIẢNG GIẢI   - Page 2 Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: TUỆ TRUNG THƯỢNG SĨ NGỮ LỤC GIẢNG GIẢI     TUỆ TRUNG THƯỢNG SĨ NGỮ LỤC GIẢNG GIẢI   - Page 2 EmptyFri Nov 15, 2019 3:37 pm

Dịch: THỜI TIẾT AN ĐỊNH
Sanh tử do đâu chớ hỏi han
Nhân duyên thời tiết tự nhiên thành.
Mây núi nào không thế mây núi
Nước khe đâu có tiếng đổ ghềnh.
Năm tháng hoa tùy xuân nở nụ
Đêm đêm gà gáy lúc canh năm.
Ai hay nhận được gương mặt mẹ
Mới hiểu trời người thảy giả danh.
 

Giảng: Mọi sanh hoạt trong cõi đời này đều do nhân duyên thời tiết quyết định, chớ không phải bỗng dưng mà có. Chính nhân duyên khiến cho mọi sự mọi vật đổi dời có hợp có tan. “Sanh tử do đâu chớ hỏi han, nhân duyên thời tiết tự nhiên thành.” Người đời thường thắc mắc tại sao có sanh tử? Nhưng đối với Thượng Sĩ thì Ngài bảo chúng ta đừng để ý thắc mắc điều đó. Tại sao? Vì sanh tử là do nhân duyên thời tiết mà có, không ai bảo chúng ta sanh ra đây và cũng không ai bắt chúng ta phải chết. Sanh ra hay chết đi, chẳng qua tùy theo nhân duyên, tùy theo thời tiết biến chuyển kết hợp mà có thành có hoại, chớ không do bàn tay nào tạo nên hay phá đi. Đủ duyên sanh ra đó là duyên tụ hợp, trải qua thời gian năm bảy mươi năm, duyên ly tán thì thân hoại diệt là tử. Không có một đấng nào tạo lập, hay phá hoại mà có sanh có tử. Đó là lý do mà Thượng Sĩ bảo chúng ta chớ thắc mắc về sanh tử. “Mây núi nào không thế mây núi.” Hằng ngày chúng ta thấy có những vầng mây bay ấp trên những ngọn núi. Vì sao có mây ấp núi vậy? Nước gặp sức nóng của mặt trời, bốc hơi tụ lại thành mây, quyện lấy nhau thành từng cụm từng cụm, bay cao bao phủ những ngọn núi, chúng ta gọi là mây phủ núi. Cái thế của mây núi theo duyên mà có. “Nước khe đâu có tiếng đổ ghềnh.” Nước khe chảy không to tiếng như tiếng thác đổ. Sở dĩ tiếng thác đổ nghe to hơn nước khe chảy là vì nước từ trên cao đổ xuống thấp kêu ầm ầm. Người đời gọi tiếng này là tiếng đổ ghềnh. Tóm lại hai câu này chỉ cho sự thế của núi của mây, của khe, của thác. Tất cả đều tùy duyên mà có hình tướng này hình tướng nọ, hoặc có những biến động như tiếng thác đổ hay tiếng suối reo. “Năm tháng hoa tùy xuân nở nụ, đêm đêm gà gáy lúc canh năm.” Mỗi năm vào mùa xuân hoa kết nụ nở bông. Hoa kết nụ nở bông là do tới thời đúng tiết nó mới nở. Thông thường người đời hay có quan niệm hoa nở tươi và đẹp là để cho người ta ngắm. Nhưng sự thật có phải để cho người ngắm không? Hoa nở là do đúng thời tiết nó tự nở. Nếu hoa nở để cho người ngắm, thì trong rừng sâu không có người sao hoa vẫn nở? Vậy, hoa nở là tùy thời tiết chớ không nở vì ai. Và, gà đến năm canh là nó gáy, chớ không phải nó gáy kêu mình thức dậy. Thế mà có nhiều người cứ nghĩ gà gáy là để đánh thức mình dậy, sợ mình ngủ quên. Con người có cái tật là lúc nào cũng qui mọi sự vật chung quanh trở về bản ngã mình, cái gì cũng cho mình cả. Hoa nở vì mình, gà gáy cũng vì mình, chó sủa cũng vì mình nữa. Chó có đặc tính thấy người lạ là sủa, nên người ta nuôi chó để giữ nhà. Có những trường hợp, ban đêm chủ nhà ngủ say, ăn trộm vô nhà lấy đồ hết, sáng ra họ giận đánh mấy con chó, nói: “Tại sao ăn trộm vô nhà mầy không sủa?” Nếu chó biết nói sẽ hỏi lại: “Ông là chủ nhà tại sao không thức để giữ của, ông cứ ngủ, để mất đồ rồi đánh tôi?” Thật lạ, của mình mà mình không chịu giữ, để mất, rồi đánh chó, không chịu đánh mình. Cái ngã của con người quá lớn, muốn mọi vật chung quanh đều vì mình, đều bảo vệ mình, đều nuôi dưỡng mình, nên cái gì có ra là vì mình. Con cá sanh ra đâu có nói: “Tui sanh ra để cho người ăn thịt.” Cá sanh là cứ sanh, tại loài người có sức mạnh và khôn hơn, nên bủa lưới giăng câu bắt nó để ăn, rồi nói cá sanh ra để cho con người ăn và cho đó là việc làm hợp lý. Sự thật đó là việc làm của kẻ mạnh hiếp kẻ yếu, chẳng có gì hợp lý cả. Thế nên ở đây Thượng Sĩ nói, từ núi sông mây nước cho tới cây cối thú vật đều tùy duyên mà có thành có hoại, chớ không vì ai hết, đừng nói vì mình. “Ai hay nhận được gương mặt mẹ, mới hiểu trời người thảy giả danh.” Gương mặt mẹ là chỉ cho Thể chân thật có sẵn nơi mỗi người. Người tu ai nhận được Thể chân thật có sẵn nơi mình rồi, mới thấy cõi trời cõi người đều là giả tạm không thật. Vì mê, từ Thể chân thật khởi tạo nghiệp đi trong sanh tử. Ở đây Thượng Sĩ gọi là “gương mặt mẹ”, Trần Thánh Tông gọi là “cái khố mẹ sanh”, kinh Kim Cang gọi là “mẹ ba đời của chư Phật”. Vì nó là cái có sẵn muôn đời, coi như là cha là mẹ. Đây Thượng Sĩ nhắn gởi chúng ta: Trọng tâm của người tu là phải làm sao nhận cho được Thể chân thật, mới thấy rõ mọi sự vật chung quanh đều giả có, không thật.  
Về Đầu Trang Go down
https://triamquan.forumvi.com/
Tri Âm Quán
Thành Viên Tích Cực
Thành Viên Tích Cực
Tri Âm Quán


Tổng số bài gửi : 6340
Reputation : 2
Join date : 31/07/2013
Đến từ : Thị Trấn Chũ

 TUỆ TRUNG THƯỢNG SĨ NGỮ LỤC GIẢNG GIẢI   - Page 2 Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: TUỆ TRUNG THƯỢNG SĨ NGỮ LỤC GIẢNG GIẢI     TUỆ TRUNG THƯỢNG SĨ NGỮ LỤC GIẢNG GIẢI   - Page 2 EmptySat Nov 23, 2019 2:34 pm

Dịch: DƯỠNG CHÂN
 
Thân hình suy yếu kể đủ chăng?
Hạc lão tránh gà việc chẳng can.
Ngàn xanh muôn tía lầm hương quốc
Góc biển chân trời để dưỡng chân.
 

Giảng: “Thân hình suy yếu kể đủ chăng?” Thân này tới tuổi già, mặt nhăn, má cóp, gối mỏi, lưng còng, mắt mờ, tai điếc... cái suy yếu của thân này kể không hết. Già rồi đủ thứ bệnh tật hiện ra, nên nói suy yếu kể không đủ. “Hạc lão tránh gà việc chẳng can.” Câu này trích trong sách Nho, từ thành ngữ “hạc lập kê quần” tức là chim hạc đứng giữa đàn gà; chim hạc ví cho người cao thượng quân tử, gà ví cho kẻ thường tình tiểu nhân. Chim hạc trước được loài gà quí trọng nể sợ, giờ đây hạc đã già, thời đã hết, nên phải tránh bầy gà, không dám đứng giữa bầy gà nữa. Xưa, khi còn trẻ khỏe, hạc uy nghi đứng giữa bầy gà, không có gà nào dám chọi, bây giờ hạc già yếu thế rồi, phải tránh bầy gà không dám gần. Cũng vậy, người quân tử khi già yếu thất thế rồi, phải tránh những kẻ tiểu nhân vì không ở gần họ được. Thượng Sĩ lấy ý “hạc lão tránh gà việc chẳng can” ngầm nói Ngài già yếu ở một chỗ để ẩn tu, chớ không giống như quan niệm của nhà Nho, người quân tử khi già thất thế phải tránh kẻ tiểu nhân. Hai câu này nói, khi thân hình già yếu suy kém thì có đủ thứ bệnh tật, vì vậy muốn tránh mọi người để tìm chỗ an dưỡng tâm thần, chớ không giống như thái độ nhà Nho là người quân tử khi thất thế, phải tránh kẻ tiểu nhân. “Ngàn xanh muôn tía lầm hương quốc, góc biển chân trời để dưỡng chân.” Ngàn xanh muôn tía là bao nhiêu thứ màu sắc xanh, tía, đỏ, vàng... làm lòa mắt người đời, khiến cho người đời quên mất quê hương đất nước. Nhà Thiền thường dùng chữ quê hương cũ để chỉ cho tâm thể chân thật có sẵn nơi mỗi người. Quê hương cũ thì muôn đời không đổi thay, mới là cái chân thật của người tu. Mắt đối diện với muôn ngàn màu sắc, phân biệt đẹp xấu, khởi lòng ưa thích chọn lựa thì đâu còn nhớ đến quê hương nữa. Thượng Sĩ dùng chữ ngàn xanh muôn tía để nói lên ý: người nào bị màu sắc chi phối cuốn lôi thì không còn nhớ đến cố hương, tức là không thể nào nhận ra tâm thể chân thật của mình. Vì vậy mà phải “góc biển chân trời để dưỡng chân”. Muốn nuôi dưỡng tâm thể chân thật của mình, phải vào rừng lên núi ra đảo, để tránh bớt duyên mà lo tu hành. Ở đây quí vị vào Thiền viện, tôi giới hạn tối đa việc tiếp khách và đi lại là để cho quí vị dưỡng chân. Cả ngày chỉ nhìn đồi thông và nhìn hồ nước Tuyền Lâm là cảnh thiên nhiên cho tâm hồn nhẹ nhàng dễ nhớ cố hương. Bài Dưỡng Chân hàm súc ý nghĩa thật hay. Theo Thượng Sĩ thì bây giờ Ngài già yếu rồi, Ngài phải tránh mọi người để an dưỡng tinh thần; tránh không phải vì sợ người ta khinh khi hiếp đáp, mà tránh vì muốn nhớ lại cố hương của mình chớ không có gì lạ. Bởi vì ở giữa thành thị có bao nhiêu thứ nó che lấp làm mờ mắt, khó nhớ lại cố hương, nên phải tìm chỗ thanh vắng, tránh người tránh cảnh mà lo dưỡng chân. Dưỡng chân là không để trần cảnh che lấp làm mờ tâm thể chân thật, mà luôn an tịnh để cho tâm thể chân thật hiển lộ tròn sáng. 
Về Đầu Trang Go down
https://triamquan.forumvi.com/
Tri Âm Quán
Thành Viên Tích Cực
Thành Viên Tích Cực
Tri Âm Quán


Tổng số bài gửi : 6340
Reputation : 2
Join date : 31/07/2013
Đến từ : Thị Trấn Chũ

 TUỆ TRUNG THƯỢNG SĨ NGỮ LỤC GIẢNG GIẢI   - Page 2 Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: TUỆ TRUNG THƯỢNG SĨ NGỮ LỤC GIẢNG GIẢI     TUỆ TRUNG THƯỢNG SĨ NGỮ LỤC GIẢNG GIẢI   - Page 2 EmptyTue Nov 26, 2019 8:34 am

Dịch: VÀO CÁT BỤI
Xăm xăm cất bước vào bụi đời
Vàng óng đầu mi, mở khơi khơi.
Xóm bắc rong chơi vào bụng ngựa
Nhà đông cười nói nhập thai lừa.
Roi vàng đánh đuổi trâu đất chạy
Dây sắt lôi đầu cọp đá về.
Rồi một ngày mai băng giá hết
Trăm hoa như cũ rộn xuân đài.
 
Giảng: Vào cát bụi là vào cõi trần ai, tức là vào cõi đời nhiều bụi bặm nhớp nhơ. “Xăm xăm cất bước vào bụi đời, vàng óng đầu mi, mở khơi khơi.” Đi nhanh một mạch vào cõi đời nhiều cát bụi, không ngại ngùng e sợ. Tuy vào vòng bụi bặm nhớp nhúa, mà đầu chân mày vẫn óng ả ánh sáng. Người đi vào đời mà ánh sáng mở rộng như vậy thì không bị nghiệp lôi dẫn, nên nói “vàng óng đầu mi, mở khơi khơi”. Cùng đi vào cõi trần mà người mê thì đi trong đen tối, người tỉnh thì đi trong sáng suốt. “Xóm bắc rong chơi vào bụng ngựa, nhà đông cười nói nhập thai lừa.” Hàng Bồ-tát phát nguyện lợi sanh, đi vào xóm làng phía bắc thác sanh nhập vào thai ngựa sanh ra thân ngựa, đi về phía đông vào nhà người cười nói, thác sanh vào thai lừa sanh làm lừa. Bồ- tát sanh làm ngựa làm lừa là lăn lộn trong trần ai, chấp nhận trầm luân trong sanh tử, nay nơi này mai chốn nọ. Các Ngài đi vào cảnh giới xấu, nhưng các Ngài đi với bản nguyện lợi sanh, đến với cuộc đời bằng mắt trí tuệ, chớ không phải đi theo nghiệp dẫn. Thế nên, tuy có lăn lộn trong cõi trần ai, nhưng đến một ngày nào đó thức tỉnh thì: “Roi vàng đánh đuổi trâu đất chạy, dây sắt lôi đầu cọp đá về.” Khi ấy rất trí dũng cầm roi vàng đánh trâu đất, trâu đất cũng phải chạy, dùng dây sắt lôi cổ cọp đá, cọp đá cũng phải quay đầu. Để thấy rằng Bồ-tát vì hạnh nguyện lợi sanh dù đi vào cõi trần, lăn lộn trong vòng bụi bặm. Khi thức tỉnh, các Ngài vẫn có diệu dụng không thể nghĩ lường. Các Ngài có thể xoay ngược lại tất cả những gì mà từ lâu nay người đời bị cuốn hút chao đảo. “Rồi một ngày mai băng giá hết, trăm hoa như cũ rộn xuân đài.” Người tu khi công hạnh tự lợi đã xong, phát nguyện độ đời, giáo hóa chúng sanh, kéo họ ra khỏi dòng sanh tử xong rồi thì giá băng đông lạnh không còn nữa, bấy giờ đứng trên đài xuân thấy trăm hoa đua nở đầy cả bầu trời, thật đẹp đẽ vui tươi. Mở đầu bài thơ, Thượng Sĩ chống gậy đi vào đời đầy cát bụi với ánh sáng và từ bi mở rộng. Đối lại, cuối bài thơ thì công hạnh lợi sanh viên mãn, tất cả những tác nhân gây đau khổ, tới đây nó tan vỡ, không còn giá trị nữa, chừng ấy mới thấy bầu trời mùa xuân, trăm hoa nở rộ, vui tươi đẹp đẽ vô cùng. Đó là giờ phút công hạnh tự giác giác tha viên mãn của người tu, lúc đó là lúc an nhàn tự tại. Quí vị dám vào cát bụi không?

