Tri Âm Quán - Lục Ngạn - Bắc Giang
Chào bạn đã ghé thăm Tri Âm Quán_Thị Trấn Chũ_Lục Ngạn_Bắc Giang!
Diễn Đàn là nơi giao lưu kết bạn, sưu tầm, lưu trữ, học hỏi và chia sẻ kiến thức.
Để cùng nhau tiến bộ trên con đường hướng thiện.
Chúc bạn sức khỏe và có nhiều thành công mới trong cuộc sống!

Om mani pad me hum
Tri Âm Quán - Lục Ngạn - Bắc Giang
Chào bạn đã ghé thăm Tri Âm Quán_Thị Trấn Chũ_Lục Ngạn_Bắc Giang!
Diễn Đàn là nơi giao lưu kết bạn, sưu tầm, lưu trữ, học hỏi và chia sẻ kiến thức.
Để cùng nhau tiến bộ trên con đường hướng thiện.
Chúc bạn sức khỏe và có nhiều thành công mới trong cuộc sống!

Om mani pad me hum
Tri Âm Quán - Lục Ngạn - Bắc Giang
Bạn có muốn phản ứng với tin nhắn này? Vui lòng đăng ký diễn đàn trong một vài cú nhấp chuột hoặc đăng nhập để tiếp tục.
Tri Âm Quán - Lục Ngạn - Bắc Giang

Mỗi người đều nhận được hai thứ giáo dục: một thứ do người khác truyền cho; một thứ, quan trọng hơn nhiều, do mình tự tạo lấy.
 
Trang ChínhTrang Chính  Đoán Án Kỳ Quan - Page 5 Icon_portal  Latest imagesLatest images  Đăng kýĐăng ký  Đăng NhậpĐăng Nhập  
Chào mừng các bạn đã ghé thăm Tri Âm Quán_Thị Trấn Chũ_Lục Ngạn_Bắc Giang! Chúc các bạn sức khỏe và thành đạt! Tri Âm Quán_Thị Trấn Chũ_Lục Ngạn_Bắc Giang.

 

 Đoán Án Kỳ Quan

Go down 
Chuyển đến trang : Previous  1, 2, 3, 4, 5, 6  Next
Tác giảThông điệp
Tri Âm Quán
Thành Viên Tích Cực
Thành Viên Tích Cực
Tri Âm Quán


Tổng số bài gửi : 6340
Reputation : 2
Join date : 31/07/2013
Đến từ : Thị Trấn Chũ

Đoán Án Kỳ Quan - Page 5 Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Đoán Án Kỳ Quan   Đoán Án Kỳ Quan - Page 5 EmptyThu Apr 17, 2014 5:13 pm

nhiều tác giả
Đoán Án Kỳ Quan
Phạm Tú Châu - Nguyễn Văn Thiệu (Dịch và biên soạn)
Chương 4
Người Chế tác Ngọc quan âm
Thời Thiệu Hưng, ở hành cung tạm thời của vua có một người thuộc phủ Diên An, Diên Châu, Quan Tây. Ông làm Tam trấn Tiết độ sứ hàm An Quận vương. Lúc ấy đang là mùa xuân, tiết trời ấm áp, ngài cùng gia quyến đi chơi xuân, đến tối mới trên đường về nhà. Tới cửa Tiền Đường, xe kiệu gia quyến đi trước, đằng sau là kiệu của ngài. Nghe thấy cửa hàng bồi giấy có người nói: "Con ơi ra đây mà xem Quận vương". Quận vương ngồi trong kiệu nhìn thấy, rồi ông bảo với Bang Tổng Ngu hầu(1):
- Lâu nay ta đã đi tìm người này, song nay lại thấy ở đây. Ta giao cho ngươi, ngày mai đòi người này vào phủ.
(1) Ngu hầu: quan cận vệ.
 
