Tri Âm Quán - Lục Ngạn - Bắc Giang Mỗi người đều nhận được hai thứ giáo dục: một thứ do người khác truyền cho; một thứ, quan trọng hơn nhiều, do mình tự tạo lấy. | |
Chào mừng các bạn đã ghé thăm Tri Âm Quán_Thị Trấn Chũ_Lục Ngạn_Bắc Giang!
Chúc các bạn sức khỏe và thành đạt!
Tri Âm Quán_Thị Trấn Chũ_Lục Ngạn_Bắc Giang. |
| | Phật Học Phổ Thông | |
| | |
Tác giả | Thông điệp |
---|
Tri Âm Quán Thành Viên Tích Cực
Tổng số bài gửi : 6340 Reputation : 2 Join date : 31/07/2013 Đến từ : Thị Trấn Chũ
| Tiêu đề: Re: Phật Học Phổ Thông Mon Sep 21, 2015 1:59 pm | |
| (KINH KIM CANG) Ngày xưa có hai vị Tỳ kheo, từ phương xa đến chiêm bái Phật. Đi đường xa hết nước, bị khát lâu ngày, vừa gặp ao nước có sinh trùng, một vị giữ giới không uống nên chết giữa đường; một vị uống nước được sống, đi đến ra mắt Phật. Phật quở rằng: "Ông Tỳ kheo giữ giới kia tuy chết, nhưng ông vẫn sống và đã thấy ta rồi. Còn ông không giữ giới tuy sống, ở sát bên ta, nhưng thật ra ông đã chết và cách ta ngàn dặm". Tại sao, vị Tỳ kheo giữ giới bị chết giữa đường không thấy Phật, mà Phật lại cho "đã thấy được ta rồi"; trái lại, vị Tỳ kheo không giữ giới còn sống ở bên Phật thấy được Phật, mà Phật lại cho là "cách Phật ngàn dặm?". Cho biết, thấy cái sắc thân có 32 tướng tốt và 80 vẻ đẹp bên ngoài của Phật, chưa phải là thấy được Phật; phải thấy "Phật tâm thanh tịnh" hay "pháp thân Phật" mới thật là thấy Phật. Nhưng, đa số chúng sanh, chỉ rong ruổi chạy theo giả tướng, tìm Phật bên ngoài, mà không biết xoay trở lại tìm đức Phật thiệt trong tâm của mình. Bởi thế nên cổ nhơn quở: "Phật trong nhà không thờ, mà thờ đức Phật Thích Ca ngoài đường" là vậy. Vì phá cái mê lầm này, nên Tổ Đơn Hà đốt một vị Phật gỗ (Phật giả). Có người hỏi ngài: "đốt để làm gì?"._ Ngài trả lời: "đốt để tìm xa lợi" (tìm Phật thiệt). Ông chủ chùa thấy vậy sợ khủng khiếp, nên rụng hết râu mày; vì huỷ kinh đốt Phật là tội rất nặng. Vì sự kiện này, nên cổ nhơn có làm bài kệ: Nguyên văn (dịch âm): Đơn Hà thiêu mộc Phật Viện chủ lạc tu mi Nhứt trường kỳ đặc sự Thiên hạ thiểu nhơn tri Dịch nghĩa: Tổ Đơn Hà đốt Phật gỗ Ngài viện chủ rụng râu mày Một trường hợp rất đặc biệt Trong thiên hạ ít người biết. Trọng tâm trong đoạn văn này là hai chữ "thấy Phật". Phật hỏi: "Ông có thể cho thấy cái thân tướng của ta đây là thấy được Như Lai chăng?"_ Ngài Tu Bồ Đề đáp: "Không thể cho thấy cái thân tướng của Phật là thấy Phật". Phật dạy tiếp: "Phàm cái gì có hình tướng đều là hư vọng", (phàm sở hữu tướng giai thị hư vọng). Sắc thân của Phật do tứ đại giả hợp, có hình tướng nên cũng là hư vọng. Bởi thế nên thấy sắc thân của Phật, chưa phải là thấy được Phật. Vậy thì thấy cái gì mới thấy được Phật? Phật dạy tiếp: "Nếu ông thấy các pháp (tướng) đều là hư vọng, tức là thấy được Như Lai (thật tướng các pháp). Ngài Thái Hư Pháp sư giảng: Đoạn này không những nói sắc thân của Phật là hư vọng, mà tất cả các hình tướng, như thế giới chúng sanh v.v...cũng đều hư vọng, như hoa trong gương, như trăng duới nước, không có chơn thật. Nếu người rõ thấu được các tướng đều hư vọng như vậy, tức là đã thấy được "pháp thân của Như Lai", tức là rõ thấu được "tướng chân thật của các pháp", cũng tức là "Trí huệ vô thượng", và cũng tức là "Kim Cang Bát Nhã diệu tâm". (KIM CANG GIẢNG LỤC) Tóm lại, đoạn kinh nầy, Phật dùng Trí huệ Kim Cang Bát Nhã, phá trừ vọng chấp: "Thấy sắc thân có 32 tướng tốt, và 80 vẻ đẹp bên ngoài của Phật, rồi chấp là thấy được Phật", mà quên xoay trở lại, tự tìm cầu đức Phật thiệt trong tự tâm của mình. _________________________________ Tri Âm Quán_Thị Trấn Chũ_Lục Ngạn_Bắc Giang http://quoccuonglucngan.blogspot.com/
| |
| | | Tri Âm Quán Thành Viên Tích Cực
Tổng số bài gửi : 6340 Reputation : 2 Join date : 31/07/2013 Đến từ : Thị Trấn Chũ
| Tiêu đề: Re: Phật Học Phổ Thông Tue Sep 22, 2015 1:14 pm | |
| 8. NGƯỜI TIN ĐƯỢC KINH NÀY, DO ĐÃ TRỔNG CĂN LÀNH TỪ NHIỀU KIẾP Ông Tu Bồ Đề hỏi Phật: "Bạch Thế Tôn ! chúng sanh nghe đến kinh này, chẳng biết có tin được không?". Phật dạy: "Tu Bồ Đề ! Ông chớ nên lo như vậy. Không những hiện tại mà cả vị lai đều có người nghe và tin được kinh này. Sau 500 năm, khi Như Lai nhập diệt, nếu có người xuất gia (trì giới) hoặc tại gia (tu phước) nghe đến kinh này, mà sanh lòng tin thọ, thì biết người này đã trồng căn lành (đã tu), không phải mới bốn năm đời Phật, mà đã nhiều kiếp tu hành, từ vô lượng vô số chư Phật đến nay LƯỢC GIẢI Ông Tu Bồ Đề hỏi Phật: "Không biết chúng sanh nghe đến kinh này, có tin được không?". Đây là lần thứ nhứt hỏi về việc tin thọ. Phật vì những hàng Đại thừa Bồ Tát, nói kinh Kim Cang Bát Nhã, dạy các vị Bồ Tát, dùng Trí huệ Bát Nhã, phá trừ các vô minh vọng chấp ngã, pháp, để trở về với bản tâm thanh tịnh là tánh Bát Nhã chơn không, vô trụ vô tướng. Ông Tu Bồ Đề lo ngại cho chúng sanh căn cơ thấp kém, sợ e không hiểu và không tin, nên ông hỏi Phật: "Không biết chúng sanh nghe đến kinh này, có tin được không?". Đại ý, Phật dạy: không những hiện tại ở đời Chánh pháp, có chúng sanh hiểu và tin được kinh này, mà vị lai, sau khi Phật nhập diệt 500 năm, trong đời Tượng pháp hoặc Mạt pháp, cũng có chúng sanh hiểu và tin được kinh này. Nhưng, những chúng sanh đời Tượng pháp hoặc Mạt pháp tin được kinh này, là do họ đã nhiều kiếp có tu hành, trồng căn lành từ vô lượng đức Phật về trước (như Ngài Huệ Năng chỉ nghe một câu "ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm" trong kinh này mà được tỏ ngộ), chứ không phải mới tu từ bốn năm đời đức Phật trở lại đây. _________________________________ Tri Âm Quán_Thị Trấn Chũ_Lục Ngạn_Bắc Giang http://quoccuonglucngan.blogspot.com/
| |
| | | Tri Âm Quán Thành Viên Tích Cực
Tổng số bài gửi : 6340 Reputation : 2 Join date : 31/07/2013 Đến từ : Thị Trấn Chũ
| Tiêu đề: Re: Phật Học Phổ Thông Wed Sep 23, 2015 11:09 am | |
| 9. NGƯỜI THỌ TRÌ KINH NẦY CÔNG ĐỨC VÔ LƯỢNG: Phật dạy tiếp: "Tu Bồ Đề ! Như Lai thấy rõ ràng và biết chắc chắn: Nếu có chúng sanh nào nghe đến kinh này, sanh tâm tin thọ, cho đến trong thời gian rất ngắn, chỉ nhứt niệm, thì chúng sanh đó sẽ được phước đức vô lượng vô biên. Tại sao vậy"_ Vì chúng sanh này không còn chấp tướng ngã tướng nhơn, tướng chúng sanh, tướng thọ giả, tướng phải pháp và tướng không phải pháp". LƯỢC GIẢI : Phật khuyên người tin và thật hành theo kinh này, sẽ được công đức vô lượng. Đây là lần khuyên thứ nhứt. Người có cái khiếu về âm nhạc, mới nhận được cái hay và ưa thích về âm nhạc. Người có cái khiếu về hội hoạ mới thấy được cái đẹp và ưa thích về hội hoạ. Người có cái khiếu về văn chương mới thấy cái hay và ưa thích về văn chương. Cũng thế, người có cái khiếu về Bát Nhã, hay nói theo danh từ Duy thức là "hạt giống Bát Nhã", mới hiểu và tin được kinh Bát Nhã. Người đã có hạt giống Bát Nhã, tất nhiên không còn chấp các tướng: ngã, nhơn, chúng sanh, thọ giả, tướng phải pháp (Phật pháp) và tướng không phải pháp (tà pháp). Người này đuợc nghe thêm kinh Bát Nhã làm cho hạt giống Bát Nhã của mình được sanh trưởng, sẽ mau đặng quả Bồ Đề. Bởi thế nên Phật dạy: " ta thấy rõ ràng và biết chắc chắn: chúng sanh nào nghe hiểu và tin được kinh này, thì sẽ được phước đức vô lượng vô biên". _________________________________ Tri Âm Quán_Thị Trấn Chũ_Lục Ngạn_Bắc Giang http://quoccuonglucngan.blogspot.com/
| |
| | | Tri Âm Quán Thành Viên Tích Cực
Tổng số bài gửi : 6340 Reputation : 2 Join date : 31/07/2013 Đến từ : Thị Trấn Chũ
| Tiêu đề: Re: Phật Học Phổ Thông Wed Sep 30, 2015 10:42 am | |