Thoạt đầu thấy đen tối quá! Nhưng ở đây đi vào cõi đời cát bụi với ánh sáng óng ánh ở đầu mi mở rộng, nên không bị cát bụi làm ô nhiễm. Nếu vào đời mà tối tăm không có ánh sáng thì sẽ bị bụi trần làm nhiễm ô, không lợi ích gì. Bồ-tát hay Thiền sư có lúc các ngài thị hiện ở những nơi rất lôi thôi để lợi sanh. Như ngài Huyền Sa Sư Bị, trước khi tu cũng ở trong cảnh mê muội, thường hay giăng câu bắt cá. Khi thức tỉnh, liền đem thuyền lên bãi cát bỏ, xuất gia tu hành. Kiểm lại, lúc chúng ta còn nhỏ chưa hiểu đạo, đâu có hơn người thế tục chút nào. Người đời ăn thịt mình cũng ăn thịt, người đời cười giỡn ca hát mình cũng cười giỡn ca hát, cái gì quyến rũ mình đều ưa thích. Nhưng khi thức tỉnh mình mới khác người đời. Đâu quí vị xét lại mình coi có khác người đời chưa? Tất cả chúng ta phải đánh dấu hỏi chỗ này. Khi mê thì mình cũng như ai, nhưng khi tỉnh thì phải khác. Nói tỉnh mà không khác thì chưa thật tỉnh. Chỉ mang tiếng tỉnh mà không tỉnh. Vậy nên chúng ta phải tu cho thật tỉnh, để xứng đáng với danh nghĩa mà mình đã mang. Và, nhớ tỉnh rồi thì không được mê lại, mê lại là tội lỗi. Hai câu kết của bài này quá hay “rồi một ngày mai băng giá hết, trăm hoa như cũ rộn xuân đài”.
Về Đầu Trang Go down
https://triamquan.forumvi.com/
Tri Âm Quán
Thành Viên Tích Cực
Thành Viên Tích Cực
Tri Âm Quán


Tổng số bài gửi : 6340
Reputation : 2
Join date : 31/07/2013
Đến từ : Thị Trấn Chũ

 TUỆ TRUNG THƯỢNG SĨ NGỮ LỤC GIẢNG GIẢI   - Page 2 Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: TUỆ TRUNG THƯỢNG SĨ NGỮ LỤC GIẢNG GIẢI     TUỆ TRUNG THƯỢNG SĨ NGỮ LỤC GIẢNG GIẢI   - Page 2 EmptyWed Nov 27, 2019 7:48 pm

Dịch: MUÔN VIỆC VỀ NHƯ
Từ không hiện có, có không thông
Có có không không rốt cuộc đồng.
Phiền não Bồ-đề vốn chẳng khác
Chân như vọng niệm thảy đều không.
Thân như cảnh huyễn, nghiệp như bóng
Tâm tợ gió đưa, tánh tợ bồng.
Đừng hỏi tử sanh, ma với Phật
Các sao hướng bắc, nước về đông.
 

Giảng: Muôn việc về như là tất cả mọi sự mọi việc vốn dĩ là như vậy, chẳng có gì phải nghĩ phải bàn. “Từ không hiện có, có không thông, có có không không rốt cuộc đồng.” Tất cả mọi vật trên đời này từ cái không rồi thành cái có, có một thời gian hoại đi thành không, có và không nó thông nhau. Ví dụ cái nhà, trước đây là không, sau do nhiều duyên hợp lại nên có cái nhà. Cái nhà có khoảng năm bảy chục năm hư mục, không sửa chữa thì nó hoại mất không còn, trở lại không. Vậy nên có không nó thông với nhau, nó không riêng thật có và cũng không riêng thật không. Từ không, duyên hợp thành có; từ có duyên ly tán thành không. Con người cũng vậy, trước kia là không, do duyên cha mẹ gặp nhau mà có thân này, thân này sống năm bảy mươi năm thì gió lửa ly tán, hoại diệt thành không. Thế nên cái có hiện giờ gốc từ cái không thuở trước. Và, cái có hiện giờ một mai duyên ly tán cũng trở thành không. Cái có cái không nó thông nhau, chớ không riêng không khác. Thấy dường như hai, nhưng sự thật không hai. Vì trước không, sau có, có rồi lại không. Có không không hai thể. “Phiền não Bồ-đề vốn chẳng khác, chân như vọng niệm thảy đều không.” Đa số người tu đều sợ phiền não, thích Bồ-đề. Bồ-đề là giác, phiền não là mê, nên thích giác sợ mê. Nhưng sự thật mê không rời giác, giác không ngoài mê. Tại sao? Vì giác là giác cái mê và mê là mê cái giác. Cũng như trong cái nhà này, không có đèn, nói tối, mở đèn, hết tối, nói sáng. Hết tối nói nhà sáng, hết sáng nói nhà tối. Sáng tối đổi thay chớ không gian cái nhà không thay đổi. Sáng không thêm gì cho cái nhà, tối không làm mất gì trong cái nhà. Cũng vậy, tâm thể chân như không phải là Bồ-đề, cũng không phải là phiền não. Do dấy nghiệp sanh phiền não, hễ có phiền não thì che khuất Bồ-đề. Thế nên phải giác, biết phiền não là nhân đau khổ cần phải xả bỏ. Giác biết phiền não, gọi là Bồ- đề. Phiền não và giác biết phiền não dường như hai. Nhưng thật sự thể nó không hai. Từ tâm thể chân như dấy khởi phiền não và cũng từ tâm thể chân như khởi giác phiền não, phiền não hết, giác (Bồ-đề) cũng không còn, chỉ là tâm thể chân như không hai, không khác. Tôi lấy ví dụ này cho dễ hiểu: Tâm chúng ta đang bình an, thì không có nhẫn, nhưng lúc chúng ta nổi sân mới có nhẫn để ức chế cơn sân cho lặng xuống, khi sân lặng rồi thì nhẫn cũng hết. Như vậy sân và nhẫn không thật, nó khởi lên từ tâm bình an rồi diệt mất. Thể nó không hai không khác. Cũng vậy, chúng ta vì mê nên mới chạy theo ngũ dục thế gian, bây giờ cần phải tỉnh giác để hết mê. Khi chúng ta hết mê rồi thì không cần tỉnh giác nữa, lúc đó không nói mê cũng không nói giác. Như vậy phiền não và Bồ-đề không phải hai. Và, “chân như vọng niệm thảy đều không.” Vọng niệm dấy khởi che khuất chân như. Khi vọng niệm dấy khởi nói là động, muốn trở về cái tịnh là chân như. Động và tịnh thấy như hai, vọng niệm là cái động lặng rồi đâu còn muốn trở về với cái tịnh là chân như. Hết động không nói tịnh (chân như) nữa, tự nó là như vậy thôi. Vậy, vọng niệm, chân như, phiền não, Bồ-đề chỉ là chuyện đối trị nhau thôi; đối trị rồi buông hết. Đó mới là chỗ chân thật cứu kính. “Thân như cảnh huyễn, nghiệp như bóng.” Chúng ta mang thân này thấy nó là thật là quí. Nhưng xét cho cùng thì nó chỉ là cái thân tạm bợ giả dối. Nhìn lui về quá khứ, những người xưa như tổ tiên ông bà chúng ta, cũng hoạt động, cũng sanh sống, bây giờ còn đâu? Người kế đó cũng hoạt động cũng làm đủ thứ, bây giờ còn đâu? Người gần nhất là cha mẹ chúng ta cũng một thời làm ra tiền của, bây giờ còn đâu? Giờ đến chúng ta cũng lăng xăng hoạt động tạo tác, mai kia có còn không? Tất cả đều không còn. Như vậy người xưa và người nay có thật không? Nếu thật thì không mất. Bây giờ người trước mất, người kế mất, người sau cũng mất. Vậy thì cái gì là thật? Thân này chỉ là huyễn có, có không thật. Thân đã huyễn thì nghiệp cũng như bóng, vì nghiệp phát xuất từ thân khẩu ý, mà thân khẩu ý tựa nơi thân này. Thân không thật thì nghiệp cũng không thật, cũng như bóng như hình. Như vậy chúng ta có sợ nghiệp không? Đâu quí vị nói một câu chí lý nghe coi, sợ hay không? Nếu đi đứng nằm ngồi lúc nào cũng thấy thân này như huyễn, nghiệp như bóng thì có gì sợ! Còn nếu lúc nào cũng thấy thân này thật thì có nghiệp thật nên phải sợ. Nhớ, phải thấy hai chiều, đừng nhìn một chiều. Ở đây Thượng Sĩ nói trong trường hợp của người tỉnh. Nếu chúng ta là người còn mê chưa tỉnh thì phải sợ nghiệp. Vì tạo nghiệp dữ thì đọa địa ngục, thọ quả báo khổ, tạo nghiệp lành thì sanh lên thiên đường được sung sướng. Như vậy, nếu còn thấy thân thật cảnh thật thì nghiệp cũng thật, nếu thấy thân giả, cảnh giả thì nghiệp như bóng như vang. Phật dạy rõ ràng như thế để chúng ta đừng lầm chấp. Người không hiểu nghe đâu chấp đó làm những chuyện không hợp đạo. Miệng nói thân không thật mà cứ tranh chấp quyền lợi hơn thua đủ thứ. Hành động như vậy không hợp lý, vì còn thấy thân thật. “Tâm tợ gió đưa tánh tợ bồng.” Ở đây Thượng Sĩ dùng chữ tâm chữ tánh đúng ra nên dùng chữ chân tâm và vọng tưởng. Chữ tâm chỉ cho vọng tưởng, chữ tánh chỉ cho chân tâm. Cỏ bồng khi khô, bông nó nhẹ, gió thổi bay bổng lên. Bông cỏ bồng vốn không bay, vì gió thổi nó mới bay. Cũng vậy tâm thể chân như vốn không động, nhưng vọng niệm dấy khởi in tuồng như có động. Giống như bông cỏ bồng tự nó không bay không động. Vì gió thổi đẩy nó bay lên; nó bay là do gió. Tâm thể chân như vốn không động, do vọng niệm dấy khởi in tuồng như động. “Đừng hỏi tử sanh ma với Phật, các sao hướng bắc, nước về đông.” Tử, sanh, ma, Phật, tất cả những từ ngữ đó do đối đãi giả lập, không thật có nên Thượng Sĩ bảo đừng có hỏi, đừng có thắc mắc. Vì tất cả pháp trên thế gian này từ tâm dấy khởi, rồi lặng về như. Ví như (ở Việt Nam) sao trên trời đầu hôm thì thấy ở hướng đông, đến khuya thì thấy ở hướng tây, vì trái đất xoay nên đêm nào cũng như đêm nào đều thấy như thế không khác. Và, nước ở sông đều chảy ra biển đông, chớ không chảy lên đồi núi. Bài này Thượng Sĩ nói, tất cả muôn sự muôn vật trên thế gian này tuy có sai biệt, nhưng đến chỗ rốt ráo chân thật đều hướng về chỗ như như, chớ không chỗ nào khác, nên Ngài để tựa là “Muôn việc về như”. 
Về Đầu Trang Go down
https://triamquan.forumvi.com/
Tri Âm Quán
Thành Viên Tích Cực
Thành Viên Tích Cực
Tri Âm Quán


Tổng số bài gửi : 6340
Reputation : 2
Join date : 31/07/2013
Đến từ : Thị Trấn Chũ

 TUỆ TRUNG THƯỢNG SĨ NGỮ LỤC GIẢNG GIẢI   - Page 2 Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: TUỆ TRUNG THƯỢNG SĨ NGỮ LỤC GIẢNG GIẢI     TUỆ TRUNG THƯỢNG SĨ NGỮ LỤC GIẢNG GIẢI   - Page 2 EmptyTue Dec 03, 2019 9:09 am

Dịch: THÓI ĐỜI HƯ DỐI
Vân cẩu đổi thay lắm vẻ mà
Mơ màng gởi trọn giấc Nam Kha.
Sương vừa rửa hạ, sen đang nụ
Gió mới mời xuân, mai đã hoa.
Trăng khuất núi tây, không còn bóng
Nước trôi đông hải, sóng đã qua.
Anh xem đàn én lầu Vương Tạ
Nay đến làm thân với mọi nhà.
 