Ngu hầu vâng lệnh tới tìm người ấy xem mặt. Đúng là:
Bụi theo xe ngựa không hề hết
Sớm muộn tình người cũng mất đi.
Ngu hầu từ trên xe bước xuống, thấy tấm biển trước cửa đề: "Nhà họ Cừ, chuyên bồi các bức thư họa cổ kim". Trong cửa hàng có một ông già và một cô gái. Thật là:
Mây tóc rung rinh tựa cánh chuồn
Mày ngài mờ ảo nét xuân sơn
Anh đào một trái môi tươi đỏ.
Răng ngọc hai hàng sáng ngời ngời.
Yểu điệu bước đi hoa sen nở.
Thỏ thẻ oanh vàng thánh thót ca.
Đó chính là người ra xem kiệu Quận vương. Ngu hầu bèn tới một quán trà đối diện với nhà ấyBà lão rót nước mời. Ngu hầu nói:
- Xin nhờ bà gọi giúp ông Cừ cửa hàng bồi giấy, tôi có chuyện muốn nói với ông ta.
Bà lão đưa ông Cừ tới. Cừ Đãi Chiếu hỏi:
- Ngài hỏi tôi có việc gì?
- Chẳng có việc gì cả, chỉ hỏi một chuyện vặt thôi. Người ông vừa gọi ra xem kiệu Quận vương có phải là con gái ruột ông không?
- Vâng đó chính là đứa con gái vụng về của tôi, - Cừ Đãi Chiếu nói, - nhà chỉ có ba người.
- Cô nhà bao nhiêu tuổi? - Ngu hầu hỏi.
- Mười tám tuổi.
- Cô nhà đã lấy chồng chưa, hay là ông cho cô ấy tới hầu hạ quan?
- Nhà lão nghèo túng, lấy tiền đâu mà gả chồng. Sau này cũng chỉ hiến cho phủ đệ.
- Cô nhà có sở trường gì không?
Cừ Đãi Chiếu nói qua về sở trường của con mình. Có bài từ Nhãn Nhi Mị làm chứng:
Thâm khuê nhà nhỏ tháng ngày dài
Quần lượt áo là dạo gót chơi
Không được vận may do trời phú
Đành theo nghề kim chỉ thêu thùa
Cành nghiêng lá biếc hoa đua sắc
Chỉ hiềm không có được mùi thơm
Ong bám trong vườn bay chấp chới
Ngỡ hoa tươi quấn quít lượn vòng.
- Cô rất giỏi thêu thùa.
Ngu hầu nói:
- Vừa rồi Quận vương ngồi trong kiệu nhìn thấy chiếc thắt lưng thêu trên người cô. Trong phủ đang cần một người giỏi thêu thùa, sao ông không hiến cho Quận vương?
Cừ Công trở về bàn với vợ, hôm sau viết lá đơn hiến con gái vào phủ, được Quận vương trả tiền. Cô gái được Quận vương đặt tên là Tú Tú Dưỡng Nương.
Một hôm triều đình ban cho Quận vương một chiếc áo chiến bào, ông sai Tú Tú thêu thêm một chiếc đúng như thế. Quận vương xem xong rất vui, nói:
- Chúa thưởng ban cho ta chiếc chiến bào, ta cũng phải tìm vật gì quý hiếm để dâng lên chúa thượng.
Thế rồi ông vào kho lấy ra một viên ngọc trong suốt, cho gọi những người thợ chế tác ngọc lại nói:
- Viên ngọc này nên làm gì?
Một người trong bọn họ nói:
- Nên làm một chiếc chén ngọc.
- Thật đáng tiếc, - Quận vương nói, - một viên ngọc như thế mà chỉ làm được một chiếc chén thôi ư?
- Viên ngọc này trên nhọn dưới tròn, - một người khác nói, - nên làm pho tượng Ma Hầu La Nhi.
- Ma Hầu La Nhi chỉ dùng để cầu may vào ngày mồng bảy tháng bảy thôi, - Quận vương nói, - còn thường ngày không dùng tới.
Một chàng trai trong số họ, tuổi trạc hai mươi lăm, tên là Thôi Ninh, người phủ Kiến Khang, Thăng Châu, chắp tay bước tới nói với Quận vương:
- Thưa Quận vương! Viên ngọc này trên nhọn dưới tròn, có thể chế tác được pho tượng Nam Hải Quan âm.
- Hay quá! Rất hợp ý ta. - Quận vương nói.
- Thế rồi ông giao cho Thôi Ninh tạc pho tượng ấy. Chưa đầy hai tháng đã chế tác xong pho tượng Quan âm ngọc. Quận vương lập tức dâng biểu tiến vua, vua rất mừng. Thôi Ninh được bản phủ cất nhắc thêm một cấp.
Vào một ngày mùa xuân, Thôi Ninh chơi xuân trở về, cùng với mấy người bạn vào quán rượu bên cửa Tiền Đường. Mới uống được vài chén thì thấy tiếng người ầm ĩ, vội mở cửa sổ nhìn thì thấy người kêu gào hỗn loạn: "Cầu Tỉnh Đình cháy!".
Thôi Ninh vội vàng bỏ rượu xuống lều, chỉ thấy ngọn lửa rần rật bốc cao, khói tuôn ngùn ngụt. Thấy thế Thôi Ninh vội nghĩ: "Cầu ngay trước mặt dinh quan phủ”. Thế rồi anh chạy về phủ, tất cả đã dọn đi hết, bốn bề im ắng, chẳng thấy một bóng người. Thôi Ninh theo hành lang bên trái đi vào. Ánh lửa sáng rực như ban ngày. Đằng xa thấy một người phụ nữ hớt hải từ trong phủ đường đi ra, vừa đi vừa lẩm bẩm, rồi đâm choàng vào người Thôi Ninh. Thôi Ninh nhận ra đó là Tú Tú Dưỡng Nương, anh lùi lại, khẽ a lên một tiếng. Vốn là trước đây Quận vương từng hứa: "Chờ cho Tú Tú mãn hạn sẽ gả cho Thôi Ninh". Mọi người cũng nói vun vào: "Hai người rất đẹp đôi". Là người sống độc thân, nghe thấy mọi người nói thế, Thôi Ninh rất cảm động và cũng thích cô gái. Tú Tú thấy Thôi Ninh còn trẻ rất muốn cùng anh kết nghĩa trăm năm. Hôm ấy xẩy ra hỏa hoạn, Tú Tú mang theo một gói vàng ngọc từ hành lang bên trái đi ra xô phải Thôi Ninh, bèn nói:
- Anh Thôi Ninh, em ra muộn, những gái hầu trong phủ chạy tán loạn, không quản nổi. Nay chẳng còn cách nào khác, anh phải dẫn em đi trốn.
Thôi Ninh đưa Tú Tú ra khỏi phủ, men theo bờ sông đến một chiếc cầu đá, Tú Tú nói: - Anh Thôi Ninh, chân em đau không đi được!
- Chỉ mấy bước nữa là tới nhà tôi, - Thôi Ninh nói. - Tới đó cô nghỉ chân cũng chẳng ngại gì.
Tới nhà, Tú Tú nói:
- Anh Thôi Ninh! em đói lắm, hãy mua cho em chút gì ăn đi, em hơi run, cho em uống chút rượu càng tốt.
Thôi Ninh mua rượu và thức ăn về, nhắp vài chén rượu, thật là:
Vài chén rượu Phần say ngây ngất
Hai má đào hoa ửng sắc hồng
Chẳng trách người ta nói “Xuân là chúa hoa, rượu là mối sắc". Tú Tú nói:
- Trước đây khi trên lầu ngắm trăng, Quận vương đã hứa gả em cho anh, anh đã cảm ơn Quận vương. Anh còn nhớ không?
- Có - Thôi Ninh đáp.
- Bây giờ em chỉ trông chờ vào anh. Đêm nay sao chúng ta không trở thành vợ chồng, - Tú Tú nói, - Ý anh thế nào?
- Đâu dám thế! - Thôi Ninh nói.
- Nếu anh không dám, - Tú Tú nói, - thì em sẽ làm hại anh. Anh đã dẫn em đến nhà anh, ngày mai em sẽ báo với Quận vương.
- Nói thực với em, - Thôi Ninh nói, - lấy em thì anh không ngại, chỉ có điều không thể ở đây được. Nhân cơ hội nhốn nháo, chúng ta phải đi khỏi nơi đây ngay đêm nay mới được.
- Em đã là vợ anh thì em chỉ biết theo anh thôi, - Tú Tú nói.
Hai người đã thành vợ chồng. Đêm ấy vào lúc canh tư, họ mang theo vàng bạc và hành lí trốn đi. Đói ăn khát uống, ngày đi đêm nghỉ, vòng vèo tới Cù Châu. Thôi Ninh nói:
- Đây là đầu mối giao thông, đi theo đường nào hơn? Thôi thì ta đi về Tín Châu. Anh là thợ chế tác ngọc, Tín Châu có mấy người bạn thân, chắc rằng ở đấy sẽ yên ổn.
Thế rồi họ tới Tín Châu. Ở được mấy ngày, Thôi Ninh lại nói:
- Tín Châu thường có người của Quận vương qua lại, nếu họ nói ra chúng ta ở đây, tất sẽ sai người tới bắt, chúng ta sống sẽ không yên ổn, chi bằng hãy rời khỏi Tín Châu đi chỗ khác.
Hai người lại bàn nhau tới Đàm Châu, hôm sau chưa đầy một ngày họ đã tới Đàm Châu. Thế là họ đã cách Quận vương khá xa. Họ mua một căn nhà ở thị trấn Đàm Châu, treo tấm biển, đề dòng chữ "Thôi Ninh chuyên nghề chế tác ngọc". Thôi Ninh nói với Tú Tú:
- Ở đây cách nơi ở của Quận vương hơn hai ngàn dặm, chắc rằng chúng ta sẽ vô sự, anh và em sẽ yên tâm sống lâu dài.
Đàm Châu cũng có những quan viên từ nơi khác đến, biết Thôi Ninh là thợ giũa ngọc hằng ngày vẫn đến làm thuê trong dinh Quận vương. Sợ bị phát hiện Thôi Ninh ngầm sai người thăm dò những việc xẩy ra trong phủ Quận vương. Có người thường tới đó cho biết, đêm dinh Quận vương bốc cháy không tìm thấy một người hầu gái, Quận vương đã bỏ tiền ra thuê tìm mấy ngày mà vẫn không thấy, không biết bây giờ cô ấy ở đâu. Nghe nói Thôi Ninh dẫn cô ấy chạy tới Đàm Châu.
Ngày tháng thoi đưa thế mà họ đã sống chung với nhau được hơn một năm. Một hôm, sáng ra vừa mở cửa, thấy có hai người ăn mặc giống như Ngu hầu tại phủ Quận vương, tới cửa hàng hỏi:
- Bản quan nghe nói Thôi Đãi Chiếu ở phủ Quận vương, xin mời tới giũa ngọc.
Thôi Ninh dặn dò người nhà, rồi lên đường tới huyện Tương Đàm. Họ dẫn Thôi Ninh vào dinh gặp quan, rồi mang ngọc cho Thôi Ninh giũa. Trên đường trở về, Thôi Ninh thấy một người đàn ông, đầu đội nón nan tre, mặc áo trắng, chân quấn xà cạp xanh, đi giày vải gai, gánh một gánh nặng đi tới. Người ấy nhìn Thôi Ninh, song anh không hề biết người này. Thôi Ninh đi tiếp người ấy lại rảo bước theo anh. Đúng là:
Trẻ nhà ai khua náo