| 10. GIÁO PHÁP CỦA PHẬT CŨNG NHƯ CHIẾC THUYỀN ĐƯA NGƯỜI QUA BỂ KHỒ Phật dạy: "Nếu các ông còn chấp các tướng, hoặc chấp "tướng chánh pháp" hay chấp "tướng phi chánh pháp" thì cũng đều bị dính mắc nơi bốn tướng: ngã, nhơn, chúng sanh và thọ giả. Bởi thế nên không được chấp "tướng chánh pháp" hay chấp "tướng phi chánh pháp". Cũng vì lẽ đó, nên Như Lai thường dạy: "Các thầy Tỳ kheo phải biết: giáo pháp của ta cũng như chiếc đò, đưa người qua sông; các ông không nên trụ chấp nơi giáo pháp”. "Chánh pháp" còn không nên trụ chấp huống chi là "phi pháp". LƯỢC GIẢI : Đoạn này Phật dùng Trí huệ Bát Nhã, phá trừ cái chấp "chánh pháp" và chấp "phi chánh pháp". Phật dạy hành giả, không nên chấp một tướng gì cả; dù là "chánh pháp" (hay Phật pháp) cũng không được chấp. Nếu còn trụ chấp, bất luận một tướng gì, thì cũng đếu bị mắc vào bốn tướng: ngã, nhơn, chúng sanh và thọ giả, hay nói gọn hơn là mắc vào tướng ngã, pháp. Nếu còn chấp ngã, pháp thì phiền não vọng chấp đua nhau sanh khởi. Phiền não vọng chấp sanh khởi, thì hành giả không thể hàng phục được vọng tâm và an trụ chơn tâm. Bởi thế nên Phật dạy:" Giáo pháp của Phật cũng như chiếc đò đưa người qua sông". Khi đến bờ rồi hành giả phải bỏ chiếc đò, mà lên bờ. Trái lại, nếu hành giả cứ khư khư chấp giữ chiếc đò, thì không bao giờ lên bờ được. Người tu hành cũng thế, phải bỏ cái "chấp", mới lên bờ giải thoát được. Trong kinh Viên giác chép:"Tất cả kinh giáo của Phật, cũng như ngón tay để chỉ mặt trăng. Người xem, phải nương ngón tay mới thấy được mặt trăng. Nhưng nếu chấp ngón tay (chỉ xem ngón tay) thì không bao giờ thấy được mặt trăng". Tóm lại, Phật dạy:"chánh pháp" (Phật pháp) còn không nên chấp, huống chi là "phi pháp". *** Ngài Xuyên Thiền sư ngộ được lý vô trước của kinh Bát Nhã, nên làm bài kệ rằng: Nguyên văn (dịch âm): Đắc thọ phàn chi mạt túc kỳ Huyền nhai tán thủ trượng phu nhi Thuỷ hàn dạ lãnh ngư nan mích Lưu đắc không thuyền tải nguyệt qui. Dịch nghĩa: Niu nhánh chuyền cây chẳng phải tài Dốc đứng buông tay mới trượng phu Gió lạnh đêm khuya câu chẳng có Thuyền không chỉ chở bóng trăng thanh. ĐẠI Ý : Câu thứ nhứt, nói về tiệm tu, phải lần hồi, còn chấp trụ nơi danh tướng; cũng như người đi mà níu nhánh vịn cây, thì không có gì hay cả. Câu thứ hai, nói về đốn tu, không trụ chấp các tướng; cũng như người đi lên dốc ngược, mà không níu vịn đâu hết, mới là bực đại tài. Câu thứ ba, nói về tâm cảnh đều vắng lặng, cũng như canh khuya thanh vắng, bầu trời yên lặng, mặt nước phẳng lặng như tờ, cá chim cũng đều lặng nghỉ, không hoạt động. Câu thứ tư, nói về khi các vọng chấp các tướng ngã, pháp đã hết, thì chỉ còn ánh Trí huệ Bát Nhã chơn không; cũng như chiếc thuyền không (không chấp) chỉ chở bóng trăng thanh (Trí huệ Bát Nhã). _________________________________ Tri Âm Quán_Thị Trấn Chũ_Lục Ngạn_Bắc Giang http://quoccuonglucngan.blogspot.com/
| |
| | | Tri Âm Quán Thành Viên Tích Cực
Tổng số bài gửi : 6340 Reputation : 2 Join date : 31/07/2013 Đến từ : Thị Trấn Chũ
| Tiêu đề: Re: Phật Học Phổ Thông Sun Oct 04, 2015 2:38 pm | |
| 11. PHẬT PHÁ CÁI CHẤP "NHƯ LAI CÓ THÀNH PHẬT VÀ THUYẾT PHÁP" Phật hỏi ông Tu Bồ Đề:"Như Lai có thành Phật không? Và Như Lai có thuyết pháp không?". Tu Bồ Đề thưa:"Bạch Thế Tôn ! Như Lai không thành Phật và Như Lai cũng không thuyết pháp. Tại sao vậy? Vì pháp của Như Lai, không thể chấp thủ, nói năng không trúng, suy nghĩ chẳng nhằm, không phải chánh pháp, mà cũng không phải phi pháp. Như thế thì làm sao, có cái gì quyết định là "thành Phật", và có cái gì quyết định là "nói pháp". LƯỢC GIẢI : Đoạn này Phật dùng Trí huệ Bát Nhã phá trừ cái chấp "Như Lai thật có thành Phật, và thật có nói pháp". Trong Duy thức Tam thập tụng có chép: Hiện tiền lập thiểu vật Vị thị Duy thức tánh Dĩ hữu sở đắc cố Phi thật trụ Duy thức Nghĩa là: nếu hành giả hiện tiền còn phần nào chấp mình có chứng Duy thức tánh, thì chưa phải thật chứng Duy thức tánh, vì còn vọng chấp có "sở đắc" vậy. Nếu Như Lai có thành Phật, tất nhiên phải có chúng sanh chưa thành Phật, thế thì bốn tướng: ngã, nhơn v.v....đua nhau sanh khởi. Nếu còn ngã, nhơn v.v...thì không phải là Phật. Nếu Như Lai có nói pháp, tất nhiên phải có chúng sanh nghe pháp. Nếu còn có kẻ nói người nghe, tức nhiên còn nhơn, ngã, bỉ, thứ. Nếu còn ngã, nhơn thì không phải là thuyết Phật pháp. Bởi thế, nên Phật thuyết pháp 49 năm, mà rốt cuộc Phật nói:"Ta không nói một chữ". Đức Lão Tử nói:"Cái "đạo" mà có thể nói được, thì không phải thật là đạo. Cái "tên” mà có thể kêu gọi được, thì không phải thật là "tên" (Đạo khả đạo, phi thường đạo giả, danh khả danh, phi thường danh). Kinh chép:"Một hôm, ông Tu Bồ Đề ngồi yên lặng dưới gốc cây. Trời Đế Thích đến rưới hoa cúng dường. Ông Tu Bồ Đề hỏi:"Ai rãi hoa và rãi hoa để làm gì?". Trời Đế Thích thưa: "Ngài nói kinh Bát Nhã hay quá ! Con đến rãi hoa cúng dường". Ông Tu Bồ Đề nói: "Ta không nói kinh Bát Nhã". Trời Đế Thích thưa: "Ngài không nói, con không nghe". Kết luận:"Không nói Bát Nhã và không nghe Bát Nhã", như thế mới thật là "nói Bát Nhã và nghe Bát Nhã". Ông Tu Bồ Đề đã hiểu:"Phật pháp" không thể nghĩ bàn, không thể chấp thủ, chẳng phải "có", chẳng phải "không", không phải "chánh pháp" và cũng không phải "phi chánh pháp"; nên bạch Phật rằng:"Như Lai không thành Phật và Như Lai cũng không thuyết pháp". Tóm lại, phải rời các vọng chấp, không còn dụng tâm suy nghĩ và lời nói luận bàn, mới thật là "thành Phật" và "thuyết pháp". _________________________________ Tri Âm Quán_Thị Trấn Chũ_Lục Ngạn_Bắc Giang http://quoccuonglucngan.blogspot.com/
| |
| | | Tri Âm Quán Thành Viên Tích Cực
Tổng số bài gửi : 6340 Reputation : 2 Join date : 31/07/2013 Đến từ : Thị Trấn Chũ
| Tiêu đề: Re: Phật Học Phổ Thông Thu Oct 08, 2015 4:58 pm | |
| 12. PHẬT PHÁP KHÔNG CÓ SAI KHÁC, DO TRÌNH ĐỘ CỦA CHÚNG SANH MÀ THẤY CÓ SAI KHÁC Ông Tu Bồ Đề bạch Phật:"Phật pháp đã như thế, tại sao lại có các quả thánh hiền cao thấp khác nhau?". Phật dạy:"Vì trình độ của chúng sanh có sai khác, nên có các quả thánh hiền sai khác, chứ không phải Phật pháp (vô vi) có sai khác". LƯỢC GIẢI Đoạn nầy phá cái chấp "Phật pháp có sai khác". Đoạn trên đã nói:"Pháp của Như Lai, không thể chấp thủ, nói năng không trúng, suy nghĩ chẳng nhằm, không phải chánh pháp và cũng không phải phi pháp" . Phật pháp đã cao siêu như vậy, vượt ra ngoài nói năng và suy nghĩ, tại sao lại có các quả thánh hiền cao thấp khác nhau? Phật giải thích:"Vì trình độ của chúng sanh có sai khác, nên có các quả thánh hiền sai khác, chứ không phải Phật pháp có sai khác" Trong kinh thường thí dụ:"Như ba con thú qua sông". Nghĩa là Phật pháp như con sông, không cạn không sâu. Hành giả như ba con thú lội qua sông: Con Dê thì lội ngập đầu (dụ cho Tiểu thừa); con Nai thì lội ngập cổ (dụ cho Trung thừa); con Voi thì lội ngập ống chân (dụ cho Đại thừa). *** Phật pháp cao siêu huyền diệu, không thể nói năng và luận bàn, nên Ngài Xuyên Thiền sư có làm bài tụng rằng: Nguyên văn (dịch âm): Hư không cảnh giới khởi tư lương Đại đạo thanh u lý cánh trường Đản đắc ngũ hồ phong nguyệt tại Xuân lai y cựu bách hoa hương. Dịch nghĩa: Hư không rộng rãi lớn bao la Lý đạo lại càng quá thẩm xa Trăng, gió, nước hồ thường tự tại Chào xuân đua nở trăm nghìn hoa. ĐẠI Ý : Hư không đã rộng lớn bao la không thể nghĩ bàn, Phật pháp lại càng cao siêu huyền diệu rộng lớn hơn hư không. Cảnh vật thiên nhiên của vũ trụ, như trăng thanh gió mát, nước hồ phẳng lặng, xuân về trăm hoa đua nở v.v...đều nói lên tinh thần tự tại giải thoát của Phật pháp. Kinh chép:"Nhứt thế chư Pháp vô phi Phật pháp". Nghĩa là "Tất cả các pháp thế gian cũng đều là Phật pháp". Nếu mê thì pháp thế gian, còn ngộ là Phật pháp. GIẢI DANH TỪ : Chấp thủ: nắm giữ Chánh Pháp: Pháp chơn chánh Phi Pháp: Pháp không chơn chánh Vô vi: Pháp không bị tạo tác thi vi, không sanh diệt, tức là chơn như hay Phật tánh. 13. Phật nói công đức trì kinh, nhiều hơn bố thí thất bảo. 14. Bốn quả Thinh văn, không nên chấp mình có chứng quả. 15. Phật phá cái chấp "Như Lai có đắc pháp". 16. Phật phá cái chấp "Bồ Tát thật có làm trang nghiêm cõi Phật". 17. Phật dạy:"Đừng sanh vọng tâm trụ chấp một nơi nào". 18. Phật phá cái chấp "Thân Phật cao lớn như núi Tu Di". _________________________________ Tri Âm Quán_Thị Trấn Chũ_Lục Ngạn_Bắc Giang http://quoccuonglucngan.blogspot.com/