Giảng: Thói đời hư dối là thói đời không thật, vì luôn luôn đổi thay, không cố định. “Vân cẩu đổi thay lắm vẻ mà.” Nhìn lên bầu trời chúng ta thấy những cụm mây khi hiện hình này, khi hiện hình nọ, có lúc như hình con chó, có lúc như hình con sấu, con cọp v.v... thay hình đổi dạng liền liền. Tại sao nó đổi thay như thế? Vì mây không cố định, tụ tan tạm bợ nên luôn luôn thay đổi hình dạng sắc tướng. Thượng Sĩ mượn hình ảnh mây để nói lên sự đổi dời của muôn vật. “Mơ màng gởi trọn giấc Nam Kha.” Giấc Nam Kha dẫn từ câu chuyện Thuần Vu Phần nằm mộng thấy mình thi đỗ cao, được vua gả công chúa cho làm Thái thú quận Nam Kha vô cùng vinh hiển. Sau đó Vu Phần đi dẹp giặc bị thua trận, công chúa lâm bệnh nặng rồi mất. Nhà vua đem lòng nghi kỵ, cho về quê. Vu Phần chợt thức giấc thấy mình nằm dưới gốc cây hòe bên ổ kiến. Vu Phần ngẫm nghĩ mọi việc trong cuộc đời như ảo ảnh trong giấc mộng. Thượng Sĩ dẫn câu chuyện này nói lên muôn sự muôn vật ở cõi đời đổi thay như những cụm mây và cuộc sống mấy mươi năm của kiếp người như một giấc mộng. “Sương vừa rửa hạ, sen đang nụ.” Về đêm sương rơi xuống rửa sạch cái nóng bức của mùa hạ. Hết tiết hạ sang tiết thu, nên hoa sen có nụ dưới hồ. “Gió mới mời xuân mai đã hoa.” Gió đông báo hiệu đổi mùa, sắp sang xuân mai cũng chuẩn bị nở hoa. Ở trước thất tôi chưa có gió đông mà thấy cây mai bắt đầu chớm nụ. Như vậy chỉ cần thời tiết thay đổi thì sự vật cũng theo đó đổi thay, nó luôn chuyển biến không dừng. Đây là những hình ảnh rất đẹp diễn tả mùa hạ vừa qua, mùa thu lại đến, mùa đông sắp tàn và mùa xuân bước sang. Nhờ sương rửa hết nóng bức của mùa hạ nên hoa sen nở, nhờ gió mới mời xuân về nên hoa mai rộ nở đón xuân. “Trăng khuất núi tây, không còn bóng”: Trên hư không mặt trăng vừa khuất núi thì không còn một bóng trăng nào hiện ra và bầu trời tối mờ mịt. “Nước trôi đông hải sóng đã qua”: Ở dưới biển nước chảy về đông tức là về biển, thì các lượn sóng cũng tan. Như vậy trăng bị khuất núi không còn bóng, nước chảy ra biển những lượn sóng cũng mất theo. Đó là những hình ảnh diễn tả sự vật luôn luôn chuyển biến đổi dời rồi theo đó mà tan mất. “Anh xem đàn én lầu Vương Tạ”: Họ Vương và họ Tạ là hai nhà quí tộc đời Tống phong lưu phú quí không ai sánh bằng. Khi đó có đàn chim én bay đến tụ tập trước lầu nhà họ chơi giỡn. Lúc cha mẹ họ Vương họ Tạ mất, con cháu họ nghèo khổ, đàn én bay tới nhà khác đậu. Cho nên thơ Đường có hai câu: “Cựu thời Vương, Tạ đường tiền yến, khí nhập tầm thường bách tính gia” tức là khi xưa trước nhà họ Vương, họ Tạ có bầy chim én tới đậu, bây giờ nó bay vào những nhà tầm thường của bá tánh. Thượng Sĩ dẫn ý này để nói lên cái thói đời hư dối, khi giàu sang phú quí thì biết bao người tìm đến làm thân, đến khi nghèo khổ hết thời thì bị mọi người coi rẻ và xa lánh. Giống như đàn chim én khi họ Vương họ Tạ giàu sang phú quí thì nó tụ về, lúc nghèo hèn khổ sở thì nó bay đi. Thói đời là như vậy, nên có câu “nghèo ở giữa chợ không ai hỏi, giàu ở núi sâu lắm khách tầm” (Bần cư náo thị vô nhân vấn, phú tại thâm sơn hữu viễn thân). Như vậy có cái gì là thật vinh thật nhục? Gặp thời thì mọi sự đều tốt, hết thời thì mọi sự đều xấu. Thói đời là đổi thay, là không thật thì lấy cái gì làm chuẩn cho sự nhục vinh? Bài thơ này nói lên sự tạm bợ đổi thay của sự vật và của lòng người. Hai câu đầu nói lên cái tạm bợ của sự vật như mây nổi, như giấc mộng, không có gì thật. Bốn câu giữa chứng minh sự tạm bợ đổi thay qua thời tiết, qua ngoại cảnh trăng nước v.v... Hai câu cuối nói sự hư dối của thói đời, diễn tả rõ ràng sự đổi trắng thay đen của lòng người. Lúc phú quí thì kẻ đón người đưa, khi nghèo hèn thì người người xa lánh, đó là lẽ thường của thế gian. 
Về Đầu Trang Go down
https://triamquan.forumvi.com/
Tri Âm Quán
Thành Viên Tích Cực
Thành Viên Tích Cực
Tri Âm Quán


Tổng số bài gửi : 6340
Reputation : 2
Join date : 31/07/2013
Đến từ : Thị Trấn Chũ

 TUỆ TRUNG THƯỢNG SĨ NGỮ LỤC GIẢNG GIẢI   - Page 2 Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: TUỆ TRUNG THƯỢNG SĨ NGỮ LỤC GIẢNG GIẢI     TUỆ TRUNG THƯỢNG SĨ NGỮ LỤC GIẢNG GIẢI   - Page 2 EmptyFri Dec 06, 2019 2:51 pm

Dịch: HỌA THƠ QUAN HUYỆN
Đã từng nối gót Tứ Minh Cuồng
Ưa mến Y Vương với Quỉ Vương.
Trong chưa giác ngộ chân giác ngộ
Chỗ khó nghĩ bàn khéo nghĩ bàn.
Căn hèn muốn hỏi “trường sanh thuốc”
Tác giả (1) đâu cần “bất tử phương”.
Cá chẳng tìm mồi, nay nước lạnh
Đồng thời nơm, lưới thảy đều quên.
(1) Đáng lý là tác gia, chỉ cho người đạt đạo thì mới đúng ý của bài thơ. Nhưng trong bản chữ Hán in là tác giả nên chúng tôi vẫn để tác giả.
 

Giảng: “Đã từng nối gót Tứ Minh Cuồng”: “Tứ Minh Cuồng” là biệt hiệu của ông Hạ Tri Chương, ông là người Vĩnh Hưng làm Thị Lang bộ Lễ đời vua Đường Huyền Tông, tánh ông phóng đãng, lúc già xin về làm đạo sĩ ở Kinh Hồ lấy hiệu là Tứ Minh Cuồng. Ngài dẫn câu chuyện này ý muốn nói nối gót theo ông Hạ Tri Chương chán danh vọng từ quan để làm đạo sĩ tự do phóng khoáng. “Ưa mến Y Vương với Quỉ Vương”: Y Vương là chỉ đức Phật, Ngài được tôn xưng là Vô thượng Y Vương, tức là ông thầy thuốc không ai cao hơn được. Đức Phật được tôn xưng như vậy có xứng đáng không? Ở thế gian ông thầy thuốc giỏi nhất thì cứu được người bệnh sắp chết sống thêm năm, mười năm, gọi là thầy thuốc đại tài. Chúng ta sống trong sanh tử tuổi thọ cao lắm chỉ bảy mươi, tám mươi năm là chết. Ở đây đức Phật dạy chúng ta tu để không còn bị chết chi phối, vậy Ngài không phải ông vua thầy thuốc là gì? Ngài đưa chúng ta tới chỗ không còn sanh tử tức là vô sanh, nghĩa là sống với cái sanh mạng không cùng không dứt. Sanh mạng đó không phải là sanh mạng lăng xăng lộn xộn này, mà là bản thể thanh tịnh sáng suốt hiện có của chính mình. Nhận ra sống được với bản thể thì muôn kiếp chúng ta không còn bị sanh tử chi phối nên nói Phật là vị Y Vương. Lẽ ra chúng ta chỉ mến Y Vương chớ không có ưa Quỉ Vương. Nhưng tại sao Ngài nói ưa Quỉ Vương? Thật ra Quỉ Vương đáng sợ là khi nào chúng ta sợ nó, nếu chúng ta không sợ nó thì nó không đáng sợ. Song vì người ta có cái bệnh hay đổ thừa, chẳng hạn như một Thiền sinh tăng thấy một cô thiếu nữ đẹp, tâm xao xuyến bất an, ngồi thiền không yên, đổ thừa tại cô thiếu nữ mà hôm nay tôi ngồi thiền không yên. Có phải tại cô thiếu nữ đẹp nên Thiền sinh tăng ngồi thiền không yên không? Cô thiếu nữ đẹp là do phước đời trước của cô nên cô đẹp, đó là chuyện của cô, cô đi tới đi lui mặc kệ cô. Nếu vị ấy thấy cô thì biết mình có cái hay thấy, thì đâu có can hệ gì? Do thấy rồi khởi tâm phân biệt đẹp xấu rồi ưa thích nên xao xuyến bất an, đó là tại vị ấy, chớ đâu phải tại cô. Tại vị ấy mà vị ấy đổ thừa cho người thật là vô lý. Nếu tâm vị ấy không ưa thích xao xuyến bởi những hình sắc thì một trăm cô đi qua cũng không dính dáng gì vị ấy. Thấy Phật tâm an nhiên, thấy cô thiếu nữ tâm cũng an nhiên, thì Y Vương và Quỉ Vương đều thích có gì là tai họa? Tai họa là do mình chớ không phải do người làm cho mình họa, nhưng vì thiên hạ có cái bệnh đổ thừa, hễ có chuyện dở xảy ra là cứ đổ thừa tại người này người kia chớ không ai can đảm nhận cái xấu cái dở đó là do mình. Bây giờ biết rõ tất cả cái dở từ tâm mê nhiễm của mình mà ra, nếu hết mê hết nhiễm thì ngoại cảnh tốt xấu cũng không có giá trị, không làm hại được mình. Và, nhờ có Quỉ Vương nên chúng ta mới biết được tâm mình còn ô nhiễm hay hết ô nhiễm. Gần Phật lạy Phật tâm thanh tịnh chuyện đó là thường. Khi gặp duyên ô nhiễm mà tâm vẫn thanh tịnh thì Quỉ Vương rất hiền và rất dễ mến. Thế nên Thượng Sĩ nói: “Trong chưa giác ngộ chân giác ngộ, chỗ khó nghĩ bàn khéo nghĩ bàn.” Trong chỗ chưa giác ngộ chúng ta phải thật giác ngộ, không thể lôi thôi lơ là được. “Chỗ khó nghĩ bàn” là từ ngữ nhà Thiền, tông Qui Ngưỡng có dùng câu: “Nan tư lương xứ diệu tư lương” nghĩa là “chỗ khó nghĩ bàn khéo nghĩ bàn”. Trong chỗ đó không cho chúng ta suy nghĩ, phân biệt, mà chúng ta phải khéo suy nghĩ phân biệt, đó là điểm đặc biệt của nhà Thiền. Chúng ta đọc qua đoạn đối đáp giữa Lục Tổ và Thiền sư Huyền Giác sẽ rõ chỗ này. Sư Huyền Giác sau khi tham vấn Lục Tổ liền cáo từ ra về. Tổ bảo: - Sao trở về quá nhanh! Sư thưa: - Vốn tự không động thì đâu có nhanh. Tổ bảo: - Cái gì biết không động? Sư thưa: - Ngài tự phân biệt. Tổ bảo: - Ngươi được ý vô sanh rất sâu! Sư thưa: - Vô sanh há có ý sao? Tổ bảo: - Không ý, cái gì biết phân biệt? Sư thưa: - Phân biệt cũng không phải ý. Trong cái vô sanh không phải là không phân biệt, nhưng phân biệt mà không phải ý. Vậy ý là tư lương, tư lương mà không phải ý, mới gọi là “Diệu tư lương”. “Căn hèn muốn hỏi trường sanh thuốc, tác giả đâu cần bất tử phương.” Người căn cơ thấp vì còn yêu bản ngã nên họ ưa sống lâu, do đó muốn xin thuốc trường sanh để uống cho được trường sanh bất tử. Tác giả là chỉ cho những bậc đã đạt đạo, những vị đó không cần những phương thuốc bất tử. Tại sao? Vì khi đã giác ngộ thì sống với cái thể bất sanh còn tìm cái vô sanh làm gì nữa. Thượng Sĩ nói, khi chúng ta chưa giác ngộ thì phải thật giác ngộ, ngay trong cái khó nghĩ bàn khéo nghĩ bàn, nhưng cái nghĩ bàn không phải thuộc ý, người căn cơ thấp thì muốn tìm thuốc để được sống lâu, còn người đạt đạo không cầu sống lâu. Tại sao? Vì đạo tức vô sanh, vô sanh thì cầu bất tử làm gì? Để thấy, người tu chân thật phải làm được những điều đó. “Cá chẳng tìm mồi, nay nước lạnh, đồng thời nơm, lưới thảy đều quên.” Hai câu này rất đẹp, mùa đông nước đóng băng, trời lạnh quá nên cá không đi tìm mồi. Khi cá không đi tìm mồi thì phương tiện để bắt cá là nơm và lưới cũng bỏ luôn. Đây nói lên cái ý khi chúng ta tu tới chỗ tâm nhất như rồi thì giống như trời mùa đông lạnh, cá không đi tìm mồi. Thông thường cá tìm mồi để nuôi sống. Cũng vậy, vọng tưởng luôn luôn chạy theo sáu trần để nuôi lớn phiền não vô minh. Nhưng khi công phu tu hành tới chỗ tâm nhất như thì giống như con cá lặng lẽ nằm yên không đi tìm mồi, nó không tìm mồi thì phương tiện để bắt cá là nơm và lưới cũng bỏ luôn. Khi chúng ta tu tới chỗ rốt ráo thì Bồ-đề Niết-bàn cũng không, phiền não vọng tưởng cũng hết, nghĩa là năng sở đều quên. Năng là con cá, sở là nơm lưới cả hai đều không còn. 
Về Đầu Trang Go down
https://triamquan.forumvi.com/
Tri Âm Quán
Thành Viên Tích Cực
Thành Viên Tích Cực
Tri Âm Quán


Tổng số bài gửi : 6340
Reputation : 2
Join date : 31/07/2013
Đến từ : Thị Trấn Chũ

 TUỆ TRUNG THƯỢNG SĨ NGỮ LỤC GIẢNG GIẢI   - Page 2 Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: TUỆ TRUNG THƯỢNG SĨ NGỮ LỤC GIẢNG GIẢI     TUỆ TRUNG THƯỢNG SĨ NGỮ LỤC GIẢNG GIẢI   - Page 2 EmptySat Dec 07, 2019 9:36 pm

Dịch: CẢNH VẬT TỊNH BANG
Trại quê vừa dựng cảnh thanh tân
Đào lý xanh tươi bốn tiết xuân.
Tiếng sáo mục đồng, trăng gác lặng
Áo tơi mấy mảnh, mây ướt choàng.
Đường uốn ruột dê thông phố chợ
Khe chia đuôi én dứt hồng trần.
Quỉ thần trong tối cùng thầm bảo
Một giải phong quang anh ẩn thân.
 