Uyên ương sợ bay đi.
Về Đầu Trang Go down
https://triamquan.forumvi.com/
Tri Âm Quán
Thành Viên Tích Cực
Thành Viên Tích Cực
Tri Âm Quán


Tổng số bài gửi : 6340
Reputation : 2
Join date : 31/07/2013
Đến từ : Thị Trấn Chũ

Đoán Án Kỳ Quan - Page 5 Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Đoán Án Kỳ Quan   Đoán Án Kỳ Quan - Page 5 EmptyFri Apr 18, 2014 7:18 pm

nhiều tác giả
Đoán Án Kỳ Quan
Phạm Tú Châu - Nguyễn Văn Thiệu (Dịch và biên soạn)
Chương 4 (B)
Ngõ trúc trâu về hoa đua nở
Nhà cỏ rào thưa trăng sáng ngời
Chén lưu li nhấp ngụm rượu quê
Bên mâm ngọc ngắm hoa mai nở
Đừng ảo não, vui lên cười ha hả
Ba ngàn dặm chẳng người tri kỉ
Mười vạn quân, treo ấn từ quan.
Đây là bài từ Giá cô thiên do Lưu Lưỡng Phủ, một danh tướng oai hùng Tần Châu, Quan Tây làm ra, khi ông theo Thuận Xương tham chiến trở về, nương thân tại huyện Tương Đàm, Đàm Châu, Hồ Nam. Ông là danh tướng không tham lam của cải, gia cảnh bần hàn, thường tới quán quê uống rượu. Người trong quán không biết Lưu Lương Phủ, hò reo ầm ĩ.
Lưu Lương Phủ nói:
- Ta coi thường hàng trăm vạn quân, nay bị người ta vu cáo.
Ông làm bài Giá cô thiên để truyền tới kinh đô. Lúc ấy Điện tiền Thái úy Dương Hòa Vương thấy bài từ này, rất thương ông, nói:
- Hóa ra là Lưu Lương Phủ sống cô đơn nghèo túng.
Rồi ông bảo quan đề hạt sai người đưa cho Lưu Lương Phủ một ít tiền. Nay thì Đông Nhân Quận vương thấy Lưu Lương Phủ nghèo túng như thế cũng sai người đưa tiền đến biếu ông.
Người ấy qua Đàm Châu, gặp Thôi Ninh đi trên đường, theo Thôi Ninh về nhà, lại thấy Tú Tú đang ngồi sau quầy hàng, chạm trán họ, ông ta nói:
- Anh Thôi! Đã lâu tôi không thấy, nay lại gặp anh ở đây, và cả cô Tú Tú nữa, tại sao cũng ở đây!? Quận vương sai tôi mang thư tới Đàm Châu, nay bỗng dưng gặp anh chị, hóa ra là Tú Tú đã lấy anh, thế cũng tốt!
Rồi người ấy lại dọa nạt Thôi Ninh và Tú Tú một hồi.
Người ấy vốn là tay chân, hầu hạ Quận vương từ nhỏ. Thấy anh ta là người thật thà Quận vương sai mang tiền đến cho Lưu Lương Phủ.
Người này tên là Quách Lập, thường gọi là Quách Bài Quân. Lúc ấy vợ chồng Thôi Ninh mời Quách Bài Quân ở lại, dọn cơm rượu thết đãi. Họ nói với ông ta rằng:
- Xin anh về phủ đừng nói cho Quận vương biết.
- Quận vương làm sao mà biết được anh chị ở đây, - Quách Bài Quân nói, - tôi cũng chẳng hơi đâu nói chuyện này làm gì.
Quách Bài Quân cảm ơn vợ chồng Thôi Ninh rồi ra khỏi Nhà. Về tới phủ, gặp Quận vương, đưa thư cho ông, rồi ngập ngừng nhìn Quận vương, nói:
Hôm kia con đưa thư về, qua Đàm Châu, thấy hai người đang ở đó.
- Ai? - Quận vương hỏi.
- Con thấy Tú Tú Dưỡng Nương và Thôi Đãi Chiếu. Họ mời con ăn cơm, và bảo con về phủ đừng nói cho Quận vương biết.
Thấy thế Quận vương nói:
- Hai đứa ấy làm như thế không thể tha thứ được! Tại sao chúng trốn mãi tới đó?
- Con cũng không biết rõ, - Quách Lập nói. - Con chỉ thấy họ ở đó, vẫn treo biển làm hàng.
Quận vương sai ngươi báo cho phủ Lâm An, và lập tức sai người chuẩn bị phí tổn dẫn sai nha đến phủ Đàm Châu, Hồ Nam, mang lệnh bắt Thôi Ninh, Tú Tú. Quả là:
Đại bàng vồ chim nhạn,
Mãnh hổ nuốt cừu non.
Chưa đầy hai tháng họ bắt được hai người giải về phủ, báo cho Quận vương biết. Quận vương lập tức lên công đường.
Vốn là, khi Quận vương giết người, tay trái dùng một thanh long đao gọi là "Tiểu thanh", tay phải dùng một thanh gọi là "Đại thanh", hai thanh long đao này không biết đã chém bao nhiêu người. Khi không dùng đến, hai thanh long đao này được cho vào bao treo trên tường. Quận vương lên công đường, quan lính dạ ran, lập tức áp giải hai người tới, quỳ trước công đường.
Hai thanh kiếm đang đặt trên giá ngà, Quận vương nổi nóng, tay trái cầm ngay "Tiểu thanh", tay phải rút "Đại thanh" ra, cầm lăm lăm trong tay, đôi mắt của kẻ giết người mở trừng trừng, răng nghiến ken két. Phu nhân của ông đứng trong bình phong sợ quá nói:
- Quận vương! Đây là nơi đế đô, không phải là chốn biên thùy. Nếu có tội thì giải về phủ Lâm An hành hình, chứ sao lại chém bừa ở đây.
Quận vương nghe xong, nói:
- Ta không thể tha thứ cho đứa súc sinh này trốn thoát một lần nữa. Nay đã bắt được, thì cớ gì ta lại không chém được. Phu nhân đã khuyên thì hãy đưa Tú Tú vào vườn hoa phía sau phủ đường thủ tiêu, giải Thôi Ninh tới phủ Lâm An chém đầu.
Sau đó Quận vương thưởng tiền, rượu cho những người đi bắt. Giải Thôi Ninh tới phủ Lâm An. Thôi Ninh khai hết từ đầu:
- Đêm hỏa hoạn, con tới phủ, tất cả đều đã chạy hết, chỉ thấy Tú Tú Dưỡng Nương từ hành lang đi ra, kéo tay con nói: "Sao anh không nhận em làm vợ? Nếu anh không nghe em thì em sẽ hại anh", đòi con cùng bỏ trốn. Bất đắc dĩ con đã trốn theo cô ấy. Đó là sự thực.