| |
| | | Tri Âm Quán Thành Viên Tích Cực
Tổng số bài gửi : 6340 Reputation : 2 Join date : 31/07/2013 Đến từ : Thị Trấn Chũ
| Tiêu đề: Re: Phật Học Phổ Thông Sun Oct 11, 2015 4:33 pm | |
| 13. PHẬT NÓI CÔNG ĐỨC TRÌ KINH NÀY NHIỀU HƠN BỐ THÍ THẤT BẢO Phật hỏi:"Tu Bồ Đề ! Nếu có người đựng đầy bảy báu trong đại thế giới (một nghìn triệu thế giới nhỏ) đem bố thí (tài thí), thì phước đức nhiều không?". Tu Bồ Đề thưa:" Bạch Thế Tôn ! Nhiều lắm". Phật dạy:" Tu Bồ Đề ! Nếu có người thọ trì đọc tụng kinh này, hoặc vì người giảng nói trọn quyển hoặc nửa quyển, cho đến tối thiểu là bốn câu kệ, thì công đức (pháp thí) của người này nhiều hơn người trước. Tại sao vậy? Vì tất cả Phật và Pháp đều từ kinh này mà ra". Phật dạy tiếp:" Tu Bồ Đề ! Gọi là "Phật, Pháp", thực ra cũng không phải "Phật, Pháp", chỉ tạm gọi là "Phật, Pháp". LƯỢC GIẢI : Đây là lần thứ hai, Phật nói về công đức thọ trì đọc tụng kinh này, nhiều hơn người bố thí thất bảo. Đoạn nầy nên chia làm ba phần để giải thích. 1. So sánh phước đức giữa tài thí và pháp thí Ngọc ngà châu báu là vật rất quý, đã ít có và khó kiếm, nên không ai có nhiều được. Nhưng nếu người nào có nhiều châu báu, đựng đầy một nghìn triệu thế giới nhỏ (đại thế giới) đem ra bố thí, tất nhiên phước đức nhiều lắm. Nhưng, nếu có người thọ trì kinh này hoặc giảng nói cho người nghe, từ một quyển, nửa quyển, hoặc một tờ cho đến tối thiểu là bốn câu kệ, thì công đức của người sau, lại nhiều hơn người trước. Tại sao vậy? Vì bố thí tiền tài, dù có nhiều bao nhiêu cũng chỉ giúp về phần vật chất, làm cho người giàu có sung sướng nhứt thời mà thôi. Còn bố thí về giáo pháp là giúp về phần tinh thần, làm cho người hiểu biết giáo lý tu hành, thoát ly sanh tử luân hồi, kiến tánh thành Phật, rồi trở lại độ chúng sanh đều được giải thoát. Bởi thế nên bố thí pháp (tinh thần) tuy ít, nhưng phước đức nhiều hơn bố thí tài (vật chất). 2. Phật và Pháp đều từ kinh này sanh. Kinh này là kinh "Kim Cang Bát Nhã", tức là kinh nói về "Trí huệ Phật". Trí huệ này phá núi vô minh phiền não, nhưng không bị hư hoại, nên gọi là "Kim Cang". Nhờ Trí huệ Kim Cang Bát Nhã phá hết vô minh, nên mới minh tâm kiến tánh thành Phật, nên nói:"Kinh này sanh ra chư Phật". Và sau khi thành Phật rồi, cũng nhờ có Trí huệ Bát Nhã mới nói ra giáo pháp, nên nói "kinh này sanh ra Pháp". 3. Phá cái chấp "thật có Phật, Pháp". Đúng theo "tánh Bát Nhã Chơn không", thì nói năng không trúng, suy nghĩ chẳng nhằm, nên không có thể kêu gọi là gì được cả. Nhưng sở dĩ gọi "Phật, Pháp", là một danh từ, đặt ra để gọi tạm mà thôi; thật ra cũng không phải là "Phật, Pháp". Nếu còn chấp "thật có Phật, Pháp" thì không đúng với "Tánh Bát Nhã chơn không", nên Phật dạy:" Gọi là Phật Pháp, thực ra cũng không phải Phật Pháp, chỉ tạm gọi là Phật Pháp". GIẢI DANH TỪ : Bảy món báu: Vàng, bạc, ngọc lưu ly, ngọc xà cừ, ngọc mã não, ngọc san hô và ngọc hổ phách. Đại thế giới: Tức là Đại thiên thế giới. Thế giới chúng ta ở đây là một thế giới nhỏ; 1.000 thế giới nhỏ, gọi là "Tiểu thiên thế giới"; 1.000 Tiểu thiên thế giới, gọi là "Trung thiên thế giới"; 1.000 Trung thiên thế giới, gọi là "Đại thiên thế giới". Một Đại thiên thế giới là một nghìn triệu thế giới nhỏ. Thế giới Ta bà là một Đại thiên thế giới. Kệ: Một bài kệ là 4 câu, hoặc nhiều câu, như thơ tứ cú, bát cú v.v...ở nước ta. Thọ trì: Lãnh thọ và hành trì. *** _________________________________ Tri Âm Quán_Thị Trấn Chũ_Lục Ngạn_Bắc Giang http://quoccuonglucngan.blogspot.com/
| |
| | | Tri Âm Quán Thành Viên Tích Cực
Tổng số bài gửi : 6340 Reputation : 2 Join date : 31/07/2013 Đến từ : Thị Trấn Chũ
| Tiêu đề: Re: Phật Học Phổ Thông Tue Oct 13, 2015 5:13 pm | |
| 14. BỐN QUẢ THINH VĂN, KHÔNG NÊN CHẤP MÌNH CÓ CHỨNG QUẢ. Phật hỏi:"Tu Bồ Đề ! Nếu vị Tu đà hoàn tự nghĩ rằng:"Tôi đã đặng quả Tu đà hoàn", nghĩ như thế có được không?" Tu Bồ Đề thưa:" Bạch Thế Tôn ! Không thể được. Tại sao vậy? _ Vị Tu đà hoàn, phải không còn có thấy mình có chứng quả Tu đà hoàn (Tàu dịch Nhập lưu), thế mới thật là chứng quả Tu đà hoàn". Phật hỏi:" Tu Bồ Đề ! Nếu vị Tư đà hàm tự nghĩ rằng:"Tôi đã đặng quả Tư đà hàm"; nghĩ như thế có được không?". Tu Bồ Đề thưa:"Bạch Thế Tôn ! Không thể được. Tại sao vậy? _ Vị Tư đà hàm, phải không còn có thấy mình có chứng quả Tư đà hàm (Tàu dịch Nhứt lai), thế mới thật là chứng quả Tư đà hàm". Phật hỏi:" Tu Bồ Đề ! Nếu vị A na hàm tự nghĩ rằng:"Tôi đã đặng quả A na hàm"; nghĩ như thế có đặng không?". Tu Bồ Đề thưa:"Bạch Thế Tôn ! Không thể được. Tại sao vậy? _ Vị A na hàm, phải không còn có thấy mình có chứng quả A na hàm (Tàu dịch là Bất lai), thế mới thật là chứng quả A na hàm". Phật hỏi:" Tu Bồ Đề ! Nếu vị A la hán tự nghĩ rằng:"Tôi đã đặng quả A la hán"; nghĩ như vậy có đặng không?". Tu Bồ Đề thưa:"Bạch Thế Tôn ! Không thể được. Tại sao vậy? _ Vị A la hán, phải không còn có thấy mình có chứng quả A la hán, thế mới thật là chứng quả A la hán. Nếu còn thấy mình chứng quả A la hán tức là còn trụ chấp (dính mắc) về bốn tướng:ngã, nhơn, chúng sanh và tu hành giả, thì không phải thật chứng A la hán. Bạch Thế Tôn ! Cũng như con đây, vì con không còn chấp mình có tu chứng, nên mới được Như Lai chứng nhận:"Tu Bồ Đề đã đặng pháp Tam muội vô tránh; Tu Bồ Đề là người ưa tu hạnh tịch tịnh (A lan na); Tu Bồ Đề là vị A la hán ly dục thứ nhứt. Trong chúng, Tu Bồ Đề là hơn hết". Bạch Thế Tôn ! Nếu con nghĩ (chấp rằng:"Con đã đặng quả A la hán, con là vị A la hán ly dục thứ nhứt v.v...thì Đức Như Lai không chứng nhận và không khen ngợi con như vậy". LƯỢC GIẢI :Đoạn này Phật dùng Trí huệ Bát Nhã, phá trừ cái chấp của bốn quả Thinh văn, tự thấy mình có chứng quả. Trong kinh Tứ thập nhị chương có chép: "Tu vô tu tu, chứng vô chứng chứng v.v..." Nghĩa là: Tu mà không còn chấp mình tu, thế mới thật là tu. Chứng quả, mà không chấp mình chứng quả, thế mới thật là chứng quả v.v.... Nếu người tu chứng, đúng theo tinh thần của "Kim Cang Bát Nhã", nghĩa là không còn các vọng chấp ngã và pháp hay bốn tướng, thì mới thật tu và thật chứng. Trái lại, nếu còn chấp ngã, pháp hay bốn tướng (ngã, nhơn v.v..) tức là không nhập được "Kim Cang Bát Nhã", thì không phải thật tu và thật chứng. Bởi thế nên bốn quả Thinh văn, nếu còn tự thấy mình có chứng quả Tu đà hoàn, Tư đà hàm, A na hàm, A la hán, tức là còn chấp ngã (ta chứng đặng) và chấp pháp (quả vị để chứng) thì không nhập được "Kim Cang Bát Nhã", nên không phải là Tu đà hoàn, Tư đà hàm, A na hàm, A la hán. Ông Tu Bồ Đề, tự đem mình ra làm thí dụ điển hình. Đại ý ông nói: Nếu ông chấp rằng:"Tôi đã đặng pháp Tam muội và đặng quả A la hán v.v..." tức nhiên ông còn chấp ngã (quả A la hán) chấp pháp ( Tam muội), chưa nhập được Kim Cang Bát Nhã, thì Phật đâu có ấn chứng cho ông là vị A la hán ly dục thứ nhứt v.v.... Ngài Phó Đại sĩ nói bài tụng giải thích rằng: Nguyên văn (dịch âm): Vô sanh tức vô diệt Vô ngã phục vô nhơn Vĩnh trừ phiền não chướng Trường từ hậu hữu thân Cảnh vong tâm diệc diệt Vô phục khởi tham sân Vô bi không hữu trí Hốt nhiên độc nhậm chơn. Dịch nghĩa: Không sanh cũng không diệt Không ngã cũng không nhơn Dứt trừ phiền não chướng Không còn có thân sau Tâm cảnh đều vắng lặng Do đâu khởi tham sân Không bi cũng không trí Thế mới nhập Chơn như. ĐẠI Ý : Nếu không còn các vọng chấp nhơn, ngã, sanh, diệt v.v...thì các phiền não không do đâu mà sanh ra. Phiền não không sanh, tức không tạo nghiệp, nên không bị sanh tử luân hồi. Vì tâm và cảnh đã vắng lặng thì do đâu khởi tâm, sân, si. Cho đến bi và trí cũng không chấp, nên chơn tâm hay chơn như tự hiện bày. Tóm lại, vì không còn