Giảng: Bài thơ này có chỗ nghi không phải của Thượng Sĩ, mà của Trần Quang Khải tên là “Để Dã Thự” (Dã thự là trại quê). Đọc bài này chúng ta thấy thuần là tả cảnh đẹp, chớ không chứa đựng ý nghĩa đạo lý, đúng là của ông Trần Quang Khải hơn là của Tuệ Trung Thượng Sĩ. Vì bài này có bản chữ Hán nên tôi phải dịch ra, ở đây khỏi cần giảng kỹ.
 
Dịch: HỌA THƠ HƯNG TRÍ THƯỢNG VỊ HẦU Thiền phong không trước cũng không sau
Bản thể như như sẵn vậy nào.
Thiếu Thất chín năm không một tiếng
Hoàng Mai đêm giữa tạm riêng truyền.
Tâm cơ chẳng dính tơ hào niệm
Khẩu nghiệp nhọc gì chọn lựa lời.
Vì bảo Nguyên quân Trần Xử Sĩ
Nhạn khuya một tiếng, hết đêm mù.
 

Giảng: Đây là bài thơ Thượng Sĩ họa lại để tặng Hưng Trí Thượng Vị Hầu [Hiệu của Trần Quốc Nghiễn con thứ hai của Trần Quốc Tuấn.]. Trong sử ghi rằng khi quân ta đánh với quân Nguyên, quân Nguyên thua bỏ chạy, nhà vua ra lệnh đuổi theo chớ không giết. Trần Quốc Nghiễn quá hăng nên xua quân đuổi theo giết quân địch rất nhiều. Khi làm lễ thưởng công tướng sĩ thì Trần Quốc Nghiễn bị nhà vua chê là không tuân lệnh, và giặc thua chạy mà còn đuổi theo giết là không có lợi. Vì sao? Vì Việt Nam là nước nhỏ dân ít, còn quân Nguyên nước lớn dân đông, tướng tài của mình đánh thắng họ là mừng rồi, họ thua để cho họ chạy về nước, đuổi theo giết họ chỉ gây thêm thù oán. Quốc Nghiễn vì quá hăng không nghĩ đến cái lợi hại lâu dài, khi bị quở và không được thưởng công, ông hơi buồn làm thơ than thở do đó Thượng Sĩ họa lại với lý Thiền để khuyên ông. Mở đầu Ngài nói: “Thiền phong không trước cũng không sau, bản thể như như sẵn vậy nào.” Sống Thiền là cốt trở về với bản thể như như, bản thể như như đó không trước không sau. Trước sau là chỉ cho không gian và thời gian, bản thể như như thì sẵn đó chớ không phải mới có mới thành. “Thiếu Thất chín năm không một tiếng, Hoàng Mai đêm giữa tạm riêng truyền.” Tổ Đạt-ma chín năm ngồi xây mặt vào vách tại chùa Thiếu Lâm, lặng im không một tiếng để nói lên thể như như. Sống với bản thể như như thì không còn một tí vọng động. Và, ở Hoàng Mai giữa đêm Ngũ Tổ truyền y bát cho Lục Tổ là việc tạm thôi. “Tâm cơ chẳng dính tơ hào niệm, khẩu nghiệp nhọc gì chọn lựa lời.” Nếu tâm mình chẳng dính một mảy tơ, không một niệm nhỏ nhiệm khởi lên thì lo gì cái miệng mình nói bậy mà phải lựa lời. Sở dĩ miệng hay nói tào lao là tại tâm lăng xăng lộn xộn, nếu tâm lặng lẽ thì miệng không còn nói bậy. Chúng ta sở dĩ lựa lời nói cho khéo léo là tại tâm mình lộn xộn, khi thì nghĩ tốt, khi thì nghĩ xấu, cho nên phải kềm chế bằng cách lựa lời hay khéo để nói. Một khi tâm đã lặng lẽ không dấy niệm thì không còn lo sợ cái miệng nói bậy. Hai câu này ý nói người ta hay sợ cái quả mà không sợ cái nhân, lời nói phát ra là để diễn tả tâm tư của mình, tâm suy nghĩ tốt xấu thì thốt ra lời nói có hay có dở, nếu tâm tư lặng lẽ thanh tịnh thì lời nào thốt ra cũng thanh tịnh. Thế mà người đời cứ lựa lời nói cho hay cho khéo mà không chịu gạn lọc phiền não cho tâm được thanh tịnh. Lo lựa lời nói khéo là chúng ta chỉ lo tránh quả mà không sợ nhân. Thói thường chúng ta không sợ tạo nghiệp mà chỉ sợ cái khổ sanh tử luân hồi. Luân hồi thọ khổ là cái quả không đáng sợ, sợ là sợ tạo nghiệp, vì có nghiệp mới dẫn đi luân hồi. Song, nghiệp cũng không đáng sợ mà phải sợ cái nhân đưa đến sự tạo nghiệp là vọng tưởng. Như vậy muốn không tạo nghiệp, phải buông vọng tưởng, nên nói “tâm cơ chẳng dính tơ hào niệm, khẩu nghiệp nhọc gì chọn lựa lời”. Nghĩa là nội tâm không còn vọng tưởng thì lo gì tạo ra khẩu nghiệp. Vậy người tu Thiền muốn tránh cái quả luân hồi thì phải tránh cái nhân tạo nghiệp, muốn không tạo nghiệp thì phải buông hết vọng tưởng, dứt được manh mối ban đầu thì luân hồi làm sao có? Đó là cái gốc mà ai tu cũng phải lo thực hiện cho tốt. “Vì bảo Nguyên quân Trần Xử Sĩ, nhạn khuya một tiếng hết đêm mù.” Trần Xử Sĩ cũng là hiệu của Trần Quốc Nghiễn. Về đêm trời khuya vắng lặng, một tiếng nhạn kêu thì sương mù tan ngay. Đây muốn nói khi tâm chúng ta thanh tịnh thì, mê mờ đau khổ đều sạch hết. Chỉ cần một phen ngộ thì mọi sự đều yên, nếu còn mê còn lăng xăng lộn xộn mà muốn tránh những cái khen chê, làm sao tránh khỏi? Chỉ khi nào tâm bừng sáng thì mọi cái mê mờ hết sạch, đó là lời khuyên chí lý của Ngài. Qua bài thơ này chúng ta thấy Thượng Sĩ khuyên Trần Quốc Nghiễn đừng buồn phiền vì đi đánh giặc có công mà không được trọng thưởng. Ngài khuyên ông phải ráng tu để tâm thanh tịnh thì mọi sự buồn phiền đau khổ đều hết. 
Về Đầu Trang Go down
https://triamquan.forumvi.com/
Tri Âm Quán
Thành Viên Tích Cực
Thành Viên Tích Cực
Tri Âm Quán


Tổng số bài gửi : 6340
Reputation : 2
Join date : 31/07/2013
Đến từ : Thị Trấn Chũ

 TUỆ TRUNG THƯỢNG SĨ NGỮ LỤC GIẢNG GIẢI   - Page 2 Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: TUỆ TRUNG THƯỢNG SĨ NGỮ LỤC GIẢNG GIẢI     TUỆ TRUNG THƯỢNG SĨ NGỮ LỤC GIẢNG GIẢI   - Page 2 EmptyThu Dec 12, 2019 10:23 am

Dịch: TỤNG ĐẠO HỌC TRẦN THÁNH TÔNG Thánh học cao minh tột cổ kim
Kho rồng xâu suốt tận hoa tim.
Thích phong đã được mở tay báu
Tổ ý đâu không thấu kim chìm.
Trí vượt cửa thiền thông Thiếu Thất
Tình siêu biển giáo thấu Oai Âm.
Người đời chỉ thấy ngàn non đẹp,
Ai lắng hang sâu tiếng vượn trầm.
 
Giảng: Trần Thánh Tông là vị vua không xuất gia mà thấy được lý thật qua kinh điển, qua ngữ lục của các Thiền sư. Nhà vua thấy rất sâu, tột cùng lý đạo, nên Thượng Sĩ tán thán. “Thánh học cao minh tột cổ kim, kho rồng xâu suốt tận hoa tim.” Về thánh điển thì nhà vua thông suốt cả sách vở xưa nay, nhất là kinh Phật. “Kho rồng” dựa theo huyền sử kể rằng Bồ-tát Long Thọ có một lần được Long vương mời xuống Long cung thuyết pháp, Long vương mở kho tàng chứa kinh Phật cho Ngài xem. Vì trên nhân gian bị giặc cướp thiêu đốt cho nên kinh sách không còn đủ, Long vương đã thỉnh hết kinh Phật đem về chứa vào kho ở Long cung. Sau khi xem, ngài Long Thọ xin thỉnh những bộ kinh như Hoa Nghiêm, Niết-bàn v.v... để đem về nhân gian dịch ra và truyền bá cho người sau biết. Bốn bộ A-hàm của hệ Nguyên thủy không có những kinh đó. Đứng về lịch sử thì kinh Hoa Nghiêm, Niết-bàn v.v... ra đời sau khi Phật niết-bàn khoảng sáu trăm năm, tức là nhằm vào thời ngài Long Thọ. Nên đây nói “kho rồng xâu suốt tận hoa tim”. Nghĩa là kho kinh ở Long cung vua Trần Thánh Tông thông suốt hết. “Thích phong đã được mở tay báu, Tổ ý đâu không thấu kim chìm.” Hai câu này ý muốn nhắc đến hai sự tích: 1. “Thích phong đã được mở tay báu” nghĩa là mở tay ra có hòn ngọc quí trong đó. Một hôm Tổ Sư Tử đi hoằng hóa đến nước Kế-tân có ông trưởng giả dẫn đứa con đến yết kiến Ngài, thưa rằng:
- Thằng con tôi tên là Tư-đa hai mươi tuổi, từ khi sanh ra đến giờ bàn tay trái nó nắm chặt lại chưa từng mở ra. Xin Tôn giả từ bi nói rõ nhân đời trước của nó cho tôi hiểu. Tổ nhìn thẳng vào mặt Tư-đa, rồi đưa tay bảo:
- Trả hạt châu lại cho ta! Tư-đa liền xòe tay dâng hạt châu cho Tổ. Tổ giải thích:
- “Đời trước, ta là một Tỳ-kheo thường được Long vương thỉnh xuống Long cung tụng kinh. Một hôm sau khi tụng kinh xong, Long vương cúng ta một hạt châu, ta nhận châu rồi trao cho chú thị giả tên Bà-xá (tức là thân đời trước của Tư-đa) giữ trong tay. Ta tịch, sanh nơi đây, vì nhân duyên thầy trò chưa hết nên gặp lại nhau tại hội này.” Trưởng giả nghe được tiền duyên của con mình hoan hỉ cho Tư-đa theo Ngài xuất gia. Tổ xét duyên xưa và nay, hợp hai tên đặt là Bà-xá-tư-đa. Ý câu này Thượng Sĩ tán thán vua Trần Thánh Tông giống như Bà-xá-tư-đa mở tay ra liền thấy hòn ngọc báu. Đó là cái duyên thầy trò ngày xưa bây giờ gặp lại.

2. “Tổ ý đâu không thấu kim chìm.” Ngài Ca- na-để- bà là Tổ thứ mười lăm đệ tử của Tổ Long Thọ. Khi Tổ Long Thọ đến Nam Ấn, Ngài đến yết kiến. Tổ muốn thử Ngài, nên sai đồ đệ múc một thau nước đầy để trước lối vào. Ngài đi qua lấy một cây kim bỏ vào thau nước rồi thẳng đến yết kiến Tổ. Tổ rất hoan hỉ, thầy trò đã hợp duyên. Việc Long Thọ sai để thau nước không phải chỉ ngầm ý cho ngài Để-bà bỏ kim vào, mà còn muốn nói lên cái ý khó tìm. Ở đời cái gì khó tìm thì người ta nói mò kim đáy giếng. Kim rớt xuống đáy giếng tìm rất khó. Cũng vậy, duyên thầy trò ngày xưa mà nay gặp lại không phải là chuyện dễ, rất khó, khó như việc mò kim đáy giếng. Cái thau nước tượng trưng cho cái giếng, cây kim bỏ trong thau chìm xuống đáy, dụ như cây kim rớt chìm dưới đáy giếng tìm rất khó khăn. Ý của Tổ Long Thọ ngài Ca-na- để-bà hiểu thấu, nên bỏ cây kim vào thau. Thượng Sĩ dẫn tích này để tán thán vua Trần Thánh Tông thấu suốt lý Thiền, giống như ngài Ca-na-để-bà hội được ý Tổ Long Thọ nên bỏ kim vào thau. “Trí vượt cửa Thiền thông Thiếu Thất.” Trí tuệ của vua Trần Thánh Tông vượt khỏi cửa Thiền và thông suốt được ý nghĩa của Tổ Đạt-ma ở Thiếu Thất. “Tình siêu biển giáo thấu Oai Âm.” Vua Trần Thánh Tông thấu suốt được giáo lý của Phật Thích-ca trong đời hiện tại cho đến đức Phật Oai Âm Vương ở đời quá khứ. Trong kinh có câu: “Oai Âm Vương dĩ tiền vô Phật danh vô chúng sanh danh.” Nghĩa là từ đức Phật Oai Âm Vương về trước không có tên Phật và tên chúng sanh. Phật Oai Âm Vương là đức Phật đầu của tất cả chư Phật. Ý câu này tán thán vua Trần Thánh Tông thấu suốt được giáo lý của chư Phật một cách tường tận. “Người đời chỉ thấy ngàn non đẹp, ai lắng hang sâu tiếng vượn trầm.” Nguời thế gian chỉ thích thấy những cảnh đẹp của núi non mây nước, ít ai chịu lắng nghe tiếng con vượn kêu trong hang sâu. Ở đời này có mấy người chịu ngồi im lìm để lắng nghe tiếng khỉ vượn nhảy nhót kêu ở trong lồng, mà đa số chỉ thích chạy tìm những thanh sắc tầm thường ở bên ngoài. Nhưng tất cả cái bên ngoài là tướng sanh diệt, thế mà người ta lại mê say đuổi theo. Rất ít người chịu lắng lòng nhìn lại mình thật kỹ, để nhận ra cái chân thật của mình. Tuy quí vị có lắng ở hang sâu mà chưa nghe tiếng vượn, biết đâu hôm nào đó nghe rồi bật cười và tất cả sương mù trên thế gian đều tan vỡ hết. Chúng ta thấy những bài thơ của Thượng Sĩ, hai câu kết thường nhắc đến việc quan trọng của người tu là nhận cho ra cái chân thật của mình. 
Về Đầu Trang Go down
https://triamquan.forumvi.com/
Tri Âm Quán
Thành Viên Tích Cực
Thành Viên Tích Cực
Tri Âm Quán


Tổng số bài gửi : 6340
Reputation : 2
Join date : 31/07/2013
Đến từ : Thị Trấn Chũ

 TUỆ TRUNG THƯỢNG SĨ NGỮ LỤC GIẢNG GIẢI   - Page 2 Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: TUỆ TRUNG THƯỢNG SĨ NGỮ LỤC GIẢNG GIẢI     TUỆ TRUNG THƯỢNG SĨ NGỮ LỤC GIẢNG GIẢI   - Page 2 EmptyFri Dec 13, 2019 3:19 pm

Dịch: CHĂN TRÂU ĐẤT
Một con trâu đất, một mình chăn
Xỏ mũi lôi về chẳng khó khăn.
Đem đến Tào Khê buông thả quách
Mênh mông nước chảy đánh cầu tròn.