Lâm An phủ trình hồ sơ lên Quận vương. Quận vương là người cương trực, nói:
- Đã như thế thì xử nhẹ tội, tha cho Thôi Ninh. Anh ta không phải là kẻ chủ mưu trốn chạy, đánh cho mấy gậy rồi đuổi tới phủ Kiến Khang cư trú.
Sai nha giải Thôi Ninh đi. Vừa ra khỏi cửa Bắc, đến Nga Đỉnh Đầu thấy một chiếc kiệu có hai người khiêng, từ đằng sau gọi với lại:
- Thôi Đãi Chiếu, hãy đứng lại!
Thôi Ninh nghe như tiếng Tú Tú đuổi theo mình, bối rối không biết làm thế nào. Thôi Ninh như một con chim đã từng bị bắn không dám nhiễu sự, cứ cúi đầu lặng lẽ bước. Thấy người đằng sau đuổi tới, kiệu dừng, một người đàn bà từ trong kiệu bước ra, không phải ai khác đó chính là Tú Tú. Cô nói:
- Thôi Đãi Chiếu! Nếu anh tới phủ Kiến Khang thì em tính sao đây?
- Vậy thì như thế nào bây giờ? - Thôi Đãi Chiếu nói.
- Khi anh bị giải đi Lâm An phán xét, Quận vương bắt em ra vườn hoa phía sau, đánh em ba mươi gậy rồi đuổi em đi. Biết anh tới phủ Kiến Khang nên đã đuổi theo anh.
- Thế thì tốt quá! - Thôi Ninh đáp.
Thế là họ thuê thuyền tới phủ Kiến Khang. Người áp giải tự trở về. Nếu như người áp giải bép xép thì lại sinh chuyện. Vì Quận vương vốn là người tính nóng như lửa, sẽ cho người bắt họ ngay chứ không để họ thoát. Nhưng anh ta không phải là người trong phủ, nên không để ý đến chuyện đó, hơn nữa, dọc đường Thôi Ninh đã đối xử với anh ta rất tốt. Cảm ơn lòng tốt của Thôi Ninh, nên khi trở về, anh ta chỉ nói những điều tốt đẹp về Thôi Ninh, còn những chuyện khác anh ta không hề nói.
Thôi Ninh và Tú Tú đến sống tại phủ Kiến Khang, vì đã xét xử nên không sợ người khác biết được, họ vẫn mở cửa hàng chế tác ngọc như trước. Người vợ nói:
- Hai vợ chồng ta sống ở đây như thế này là tốt rồi, chỉ có điều từ khi em trốn đến Đàm Châu tới nay, cha mẹ em phải chịu vất vả khổ sở. Khi bắt em vào phủ, cha mẹ em sống dở chết dở. Nay anh hãy cho người tới phủ thành đón cha mẹ về ở với chúng ta.
- Thế thì tốt quát - Thôi Ninh nói.
Sau đó họ viết địa chỉ, sai người đón bố mẹ vợ về. Người ấy đến Lâm An, tìm tới nơi ở của cha mẹ, hỏi những người láng giềng, họ nói rằng:
- Đây là nhà của ông bà ấy.
Người ấy vào nhà, thấy cửa khóa, bèn hỏi người láng giềng:
- Ông có biết, ông bà ấy đi đâu không?
- Ông bà ấy được một người con gái, đã hiến cho một người có thế lực lớn. Người con gái ấy không biết sướng lại bỏ trốn theo một người thợ giũa ngọc. Gần đây bị bắt ở Hồ Nam giải về bị đưa tới phủ Lâm An xét xử. Người con gái ấy bị Quận vương đưa ra vườn hoa sau phủ đường. Ông bà già thấy con gái bị bắt, họ sống dở chết dở, đã lâu bặt vô âm tín, cứ đóng cửa im ỉm như thế.
Người ấy thấy thế lại trở về Kiến Khang, song vẫn chưa tới nhà.
Thôi Ninh đang ngồi trong nhà, thấy bên ngoài có người hỏi: "ông tìm nhà Thôi Đãi Chiếu ư? Nhà anh ấy đây". Thôi Ninh gọi vợ ra xem, thì không phải ai khác, đó chính là ông bà Cừ. Họ nhìn nhau sung sướng mừng vui. Hôm sau người đi tìm ông bà Cừ mới về, nói là tìm không thấy, thật là uổng công. Nhưng ông bà ấy đã đến đây rồi. Ông bà Cừ nói:
- Thật không ngờ con lại ở đây. Ta không biết con sống ở Kiến Khang, đã đi tìm khắp nơi rồi tới đây.
Rồi họ cùng sống với nhau trong một mái nhà.
Một hôm, quan lại trong triều đình tới cung điện thưởng ngoạn những đồ mỹ nghệ bằng ngọc, họ đều cầm pho tượng ngọc Quan âm lên xem. Trên pho tượng có một chiếc chuông ngọc nhỏ, nhưng lỡ tay rơi vỡ. Vua hỏi các quan cận thần:
- Các khanh, làm thế nào để sửa lại pho tượng này?
Các quan Viên cầm pho tượng xem đi xem lại. Một người nói:
- Pho tượng Quan âm rất đẹp, rơi mất chiếc chuông, vẻ đẹp của pho tượng giảm đi rất nhiều!
Xem dưới để pho tượng, lại thấy khắc ba chữ "Thôi Ninh tạo" người ấy nói:
- Dễ thôi. Đã có người chế tác, thì cứ việc gọi người ấy tới, bảo họ sửa lại. Triều đình lệnh xuống phủ Quận vương, đòi người thợ chế tác ngọc Thôi Ninh tới. Quận vương tâu rằng:
"Thôi Ninh phạm tội, đang cư trú tại phủ Kiến An". Lập tức triều đình sai người tới Kiến An đòi Thôi Ninh về khu hành tại ở. Lệnh cho Thôi Ninh vào gặp vua, vua giao cho pho tượng ngọc Quan âm cho Thôi Ninh sửa lại. Thôi Ninh tạ ơn, rồi tìm một viên ngọc như thế chế tác một chiếc chuông nhỏ ghép vào, rồi dâng lên vua. Vua phá thông lệ nuôi dưỡng Thôi Ninh, lệnh cho cư trú tại khu hành tại. Thôi Ninh nghĩ: "Nay ta được gặp vua, chẳng thua kém ai, có thể trở lại Thanh Hồ Hà tìm một ngôi nhà mở hiệu chế tác ngọc, cũng chẳng sợ chạm trán với họ nữa". Song vừa mở cửa hàng được ba ngày, thì một người đàn ông tới, đó chính là Quách Bài Quân. Thấy Thôi Đãi Chiếu bèn nói:
- Anh Thôi Đãi Chiếu, xin chúc mừng anh, anh lại về đây ở rồi.
Quách Bài Quân ngẩng đầu lên, nhìn thấy vợ Thôi Đãi Chiếu đang đứng sau quầy hàng. Quách Bài Quân giật mình bỏ đi ngay. Tú Tú nói với chồng:
- Anh gọi Quách Bài Quân lại để em hỏi một chút.
Thôi Đãi Chiếu đuổi theo Quách Bài Quân gọi lại. Quách Bài Quân cứ lắc đầu xoay xoáy, miệng lẩm bẩm nói một mình "Quái lạ! Thật quái lạ!" không sao khác được, Quách Bài Quân bèn cùng với Thôi Ninh trở lại. Vợ Thôi Ninh ra chào, hỏi:
- Quách Bài Quân! Lần trước tôi có lòng mời anh ở lại xơi rượu anh lại về nói với Quận vương làm hại chúng tôi. Nay lại được bái kiến vua, không sợ anh nói nữa.
Quách Bài Quân bị Tú Tú hỏi cứng họng không sao nói được chỉ nói "tôi xin lỗi", rồi từ biệt. Về tới phủ, Quách Bài Quân nói với Quận vương:
- Có ma!
- Ngươi nói gì? - Quận vương nói.
- Thưa Quận vương, có ma! - Quách Bài Quân nói.
- Ma nào? - Quận vương hỏi.
- Vừa rồi con đi qua Thanh Hồ Hà, - Quách Bài Quân nói, - thấy Thôi Ninh mở cửa hàng chế tác ngọc, song lại thấy một người đàn bà đứng trong quầy hàng, người ấy là Tú Tú Dưỡng Nương.
- Nói bậy! - Quận vương nôn nóng nói, - Tú Tú đã bị ta giết chôn ở vườn hoa phía sau, tại sao người lại thấy ở đó? Ngươi không đùa ta đấy chứ?
- Thưa Quận vương, - Quách Bài Quân nói, - con đâu dám nói đùa. Vừa rồi cô ta đã gọi con tới trách cứ. Nếu Quận vương không tin cứ cho người đi bắt.
- Nếu quả nó ở đấy thì người mang lệnh đi bắt.
Quách Bài Quân cũng là thân tội. Quả nhiên Quận vương viết lệnh, gọi hai người phu khiêng một chiếc kiệu đi bắt người con gái ấy về. Quận vương nói:
- Nếu đúng nó ở đó thì đem về chém đầu, nếu nó không ở đó thì Quách Lập bị chém thay.
Quách Lập cùng hai người phu khiêng kiệu đến bắt Tú Tú.
Quách Lập người Quan Tây, tính vốn thật thà, song không biết lệnh quân bắt người bừa như thế. Ba người tới nhà Thôi Ninh, vẫn thấy Tú Tú ngồi sau quầy hàng. Quách Bài Quân nói:
- Tú Tú, lệnh của Quận vương tới bắt cô.
- Đã thế thì các anh chờ một chút. - Tú Tú nói. - Để tôi chải đầu rửa mặt đã.
Rồi cô vào nhà trong chải đầu, thay quần áo, xong bước ra dặn dò chồng, lên kiệu vào phủ đường. Hai người phu khiêng kiệu tới phủ, Quách Lập vào trước, Quận vương đã đang chờ tại sảnh đường. Quách Lập nói:
- Chúng con đã bắt Tú Tú Dưỡng Nương tới.
- Đưa nó vào đây. - Quận vương nói.
Quách Lập trở ra nói:
- Tú Tú! Quận vương đòi cô vào.
Mở rèm kiệu ra xem, thì như một thùng nước lạnh dội vào người, Quách Lập cứ há hốc mồm ra. Không thấy Tú Tú ngồi trong kiệu nữa. Hỏi hai người phu khiêng kiệu, họ nói:
- Tôi không biết, chỉ thấy cô ấy lên kiệu, rồi khiêng về đây không thấy cô ấy ra khỏi kiệu.
Quách Lập vào bẩm:
- Thưa Quận Tương, như thế thì đúng là ma rồi?
- Ta không thể chịu nổi! - Quận vương nói. - Chờ ta viết lệnh chém đầu Quách Lập.
Trước hết ông rút thanh "Tiểu thanh" ra. Xưa nay Quách Lập hầu hạ Quận vương, cũng đã mấy lần được thăng quan, có lẽ Quách Lập là người quê mùa, chỉ cho làm bài quân thôi.
Quách Lập cuống lên, nói:
- Hiện có hai kiệu phu chứng kiến, xin ngài cứ hỏi họ.
Lập tức Quận vương gọi hai người phu khiêng kiệu tới, họ nói:
- Chúng con thấy cô ấy lên kiệu, khiêng tới đây thì không thấy nữa.
Họ nói giống nhau, Quận vương nghĩ hẳn là ma rồi. Phải gọi Thôi Ninh tới hỏi. Thế rồi sai người gọi Thôi Ninh tới phủ đường. Thôi Ninh kể lại từ đầu. Quận vương nói:
- Như thế thì chẳng có liên can gì tới Thôi Ninh, bèn tha cho anh.
Thôi Ninh bái tạ ra về. Quận Tương lôi ngay Quách Bài Quân vụt năm mươi gậy.
Thôi Ninh nghe thấy vợ mình là ma, trở về hỏi bố mẹ vợ.
Hai người đi ra cửa, rồi cứ đăm đăm nhìn nhau, nhìn dòng sông Thanh Hồ, rồi nhảy ùm xuống đó. Người ta kêu ầm lên, nhảy xuống cứu, song không thấy thi thể đâu. Vốn là khi giết Tú Tú, ông bà già này nghe thấy đã nhảy xuống sông chết rồi. Nên hai người này cũng là ma.
Thôi Ninh như người mất hồn, bước vào nhà, thấy vợ đang ngồi trên giường. Thôi Ninh nói:
- Tú Tú, hãy tha thứ cho tôi.
- Em vì anh mà bị Quận vương đánh chết, chôn ở vườn hoa phía sau. Chỉ giận Quách Lập lắm mồm, nay em đã trả thù rồi Quận vương cũng đã đánh anh ta năm mươi gậy. Nay ai cũng biết em là ma, không thể ở lại được nữa.
Nói xong Tú Tú ôm lấy Thôi Ninh, kêu lên một tiếng, rồi ngã vật ra. Láng giềng đổ xô tới xem thì thấy đã hoàn toàn tắt thở. Thôi Ninh cũng bị lôi đi trở thành ma. Người đời sau bàn rằng:
Hàm An Vương tính nóng không kìm nổi.
Quách Bài Quân chẳng giữ được miệng mình.
Tú Dưỡng Nương không rời bỏ người thân.