các vô minh vọng chấp: nhơn, ngã, tâm, cảnh, sanh, diệt v.v...nên mới chứng đặng chơn tâm thanh tịnh. Như thế mới thật tu và thật chứng. GIẢI DANH TỪ : Tu đà hoàn: trong bốn quả Thanh văn của Tiểu thừa, Tu đà hoàn là quả Thánh nhỏ nhứt. Tu đà hoàn là dịch âm tiếng Phạn, Trung hoa dịch là "Dự lưu" hoặc "Nhập lưu", nghĩa là mới dự vào dòng Thánh nhơn. Tu đà hàm: Quả Thánh thứ hai trong bốn quả Thinh văn. Trung hoa dịch âm của tiếng Phạn, dịch nghĩa là "Nhứt vãng lai"; nghĩa là còn một lần qua cõi nhơn, thiên để tu hành đoạn hoặc, rồi mới chứng đặng quả A la hán. A na hàm: Quả Thánh thứ ba trong bốn quả. Trung hoa dịch âm tiếng Phạn, dịch nghĩa "Bất lai"; nghĩa là không còn trở lại thọ sanh trong Dục giới nữa. A la hán: Quả Thánh thứ tư trong bốn quả. Trung hoa dịch âm tiếng Phạn, nếu dịch nghĩa, có ba: a. Vô sanh: Không còn sanh trở lại ba cõi b. Sát tặc: Đã giết hết các giặc phiền não. c. Ứng cúng: Xứng đáng cho nhơn thiên cúng dường. Do tu nhơn Tỳ kheo có 3 nghĩa, nên chứng quả A la hán cũng có 3 nghĩa: Nhơn Phá ác ..... Vô sanh Quả Tỳ kheo Bố ma ... Sát tặc A la hán Khất sĩ .... Ứng cúng TAM MUỘI: Trung hoa dịch âm tiếng Phạn, dịch nghĩa là "Chánh định". TAM MUỘI VÔ TRÁNH: Pháp chánh định hơn hết. A LAN NA: Trung hoa dịch âm tiếng Phạn, nghĩa là không ồn ào náo nhiệt, vắng vẻ thanh tịnh, giải thoát không bị trần lui. *** _________________________________ Tri Âm Quán_Thị Trấn Chũ_Lục Ngạn_Bắc Giang http://quoccuonglucngan.blogspot.com/
| |
| | | Tri Âm Quán Thành Viên Tích Cực
Tổng số bài gửi : 6340 Reputation : 2 Join date : 31/07/2013 Đến từ : Thị Trấn Chũ
| Tiêu đề: Re: Phật Học Phổ Thông Thu Oct 15, 2015 7:29 pm | |
| 15. PHẬT PHÁ CÁI CHẤP "NHƯ LAI CÓ ĐẮC PHÁP". Phật hỏi:" Tu Bồ Đề ! Về quá khứ đối với trước Phật Nhiên Đăng, ta có đắc pháp không?". Tu Bồ Đề thưa:" Bạch Thế Tôn ! Đức Như Lai thật không có "đắc pháp" gì cả". LƯỢC GIẢI : Đoạn này Phật dùng Trí huệ Bát Nhã phá trừ cái chấp "Như Lai thật có đắc pháp". Kinh chép:"Về quá khứ, vô lượng, vô số kiếp về trước, Đức Thích Ca đối trước Phật Nhiên Đăng, được Ngài truyền chánh pháp và thọ ký, tương lai sẽ được thành Phật, hiệu là Thích Ca Mâu Ni". Nhưng, nếu Như Lai còn chấp mình có "đắc pháp và được thọ ký" tức là Như Lai còn chấp ngã (ta được) chấp pháp (đắc pháp) thì không phải là Như Lai. Bởi thế nên ông Tu Bồ Đề thưa:"Bạch Thế Tôn ! Như Lai không có đắc pháp gì cả". Vì Như Lai không chấp mình có "đắc pháp" và "thọ ký", nên không mắc vào bốn tướng ngã, nhơn v.v...được nhập Kim Cang Bát Nhã. Như thế mới thật là "đắc pháp" và "được thọ ký". *** _________________________________ Tri Âm Quán_Thị Trấn Chũ_Lục Ngạn_Bắc Giang http://quoccuonglucngan.blogspot.com/
| |
| | | Tri Âm Quán Thành Viên Tích Cực
Tổng số bài gửi : 6340 Reputation : 2 Join date : 31/07/2013 Đến từ : Thị Trấn Chũ
| Tiêu đề: Re: Phật Học Phổ Thông Thu Oct 22, 2015 12:27 pm | |
| 16. PHẬT PHÁ CHẤP "BỒ TÁT THẬT CÓ LÀM TRANG NGHIÊM CÕI PHẬT". Phật hỏi:" Tu Bồ Đề ! Bồ Tát có làm trang nghiêm cõi Phật không?" Tu Bồ Đề thưa:" Bạch Thế Tôn ! Bồ Tát không làm trang nghiêm cõi Phật. Tại sao vậy? Bồ Tát làm trang nghiêm cõi Phật, mà không thấy (chấp) mình có trang nghiêm cõi Phật, như thế mới thật là trang nghiêm cõi Phật". LƯỢC GIẢI : Đoạn này phật dùng Trí huệ Bát Nhã phá trừ cái chấp "Bồ Tát có làm trang nghiêm cõi Phật" Bồ Tát làm các Phật sự, giáo hoá chúng sanh, đó là trang nghiêm cõi Phật. Nhưng, nếu Bồ Tát còn chấp mình có làm Phật sự, giáo hoá chúng sanh, thì Bồ Tát còn tâm nhiễm ô vọng chấp ngã (ta giáo hoá) nhơn (người được giáo hoá). Đem tâm nhiễm ô vọng chấp mà làm "trang nghiêm cõi Phật", thì cõi Phật thành nhiễm ô, không thể "trang nghiêm cõi Phật thanh tịnh" được. Trái lại, phải dùng tâm thanh tịnh (không còn các nhiễm ô vọng chấp, chấp ngã, chấp pháp v.v...) mà trang nghiêm cõi Phật, thì cõi Phật mới thanh tịnh trang nghiêm được. Ngài Xuyên Thiền sư dạy: Nguyên văn (dịch âm): Chánh nhơn thuyết tà pháp, tà pháp tất qui chánh Tà nhơn thuyết Chánh pháp, chánh pháp tất qui tà Giang Bắc thành chỉ, Giang Nam quít. Xuân lai đô phóng nhứt ban hoa. Dịch nghĩa: Người chánh nói pháp tà, tà pháp trở về chánh Người tà nói pháp chánh, pháp chánh trở thành tà. Cũng một cây, nhưng ở Giang bắc thì cây chỉ xát, Giang nam thì thành cây quít. Xuân về đều trổ một thứ hoa. ĐẠI Ý Người đem tâm đời (danh, lợi, sân, si v.v...) mà làm việc Đạo (làm các phật sự) thì việc Đạo biến thành việc đời. Trái lại, người đem tâm Đạo (từ bi, hỷ xả v.v...) mà làm việc đời (tiếp xúc làm việc với chúng sanh) thì việc đời trở thành việc Đạo (tứ nhiếp pháp, ngũ minh v.v...) cũng như một thứ cây, nhưng nếu ở đất Giang Bắc thì thành cây chỉ xát, trái đặc ruột và chua, ăn không được; còn ở đất Giang Nam thì thành cây quít, trái ngọt. Dù việc chánh hay tà, việc đời hay đạo, đều có nhơn và có quả, chẳng qua tốt hay xấu mà thôi. Cũng như cây chỉ xát hay cây quít, Xuân về đều trổ một thứ hoa và một thứ trái; nhưng trái quít thì ngọt, mà chỉ xát lại chua. *** _________________________________ Tri Âm Quán_Thị Trấn Chũ_Lục Ngạn_Bắc Giang http://quoccuonglucngan.blogspot.com/
| |
| | | Tri Âm Quán Thành Viên Tích Cực
Tổng số bài gửi : 6340 Reputation : 2 Join date : 31/07/2013 Đến từ : Thị Trấn Chũ
| Tiêu đề: Re: Phật Học Phổ Thông Sat Oct 24, 2015 4:17 pm | |
| 17. PHẬT DẠY: "ĐỪNG SANH VỌNG TÂM TRỤ CHẤP MỘT NƠI NÀO" Phật dạy: "Tu Bồ Đề ! Các vị Đại Bồ Tát phải giữ tâm thanh tịnh, chớ nên sanh vọng tâm trụ chấp nơi sắc trần, thinh trần, hương trần, vị trần, xúc trần và pháp trần. Tóm lại, Bồ Tát đừng khởi vọng tâm trụ chấp một nơi nào cả" (Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm). LƯỢC GIẢI Hai đoạn trên phá cái chấp "Như Lai có đắc pháp" và "Bồ Tát có làm trang nghiêm cõi Phật". Đoạn này tóm lại, Bồ Tát phải giữ tâm thanh tịnh, không nên sanh vọng tâm trụ chấp một nơi nào cả. Tất cả sự vật trong vũ trụ, tuy vô cùng vô tận, nhưng không ngoài 18 giới là 6 căn, 6 trần và 6 thức; căn và trần thuộc về vật chất, còn thức thuộc về tinh thần. Phật dạy các vị Bồ Tát, phải giữ tâm thanh tịnh, không nên sanh vọng tâm dính mắc (trụ chấp) nơi sắc trần, thinh trần, hương trần, vị trần, xúc trần và pháp trần v.v... Tóm lại, chỉ trong một câu, Phật dạy: "Đừng sanh vọng tâm dính mắc (trụ chấp) một nơi nào". Thuở xưa, ngài Huệ Năng vừa nghe phú ông tụng kinh Kim Cang Bát Nhã vừa đến câu: "Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm" Đừng khởi vọng tâm trụ chấp một nơi nào). Ngài liền tỏ ngộ lý Kim Cang Bát Nhã !...Ngài hân hoan ca ngợi: "Hay quá ! kinh Kim Cang Bát Nhã hay quá !"(1) "Đừng sanh vọng tâm trụ chấp một nơi nào", tức là "đừng sanh vọng tâm chấp ngã, chấp pháp v.v..." không chấp ngã, pháp thì phiền não không sanh. Phiền não không sanh thì tâm được thanh tịnh, không tạo nghiệp sanh tử luân hồi. Đó là phương pháp tu của Đại thừa Đốn giáo, rất giản dị và mau chóng, để hàng phục vọng tâm và an trụ chơn tâm. Sau khi đại ngộ lý kinh Bát Nhã, Tổ Huệ năng đã minh tâm kiến tánh, nên Ngài có dạy rằng: Nguyên văn (dịch âm): Hà kỳ tự tánh bổn tự thanh tịnh Hà kỳ tự tánh bổn bất sanh diệt Hà kỳ tự tánh bổn tự cụ túc Hà kỳ tự tánh bổn vô diêu động Hà kỳ tự tánh năng sanh vạn pháp Dịch nghĩa: Ai ngờ tâm mình vốn tự thanh tịnh Ai ngờ tâm mình vốn không sanh diệt Ai ngờ tâm mình vốn tự đầy đủ Ai ngờ tâm mình vốn không diêu động Ai ngờ tâm mình hay sanh muôn pháp Đức Ngũ Tổ đến lúc tuổi già, muốn chọn người để truyền Tổ vị, nên Ngài truyền dạy trong chúng, mỗi người phải làm một bài kệ, để trình bày sự tu chứng của mình, nếu người nào tỏ ngộ được lý Đạo, ngài sẽ truyền Tổ vị, làm Tổ thứ Sáu. Ngài Thần Tú là bực Thượng toạ, tài đức siêu quần, làm kệ rất hay, nhưng vì chưa tỏ ngộ được lý Kim Cang Bát Nhã, còn trụ chấp các tướng, có tu, có chứng v.v...nên bị Tổ Huệ Năng quở rằng: "Còn đứng ngoài hàng rào". Bài kệ của Ngài Thần Tú: Nguyên văn (dịch nghĩa): Thân thị Bồ Đề thọ Tâm như minh cảnh đài Thời thời thường phất thức Vật sử nhá trần ai. Dịch nghĩa: Thân là cây Bồ Đề (có tướng) Tâm như đài gương sáng (có tướng) Mỗi giờ thường lau quét (có tu) Chớ cho dính bụi trần (có chứng) Tổ Huệ Năng, đã ngộ được lý Kim Cang Bát Nhã, không trụ chấp các tướng, nên được đức Ngũ Tổ truyền trao y bát và làm vị Tổ thứ sáu. Bài kệ của Tổ Huệ Năng: Nguyên văn (dịch nghĩa): Bồ Đề bổn vô thọ Tâm phi minh cảnh đài Bổn lai vô nhứt vật Hà xá nhá trần ai. Dịch nghĩa: Bồ Đề không phải cây (vô tướng) Chơn tâm không phải đài (vô tướng) Xưa nay không một vật (vô tướng) Chỗ nào dính bụi trần (vô tướng) *** _________________________________ Tri Âm Quán_Thị Trấn Chũ_Lục Ngạn_Bắc Giang http://quoccuonglucngan.blogspot.com/