Giảng: Theo chữ Hán con trâu và con bò viết cùng một chữ ngưu ( ) nhưng chữ ngưu thường chỉ con bò, còn chữ thủy ngưu ( ) thường chỉ con trâu. Con bò thì màu vàng sừng ngắn, ở trên khô không lội nước, con trâu màu đen sừng dài và cong lội nước được, nên nói trâu nước. Ở đây Thượng Sĩ nói chăn con trâu đất. Vậy trâu đất là trâu hay bò? Đúng ra là trâu chớ không phải bò. Vì ở Việt Nam trâu hay nằm ở vũng bùn tẩm đất đầy mình nên gọi là trâu đất, thay vì ở Trung Hoa gọi là trâu nước. Vậy nói theo Việt Nam là chăn trâu chớ không phải chăn bò. Chúng ta đừng hiểu lầm con trâu đất là con trâu làm bằng đất, trâu bằng đất thì vô tri làm sao chăn? Như vậy con trâu đất là con trâu dính bùn đầy mình, vì chữ Nê ( ) là bùn chớ không phải đất. “Một con trâu đất một mình chăn.” Một con trâu đất một mình chăn thì dễ quá, chăn con trâu của mình chớ không phải của ai. Nhưng chăn bằng cách nào? “Xỏ mũi lôi về chẳng khó khăn.” Xỏ mũi lôi đầu nó chuyện đó không khó. Như vậy muốn con trâu thuần thục và qui thuận thì phải xỏ mũi lôi đầu nó mới đi, chớ chăn mà không xỏ mũi thì không được. Cũng vậy, những vọng tưởng của chúng ta nhà Thiền tạm gọi con trâu, nó không có hình tướng chợt sanh chợt diệt. Nếu chăn mà không có phương tiện thì làm sao chăn? Vì vậy phải dùng phương tiện. Phương tiện ở đây dùng cho người sơ cơ là quán hơi thở, người thuần thục thì vọng tưởng khởi nhìn cho nó lặng xuống, không để nó tự do hoạt động. Nếu chúng ta chăn thật kỹ thì con trâu dễ điều phục. Con trâu chúng ta đang chăn có ai biết hình dáng nó thế nào không? Nó có bốn chân hai sừng phải không? - Thật ra, con trâu Thượng Sĩ nói không có hình dáng cụ thể, chẳng qua do người xưa nương lời dạy của đức Phật trong kinh Di Giáo về việc kềm chế năm căn không cho buông lung chạy theo năm dục. Ví như người chăn trâu coi chừng trâu không cho nó xâm phạm lúa mạ của người. Mượn hình ảnh con trâu để soạn ra mười bức tranh với ý chỉ hàng phục những vọng tưởng loạn động của mình gọi là chăn trâu. “Đem đến Tào Khê buông thả quách.” Thả quách là buông tay chớ không còn nắm mũi, không còn kềm chế, nghĩa là để cho nó tự do. Nhưng muốn thả thì phải chăn cho thuần thục rồi mới thả. Chừng nào chúng ta được nhất hạnh tam muội và nhất tướng tam-muội, như lời Lục Tổ dạy trong kinh Pháp Bảo Đàn thì mới thả cho con trâu tự do. Nhất tướng tam-muội là đối với tất cả tướng dù đẹp dù xấu, dù lớn dù nhỏ, chúng ta đều không dính mắc, tức là nhìn thấy tất cả tướng tâm không dấy động, luôn luôn ở trong chánh định. Nhất hạnh tam-muội là trong bốn oai nghi đi đứng ngồi nằm, khi tiếp duyên xúc cảnh tâm vẫn an nhiên tự tại, không dính không kẹt với sáu trần bên ngoài. Như vậy nếu người tu hành đạt được hai tam-muội này thì không còn phải chăn trâu, nên nói đem đến Tào Khê buông thả quách. “Mênh mông nước chảy đánh cầu tròn.” Câu kết hơi khó. Ở trong dòng nước chảy xiết mà đánh cầu. Để dễ hiểu tôi dẫn câu chuyện mang ý này: Có vị Tăng đến hỏi ngài Triệu Châu: “Trẻ con mới sanh có đủ sáu thức chăng?” Triệu Châu đáp: “Trên dòng nước chảy xiết đá cầu.” Sau vị Tăng ấy đến hỏi ngài Đại Đồng Đầu Tử: “Trên dòng nước chảy xiết đá cầu, ý nghĩa thế nào?” Sư đáp: “Niệm niệm chẳng tạm dừng.” Chúng ta thường nghĩ người lớn có ý thức phân biệt thế này thế kia, còn con nít thì ý thức nó còn non nớt nên không phân biệt. Ở đây, vị Tăng này hỏi: “Con nít có đủ sáu thức không?” Ngài Triệu Châu trả lời: “Trên dòng nước chảy xiết đá cầu.” Nghe qua vị Tăng không hiểu mới đến hỏi Thiền sư Đại Đồng, Ngài đáp: “Niệm niệm chẳng tạm dừng.” Qua câu đáp của Thiền sư Đại Đồng chúng ta mới hiểu câu trả lời của ngài Triệu Châu “trên dòng nước chảy xiết đá cầu”. Ý nói sáu thức nơi con nít đang trên dòng phát triển liên tục từ sơ sanh dần dần lớn lên. Như khi còn bé chúng ta cũng thấy nghe mà chưa khởi phân biệt đẹp xấu hay dở. Tuy nói chưa khởi phân biệt, chớ đứa bé thấy cái gì có màu sắc nó cũng đưa tay chụp, cái gì không thích thì nó giẫy nẩy không chịu, nghe tiếng nói ngọt ngào nó cười vui vẻ, nghe tiếng nói nặng nề mắng mỏ nó cũng biết tủi biết buồn. Như vậy tuy nó có cái biết phân biệt nhưng rất sơ khai chưa rõ ràng. Từ từ lớn lên cái thấy nghe hiểu biết nó càng rõ ràng hơn. Ngài Triệu Châu nói đứa bé vẫn có đủ sáu thức, nhưng phát triển dần dần từ sơ khai đến trưởng thành, liên tục như dòng nước chảy xiết, hạt nước này tiếp nối hạt nước kia chảy liên tục. Chúng ta thấy như một dòng nước nhưng thật ra nó biến chuyển không dừng. Ngài Triệu Châu nói con nít cũng có sáu thức, song nó biến chuyển dần và không dừng như dòng nước chảy xiết. Còn đá cầu, nghĩa là sao? Chính nhờ Thượng Sĩ mà chúng ta hiểu được ý này. Xin nhắc lại hai câu “đem đến Tào Khê buông thả quách, mênh mông nước chảy đánh cầu tròn”. Nếu chúng ta tu điều phục được con trâu của mình rồi, nó không còn kéo lôi chống trả nữa, lúc đó chúng ta được tự do. Như vậy là trong dòng biến chuyển của sáu thức chúng ta được tự tại. Giống như người đánh cầu trên dòng nước chảy xiết. Đánh cầu hay đá cầu của ngài Triệu Châu, ý nói người tu Thiền thì không bị sự biến chuyển của sáu thức lôi kéo nhận chìm. Giống như người đứng trên dòng nước chảy xiết mà đánh cầu một cách tự do, việc này ngoài sức tưởng tượng của con người. Vì người thế gian luôn luôn bị sáu thức kéo lôi nhận chìm. Hiểu được ý này chúng ta mới thấy giá trị của bài thơ. Bài thơ chỉ có bốn câu mà Ngài nói lên được tiến trình tu tập từ khi bắt đầu dụng tâm tu cho đến khi đạt được kết quả. Tôi xin nhắc lại toàn bài để quí vị nắm cho vững: “Một con trâu đất một mình chăn.” Mấy hôm rồi quí vị chăn một mình hay có ai phụ không? “Xỏ mũi lôi về chẳng khó khăn.” Quí vị xỏ mũi được chưa hay vẫn còn cay đắng gian nan? Và, tuy đã xỏ mũi rồi có khi lôi nó không chịu đi, vì sức mình yếu nên lắm lúc cũng bị nó lôi lại. Như vậy đối với quí vị thì “xỏ mũi lôi về rất khó khăn”. Nếu “chẳng khó khăn” thì sẽ “đem đến Tào Khê buông thả quách”. Khi trâu thuần thục thì mình nằm ngủ khò chẳng còn lo lắng gì nữa, bấy giờ thì “mênh mông nước chảy đánh cầu tròn”. Tuy ở trong dòng sanh diệt mà chúng ta an nhiên, không lo sợ không dính mắc gì cả. Chỉ tóm gọn trong bốn câu thơ mà Ngài nói lên được tiến trình tu tập của một hành giả từ khi bắt đầu cho đến khi viên mãn. Chúng ta nên ghi nhớ để mà tu tập. 
Về Đầu Trang Go down
https://triamquan.forumvi.com/
Tri Âm Quán
Thành Viên Tích Cực
Thành Viên Tích Cực
Tri Âm Quán


Tổng số bài gửi : 6340
Reputation : 2
Join date : 31/07/2013
Đến từ : Thị Trấn Chũ

 TUỆ TRUNG THƯỢNG SĨ NGỮ LỤC GIẢNG GIẢI   - Page 2 Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: TUỆ TRUNG THƯỢNG SĨ NGỮ LỤC GIẢNG GIẢI     TUỆ TRUNG THƯỢNG SĨ NGỮ LỤC GIẢNG GIẢI   - Page 2 EmptyTue Dec 17, 2019 2:13 pm

Dịch: VUI THÍCH GIANG HỒ
Tâm xưa hồ hải chửa từng khuây
Ngày tháng như tên dường tợ thoi.
Gió mát trăng thanh sanh kế đủ
Non xanh nước biếc nếp sống đầy.
Sáng sớm giương buồm băng nước thẳm
Chiều nâng sáo thổi cợt khói mây.
Tạ Tam nay đã không tin tức
Để chiếc thuyền trơ bãi cát này.
Giảng: Bài thơ này diễn tả cái thú giang hồ của những người có tinh thần hào phóng, tâm hồn thích tự do rày đây mai đó. “Tâm xưa hồ hải chửa từng khuây.” Hồ hải chỉ cho ngũ hồ tứ hải. Lúc nhỏ đã có tâm hào phóng, nay tuy già mà vẫn còn thích đi đây đi kia chớ không chịu ở một nơi. “Ngày tháng như tên dường tợ thoi.” Ngày tháng trôi qua nhanh như tên bắn như thoi đưa, không chờ đợi ai cả. Hai câu này ý nói tâm hồn của Thượng Sĩ lúc nào cũng muốn dạo chơi hồ hải, nhưng bây giờ nhìn lại thì ngày tháng trôi qua nhanh và tuổi đã già. Tuy nhiên: “Gió mát trăng thanh sanh kế đủ, non xanh nước biếc nếp sống đầy.” Sanh kế của Thượng Sĩ là gió mát trăng thanh. Có gió mát trăng thanh là đủ sống rồi, không cần phải ăn ngon mặc đẹp. Nếp sống của Ngài là phải gần gũi thiên nhiên, cho nên non xanh nước biếc làm cho đời sống của Thượng Sĩ thêm đầy đủ. Đó là phong độ sống của Ngài. Chúng ta bây giờ ở Thiền viện Trúc Lâm có đủ những điều kiện về sanh kế như Ngài nói chưa? Ở đây cũng có rừng thông xanh mướt, gió thổi vi vu, hồ nước Tuyền Lâm trong vắt, mỗi đêm trăng sáng soi bóng xuống hồ... Chúng ta có đủ cả, có thể nói là dư thừa. Vậy có ai là người có tâm hồn giang hồ muốn tìm non xanh nước biếc gió mát trăng thanh nữa không? Hay đã an lòng ở đây vừa tu vừa thưởng thức cảnh đẹp? “Sáng sớm giương buồm băng nước thẳm, chiều nâng sáo thổi cợt khói mây.” Sáng thả buồm rong chơi, chiều nâng sáo thổi cợt đùa với mây gió. Thượng Sĩ là một cư sĩ thì sống như thế được. Chúng ta là Thiền sinh thì phải sửa hai câu này lại cho phù hợp: “Sáng sớm vác cuốc ra làm cỏ, chiều ôm tọa cụ đến Thiền đường.” “Tạ Tam nay đã không tin tức, để chiếc thuyền trơ bãi cát này.” Tạ Tam tức là Tạ Tam Lang, tên cũ của Thiền sư Huyền Sa Sư Bị, lúc còn cư sĩ ông là một người thả thuyền câu dưới sông, vui thú giang hồ nay đầu ghềnh mai cuối bãi, lúc ba mươi tuổi ông đem thuyền lên bãi để rồi bỏ đi tu, sau trở thành một Thiền sư nổi tiếng. Do đó nên Thượng Sĩ so sánh Tạ Tam trước là một chú chèo thuyền câu cá, bây giờ không còn nghe tin tức, mà chỉ thấy chiếc thuyền nằm trơ trên bãi cát cạn. Ý muốn nói tuy tâm hồn hồ hải, là tâm hồn của những người thích phóng khoáng tự do, nhưng không phải chỉ thỏa mãn cái tâm yêu thích non xanh nước biếc, gió mát trăng thanh của thi sĩ, hoặc của kẻ thường tình hướng về cõi hồng trần để lụy thân, mà là tinh thần tự do phóng khoáng của người hướng về với đạo. Vì người ưa thích thiên nhiên tâm hồn phóng khoáng dễ phù hợp với Thiền, nên Thượng Sĩ nói “Tạ Tam nay đã không tin tức, để chiếc thuyền trơ bãi cát này”. Ai là chàng Tạ Tam Lang bỏ thuyền trên bãi cát đi tu? Ai có tâm hồn hồ hải thì hãy bắt chước Tạ Tam Lang!
 