| |
| | | Tri Âm Quán Thành Viên Tích Cực
Tổng số bài gửi : 6340 Reputation : 2 Join date : 31/07/2013 Đến từ : Thị Trấn Chũ
| Tiêu đề: Re: Phật Học Phổ Thông Tue Oct 27, 2015 6:32 pm | |
| 18. PHẬT PHÁ CÁI CHẤP "THÂN PHẬT CAO LỚN NHƯ NÚI TU DI" Phật hỏi: "Tu Bồ Đề !báo thân của Phật như núi Tu di. Vậy Báo thân của Phật có cao lớn không?". Ông Tu Bồ Đề thưa: "Bạch Thế Tôn ! Lớn lắm. Nhưng, Phật nói: "Không chấp thân cao lớn, mới thật là cao lớn". LƯỢC GIẢI Đoạn này Phật dùng Trí huệ Bát Nhã, phá trừ cái chấp "Báo thân Phật cao lớn". Từ trước đến đây, đã nhiều lần hỏi và đáp. Vì muốn phá các vọng chấp, để nhập với "Tánh Bát Nhã chơn không", cho nên Phật hỏi. Và cũng vì muốn phá các vọng chấp, để nhập với "Tánh Bát Nhã chơn không" cho nên ông tu Bồ Đề đáp. Nếu chúng sanh chấp có, thì Ngài nói không; chúng sanh chấp không, thì Ngài nói có v.v...Dù nói có, nói không, nói lớn, nói nhỏ v.v...đều để phá các chấp của chúng sanh, đem về "Tánh Bát Nhã chơn không". Phật hỏi ông tu Bồ Đề: "Báo thân của Phật có cao lớn không?". Tu Bồ Đề đáp: "Báo thân của Phật cao lớn lắm". Nhưng sợ chúng sanh chấp "thân Phật cao lớn", nên ông Tu Bồ Đề liền dẫn lời Phật nói để phá chấp: "Phật nói không chấp thân cao lớn, mới thật là cao lớn". Nghĩa là: Phàm cái gì còn thấy nghe và suy nghĩ được, thì cái đó không phải tuyệt đối; phải siêu thoát ra ngoài sự thấy nghe và suy nghĩ, mới là tuyệt đối. Đức Lão tử nói: "Đạo mà có thể nói được, thì không phải là Đạo". Tóm lại, nếu còn "chấp thân cao lớn", tất nhiên còn chấp ngã và chấp pháp, thì không nhập được Kim Cang Bát Nhã, nên chưa phải thân cao lớn. GIẢI DANH TỪ BÁO THÂN: Phật có 3 thân: 1. Pháp thân: tức là Pháp tánh hay chơn tâm, không có hình tướng 2. Báo thân: Thân do phước báo tu hành, trải qua vô số kiếp mới được. Kinh chép: Báo thân của Phật lớn bằng núi Tu di; duy có bực Bồ Tát mới thấy được. 3. Ứng thân hay Hoá thân: Phật tuỳ các loại chúng sanh mà ứng hiện hay hoá hiện ra mỗi thân, để tế độ 19. Thọ trì kinh này phước đức vô lượng 20. Công đức của kinh Kim Cang Bát Nhã 21. Ông Tu Bồ Đề hỏi Phật tên kinh 22. Phật phá cái chấp "kinh Kim Cang Bát Nhã" 23. Phật phá cái chấp "Như Lai có thuyết pháp" 24. Phật phá cái chấp "thật có vi trần và thế giới 25. Phật phá cái chấp "thấy 32 tướng tốt của Phật là thấy Phật" _________________________________ Tri Âm Quán_Thị Trấn Chũ_Lục Ngạn_Bắc Giang http://quoccuonglucngan.blogspot.com/
| |
| | | Tri Âm Quán Thành Viên Tích Cực
Tổng số bài gửi : 6340 Reputation : 2 Join date : 31/07/2013 Đến từ : Thị Trấn Chũ
| Tiêu đề: Re: Phật Học Phổ Thông Thu Oct 29, 2015 7:45 pm | |
| 19. THỌ TRÌ KINH NÀY PHƯỚC ĐỨC VÔ LƯỢNG Phật hỏi: "Tu Bồ Đề ! Như trong sông hằng, có vô số cát, rồi lấy mỗi một hạt cát, lại dụ cho một sông hằng. Vậy những số cát trong vô số sông Hằng đó, có nhiều không?". Tu Bồ Đề thưa: "Bạch Thế Tôn ! Nhiều lắm. Nếu chỉ tính những sông hằng mà thôi, hãy còn nhiều vô số, huống chi là tính tất cả số cát, trong vô số sông Hằng". Phật hỏi tiếp: "Tu Bồ Đề ! Nếu có chúng sanh nào dùng 7 món báu, đựng đầy trong nhiều Đại Thế giới (một nghìn triệu thế giới nhỏ) để đem bố thí; số đại thế giới này cũng nhiều như số cát trong vô số sông Hằng, thì chúng sanh đó phước đức nhiều không?". Tu Bồ Đề thưa: "Bạch Thế Tôn ! Nhiều lắm". Phật dạy: "Tu Bồ Đề ! ta nay thành Phật bảo ông: Nếu có người thọ trì đọc tụng hay giảng kinh này hoặc trọn quyển hay nửa quyển, cho đến tối thiểu, chừng bốn câu kệ, thì phước đức của người này nhiều hơn người trước". LƯỢC GIẢI Đoạn này Phật nói công đức người thọ trì hoặc giảng dạy kinh này (thí pháp) nhiều hơn công đức người bố thí thất bửu (thí tài) đựng đầy trong vô số Đại thế giới, nhiều như số cát trong vô số sông Hằng. Đây là lần thứ ba, Phật tán thán về công đức thọ trì kinh. Ngọc ngà châu báu, không ai có nhiều được. Nhưng nếu có người, có nhiều châu báu, đựng đầy trong vô số đại thế giới, đem bố thí, thì phước đức người này không thể nghĩ bàn. Nhưng nếu có người thọ trì hay giảng kinh này, hoặc trọn quyển hay nửa quyển, hoặc tối thiểu là bốn câu kệ, thì công đức của người sau nhiều hơn người trước. Vì bố thí về châu báu, dầu nhiều đến đâu, cũng chỉ giúp cho người về phương diện vật chất, giàu sang, sung sướng nhứt thời mà thôi, chứ không thể đem hạnh phúc vĩnh viễn cho người được. Còn người thọ trì hoặc giảng dạy kinh này, tuy ít và dễ làm, nhưng thuộc về pháp thí, giúp cho người về phương diện tinh thần, có ảnh hưởng sâu rộng hơn. Mình và người được trồng hạt giống Bát Nhã, một ngày sau, không sớm thì chầy, thế nào cũng được nứt mộng nẩy chồi, đơm bông kết quả, sẽ được thành Phật, rồi hoá độ vô số chúng sanh cũng sẽ thành Phật. Bởi vì người trì kinh và bố thí pháp, thuộc về phước vô lậu thanh tịnh, nên phước đức nhiều hơn người bố thí vật chất. Tóm tắt đoạn này, Ngài Phó Đại sĩ có làm bài tụng như sau: Nguyên văn (dịch âm): Bảo mãn tam thiên giới Tê trì tác phước điền Duy thành hữu lậu nghiệp Chung bất ly nhơn thiên Trì kinh thủ tứ cú Dữ Phật tác lương duyên Dục nhập vô vi hải Tu thừa Bát Nhã thuyền Dịch nghĩa: Đựng báu đầy Đại thiên Bố thí trồng ruộng phước Chỉ thành nghiệp hữu lậu Hưởng phước cõi nhơn thiên Trì tụng bốn câu kệ Tạo duyên lành với Phật Muốn vào biển vô vi Phải nương thuyền Bát Nhã. ĐẠI Ý Bài tụng này nói, của báu đựng đầy Đại thế giới (một nghìn triệu thế giới nhỏ) đem bố thí làm phước, hành giả chỉ hưởng phước hữu lậu của cõi nhơn thiên. Không bằng người trì tụng bốn câu kệ, để gieo duyên lành với Phật, đặng nương nhờ thuyền Bát Nhã, dạo chơi biển vô vi, hưởng phước vui vĩnh viễn. GIẢI DANH TỪ Sông Hằng: Tên một con sông bên Ấn Độ. Dài rộng và rất nhiều cát. Mỗi khi Phật thuyết pháp, muốn chỉ cái gì nhiều không thể tính được, thì Phật thí dụ "Như số cát sông Hằng (Hằng hà sa số) Đại thế giới: Nguyên văn chữ hán là "Tam thiên đại thế giới", gọi tắt là "Đại thế giới". Nhơn lên 3 lần ngàn, là một đại thế giới. Nghĩa là năm châu thế giới của chúng ta ở đây là một thế giới nhỏ; nhơn lên 1000 thế giới nhỏ, gọi là "Tiểu thiên thế giới", nhơn lên 1000 tiểu thiên thế giới, gọi là "Trung thiên thế giới"; nhơn lên 1000 trung thiên thế giới, gọi là "Đại thiên thế giới"; tức là một nghìn triệu thế giới nhỏ, gọi là một "Đại thiên thế giới". Ngoài Thế giới Ta bà là "một Đại thiên thế giới". Ngoài thế giới Ta bà còn hằng hà sa số Đại thiên thế giới. *** _________________________________ Tri Âm Quán_Thị Trấn Chũ_Lục Ngạn_Bắc Giang http://quoccuonglucngan.blogspot.com/
| |
| | | Tri Âm Quán Thành Viên Tích Cực
Tổng số bài gửi : 6340 Reputation : 2 Join date : 31/07/2013 Đến từ : Thị Trấn Chũ
| Tiêu đề: Re: Phật Học Phổ Thông Sun Nov 01, 2015 10:52 am | |