Dịch: VẬT KHÔNG TÙY NGƯỜI
Ở xứ lõa thân cởi áo đi
Phải đâu bỏ lễ, chỉ tùy nghi.
Trâm vàng mụ sói treo làm móc
Gương báu lão mù lấy đậy ly.
Trâu chẳng thèm nghe đàn ngọc tháo
Hoa trang anh lạc, voi biết gì.
Hỡi ôi! Một khúc đàn huyền diệu
Nên lấy vàng ròng đúc Tử Kỳ.

Giảng: Đồ vật nếu người dùng đúng nhu cầu thì vật đó có ích, ngược lại tuy có vật quí trong tay mà dùng không đúng chỗ thì nó trở thành vô nghĩa, nên vật không tùy người mà chính nhu cầu người sử dụng vật. Vật trở thành quí là do người cần dùng nó, rồi cho nó là quí, chớ nó không quí đối với tất cả. “Ở xứ lõa thân cởi áo đi, phải đâu bỏ lễ chỉ tùy nghi.” Nếu chúng ta đến nước lõa thể thì họ sao mình vậy, họ ở trần thì chúng ta cũng phải cởi áo, như vậy mới hợp với họ. Cởi áo để hòa hợp với họ chớ không phải bỏ lễ phép, mà chỉ tùy nghi, sống ở đâu thì phải thích hợp với phong tục tập quán ở đó. Cũng vậy, người tu muốn làm lợi ích cho người thì phải biết thích ứng với thời cơ. Chữ Kinh trong nhà Phật hàm chứa nghĩa khế lý và khế cơ. Người tu muốn đem giáo lý của Phật dạy cho người khác tu thì phải có đủ hai điều kiện: một là đúng với chân lý, hai là hợp với căn cơ người nghe. Dù lời nói của chúng ta phù hợp với chân lý, mà không hợp với căn cơ người nghe họ không lãnh hội được, thì lời nói của chúng ta trở thành vô ích. Ngược lại hợp với căn cơ mà sai chân lý thì cũng thành vô nghĩa. Ví dụ người thích tu bố thí để cầu phước mà chúng ta đem lý Thiền nói với họ, họ chẳng hiểu gì, hoặc người căn cơ thích hợp với pháp tu Thiền mà chúng ta dạy họ pháp tu của ngoại đạo thì sai với chân lý của Phật dạy. Thế nên chúng ta muốn làm lợi ích cho người thì người đang ở trong hoàn cảnh nào, chúng ta phải tùy theo hoàn cảnh nấy của họ mà giúp đỡ. Có khi việc làm thấy như trái với nghi quỹ của người tu, nhưng vì người nên chúng ta phải làm để người được lợi ích. Đó là khế lý và khế cơ. “Trâm vàng mụ sói treo làm móc, gương báu lão mù lấy đậy ly.” Người sói đầu có cây trâm vàng họ không biết làm gì, nên gắn trên tường làm cái móc treo đồ. Với Ni cô thì trâm vàng cũng treo làm móc luôn! Có tóc đâu mà cài? Và, cái gương dù có quí báu, nhưng đối với người mù, gương xài không được. Vì mù có thấy đâu mà soi gương, nên dùng cái gương đậy ly. Ý Thượng Sĩ muốn nói, dù vật quí nhưng với người không cần thì nó trở thành vô dụng. “Trâu chẳng thèm nghe đàn ngọc tháo, hoa trang anh lạc voi biết gì.” Đối với trâu dù chúng ta có đem đàn bằng ngọc khảy lên tiếng thanh tao bên tai nó cũng chẳng biết gì. Hoặc đem đồ trang sức bằng anh lạc máng vô cổ con voi nó cũng không biết quí. Những vật quí mà không thích hợp với con vật thì cũng trở thành vô dụng. Ý Thượng Sĩ nói, phàm làm việc gì không hợp thời, không thích nghi với hoàn cảnh, không đúng với căn cơ của người thì dù có cố gắng làm cho nó đẹp cũng trở thành vô nghĩa, và không có kết quả. “Hỡi ôi! Một khúc đàn huyền diệu, nên lấy vàng ròng đúc Tử Kỳ.” Khúc đàn hay của Bá Nha nếu không có người tri kỷ như Tử Kỳ nghe thì có ai biết thưởng thức? Cho nên có khúc đàn hay thì phải có người tri kỷ biết nghe đàn thì khúc đàn mới có giá trị. Vì có giá trị nên quí. Và “nên lấy vàng ròng đúc Tử Kỳ”. Phải đúc tượng Tử Kỳ bằng vàng mới xứng đáng, vì là người tri kỷ biết được khúc đàn hay. Đó là Thượng Sĩ lấy việc thế gian để nói việc trong đạo. Pháp của Phật rất là cao siêu, pháp tu Thiền rất là đơn giản nhưng giúp người được giải thoát. Song, không phải ai nghe cũng hiểu cũng thấm nhuần. Chỉ có người đủ duyên nghe, mới biết được những điều Phật dạy là cao siêu mầu nhiệm, đưa con người đến chỗ an vui giải thoát. Người nhận được lý sâu xa của Thiền thì người đó mới quí. Thượng Sĩ bảo Tử Kỳ nghe được khúc đàn hay của Bá Nha, nếu Tử Kỳ chết nên lấy vàng đúc tượng để thờ. Như vậy đứng trước người hiểu được Phật pháp, nhận được lý Thiền, chúng ta nên trân trọng họ. Đó là nói về ý nghĩa vật không tùy người. 
Về Đầu Trang Go down
https://triamquan.forumvi.com/
Tri Âm Quán
Thành Viên Tích Cực
Thành Viên Tích Cực
Tri Âm Quán


Tổng số bài gửi : 6340
Reputation : 2
Join date : 31/07/2013
Đến từ : Thị Trấn Chũ

 TUỆ TRUNG THƯỢNG SĨ NGỮ LỤC GIẢNG GIẢI   - Page 2 Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: TUỆ TRUNG THƯỢNG SĨ NGỮ LỤC GIẢNG GIẢI     TUỆ TRUNG THƯỢNG SĨ NGỮ LỤC GIẢNG GIẢI   - Page 2 EmptyWed Dec 18, 2019 6:30 pm

Dịch: VIẾNG ĐẠI SƯ TĂNG ĐIỀN
Chẳng cần cửa tía, chẳng cần rừng
Rốt cuộc chỗ nào chẳng an tâm.
Thế nhân trọn thấy ngàn non sáng
Mấy kẻ lắng nghe tiếng vượn trầm.
 
Giảng: Chữ viếng khác chữ thăm, người Nam thì dùng chữ thăm, còn người Bắc thì dùng chữ viếng. Nếu là người bình thường thì người Bắc nói đi thăm, nếu là người lớn hơn hay quí hơn thì nói đi viếng. Ví dụ như nói đi viếng đền Hùng chớ không nói đi thăm. “Chẳng cần cửa tía chẳng cần rừng.” Cửa tía là chỉ cho những nơi thành thị giàu sang, “chẳng cần rừng” là chẳng cần vào nơi rừng rậm xa vắng. Vậy chỗ thành thị ồn náo và nơi rừng vắng đều không cần. “Rốt cuộc chỗ nào chẳng an tâm.” Nếu tâm chúng ta không động không rong ruổi theo ngoại cảnh thì ở giữa thành thị hay trong rừng vắng đều như nhau. Nếu tâm còn dính mắc với cảnh thì ở thành thị thua ở rừng. Vậy Tăng Ni và Phật tử hiện có mặt cần cái nào? Chẳng cần cửa tía chẳng cần rừng hay chẳng cần cửa tía mà rất cần rừng? Vì ở ngoài cửa tía lộn xộn quá bất an khó tu, ở rừng vắng vẻ dễ tu hơn. Người tu nếu tâm nhất như thì không cần chọn cảnh tịnh hay cảnh động, nếu chưa nhất như thì phải tránh chỗ động tìm chỗ tịnh. “Thế nhân trọn thấy ngàn non sáng, mấy kẻ lắng nghe tiếng vượn trầm.” Người đời chỉ thích nhìn cảnh trời mây non nước đẹp đẽ, mà ít ai chịu lắng nghe tiếng vượn trầm. Ý Ngài muốn nói người đời thích chạy theo ngoại cảnh mà ít chịu quay về lắng nghe tiếng dấy động của nội tâm. Tiếng con vượn là chỉ cho tâm viên ý mã của mình, ít ai để ý nhìn lại nội tâm mình, nghe tiếng đang réo gọi trong tầng sâu thẳm nhất, mà chỉ hướng ra ngoài khen cái này, chê cái nọ v.v... Chỉ có những ai ngồi lặng yên gạt bỏ sáu trần, mới nghe được tiếng con vượn của mình kêu, nghe nó nói đủ thứ, nào chuyện của mình của người, chuyện năm trước năm sau. Chuyện không ra gì nó cứ kể hoài không chịu dừng. Tóm lại, Thượng Sĩ muốn nói rằng: Nếu người tu tâm thuần thục rồi thì không cần tránh cảnh, ở chốn phồn hoa hay nơi rừng vắng đều là chỗ an tâm. Đa số người thế tục thì chỉ hướng ra ngoài chạy theo trần cảnh, mà không chịu quay về nhìn kỹ mình để lắng nghe những dấy động của nội tâm mình. Chỉ bốn câu thơ mà Thượng Sĩ diễn tả được người tu thoát tục không vướng mắc và người thế tục không tu nên luôn luôn bị vướng mắc với sáu trần.
 
Dịch: THĂM BỆNH ĐẠI SƯ PHƯỚC ĐƯỜNG Gió, nước gặp nhau sóng dấy lên
Lửa, cây chạm phải chùm lửa bùng.
Mới hay bốn đại không ranh giới
Núi kiếm mặc tình men theo dòng.
 