| 20. CÔNG ĐỨC CỦA KINH KIM CANG BÁT NHÃ Phật dạy: "Tu Bồ Đề ! Những chỗ được giảng kinh này, hoặc trọn bộ hay nữa quyển, cho đến tối thiểu là bốn câu kệ, thì chỗ đó cũng được chư thiên, người và thánh thần đến cúng dường và đều kính trọng như chỗ chùa tháp của Phật". Phật dạy tiếp: "Tu Bồ Đề ! Nếu chỗ nào thờ kinh này, thì chỗ đó có Phật và có các vị đệ tử tôn quí của Phật. Bởi thế nên người chí thành thọ trì đọc tụng kinh này, người ấy sẽ thành tựu Trí huệ Kim Cang Bát Nhã". LƯỢC GIẢI Đoạn này tiếp theo đoạn trên, nói về công đức quí báu của kinh và khuyên người thọ trì kinh này. Đây là lần thứ tư. Đoạn trước (đoạn 13) Phật dạy: " ...tất cả Phật và pháp đều từ kinh này mà ra". Bởi thế nên chỗ giảng kinh này và chỗ thờ kinh này, thì chỗ đó như chùa Phật hay tháp Phật, có Phật, có đệ tử tôn quí của Phật; thánh, thần, trời, người đều kính trọng và cúng dường. Vì kinh này rất quý báu như vậy, nên người chí thành thọ trì kinh này sẽ được Trí huệ Phật (Kim Cang Bát Nhã). *** _________________________________ Tri Âm Quán_Thị Trấn Chũ_Lục Ngạn_Bắc Giang http://quoccuonglucngan.blogspot.com/
| |
| | | Tri Âm Quán Thành Viên Tích Cực
Tổng số bài gửi : 6340 Reputation : 2 Join date : 31/07/2013 Đến từ : Thị Trấn Chũ
| Tiêu đề: Re: Phật Học Phổ Thông Mon Nov 02, 2015 12:21 pm | |
| 21. ÔNG Tu Bồ Đề HỎI PHẬT VỀ TÊN KINH Lúc bấy giờ ông Tu Bồ Đề hỏi Phật: "Bạch Thế Tôn ! Kinh này tên gì? Và tại sao chúng con phải phụng trì". Phật dạy: "Tu Bồ Đề ! Kinh này tên là "KIM CANG BÁT NHÃ Ba la mật"; Vì thế nên các ông phải phụng trì". LƯỢC GIẢI Đến đây, ông Tu Bồ Đề thỉnh Phật xác định tên kinh và giải thích, tại sao phải phụng trì? Phật trả lời: Kinh này tên "Kim Cang Bát Nhã Ba La Mật" (nghĩa đã giải ở đề mục kinh). Vì "Kim Cang Bát Nhã", nên các ông phải phụng trì. *** _________________________________ Tri Âm Quán_Thị Trấn Chũ_Lục Ngạn_Bắc Giang http://quoccuonglucngan.blogspot.com/
| |
| | | Tri Âm Quán Thành Viên Tích Cực
Tổng số bài gửi : 6340 Reputation : 2 Join date : 31/07/2013 Đến từ : Thị Trấn Chũ
| Tiêu đề: Re: Phật Học Phổ Thông Tue Nov 03, 2015 12:22 pm | |
| 22. PHẬT PHÁ CÁI CHẤP VỀ KINH "KIM CANG BÁT NHÃ BA LA MẬT" Phật dạy: "Tu Bồ Đề ! Như Lai nói Bát Nhã Ba La Mật, tức là không phải Bát Bát Nhã Ba La Mật, thế mới gọi là Bát Nhã Ba La Mật". LƯỢC GIẢI Đoạn này Phật dùng Trí huệ Bát Nhã phá trừ cái chấp về kinh "Kim Cang Bát Nhã Ba La Mật". Nếu hành giả còn vọng chấp "có kinh Bát Nhã và có ta phụng trì", tức là hành giả còn chấp ngã (ta phụng trì) và chấp pháp (kinh Bát Nhã) thì không phải là kinh Bát Nhã và thọ trì Bát Nhã. Phải dẹp trừ hết các vọng chấp ngã, pháp v.v...mới phải thọ trì kinh Bát Nhã. Bởi thế nên, Phật vừa nói ra tên kinh, sợ chúng sanh chấp tên kinh, nên Phật liền phá chấp: "Như Lai nói Bát Nhã Ba La Mật, không phải Bát Nhã Ba La Mật, thế mới thật là Bát Nhã Ba La Mật". 23. PHẬT PHÁ CÁI CHẤP "NHƯ LAI CÓ THUYẾT PHÁP" Phật hỏi: "Tu Bồ Đề ! Như Lai có thuyết pháp không?". Tu Bồ Đề thưa: "Bạch Thế Tôn ! Như Lai không có thuyết pháp". LƯỢC GIẢI Đây là lần thứ hai, Phật phá cái chấp:" Như Lai có thuyết pháp" (lần thứ nhứt ở đoạn 11). Tiếp theo đoạn trên, ông Tu Bồ Đề hỏi kinh này tên gì? _ Phật nói kinh này tên là "Kim Cang Bát Nhã Ba la mật". Sợ người chấp:"Như thế Phật có nói pháp Bát Nhã", nên tiếp đến đoạn nầy, Phật phá luôn cái chấp:"Phật có thuyết pháp”. Nếu hành giả còn vọng chấp:"Phật có thuyết pháp", thì không nhập được "Kim Cang Bát Nhã". Vì ông Tu Bồ Đề đã nhập được lý "Kim Cang Bát Nhã", nên ông trả lời:"Như Lai không có thuyết pháp". Muốn cho độc giả rõ thêm đoạn nầy, tôi xin nhắc lại lời giải thích ở đoạn trước thêm một lần nữa: Một hôm ông Tu Bồ Đề ngồi yên tịnh dưới gốc cây. Trời Đế Thích rưới hoa cúng dường. Ông Tu Bồ Đề hỏi:"Ai rưới hoa?". Trời Đế Thích thưa:"Ngài thuyết kinh Bát Nhã hay quá ! Con xin dâng hoa cúng dường". Ông Tu Bồ Đề nói:"Tôi không nói kinh Bát Nhã". Trời Đế Thích thưa:"Ngài không nói Bát Nhã, con không nghe Bát Nhã". Kết luận:"Không nói Bát Nhã và không nghe Bát Nhã", như thế mới thật là "nói Bát Nhã và nghe Bát Nhã". Vì ngộ được lý chơn không của kinh Bát Nhã, nên ngài Viên Ngộ Thiền sư có làm bài kệ rằng: Nguyên văn (dịch âm) Thập phương đồng tụ hội Cá cá học vô vi Thử thị tuyển Phật trường Tâm không cập đệ qui. Dịch nghĩa: Mười phương đồng tụ hội Người người học vô vi Đây là trường thi Phật "Tâm Không" mới được đậu. ĐẠI Ý Bài kệ này quan trọng nhứt là hai chữ "Tâm không". Nếu người nào tâm không còn các phiền não vọng chấp ngã, pháp v.v...thì người đó nhập được Kim Cang Bát Nhã, tức là đậu quả Phật. *** _________________________________ Tri Âm Quán_Thị Trấn Chũ_Lục Ngạn_Bắc Giang http://quoccuonglucngan.blogspot.com/
| |
| | | Tri Âm Quán Thành Viên Tích Cực
Tổng số bài gửi : 6340 Reputation : 2 Join date : 31/07/2013 Đến từ : Thị Trấn Chũ
| Tiêu đề: Re: Phật Học Phổ Thông Sat Nov 07, 2015 9:17 am | |
| 24. PHẬT PHÁ CÁI CHẤP "THẬT CÓ VI TRẦN VÀ THẾ GIỚI" Phật hỏi:" Tu Bồ Đề ! Những vi trần chứa trong đại thế giới (1 nghìn triệu thế giới nhỏ) có nhiều không? ".Tu Bồ Đề thưa:" Bạch Thế Tôn nhiều lắm". Phật dạy: "Tu Bồ Đề ! Như Lai nói các vi trần, không phải thật vi trần. Như Lai nói thế giới, không phải thật thế giới, chỉ tạm gọi là thế giới:. LƯỢC GIẢI Đoạn này Phật dùng Trí huệ Bát Nhã phá trừ cái chấp "thật có vi trần và thật có thế giới". Phật đã dạy: "Phàm sở hữu tướng giai thị hư vọng"; nghĩa là: phàm cái gì có hình tướng, đều là hư dối không thật. Tất cả muôn vật trong vũ trụ, lớn như thế giới, nhỏ như vi trần, cũng đều là hư giả không thật. Do hiệp nhiều vi trần (bụi nhỏ) thành ra một vật lớn nhứt, rồi tạm đặt tên là thế giới. Trái lại, do vật lớn nhứt như thế giới, chẻ cho đến thật nhỏ, không còn chẻ được nữa, rồi tạm đặt tên là vi trần (bụi nhỏ). Vật thế giới hay vi trần, cùng các vật khác, đều do vọng thức của chúng sanh, phân biệt so đo (kể đạt phân biệt) rồi đặt tên như thế này hay như thế khác, chứ không có thật thể. Trong bộ Cu xá luận tụng lược thích, về trang 210, có chép về vi trần và thế giới, đại ý như sau: Từ vật lớn nhứt là thế giới, rồi chẻ nhỏ thế giới ra nhiều lần, cho đến thành hột bụi bay qua lại các kẻ hở (như mỗi buổi sáng, mặt trời chiếu vào các kẻ hở, chúng ta thấy rất nhiều bụi bay qua bay lại). Các thứ bụi này gọi tên là: 1. Khích du trần: Bụi bay qua các kẻ hở. 2. Ngưu mao đầu trần: Hạt bụi nhỏ ở trên đầu lông con trâu. Bụi này do chẻ nhỏ bụi "khích du" mà thành. 3. Dương mao đầu trần: Hạt bụi ở trên đầu lông con dê. Thứ bụi này do chẻ nhỏ bụi "Ngưu mao đầu" mà thành. 4. Thố mao đầu trần: Hạt bụi ở trên đầu lông con thỏ. Thứ bụi này do chẻ nhỏ bụi "Ngưu mao đầu" mà thành. 5. Thuỷ trần: Bụi rớt trong nước không ướt, vì quá nhỏ. Thứ bụi này do chẻ nhỏ bụi "Thố mao đầu" mà thành. 6. Kim trần: Bụi này có thể lọt qua những vàng khối hay sắt dầy hoặc kiếng dầy; do chẻ nhỏ bụi "Thủy trần" mà thành. 7. Vi trần: Bụi nhỏ; do chẻ nhỏ bụi "Kim trần" mà thành. 8. Cực vi trần: Bụi rất nhỏ. Hạt bụi này do chẻ nhỏ bụi "Vi trần" mà thành. 9. Lân hư trần: Bụi gần mé hư không. Thứ bụi này nhỏ nhứt, không thể chẻ nhỏ nữa được, nếu chẻ nữa thì thành hư không. Bụi này do chẻ bụi "Cực vi" mà thành. Rồi trở lại, từ vọng tâm nhỏ như "Lân hư trần" Tích tụ 7 Lân hư trần thành một "Cực vi trần" ....7 cực vi trần thành một "Vi trần" ....7 Vi trần thành một "Kim trần" ....7 Kim trần thành một "Thuỷ trần" ....7 Thuỷ trần thành một "Thố mao đầu trần" ....7 Thố mao đầu trần thành một "Dương mao đầu trần" ....7 Dương mao đầu trần thành một "Ngưu mao đầu trần" ....7 Ngưu mao đầu trần thành một "Khích du trần" Cứ tích tụ mãi mãi như vậy, thành những vật nhỏ, đến vật lớn, cho đến vật lớn nhứt là "thế giới". Tóm lại, chứa nhiều vi trần thành thế giới; chẻ nhỏ thế giới thành ra vi trần. Vi trần và thế giới đều do sự đối đãi lớn với nhỏ, mà đặt ra cái tên để kêu gọi, chớ không có cái gì là chơn thật. Ngài Phó Đại sĩ làm bài tụng, nói về vi trần và thế giới. Nguyên văn (dịch âm): Tích trần thành thế giới Chiết giới tác vi trần Giới dụ nhơn thiên quả Trần vi hữu lậu nhơn Trần nhơn, nhơn bất thật Giới quả, quả phi nhơn Quả nhơn tri thị quyển Tiêu diêu tự tại nhơn Vọng kế nhơn thành chấp Mê thằng vị thị xà Tâm nghi sanh ám quỉ Nhãn bịnh kiến không hoa Nhứt cảnh tuy vô dị Tam nhơn nãi kiến sai Liễu tư danh bất thật Trường ngự bạch ngưu xa. Dịch nghĩa: Chứa trần thành thế giới Chẻ giới hoá vi trần Giới dụ quả nhơn thiên Trần là nhơn hữu lậu Trần nhơn, nhơn không thật Giới quả, quả chẳng chơn Biết quả, nhơn đều huyễn Được tự tại tiêu diêu Vọng thấy dây thành rắn Chấp mê bởi tại tâm Tâm sợ nên ma hiện Mắt nhậm thấy đốm hoa Một cảnh không sai khác người thấy chẳng đồng Ai biết đó là huyễn Tức là bực Đại giác. ĐẠI Ý HAI BÀI TỤNG Bài tụng thứ nhứt nói: chứa vi trần thành thế giới, chẻ thế giới thành vi trần. Thế giới là dụ cho quả nhơn thiên, vi trần là dụ cho nhơn hữu lậu. Nhơn vi trần đã không thật, nên quả thế giới cũng hư vọng. Nếu người biết được nhơn quả đều như huyễn, thì sẽ được tiêu diêu tự tại. Tiếp đến bài tụng thứ hai, đại ý nói: Vì tánh "Biến kế sở chấp", nên chấp sợi dây là con rắn, ban đêm thấy bóng tối cho là ma; cũng như vì con mắt bị nhặm, nên thấy có hoa đốm giữa hư không. Cũng một cảnh không sai khác, nhưng ba người (biến kế sở chấp, y tha khởi và viên thành thật) thấy chẳng đồng. Nếu người được giác ngộ như Phật, mới biết đó là giả danh không thật. *** _________________________________ Tri Âm Quán_Thị Trấn Chũ_Lục Ngạn_Bắc Giang http://quoccuonglucngan.blogspot.com/
| |
| | | Tri Âm Quán Thành Viên Tích Cực
Tổng số bài gửi : 6340 Reputation : 2 Join date : 31/07/2013 Đến từ : Thị Trấn Chũ
| Tiêu đề: Re: Phật Học Phổ Thông Sat Nov 07, 2015 2:34 pm | |
| 25. PHẬT PHÁ CÁI CHẤP: "THẤY 32 TƯỚNG TỐT CỦA PHẬT LÀ THẤY PHẬT" Phật hỏi: "Tu Bồ Đề ! Ông có thể cho thấy 32 tướng tốt của Như Lai là thấy được Như Lai không?". Tu Bồ Đề thưa: "bạch Thế Tôn ! Không thể được. Tại sao vậy? Vì đức Như Lai nói 32 tướng tốt, chỉ giả gọi 32 tướng tốt". LƯỢC GIẢI Đoạn trên (24) Phật dùng Trí huệ Bát Nhã phá chấp về y báo (chấp pháp) là vi trần và thế giới. Đoạn này Phật lại dùng Trí huệ Bát Nhã phá chấp về chánh báo (chấp ngã); nghĩa là chấp "thấy 32 tướng tốt của Phật là thấy được Phật". Đây là lần thứ hai (lần thứ nhứt ở đoạn thứ 7) Phật phá chấp về thấy Phật. Nếu còn chấp "thấy 32 tướng tốt của Phật là thấy được Phật", tức là còn chấp ngã (ta thấy) chấp nhơn (Phật) v.v...thì không nhập được Kim Cang Bát Nhã, nên không thấy được Phật thiệt. Ngài Phó Đại sĩ làm bài tụng, nói về việc phá các vọng chấp ngã, nhơn,năng, sở v.v... Nguyên văn (dịch âm) Tảo trừ tâm ý địa Danh vi Tịnh độ nhơn Vô luận phước dữ trí Quang thả ly tham sân Trang nghiêm tuyệt năng sở Vô ngã diệc vô nhơn Đoạn, thường cu bất nhiễm Tần thoát xuất hồng trần Dịch nghĩa Quét sạch đất tâm ý Đó là nhơn tịnh độ Không cần tu phước huệ Miễn bỏ được tham sân Trang nghiêm không năng sở Không ngã cũng không nhơn Đoạn, thường đều chẳng nhiễm Siêu xuất cõi hồng trần ĐẠI Ý HAI BÀI TỤNG Không cần tu phước huệ hay phương pháp nào khác, chỉ quét sạch tham, sân, si v.v...ở trong tâm địa của mình, đó là nhơn để vãng sanh về Tịnh độ. Dẹp trừ cái vọng chấp: năng, sở, nhơn, ngã, đoạn, thường v.v...thì được siêu thoát cõi hồng trần, đó là trang nghiêm cõi Phật. GIẢI DANH TỪ 32 Tướng tốt: Phật có 32 tướng tốt 1. Dưới bàn chân no tròn 2. Dưới bàn chân có cả ngàn khu ốc 3. Tay chân mềm dịu 4. Ngón chân có màn như chân nhạn 5. Ngón tay ngón chân no tròn 6. Gót xứng với bàn chân 7. Bàn chân xứng với gót 8. Hai chân tròn vót như hai chân nai 9. Tay dài thòng tới đầu gối 10. Âm tướng qui tàng 11. Chân lông ửng màu xanh tía 12. Tóc lông đều xoay qua phía mặt 13. Da trơn mịn không dính dơ 14. Màu da sắc vàng 15. Tay chân vai cổ, bảy chỗ đều đủ 16. Cổ tròn lạ thường 17. Hai cái nách no đủ 18. Dung nghi đoan chánh 19. Thân tướng trang nghiêm 20. Hình thể xứng nhau 21. Oai dung như sư tử 22. Chói hào quang mỗi phía một lần 23. Hàm răng bốn mươi cái khít và bằng 24. Bốn răng cấm trắng và bén 25. Trong miệng có mùi thơm 26. Lưỡi dài che đặng cả cái mặt 27. Tiếng nói diệu dàng đủ giọng 28. Lông nheo như ngưu vương 29. Con mắt có quần đỏ 30. Mặt như trăng tròn 31. Chổ gian mi có lông trắng 32. Trên đầu lồi thịt lên, như đầu tóc _________________________________ Tri Âm Quán_Thị Trấn Chũ_Lục Ngạn_Bắc Giang http://quoccuonglucngan.blogspot.com/
| |
| | | Tri Âm Quán Thành Viên Tích Cực
Tổng số bài gửi : 6340 Reputation : 2 Join date : 31/07/2013 Đến từ : Thị Trấn Chũ
| Tiêu đề: Re: Phật Học Phổ Thông Mon Nov 09, 2015 4:03 pm | |
| 26. PHẬT NÓI CÔNG ĐỨC THỌ TRÌ KINH KIM CANG BÁT NHÃ Phật day: "Tu Bồ Đề !nếu có người tự đem thân mạng mình, nhiều như cát sông Hằng để bố thí, thì người đó phước đức nhiều lắm. Nhưng nếu có người thọ trì đọc tụng hay giảng dạy kinh này, trọn quyển hay nửa quyển, cho đến tối thiểu là bốn câu kệ, thì phước đức người này nhiều hơn người trước". LƯỢC GIẢI Kinh này rất quý báu và lợi ích vô cùng, nên Phật đã nhiều lần tán thán công đức, khuyên người thọ trì và giảng dạy cho người. Từ trước đến đây đã năm lần nói về công đức của kinh này. Đoạn trước (19) nói, người dùng ngoại tài là 7 món báu, nhiều như số cát sông hằng đem bố thí, phước đức của người này tuy nhiều, nhưng không bằng người thọ trì và giảng dạy kinh Kim Cang Bát Nhã phước đức lại nhiều hơn. Đoạn này nói, người đem nội tài là thân mạng của mình ra bố thí; chỉ bố thí một thân mạng phước đức đã nhiều và ít ai làm được, huống chi là bố thí thân mạng của mình nhiều như số cát sông Hằng, thì phước đức biết là bao nhiêu ! Nhưng nếu có cùng người thọ trì đọc tụng hoặc giảng dạy kinh này từ một quyển hay nữa quyển cho đến tối thiểu là bốn câu kệ, thì người này phước đức nhiều hơn người trước. Bố thí thân mạng, tuy ít người làm được, nhưng phước đức vẫn còn ở trong vòng hữu vi và hữu lậu. Người thọ trì đọc tụng hoặc giảng dạy kinh này, thì mình và người đều được ngộ nhập "Kim Cang Bát Nhã" và sẽ được thành Phật; rồi trở lại hoá độ vô số chúng sanh, nên phước đức của người này, thuộc về vô lậu vô vi, nhiều hơn người trước. Nói về công đức thọ trì kinh này, Ngài Trí Giả Đại sư có làm bài tụng: Nguyên văn (dịch âm): Hằng sa số thậm đa Sa số cánh nan lương Cử sa tề thất bảo Năng trì bố thí tương Hữu tướng giai vi huyễn Đồ ngôn Trí huệ cường Nhược luận tứ cú đệ Thử phước mạt vi tường Dịch nghĩa: Kể sông Hằng đã quá Số cát lại nhiều hơn Chứa báu nhiều như thế Thí tài số biết bao Chấp mê theo giả tướng Dẫu đặng phước huệ cao Sánh với bốn câu kệ Phước kia có chút nào ĐẠI Ý BÀI TỤNG Chỉ đếm sông Hằng đã không hết, huống chi là đếm số cát trong vô số sông Hằng. Người đem của báu nhiều bằng số cát trong vô số sông Hằng ra bố thí, phước đức tuy nhiều, nhưng thuộc hữu vi, hữu lậu. Không bằng người thọ trì hoặc giảng dạy kinh này chừng bốn câu, thì phước đức nhiều hơn người trước. *** _________________________________ Tri Âm Quán_Thị Trấn Chũ_Lục Ngạn_Bắc Giang http://quoccuonglucngan.blogspot.com/
| |
| | | Tri Âm Quán Thành Viên Tích Cực
Tổng số bài gửi : 6340 Reputation : 2 Join date : 31/07/2013 Đến từ : Thị Trấn Chũ
| Tiêu đề: Re: Phật Học Phổ Thông Wed Nov 11, 2015 2:39 pm | |
| 27. ÔNG TU BỔ ĐỀ BÙI NGÙI CẢM ĐỘNG RƠI NƯỚC MẮT Sau khi thấy Phật nhiều lần ân cần, nhắc nhở khuyên dạy, ông Tu Bồ Đề nghe hiểu được nghĩa lý thâm thuý của kinh này, nên lúc bấy giờ, ông cảm động bùi ngùi và sa nước mắt !... Ông Tu Bồ Đề bạch Phật rằng: "Bạch Thế Tôn ! Con tuy đặng huệ nhãn đã lâu, nhưng từng được nghe Phật nói kinh điển, nghĩa lý cao siêu huyền diệu, quí hoá như thế này !". LƯỢC GIẢI Chúng ta mỗi khi bị xúc cảm một việc gì quá mạnh, hoặc buồn hay vui, đều có rưng nước mắt. Ông Tu Bồ Đề vì thấy Phật đã nhiều lần ân cần nhắc nhở thọ trì và khuyên dạy những nghĩa lý thâm thuý cao siêu của kinh này, mà từ hồi nào đến giờ ông chưa từng được nghe, nên ông cảm động rơi nước mắt. *** _________________________________ Tri Âm Quán_Thị Trấn Chũ_Lục Ngạn_Bắc Giang http://quoccuonglucngan.blogspot.com/