Giảng: Phước Đường là tên Tinh xá, Đại sư là chỉ cho Thiền sư Tiêu Dao, Ngài ở Tinh xá Phước Đường, vì kính trọng thầy nên Thượng Sĩ không dám gọi tên mà chỉ gọi hiệu của Tinh xá. “Gió nước gặp nhau sóng dấy lên.” Gió, nước là phong đại và thủy đại, hai đại đó mà không hòa thì chống nhau làm dấy động khiến cho thân sanh ra bệnh hoạn. Khi nào thân chúng ta khỏe mạnh thì lúc đó bốn đại hòa thuận. Lúc nào gió mạnh nước yếu thì nghe trong mình ê ẩm nhức nhối khó chịu. “Lửa, cây chạm phải chùm lửa bùng.” Lửa và cây gặp nhau thì lửa bùng cháy. Cây thuộc về đất là địa đại, lửa là hỏa đại. Hai đại đó bất hòa thì làm cho lửa trong người của chúng ta tăng thêm. Khi nào trong người chúng ta nóng, mà ăn uống những thứ nóng thì nó hừng hừng nổi nóng lên. Khi đó muốn kiếm thứ gì mát uống vô cho hạ nhiệt xuống. Như vậy đất nước gió lửa bốn đại chống chọi nhau làm cho chúng ta sanh bệnh. Thượng Sĩ đi thăm bệnh nên phải truy nguyên bệnh từ đâu ra? - Bệnh là do bốn đại bất hòa. Nếu gió nhiều nước ít thì sanh ra đau nhức, lửa nhiều thì nóng hừng hực đỏ cả mặt mày... “Mới hay bốn đại không ranh giới. Núi kiếm mặc tình nương theo dòng.” Nếu chúng ta nhìn cho tột cùng thì bốn đại vốn không có ranh giới. Thủy đại giới hạn của nó ở đâu? Lâu nay hễ nói tới nước là chúng ta nghĩ nước chỉ ở trong ao, hồ, sông, biển chớ đâu nghĩ trong hư không có nước. Nếu hư không không nước thì làm gì có mưa? Như vậy thủy đại không có giới hạn, nước không chỉ có ở ao, hồ, sông, biển... mà nước còn ở trong hư không. Lửa cũng không có giới hạn, nếu đủ duyên thì nó xẹt ra, gió cũng vậy đủ duyên thì gió nổi lên. Còn đất? Lâu nay chúng ta cứ tưởng cái gì cứng ở trên quả địa cầu này là đất, chớ đâu nghĩ rằng trong hư không cũng có đất. Mỗi sáng mặt trời vừa lên tia nắng rọi qua cửa sổ, chúng ta thấy bụi bay lăng xăng đầy trong hư không. Vậy, bụi cũng là đất; đất cứng chúng ta đạp dưới chân và đất nhỏ thành bụi bay trong hư không không có giới hạn. Đất nước gió lửa không giới hạn, khi nó hợp lại thành thân này thì thân này đâu có thường còn. Và thân này bại hoại đâu phải là mất, nó luôn luôn mênh mông cùng khắp. Biết được như vậy thì “núi kiếm mặc tình men theo dòng”. Chữ “núi kiếm” dịch từ chữ “Kiếm Các” là tên dãy núi ở huyện Kiếm Các tỉnh Tứ Xuyên bên Trung Hoa, còn gọi là Đại Kiếm Sơn và Tiểu Kiếm Sơn, vì núi có nhiều đá bén nhọn nên gọi là núi kiếm. Ở đây dùng chữ núi kiếm hàm ý diễn tả những cảnh hiểm nguy trong địa ngục, như ngục tốt bắt trèo lên cây có đao nhọn, leo lên núi có kiếm bén làm cho thân người tội phải tan nát. Khi biết rõ thân này do bốn đại hợp thành, bốn đại không giới hạn ở trong thân mà trùm khắp. Thế thì thân mình là một bộ phận nhỏ của cái trùm khắp, khi tan rã nó trở về bốn đại. Vậy thân này mất nhưng bốn đại không mất! Nói chết mà có chết đâu! Sanh là bốn đại tạm hợp; hợp thì thấy có thân. Chết là bốn đại tan; tan thì thấy như mất thân, nhưng bốn đại có mất bao giờ? Vậy chúng ta còn sợ chết không? Nếu ai hiểu tường tận như vậy thì dù cho đứng trước cảnh núi kiếm rừng đao nguy hiểm cũng không lo sợ. Chúng ta thường sợ chết, sợ chết là sợ mất thân, mà thân là bốn đại; bốn đại nơi thân tan rã hòa cùng bốn đại bên ngoài đầy khắp hư không; thân mất mà bốn đại không mất thì sợ cái gì? Nếu bốn đại tan rã mất hết thì chúng ta tiếc công mình nuôi dưỡng mấy chục năm bây giờ không còn. Sự thật nó không mất vậy mà sợ chết, vô lý làm sao! Đây là chỗ mà chúng ta phải để ý cho kỹ! Giá trị của người tu không phải ở ngoài hình thức làm việc này việc nọ, mà phải tu cho giác ngộ, dùng trí tuệ quán sát tường tận bản chất của bốn đại. Khi thấy được bản chất của bốn đại trùm khắp và không mất thì, đối với sự còn mất của thân này không nghĩa lý gì hết, nên chúng ta không còn sợ chết, sợ khổ. Thường khi thân này đau thì chúng ta sợ chết; vì đau rồi tới chết. Nhưng chết không sợ vậy đau có sợ không? - Nếu nhớ đau là do bốn đại bất hòa nó xô xát lẫn nhau không phải mình. Thấy vậy chỉ cười thôi! Bây giờ tứ đại đang nóng chăng, đang lạnh chăng? Đó là tứ đại nóng tứ đại lạnh chớ tôi đâu có nóng có lạnh; nóng lạnh là do bốn đại bất hòa! Giả sử chúng ta là người lớn ngồi thấy mấy đứa nhỏ múa võ vật lộn với nhau đứa này quật đứa kia ngã, đứa kia quật đứa nọ ngã, chúng ta chỉ cười thôi. Bọn nó giỡn với nhau chớ đâu phải chúng ta. Thế nên chúng ta thản nhiên cười trước cái thắng bại của chúng. Cũng vậy bốn đại bất hòa thì nó lộn xộn, chớ tâm thể đâu có lộn xộn. Quí vị có thấy như vậy không? Hay khi thân suy yếu cũng ảo não theo, bốn đại bất hòa sanh ra đau bệnh mình cũng nhăn nhó theo? Có khi còn thối tâm Bồ-đề. Nghĩ: tu gì mà bệnh hoài về nhà dưỡng cho khỏe, có người thân lo lắng chu đáo hơn ở chùa! Bệnh quá tu không được v.v... Song, quí vị không phải là con nít, sao thấy chúng giỡn chơi đứa này đuổi đứa kia té, lại nhăn nhó khổ sở theo nó làm gì? Như vậy quí vị đồng hóa mình là mấy đứa con nít rồi! Chúng ta phải là người lớn có trí nhìn bọn con nít đùa, chớ không phải là con nít. Tóm lại người thấy bốn đại không ranh giới thì, dù có núi kiếm rừng đao cũng mặc tình leo lên chơi không sợ sệt gì cả, đó mới là người thật hiểu đạo. 
Về Đầu Trang Go down
https://triamquan.forumvi.com/
Tri Âm Quán
Thành Viên Tích Cực
Thành Viên Tích Cực
Tri Âm Quán


Tổng số bài gửi : 6340
Reputation : 2
Join date : 31/07/2013
Đến từ : Thị Trấn Chũ

 TUỆ TRUNG THƯỢNG SĨ NGỮ LỤC GIẢNG GIẢI   - Page 2 Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: TUỆ TRUNG THƯỢNG SĨ NGỮ LỤC GIẢNG GIẢI     TUỆ TRUNG THƯỢNG SĨ NGỮ LỤC GIẢNG GIẢI   - Page 2 EmptyThu Dec 19, 2019 7:35 pm

Dịch: LỄ THIỀN SƯ TIÊU DAO Ở PHƯỚC ĐƯỜNG
Hằng xa phong thái,
Ở chốn hoang thôn.
Thân tuy ngoài cõi
Sâm với Thương Ý vẫn trong gương loan và phượng. Nhàn nhã ngâm khúc vô sanh Hầu đáp ơn thầy mớm sữa.
Trộm có lời thơ tụng
Cúi dâng lên pháp tòa:
Thân tuy quê kịch ngụ nơi này
Bốn trọng ân nào dám lãng khuây.
Ý vụng sớm nhờ thêm ý khí
Lòng tàn riêng giữ tấc lòng son.
Xuân về ngắm rỗng hoa đào nở
Gió thổi nghe hờ tiếng trúc lay.
Ngày trước đến nhà thăm hỏi hết
Không dây nay thỉnh dạo cung đàn.
Tạm qua thăm hỏi Cổ chùy thiền
Tướng mạo mười mươi khỏe lại bền.
Huệ Khả thân buồn, da tủy ký
Triệu Châu tuổi thọ, hạc qui niên.
Nên biết thế gian người có Phật
Lạ gì lò lửa nở hoa sen.
Trân trọng dâng lên lời tụng hứng
Chớ từ chút ít lễ vật hèn.

Giảng: Thượng Sĩ tuy ngộ lý Thiền, sống tự do tự tại, không còn kiến chấp hai bên, nhưng với tinh thần của người học đạo, Ngài không bao giờ lơ là bổn phận của người đệ tử đối với thầy. “Hằng xa phong thái, ở chốn hoang thôn.” Thượng Sĩ nói về phong cách và thái độ của Thiền sư Tiêu Dao thầy của Ngài. Ngài thường ở xa không được thân cận với thầy Ngài, vì thầy Ngài ở trong thôn vắng. “Thân tuy ngoài cõi Sâm với Thương, ý vẫn trong gương loan và phượng.” Sao Sâm thì ở phương tây, sao Thương thì ở phương đông, hai sao này không bao giờ gặp nhau. Ý nói thân Ngài tuy xa cách ít được gặp thầy Ngài như sao Sâm và sao Thương, nhưng tâm của Ngài lúc nào cũng kề cận thầy, như nhìn vào gương thấy chim loan và chim phượng luôn luôn quấn quít bên nhau không xa cách. Ý hai câu này nói đạo tình của Thượng Sĩ đối với thầy của Ngài là Thiền sư Tiêu Dao. Thân Ngài tuy xa cách không được gặp thầy, nhưng tâm hồn Ngài lúc nào cũng hướng về thầy ở bên cạnh thầy. “Nhàn nhã ngâm khúc vô sanh, hầu đáp ơn thầy mớm sữa.” Giờ đây muốn đền ơn pháp nhũ của thầy thì trò phải ngâm khúc vô sanh cho mọi người thưởng thức. Ngài là một cư sĩ mà có ý nghĩ rất hợp với đạo lý của người xuất gia. Đức Phật dạy chúng ta muốn đền ơn Phật thì phải giáo hóa chúng sanh. Bản nhạc vô sanh là bản nhạc giải thoát sanh tử. Người học trò học được rồi, phải ngâm cho người khác nghe, tức là đem giáo lý giải thoát sanh tử dạy cho mọi người được học và tu, đó là đền đáp ơn thầy đã giáo dưỡng mình. Như vậy, dù là tại gia hay xuất gia, một khi đã thừa hưởng lời chỉ dạy của bậc thầy, được lợi ích cho bản thân, được an nhàn tự tại, chúng ta phải đem ra chỉ dạy cho người khác cũng được lợi ích như mình. Đừng nghĩ rằng chúng ta mang ơn thầy phải làm sao cho có nhiều tiền để cúng dường thầy, có chùa to để thầy an dưỡng v.v... Đó chỉ là hình thức không quan trọng bằng đem pháp vô sanh mà hướng dẫn chỉ dạy cho người. Qua hai câu này chúng ta nắm vững được phương cách đền ơn thầy và đền ơn Phật của người xuất gia cũng như tại gia tu giải thoát. “Trộm có lời thơ tụng, cúi dâng lên pháp tòa.” Thượng Sĩ mạn phép làm thơ tụng dâng lên thầy, tỏ chút lòng biết ơn giáo hóa của thầy. Nhờ sự giáo hóa của thầy mà Ngài được lợi ích. “Thân tuy quê kịch ngụ nơi này, bốn trọng ân nào dám lãng khuây.” Thượng Sĩ tự nhận mình là người quê mùa ở thôn hoang vắng. Mặc dù quê, nhưng phần đạo đức ơn nghĩa Ngài không dám lơ là; bốn ơn: ơn cha mẹ, ơn Thầy Tổ hay ơn Tam Bảo, ơn đàn-na thí chủ, ơn quốc gia xã hội, Ngài không dám lãng quên. Những người lãnh đạo quốc gia xã hội là ân nhân của người tu, vì họ có trách nhiệm giữ cho đất nước được thanh bình, để người tu được yên tu nên cũng là một trọng ân. Trong bốn trọng ân Thượng Sĩ chỉ mang có ba ân vì Ngài là cư sĩ không thọ ân đàn-na, nhưng Ngài luôn luôn không quên. “Ý vụng sớm nhờ thêm ý khí, lòng tàn riêng giữ tấc lòng son.” Hai câu này thấm thía làm sao! Thượng Sĩ nói Thượng Sĩ dốt nát khờ khạo, nhờ Thiền sư Tiêu Dao thầy của Ngài giúp cho tăng trưởng ý chí để tiến đạo. Hôm qua tôi có nhắc, Tăng Ni tu ý chí phải vững mạnh, mới vượt qua những chướng ngại thử thách trên đường tu. Bởi vì quí vị tu lâu ngày mệt mỏi ý chí cùn lụt, nên tôi phải nhắc quí vị phấn phát nỗ lực mạnh lên. Đó là nhờ thầy nhắc nhở thúc đẩy làm cho mình tăng trưởng ý chí thêm vững mạnh. Tuy tâm Thượng Sĩ không còn những vọng niệm lăng xăng, những tình cảm nồng nhiệt bi lụy như người thế tục, nhưng đối với Thầy Tổ Ngài riêng giữ tấc lòng son. Người cư sĩ mà nói lên được điều này thật là hi hữu, đáng tôn quí. Ngài nói lên được cái đạo tình cao cả giữa thầy trò. Người xuất gia chúng ta nhiều khi tu lâu, lớn tuổi đạo có đệ tử, bận lo cho đệ tử nên quên mất bổn phận làm trò! Còn Ngài thì nguội lạnh với thế tình mà đạo tình vẫn một tấm lòng son sắt. “Xuân về ngắm rỗng hoa đào nở, gió thổi nghe hờ tiếng trúc lay.” Trước kia còn vọng niệm nên xuân về hoa đào nở lòng Ngài cũng rộn rực. Giờ đây xuân về hoa đào nở, lòng lặng rồi nên Ngài xem hoa một cách nhẹ nhàng, thấy hoa nở chỉ cười thôi chớ lòng không rộn rực như thuở nào. Gió thổi tiếng trúc chạm nhau cọt kẹt, chỉ nghe một cách hững hờ, không còn để tâm dính mắc như thuở trước. Tâm hồn của Ngài bây giờ rất nhẹ nhàng thảnh thơi, đối duyên xúc cảnh thấy nghe hay biết mà không bị dính mắc. “Ngày trước đến nhà thăm hỏi hết, không dây nay thỉnh dạo cung đàn.” Ngày trước đến chùa thăm hỏi từ thầy cho tới các chú điệu, bây giờ không muốn thăm hỏi từng người nữa, mà chỉ xin thầy dạo cho một cung đàn không dây. Nghĩa là bây giờ không muốn thăm hỏi từng người, mà chỉ xin thầy dạy cho giáo lý giải thoát không kẹt hai bên, không còn đối đãi, đó là dạo cung đàn không dây. “Tạm qua thăm hỏi cổ chùy Thiền, tướng mạo mười mươi khỏe lại bền.” Cổ chùy Thiền chỉ cho Thiền sư Tiêu Dao thầy của Thượng Sĩ. Nhà Thiền ví Thiền sư như cái chùy. Thuở xưa hay dùng từ ngữ mũi dùi ở trong đãy, mũi dùi đó gọi là cổ chùy, dù cho có đãy bao bọc mà mũi dùi luôn cứng và nhọn, nên lúc nào cũng ló đầu ra khỏi bọc, bao không nổi. Ý muốn nói rằng các vị đạo cao đức trọng dù có ai cố ý che đậy, đức độ các ngài vẫn tỏa sáng, không ai ngăn che giấu giếm nổi, giống như cây dùi để trong đãy mà vẫn ló đầu ra. Thượng Sĩ ví thầy mình như cái chùy xưa và mong thầy luôn luôn được khỏe mạnh sống lâu dài. “Huệ Khả thân buồn da tủy ký, Triệu Châu tuổi thọ, hạc qui niên.” Thượng Sĩ nói thầy mình giống như Tổ Huệ Khả “thân buồn da tủy ký” (buồn là thẹn, chữ thẹn không hợp vận nên phải dùng chữ buồn). Nghĩa là Tổ Huệ Khả được Tổ Bồđề-đạt-ma thọ ký: “ngươi được phần tủy của ta”. Thiền sư Tiêu Dao thầy của Thượng Sĩ bấy giờ không được thọ ký như Tổ Huệ Khả, nên Ngài thấy buồn. Xưa khi Tổ Bồ-đề-đạt-ma sắp tịch bảo đệ tử trình sở ngộ. Ngài Đạo Phó thưa: - Theo chỗ thấy của con chẳng chấp văn tự chẳng lìa văn tự, đây là dụng của đạo. Tổ bảo: - Ngươi được phần da của ta. Theo ngài Đạo Phó, dụng của đạo là không dính hai bên, vậy mà Tổ bảo là chỉ thấy phần da. Chúng ta bây giờ chắc chỉ thấy được sợi lông của Tổ. Ni Tổng Trì ra thưa: - Nay chỗ hiểu của con, như Tổ A-nan thấy nước Phật A-súc, chỉ thấy một lần, không còn thấy lại. Tổ bảo: - Ngươi được phần thịt của ta. Đoạn này Ni Tổng Trì dẫn đức Phật dạy Tôn giả A- nan về cõi Phật A-súc, Tôn giả A-nan muốn thấy, nhưng không biết làm sao để thấy, đức Phật liền vận dụng thần thông cho Tôn giả A-nan thấy. Sau đó đức Phật thâu thần thông, Tôn giả A-nan hết thấy. Câu chuyện này ngầm ý nói người tu dụng công miên mật, tâm thanh tịnh, lúc nào đó hốt nhiên nhận ra Thể chân thật có sẵn nơi mình. Song, chỉ nhận ra một lần mà không hằng sống được, giống như Tôn giả A-nan thấy cõi Phật A-súc chỉ có một lần. Ở trước ngài Đạo Phó nói không chấp văn tự không lìa văn tự là việc bên ngoài, nên Tổ nói thấy da của ta. Ni Tổng Trì nói thấy cái chân thật của mình mà chỉ thấy có một lần, nên Tổ nói được phần thịt của ta, sâu hơn một chút. Ngài Đạo Dục ra thưa: - Bốn đại vốn không năm ấm chẳng có, chỗ thấy của con không một pháp có thể được. Tổ bảo: - Ngươi được phần xương của ta. Đến ngài Huệ Khả bước ra đảnh lễ Tổ, rồi lui lại đứng yên lặng. Tổ bảo: - Ngươi được phần tủy của ta. Tổ truyền y bát cho ngài Huệ Khả. Chỗ cuối cùng của đạo là chỗ không ngôn ngữ, vì còn ngôn ngữ là còn đối đãi, nên ngài Huệ Khả không nói, chỉ xá, lui ra đứng khoanh tay. Chỗ ngôn ngữ không diễn tả được là chỗ rốt ráo. Dễ quá! Nhưng, xin đừng bắt chước. Nếu hôm nào quí vị lên trình sở ngộ với tôi, tôi hỏi, quí vị xá lui đứng khoanh tay, sẽ bị tôi nạt: “Chú chưa được phần tủy đâu nghe!” Đó chỉ là hành động bắt chước, chớ chưa thật ngộ. Thời nay người ta hay bắt chước mà làm trật. Thượng Sĩ buồn vì Thiền sư Tiêu Dao thầy Ngài chưa được thọ ký như Tổ Huệ Khả được Tổ Bồ-đềđạt-ma thọ ký thấy phần tủy của Ngài. Nhớ ơn thầy, Thượng Sĩ mong ước và chúc thầy mình sống lâu như Thiền sư Triệu Châu sống đến một trăm hai mươi tuổi. “Nên biết thế gian người có Phật, lạ gì lò lửa nở hoa sen.” Thượng Sĩ nhắc cho mọi người biết, ở thế gian tất cả chúng ta ai cũng có sẵn ông Phật, nên không lạ gì khi nghe Thiền sư nói trong lò lửa nở hoa sen. Lò lửa chỉ cho thân vô thường, hoa sen chỉ cho tánh Phật có sẵn nơi mỗi người. Ngọn lửa vô thường đốt cháy từng giờ từng phút. Tuy nhiên, trong thân vô thường này có Tánh Phật chưa bao giờ bị vô thường chi phối, chẳng khác nào trong lò lửa cháy hừng hừng mà có hoa sen nở tươi thắm. Biết rõ như vậy chúng ta mới thấy được giá trị thật của người tu. Chúng ta tu là phải nhận ra cái chân thật của mình đang bị vùi lấp phủ che, bởi những tướng vô thường sanh diệt. Và, cũng là cốt lõi của nhà Thiền mà thầy dạy trò tu chủ yếu là phải nhận ra ông Phật của chính mình, chớ không phải tìm ông Phật ở nơi nào khác, Phật ở ngay trong cái thân vô thường giống như trong lò lửa nở hoa sen vậy. “Trân trọng dâng lên lời tụng hứng, chớ từ chút ít lễ vật hèn.” Thượng Sĩ hứng làm bài tụng dâng lên cúng dường thầy và mong thầy không từ chối. Thượng Sĩ là một cư sĩ mà lòng quí kính của Ngài đối với bậc thầy hết sức thiết tha, biết rõ trọng trách của mình đối với bậc thầy, phải cúng dường như thế nào mới là đền ơn thầy, phải tu như thế nào để khỏi phụ lòng thầy. Đây là điều rất hiếm có ở nơi người cư sĩ. Thượng Sĩ còn biết rõ vì sao mình mang ơn thầy. Vì thầy là người dạy mình tu, giúp cho mình thêm ý chí. Sau cùng Thượng Sĩ khuyên mọi người tu, phải nhận ra nơi mình có sẵn tánh Phật như trong lò lửa có hoa sen. 
Về Đầu Trang Go down
https://triamquan.forumvi.com/
Tri Âm Quán
Thành Viên Tích Cực
Thành Viên Tích Cực
Tri Âm Quán