| |
| | | Tri Âm Quán Thành Viên Tích Cực
Tổng số bài gửi : 6340 Reputation : 2 Join date : 31/07/2013 Đến từ : Thị Trấn Chũ
| Tiêu đề: Re: Phật Học Phổ Thông Thu Nov 12, 2015 7:27 pm | |
| 28. NGƯỜI NGHE KINH NÀY SANH LÒNG TIN NGƯỜI ẤY ĐẶNG CÔNG ĐỨC THỨ NHỨT Ông Tu Bồ Đề thưa Phật: "Bạch Thế Tôn ! nếu có người nghe kinh này, sanh lòng tin trong sạch, ngộ được thật tướng (tánh Bát Nhã) thì người ấy sẽ đặng thành tựu công đức hy hữu thứ nhứt. Bạch Thế Tôn ! Như Lai nói "thật tướng" tức là không phải "thật tướng", chỉ tạm gọi là "thật tướng". LƯỢC GIẢI Đoạn này ông Tu Bồ Đề nói: người nghe kinh này mà ngộ được "thật tướng Bát Nhã", thì người ấy đặng công đức hi hữu. Và ông phá luôn cái chấp "thật tướng". Người có cái khiếu (theo Duy thức học gọi là hạt giống) âm nhạc, nghe âm nhạc mới biết hay. Người có cái khiếu thi thơ, nghe thi thơ mới biết thích. Cũng thế, người có cái khiếu hay hạt giống Bát Nhã, nghe đến kinh Bát Nhã mới sanh lòng tin và ngộ nhập được "Thật tướng Bát Nhã". Bởi thế nên người này công đức vô lượng. Vừa nói đến "thật tướng", ông Tu Bồ Đề sợ người chấp "thật tướng", nên ông liền phá luôn cái chấp ấy, bằng cách dẫn lời Phật dạy: "Như Lai nói thật tướng, tức là không phải thật tướng, chỉ tạm gọi là thật tướng". GIẢI DANH TỪ THẬT TƯỚNG: Phật nói: "Phàm sở hữu tướng giai thị hư vọng", phàm cái gì có hình tướng đều là hư vọng. Vậy thì cái không hình tướng mới là chơn thật. Kinh chép: "Vô tướng chi tướng, cố danh thật tướng", (cái tướng mà không có hình tướng mới gọi là thật tướng). Căn cứ theo lời giải thích này, thì "thật tướng" là không còn các vọng tướng và vọng chấp, tức là "Bát Nhã chơn không". *** _________________________________ Tri Âm Quán_Thị Trấn Chũ_Lục Ngạn_Bắc Giang http://quoccuonglucngan.blogspot.com/
| |
| | | Tri Âm Quán Thành Viên Tích Cực
Tổng số bài gửi : 6340 Reputation : 2 Join date : 31/07/2013 Đến từ : Thị Trấn Chũ
| Tiêu đề: Re: Phật Học Phổ Thông Sat Nov 14, 2015 5:37 pm | |
| 29. NGƯỜI CÓ HẠT GIỐNG BÁT NHÃ MỚI TIN VÀ HIỂU ĐƯỢC KINH NÀY Ông Tu Bồ Đề thưa: "Bạch Thế Tôn ! Hiện nay con nghe đặng kinh này, hiểu được, tin được và thọ trì, chẳng lấy làm khó. Khi Đức Như Lai nhập diệt, 500 năm về sau, nếu có người nghe kinh này, mà được hiểu ngộ, tin theo và thọ trì, thì người đó mới là hy hữu ! Tại sao vậy? Vì người này không còn chấp bốn tướng: ngã, nhơn, chúng sanh và thọ giả. Bạch thế Tôn ! Nói bốn tướng, không phải thật có bốn tướng, chỉ giả gọi bốn tướng là ngã, nhơn, chúng sanh và thọ giả. Tại sao vậy? Vì phải xa lìa tất cả các chấp tướng, mới gọi là chư Phật". LƯỢC GIẢI Đoạn này tiếp với đoạn văn trên, nói người có hạt giống Trí huệ Bát Nhã, phá trừ được bốn tướng, mới tin và hiểu được kinh này. Khi Phật còn tại thế, chúng sanh căn tánh Đại thừa rất nhiều, nên nghe kinh này hiểu và tin không khó. Đến sau khi Phật nhập diệt, chúng sanh căn tánh Đại thừa rất ít, nên nghe hiểu và tin được kinh này rất khó. Vì người nghe phải không còn chấp bốn tướng: ngã, nhơn, chúng sanh và thọ giả, mới hiểu được kinh Kim Cang Bát Nhã này. Nói đến bốn tướng, ông Tu Bồ Đề sợ người chấp thật có bốn tướng, nên ông liền bác rằng: "Nói bốn tướng, không phải thật có bốn tướng, chỉ giả gọi bốn tướng mà thôi". Kết luận, ông nói rằng: "Phải rời tất cả các vọng chấp, vọng tướng, ngộ nhập Kim Cang Bát Nhã, mới gọi là chư Phật". *** Ngài Cảo Thiền sư, ngộ được câu: "Lìa tất cả các vọng chấp, mới là chư Phật", nên có làm hai bài tụng rằng: Nguyên văn (dịch âm): Thân khẩu ý thanh tịnh Thị danh Phật xuất thế Thân khẩu ý bất tịnh Thị danh Phật diệt độ Tức tâm thị Phật vô dư Pháp Mê giả đa ư tâm ngoại cầu Nhứt niệm quách nhiên qui bổn tế Hoàn như tẩy khước thượng thuyền đầu Dịch nghĩa: Thân, khẩu ý thanh tịnh Đó là Phật xuất thế. Thân, khẩu ý bất tịnh Đó là Phật nhập diệt. Tức tâm là Phật, Phật tại tâm Kẻ mê rong ruổi, ngoại tâm cầu Nhứt niệm giác ngộ về đến Phật Dễ như rửa chân bước lên thuyền. ĐẠI Ý HAI BÀI TỤNG Ba nghiệp: Thân, miệng và ý đều thanh tịnh, đó là Phật xuất thế. Trái lại, ba nghiệp không thanh tịnh tức là Phật nhập diệt. Phật tức tâm, tâm tức Phật. Người mê muội không biết, lại tìm Phật ngoài tâm. Nếu trong nhứt niệm mà tâm giác ngộ thì tức thành Phật; rất dễ như người rửa chân bước lên thuyền. _________________________________ Tri Âm Quán_Thị Trấn Chũ_Lục Ngạn_Bắc Giang http://quoccuonglucngan.blogspot.com/
| |
| | | Tri Âm Quán Thành Viên Tích Cực
Tổng số bài gửi : 6340 Reputation : 2 Join date : 31/07/2013 Đến từ : Thị Trấn Chũ
| Tiêu đề: Re: Phật Học Phổ Thông Mon Nov 16, 2015 8:04 pm | |
| 30. PHẬT XÁC NHẬN LỜI NÓI CỦA ÔNG TU BỔ ĐỀ LÀ PHẢI Phật dạy: "Tu Bồ Đề ! Đúng như vậy. Nếu có người nghe kinh này mà không nghi ngờ hay kinh sợ, thì người này rất là hy hữu". LƯỢC GIẢI Đoạn này vẫn còn tiếp với hai đoạn văn trên, Phật xác nhận lời nói của ông Tu Bồ Đề là phải: Người có hạt giống Kim Cang Bát Nhã, không chấp các tướng mới hiểu và tin được kinh này *** _________________________________ Tri Âm Quán_Thị Trấn Chũ_Lục Ngạn_Bắc Giang http://quoccuonglucngan.blogspot.com/
| |
| | | Tri Âm Quán Thành Viên Tích Cực
Tổng số bài gửi : 6340 Reputation : 2 Join date : 31/07/2013 Đến từ : Thị Trấn Chũ
| Tiêu đề: Re: Phật Học Phổ Thông Wed Nov 18, 2015 12:00 pm | |
| 31. PHẬT PHÁ CÁI CHẤP: "BÁT NHÃ LÀ ĐỆ NHỨT BA LA MẬT" Phật dạy: "Tu Bồ Đề ! Như Lai nói Bát Nhã là đệ nhứt Ba la mật, không phải Bát Nhã là đệ nhứt Ba la mật, thế mới thật Bát Nhã là đệ nhứt Ba la mật". LƯỢC GIẢI Đoạn này Phật phá cái chấp "Bát Nhã là pháp Ba la mật thứ nhứt". Đây là lần thứ hai, Phật phá cái chấp Bát Nhã Ba la mật (lần thứ nhứt ở đoạn 22). Trong 6 pháp Lục độ, tức là 6 pháp Ba la mật, thì Trí huệ Bát Nhã là bao trùm tất cả, nên Phật nói: "Bát Nhã là đệ nhứt Ba la mật" Nhưng, nếu người còn chấp mình đặng "Bát Nhã là đệ nhứt Ba la mật"(chấp pháp) thì không phải thật đặng "Bát Nhã là đệ nhứt Ba la mật" nữa, vì còn chấp ngã (mình đặng) chấp pháp (Ba la mật). Bởi thế nên Phật dạy tiếp: "Không còn thấy (chấp) mình đặng Bát Nhã là đệ nhứt Ba la mật, thì mới thật đặng Bát Nhã là đệ nhứt Ba la mật". GIẢI DANH TỪ Bát Nhã: (đã giải ở trước, đề mục kinh) Ba la mật: (đã giải ở trước, đề mục kinh) *** _________________________________ Tri Âm Quán_Thị Trấn Chũ_Lục Ngạn_Bắc Giang http://quoccuonglucngan.blogspot.com/
| |
| | | Tri Âm Quán Thành Viên Tích Cực
Tổng số bài gửi : 6340 Reputation : 2 Join date : 31/07/2013 Đến từ : Thị Trấn Chũ
| Tiêu đề: Re: Phật Học Phổ Thông Fri Nov 20, 2015 10:07 am | |
| 32. PHẬT PHÁ CÁI CHẤP "NHẪN NHỤC BA LA MẬT" Phật dạy: "Tu Bồ Đề ! Như Lai nói người Nhẫn nhục Ba la mật (rốt ráo) mà không thấy mình Nhẫn nhục Ba la mật, như thế mới thật là Nhẫn nhục Ba la mật". LƯỢC GIẢI Đoạn này Phật phá cái chấp "Người tu Nhẫn nhục Ba la mật, mà còn chấp mình đặng Nhẫn nhục Ba la mật". Nếu hành giả tu hạnh nhẫn nhục rốt ráo (Ba la mật) mà còn chấp mình tu hạnh nhẫn nhục rốt ráo, tức nhiên hành giả còn chấp chơn (người làm nhục) chấp ngã (ta bị nhục) thì chưa phải là nhẫn nhục rốt ráo. Hành giả phải lìa tất cả vọng chấp: nhơn, ngã, bỉ, thử v.v...nhập Kim Cang Bát Nhã, mà tu pháp nhẫn nhục thì pháp nhẫn nhục đó mới hoàn toàn rốt ráo, gọi là nhẫn nhục Ba la mật. *** _________________________________ Tri Âm Quán_Thị Trấn Chũ_Lục Ngạn_Bắc Giang http://quoccuonglucngan.blogspot.com/
| |
| | | Sponsored content
| Tiêu đề: Re: Phật Học Phổ Thông | |
| |
| | | | Phật Học Phổ Thông | |
|
Similar topics | |
|
| Permissions in this forum: | Bạn không có quyền trả lời bài viết
| |
| |
| |
|