Tổng số bài gửi : 6340
Reputation : 2
Join date : 31/07/2013
Đến từ : Thị Trấn Chũ

 TUỆ TRUNG THƯỢNG SĨ NGỮ LỤC GIẢNG GIẢI   - Page 2 Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: TUỆ TRUNG THƯỢNG SĨ NGỮ LỤC GIẢNG GIẢI     TUỆ TRUNG THƯỢNG SĨ NGỮ LỤC GIẢNG GIẢI   - Page 2 EmptyFri Dec 20, 2019 4:01 pm

Dịch: CẢNH VẬT PHƯỚC ĐƯỜNG
Phước Đường cảnh trí chính là đây
Nương ngọn gió thiền mát mẻ thay.
Dậu đổ tiêu sơ măng mọc ốm
Cổng sân tịch mịch rặng tùng gầy.
Chưa gặp thời lành, hiền thánh hiện
Khá vui thú quí ẩn rừng này.
Sớm muộn trời già khai Phật nhật
Cửa vào đào lý cợt xuân quang.

Giảng: Thượng Sĩ làm thơ tả cảnh Tinh xá Phước Đường của Thiền sư Tiêu Dao thầy Ngài. “Phước Đường cảnh trí chính là đây, nương ngọn gió thiền mát mẻ thay.” Ngài nói mọi người tới Tinh xá Phước Đường nghe thầy Ngài dạy thiền, ai cũng được vui vẻ mát mẻ. “Dậu đổ tiêu sơ măng mọc ốm, cổng sân tịch mịch rặng tùng gầy.” Đây tả cảnh vật quanh Tinh xá Phước Đường, nào là rào xiêu, nào là măng mọc không người cho phân, không người săn sóc nên nó gầy ốm. Từ cổng đi vào Tinh xá chỉ có một rặng tùng gầy, sân thì cỏ cây mọc chằng chịt. Cảnh vật Tinh xá Phước Đường thật vắng vẻ tiêu sơ, không có vẻ gì phồn thịnh. Tại sao vậy? - Vì “chưa gặp thời lành hiền thánh hiện, khá vui thú quí ẩn rừng này”. Sở dĩ cảnh vật Phước Đường tiêu sơ tịch mịch, vì chưa gặp thời nên hiền thánh có đó mà còn ẩn chưa hiện. Thú quí ẩn trong rừng tiêu sơ tịch mịch, ngầm chỉ cho Thiền sư Tiêu Dao đang ẩn ở chốn này chưa gặp thời mở mang truyền bá. “Sớm muộn trời già khai Phật nhật, cửa vào đào lý cợt xuân quang.” Thượng Sĩ ước mơ thời cơ xoay chuyển mặt trời Phật bừng sáng. Chừng đó cảnh Phước Đường sẽ có đào nở hoa, lý có trái, đùa cợt với ánh sáng mùa xuân. Thiền sư Tiêu Dao thầy Ngài, một ngày nào đó sẽ mở mang truyền bá Thiền, mọi người thấm nhuần lý Thiền trở thành người giác ngộ sáng suốt. 
Về Đầu Trang Go down
https://triamquan.forumvi.com/
Tri Âm Quán
Thành Viên Tích Cực
Thành Viên Tích Cực
Tri Âm Quán


Tổng số bài gửi : 6340
Reputation : 2
Join date : 31/07/2013
Đến từ : Thị Trấn Chũ

 TUỆ TRUNG THƯỢNG SĨ NGỮ LỤC GIẢNG GIẢI   - Page 2 Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: TUỆ TRUNG THƯỢNG SĨ NGỮ LỤC GIẢNG GIẢI     TUỆ TRUNG THƯỢNG SĨ NGỮ LỤC GIẢNG GIẢI   - Page 2 EmptyTue Dec 24, 2019 3:31 pm

Dịch: TẶNG PHÁP SƯ THUẦN NHẤT
Pháp thân tịch diệt, sắc thân còn
Đêm lặng canh ba vào mộng hồn.
Ví chửa rong chơi Thiền Tổ Vực
Cũng từng qua lại Pháp vương môn.
Vô sanh đường Thánh lười tiến bước
Hữu lậu trời người cam kết tròn.
Nếu gặp tác gia bàn diệu chỉ
Thiên Tân bến ấy dấy hồ tôn.
 

Giảng: “Pháp thân tịch diệt, sắc thân còn, đêm lặng canh ba vào mộng hồn.” Pháp thân thì tịch diệt lặng lẽ, sắc thân do tứ đại duyên hợp tạm có và hóa thân thì ý thức đang dạo nơi này nơi kia. Đó là ba thân: pháp thân, báo thân và hóa thân. “Vì chửa rong chơi Thiền Tổ Vực, cũng từng qua lại Pháp vương môn.” Thượng Sĩ nói ngài Thuần Nhất là một vị Pháp sư đã từng học giáo lý ở các trường, hay trong những pháp hội giảng pháp. Tuy Ngài thông giáo lý, nhưng chưa thâm nhập lý Thiền, nên nói chửa rong chơi Thiền Tổ Vực mà từng qua lại Pháp Vương môn. “Vô sanh đường Thánh lười tiến bước, hữu lậu trời người cam kết tròn.” Lười đi trên đường vô sanh của Thánh Hiền, mải ở trong cõi trời cõi người sanh tới sanh lui. Hai câu này trớ trêu, ngầm ý nói mỉa mai Pháp sư Thuần Nhất. Tuy Pháp sư giảng kinh hay nhưng chưa sống được với thể bất sanh bất diệt, đối với đường vô sanh không chịu tiến bước, thì bảo đảm sẽ đi mãi trong đường sanh tử luân hồi ở cõi trời cõi người. “Nếu gặp tác gia bàn diệu chỉ, Thiên Tân bến ấy dấy hồ tôn.” Tác gia là chỉ cho những bậc tu hành đã ngộ đạo. Nếu gặp những vị ấy bàn diệu chỉ Thiền thì Pháp sư sẽ bí, giống như trên cầu Thiên Tân xem khỉ giỡn. Nghĩa là tâm còn lăng xăng chạy hết chỗ này tới chỗ kia chớ chưa im bặt. Ý này Thượng Sĩ dẫn từ câu chuyện: Một hôm có Đại Nhĩ Tam Tạng người Ấn Độ sang Trung Hoa nhằm đời Đường, xưng là đã được ngũ thông, vua muốn trắc nghiệm nên mời ông ra mắt Quốc sư Huệ Trung. Vừa đến thấy Quốc sư ông khoanh tay đứng hầu bên hữu. Quốc sư hỏi: - Ông được tha tâm thông chăng? Tam Tạng đáp: - Chẳng dám. Quốc sư hỏi: - Ông nói xem hiện giờ Lão tăng đang ở chỗ nào? Tam Tạng đáp: - Hòa thượng là thầy của một nước sao lại đến Tây Xuyên xem đò đua. Quốc sư hỏi: - Ông nói xem hiện giờ Lão tăng đang ở chỗ nào? Tam Tạng đáp: - Hòa thượng là thầy một nước sao lại đứng trên cầu Thiên Tân xem khỉ giỡn. Lần thứ ba Sư cũng hỏi như trước, Tam Tạng lặng thinh không biết Ngài ở chỗ nào! Thượng Sĩ nói “Thiên Tân bến ấy dấy hồ tôn” ngầm nhắc Pháp sư Thuần Nhất: ông thông hiểu giáo lý, mà chưa ngộ được lý Thiền thì tâm ông vẫn lăng xăng, chưa đến chỗ vô tâm. Bài thơ này tặng Pháp sư mà cũng muốn nhắc khéo người có học mà thiếu tu. 
Về Đầu Trang Go down
https://triamquan.forumvi.com/
Sponsored content





 TUỆ TRUNG THƯỢNG SĨ NGỮ LỤC GIẢNG GIẢI   - Page 2 Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: TUỆ TRUNG THƯỢNG SĨ NGỮ LỤC GIẢNG GIẢI     TUỆ TRUNG THƯỢNG SĨ NGỮ LỤC GIẢNG GIẢI   - Page 2 Empty

Về Đầu Trang Go down
 
TUỆ TRUNG THƯỢNG SĨ NGỮ LỤC GIẢNG GIẢI
Về Đầu Trang 
Trang 2 trong tổng số 3 trangChuyển đến trang : Previous  1, 2, 3  Next
 Similar topics
-
» (Giải đáp) Hạch giang mai xuất hiện ở đâu?
» (Giải đáp) Hình ảnh tinh hoàn ra làm sao là bình thường?
» Chữa Bệnh Giang Mai Giai Đoạn Đầu Nhanh Chóng Tại Thanh Hóa
» Hình ảnh bệnh giang mai giai đoạn đầu và những điều cần biết
» KINH THỦ-LĂNG-NGHIÊM GIẢNG GIẢI (THANH TỪ TOÀN TẬP - QUYỂN 5)

Permissions in this forum:Bạn không có quyền trả lời bài viết
Tri Âm Quán - Lục Ngạn - Bắc Giang :: Căn Bản Phật Pháp-
Chuyển đến