Thôi Đãi Chiếu thoát sao vòng oan nghiệt.
Về Đầu Trang Go down
https://triamquan.forumvi.com/
Tri Âm Quán
Thành Viên Tích Cực
Thành Viên Tích Cực
Tri Âm Quán


Tổng số bài gửi : 6340
Reputation : 2
Join date : 31/07/2013
Đến từ : Thị Trấn Chũ

Đoán Án Kỳ Quan - Page 5 Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Đoán Án Kỳ Quan   Đoán Án Kỳ Quan - Page 5 EmptyMon Apr 21, 2014 1:56 pm

nhiều tác giả
Đoán Án Kỳ Quan
Phạm Tú Châu - Nguyễn Văn Thiệu (Dịch và biên soạn)
Chương 5
Bồ Tát Man(1)
(1) Bồ Tát Man: tên một điệu từ khúc.
Xưa nay trước gió đèn phải tắt,
Danh lợi đôi đường chẳng dựa nhau.
Chỉ sợ làm sư mà không được,
Bởi vì sư cũng có hổ mang.
Năm Thiệu Hưng thời Tống Cao Tông, huyện Lạc Thanh, phủ ôn Châu, có một vị tú tài tên là Trần Nghĩa, tự Khả Thường, trạc hai mươi bốn tuổi. Dáng người khôi ngô tuấn tú lại thông minh, làu thông kinh sử. Thời Thiệu Hưng, ba lần đi thi thì cả ba lần đều trượt. Trần Nghĩa tới cửa hàng xem tướng ở Chúng An Kiều, phủ Lâm An xem số mệnh của mình. Thầy tướng nói:
- Cung mệnh có sao Hoa Cái, mà không có sao Quan, số phải xuất gia.
Thời còn nhỏ Trần Nghĩa từng nghe mẹ kể, khi bà sinh ra mình, bà nằm mơ thấy một vị La Hán đầu thai. Nay đường công danh trắc trở, lại nghe thấy thầy tướng nói thế, phẫn chí, trở về nhà trọ nghỉ một đêm, sáng dậy trả tiền, thuê người gánh hành lí tới chùa Linh ân xin với Ân Thiết Ngưu xuất gia tu hành. Vị sư già này làu thông kinh kệ, có mười đồ đệ hiệu là Ất, Giáp, Bính, Đinh, Mậu, Kỷ, Canh, Tân, Nhâm, Quý, tất cả đều rất thông minh. Trần Khả Thường được Thượng Tọa xếp thứ hai.
Năm Thiệu Hưng thứ mười, cậu của hoàng đế là Ngô Thất Quận vương, vào ngày mồng bốn tháng năm, trong phủ gói bánh chưng, Quận vương lệnh cho Đô quản:
- Ngày mai tới chùa Linh Ẩn đãi chay, các nhà sư hãy chuẩn bị thật chu đáo. - Đến sáng hôm sau, cơm nước xong, Quận vương xem qua đồ ăn, rồi lên kiệu. Dẫn theo Đô quản, Can biện, Ngu hầu, Áp phiên tới Tiền Đường Môn, qua Thạch Hàm Kiều, Đại Phật Đầu, tới chùa Linh ẩn, Sơn Tây. Trước hết đưa giấy báo cho nhà chùa biết, sư cụ dẫn các nhà sư đánh chiêng trống đón Quận vương vào chính tẩm dâng hương. Sau đó mời Quận Tương về phòng khách. Sư cụ đưa các sư tới chào và tiếp trà, xếp hàng đứng hai bên. Quận vương nói:
- Hằng năm vào ngày mồng năm tháng năm, ta thường cho mang bánh chưng tới chùa thết chay các nhà sư. Hôm nay ta tới chùa bố thí theo thường lệ.
Nhà chùa đưa lên cúng Phật một mâm bánh chưng to. Các nhà sư đều trở về các phòng. Quận vương dạo chơi ngoài hành lang, thấy trên tường có bốn câu thơ
Nước Tề từng có Mạnh Thường Quân Nước Tấn, Chấn Ác thật kiên cường.
Chỉ có riêng ta là vận hẩm
Muốn tới thầy, bói quẻ xem sao.
Thấy bài thơ Quận vương nghĩ, "Bài thơ này có ý oán hận, không biết ai đã làm". Trở về phòng khách, sư cụ trụ trì bày yến khoản đãi. Quận vương hỏi sư cụ:
- Trong nhà của sư cụ có ai giỏi làm thơ không?
- Cảm ơn Quận vương, - sư cụ đáp - bản tự, sư khá đông, cả thảy có mười đồ đệ, đó là Giáp, Ất, Bính, Đinh, Mậu, Kỷ, Canh, Tân, Nhâm, Quý, đều biết làm thơ.
- Hãy gọi họ tới đây cho ta. - Quận vương nói.
- Đa tạ Quận vương. - Cụ sư trụ trì nói. - Hôm nay chỉ có hai người ở chùa, còn tám người kia đều xuống các làng khuyên giáo.
Giáp và Ất đến gặp Quận vương. Quận vương bảo Giáp:
- Ngươi hãy làm một bài thơ xem sao.
Giáp xin Quận vương ra đề. Quận vương ra đề là bánh chưng. Giáp đọc:
Bốn góc vuông vuông mình lạt buộc,
Lục ục trong nồi đảo mấy vòng.
Nếu như được gặp Đường Tam Tạng,
Xem ra người cũng phải lột trần.
Quận vương nghe xong cười phá lên:
- Hay, hay lắm, song vẫn thiếu mầu sắc văn chương.
Sau đó ngài bảo Ất làm một bài. Ất xin đề, ngài vẫn ra đề bánh chưng. Ất đọc:
Bánh thơm Đoan Ngọ tế Khuất Nguyên
Trai tăng nay được kết lương duyên.
Cả chùa được hưởng chăng có biết,
Ai người từng vất vả đầu tiên.
Quận vương rất vui nói:
- Hay, rất hay.
Rồi hỏi Ất:
- Bài thơ viết trên tường có phải ngươi làm không?
- Đa tạ Quận vương, chính con làm ạ!
- Ngươi đã là bài thơ ấy, thì ngươi hãy giải thích ta nghe.
- Nước Tề có Mạnh Thường Quân, sinh vào ngày mồng năm tháng Năm. - Ất nói. - Đã nuôi ba ngàn thực khách. Nước Tần có đại tướng Vương Trấn Ác, ông ấy cũng sinh vào ngày mồng năm tháng Năm, song lại nghèo khổ cùng cực, bởi thế con làm bốn câu than vãn.
- Ngươi quê ở đâu? - Quận vương hỏi.
- Con là người huyện Lạc Thanh, phủ Ôn Châu, - Ất nói, - tên là Trần Nghĩa, tự Khả Thường.
Quận vương thấy Ất tài năng xuất chúng, đối đáp lưu loát trôi thảy, bèn cất nhắc Ất. ông sai ngay người giúp việc tới Tăng Lục ty phủ Lâm An xin một tờ chứng nhận sư, rồi làm lễ cắt tóc Ất làm sư, lấy pháp danh là Khả Thường, trụ trì trong phủ Quận vương. Tới chiều Quận vương mới trở về.
Thời gian thấm thoát thoi đưa, mới thoáng qua mà đã một năm. Tới ngày mồng năm tháng Năm, Quận vương lại tới chùa Linh Ẩn đãi chay các nhà sư. Sư cụ trụ trì dẫn Khả Thường và các nhà sư vào tiếp Quận vương tại phòng khách, và dọn cỗ chay khoản đãi. Quận vương gọi Khả Thường tới bảo:
- Ngươi hãy làm một bài từ nói về bản thân mình. Khả Thường cảm ơn Quận vương rồi đọc một bài từ theo điệu Bồ
Tát Man:
Đương triều đời ta không gặp vận,
Tới nay ta đã được đền bù.
Năm nay Đoan Ngọ tới,
Ngày trai tăng đợi chờ.
Chủ nhân ân nghĩa trọng.
Hai lần chịu ơn sâu.
Thanh tịnh làm tăng lữ,
Sống nhàn nhã thảnh thơi.
Quận vương rất vui mừng, tiệc tan trở về phủ đường, đem theo Khả Thường về yết kiến Lưỡng Quốc phu nhân. Ông nói:
- Hòa thượng này người ôn Châu, tên là Trần Nghĩa, ba lần thi không đậu, bởi thế thoát tục đi tu tại chùa Linh Ẩn. Ta thấy anh ta làm thơ hay, bèn làm lễ cắt tóc phong sư đã được một năm, pháp danh là Khả Thường, nay ta đưa về phủ bái kiến phu nhân.
Thấy thế phu nhân rất vui. Lại thấy Khả Thường thông minh thật thà chất phác, người trong cả phủ đều vui mừng.
Quận vương và phu nhân bóc bánh chưng mời Khả Thường, rồi bảo Khả Thường làm bài từ về bánh chưng, vẫn là điệu "Bồ Tát Man". Khả Thường cảm ơn, rồi xin giấy bút viết:
 giữa nếp thơm vuông bốn góc
Dao cắt, tơ mầu sao mà sắc,
Rượu xương bồ tràn chénNhân dịp Đoan Ngọ hàng năm,
Chu nhân ân nghĩa trọng
Ta mang nặng ơn người.
Bao giờ lên chơi núi,
Hoa quỳ lác đác phai.
Quận vương thấy thế rất vui, cho gọi Tân Hà Thư, hát bài từ của Khả Thường. Tân Hà Thư có đôi mắt thanh tú, da trắng nõn nà, đôi môi đỏ thắm, dáng vẻ khoan thai uyển chuyển. Tay cầm phách ngà, đứng trước bàn tiệc, tiếng hát du dương thánh thót ai ai cũng hết lời khen ngợi. Quận vương lại bảo Khả Thường làm một bài từ về Tân Hà Thư, vẫn theo điệu Bồ Tát Man. Khả Thường cầm bút viết:
Dáng người thon thả. Lời ca dứt, vẫn còn vương vấn
Tiếng trong trẻo lạ kì, vẫn còn lởn vởn bụi trần bay.
Nhờ ơn chủ, trong bữa tiệc được gặp khách hồng quần
Chỉ tiếc vừa thoáng cái đã phải chia tay.
Quận vương vô cùng thích thú. Tới tối tiệc mới tan, Khả Thường trở về chùa.
Tới ngày mồng năm tháng Năm năm sau, Quận vương lại tới chùa Linh Ẩn thết cơm chay, không ngờ trời đổ mưa như trút Quận vương không đi được bảo Viện Công:
- Ngươi hãy đi mời cơm chay các nhà sư, rồi đưa Khả Thường cùng về phủ chơi.
Viện Công vâng lệnh tới chùa Linh Ẩn, nói với sư cụ trụ trì, Quận vương dặn mời Khả Thường về phủ. Sư trụ trì nói:
- Gần đây Khả Thường mắc bệnh tim, không ra khỏi trai phòng. Tôi cùng ông tới thăm Khả Thường một chút.
Viện Công cùng sư cụ trụ trì tới phòng Khả Thường. Khả Thường nằm trên giường nói với Viện Công:
- Xin cảm ơn Quận vương, tôi bị bệnh tim, không đi được, tôi có một bức thiếp nhờ ông trình lên Quận vương giúp cho.
Viện Công nhận lời, mang tờ thiếp về phủ. Quận vương hỏi:
- Tại sao Khả Thường không tới?
- Thưa Quận vương, Khả Thường gần đây đau tim, không tới được. Nhờ con dâng lên ngài một phong thư, chính tay Khả Thường bỏ vào phong bì rồi dán lại.
Quận vương mở phong thư ra xem, thấy một bài từ theo điệu Bồ Tát Man.
Năm ngoái được thưởng rượu xương bồ
Năm nay tại trai phòng nằm co.
Việc đời sao rắc rối,
Khiến người phải bó tay.
Xin cảm ơn người.
Tim con đau nhói,
Nếu gặp Tân Hà,
Chắc rằng bệnh khỏiQuận vương lập tức cho gọi Tân Hà hát bài từ này. Bà quản gia thưa:
- Bẩm Quận vương, gần đây Tân Hà mi mắt sụp xuống, mắt lờ đờ, ngực nở bụng to, không đi lại được.
Quận Vương đùng đùng nổi giận, sai người đưa Tân Hà tới Ngũ phu nhân xét hỏi. Tân Hà khai:
- Con gian dâm với Khả Thường nên đã có mang.
Ngữ phu nhân tâu trình lên Quận vương. Quận vương đùng đùng nổi giận:
- Trách nào trong bài từ của tên đầu trọc ấy có câu: "Được gặp Tân Hà chắc rằng khỏi bệnh". Nó không phải mắc bệnh tim mà là ốm tương tư! Nay nó xấu hổ không dám tới phủ.
Quận vương liền sai người nói với phủ Lâm An, cho người tới chùa Linh Ẩn, bắt sư Khả Thường. Sư cụ trụ trì đành phải dọn cơm rượu và đưa cho sai nha ít tiền. Người ta thường nói: "Phép quan như lò lửa", ai dám dung tha. Khả Thường thoái thác không được đành phải gắng gượng dậy, theo sai nha về phủ Lâm An. Quan phủ lên công đường xét hỏi.
Nha lệ đứng hai hàng,
Khả Thường run cầm cập.
Diêm vương phán tử hình,
Đông Nhạc toát mồ hôi.
Quan hỏi:
- Ngươi xuất gia tu hành, Quận vương đã ưu đãi ngươi như thế tại sao lại làm điều vô đạo đức. Hãy khai mau.
- Hoàn toàn không có chuyện ấy. - Khả Thường nói.
Phủ Doãn không nghe lời phân trần của Khả Thường, quát:
- Hãy đánh chết nó đi! Sai nha lôi Khả Thường đánh, đến nỗi rách da toạc thịt, máu tươi chảy lênh láng. Khả Thường nói:
- Quả thật con không gian dâm với Tân Hà, bất chợt con chỉ có ý nghĩ xấu thôi, thực tình là như thế.
Xét hỏi, tra khảo, thì Tân Hà vẫn khai như trước. Phủ Lâm An tâu trình lời khai của hai người lên Quận vương. Quận vương vốn định giết Khả Thường, song vì có tài năng văn chương không nỡ ra tay, bèn giam Khả Thường vào ngục. Thượng tọa trụ trì chùa nghĩ: "Khả Thường là một hòa thượng có đức hạnh, hằng ngày không ra khỏi chùa, chỉ tụng kinh niệm Phật tại chùa. Ngay hôm được Quận vương mời tới dinh nửa ngày, chưa tối đã về, không nghỉ tại phủ đường, thì gian dâm làm sao được?". Ông thấy hết sức băn khoăn, vội vàng vào thành, tới chùa Truyền Pháp, mời vị sư cụ trụ trì Cảo Đại Huệ cùng tới phủ xin tha cho Khả Thường. Quận vương ra nhà khách mời hai vị dùng trà. Quận vương nói:
- Khả Thường vô lễ! Hằng ngày ta đối xử như thế mà anh ta dám làm điều bất lương.
Hai vị Thượng tọa quỳ xuống van nài:
- Tội của Khả Thường chúng tôi không dám biện bạch, chỉ cầu mong Quận vương rủ lòng thương, tha thứ cho Khả Thường.
Quận vương xin hai vị Thượng tọa trở về chùa. Ngày mai sẽ lệnh cho phủ Lâm An xử lí nhẹ việc này.
Thượng tọa chùa Linh ẩn nói:
- Cảm ơn Quận vương. Việc ấy lâu rồi sẽ sáng tỏ.
Quận vương thấy nhà sư trụ trì chùa Linh ẩn nói thế không vui đi vào nhà trong không ra nữa. Thấy Quận vương không ra, hai vị Thượng tọa bèn ra khỏi phủ đường. Hòa thượng Cảo Đại Huệ nói:
- Chắc rằng Quận vương giận vì cụ nói "lâu rồi sẽ sáng tỏ" nên không ra nữa.
- Khả Thường là người có đức hạnh, thường ngày không làm việc gì sai trái, không ra khỏi chùa, suốt ngày chỉ ngồi tụng kinh trước Phật đài. Ngay cả hôm Quận vương mời tới phủ đường thì nửa ngày đã về, chẳng ngủ qua đêm ở đâu thì gian dâm vào lúc nào. Nhất định Khả Thường bị oan cho nên tôi nói "lâu rồi sẽ sáng tỏ".
- Nghèo không chọi nổi giàu, hèn không địch được sang, nhà sư làm sao có thể tranh luận phải trái với Quận vương. Âu đây cũng là nỗi oan nghiệp kiếp trước, vả lại Khả Thường được xử lí nhẹ là được rồi.
Nói xong hai người trở về chùa.
Hôm sau Quận vương sức giấy tới phủ Lâm An, xử lí nhẹ đối với Khả Thường và Tân Hà. Quan phủ doãn thưa với Quận vương: "Chờ khi nào Tân Hà đẻ sẽ xử lí". Quận vương lệnh phải xử lí ngay. Quan phủ đành phải thu hồi giấy công nhận sư, đánh một trăm trượng rồi tha về chùa Linh Ẩn, đuổi về nhà lao động. Đánh Tân Hà tám mươi gậy đuổi về nhà tại huyện Tiền Đường, truy hoàn một ngàn quan tiền về Vương phủ.
Hòa thượng đón Khả Thường về chùa, hầu hết các nhà sư đều khuyên Hòa thượng không nên cho Khả Thường ở chùa, như thế sẽ làm ô uế thanh danh cửa Phật. Hòa thượng nói với các sư rằng:
- Việc này ta vẫn băn khoăn, nhưng lâu rồi sẽ rõ.
Hòa thượng sai người làm sau chùa một gian lều cỏ cho Khả Thường nghỉ ở đó, tới khi nào lành hẳn vết thương sẽ cho về quê hương.
Quận vương đuổi Tân Hà về nhà, truy hoàn một ngàn quan tiền. Cha mẹ Tân Hà nói với con:
- Ta không có tiền, con tích góp được ít vốn nào thì đem trả Vương phủ.
- Thật đáng tiếc con đã làm cho hòa thượng Khả Thường chịu oan khuất! Con đã tư thông với Đô quản, thấy con có mang, ông ta sợ sự việc vỡ lở, nói rằng: "Trước mặt Quận vương cứ khai là đã gian dâm với hòa thượng Khả Thường. Quận vương yêu quý Khả Thường, nhất định sẽ tha cho em. Ta sẽ cung đốn nuôi dưỡng cả nhà, và cho tiền chi tiêu”. Đô Quản đã hứa như thế thì cha cứ đến hỏi ông ta, đòi tiền tiêu dùng và lấy tiền trả Vương phủ. Con đã bị ông ta lừa, trước ông ta nói thế thì bây giờ chối sao được. Nếu như ông ta lừa dối trở mặt, thì cũng chẳng làm gì được con, bố mẹ cứ đưa con tới Vương phủ, con sẽ khai thực với Quận vương, thì có thể xóa tội cho hòa thượng Khả Thường. - Nghe con gái nói thế, cha mẹ tới phủ Quận vương, nói với Đô quản. Đô quản cuống lên chửi:
- Đồ đê tiện! Đã già mà còn ngu! Không biết thế nào là liêm sỉ. Con gái ngươi gian dâm với hòa thượng, quan đã xét xử rồi thế mà còn lừa dối, đổ cho người khác. Ngươi thiếu tiền trả cho con, không sao được lại ranh mãnh đổ cho ta để gỡ thế bí, giá mà xin ta thương tình cho ngươi một vài quan tiền thì còn nghe được. Đằng này ngươi lại nói những điều vô căn cứ, người ta nghe thấy thì ta trở thành mặt mo à!
Đô quản mắng chửi một thôi một hồi rồi bỏ đi, lão Trương đành ngậm đắng nuốt cay về nói với con gái. Tân Hà thấy cha nói thế, hai hàng nước mắt chảy ròng ròng, nói:
- Cha mẹ cứ yên tâm, ngày mai con sẽ cho hắn biết tay.
Hôm sau, Tân Hà cùng với bố mẹ tới phủ Quận vương kêu oan. Quận vương lập tức sai người gọi vào, thì đó lại là cha mẹ của Tân Hà. Quận vương quát mắng:
- Con gái ngươi phạm trọng tội, tại sao còn đến kêu oan!
- Thưa Quận vương, - lão Trương nói, - con gái con vô phúc, gây ra việc này, khiến cho một người bị mắc oan, cầu mong ngài xét xử.
- Ai bị oan? - Quận vương hỏi.
- Con không biết, xin ngài hỏi con gái con sẽ rõ.
- Con hèn hạ ấy đâu?
- Thưa ngài nó đang hầu ngoài cửa.
Quận vương gọi vào hỏi rõ ngọn ngành. Tân Hà vào phủ đường quỳ xuống. Quận vương hỏi:
- Ngươi là đồ đê tiện, làm việc vô đạo đức, ngươi còn bảo ai bị oan.
- Thưa Quận vương, - Tân Hà nói, - con gian dâm, song đã đổ oan cho hòa thượng Khả Thường.
- Cớ sao lại đổ oan cho Khả Thường? Hãy nói mau, ta sẽ tha cho.
- Con gian dâm, không có liên can gì đến Khả Thường.
- Tại sao trước đây người nói thế?
- Con bị Đô quản lừa dối. Khi con có mang Đô quản sợ bại lộ, bảo con rằng "Nếu việc bại lộ, nhất thiết đừng khai ta ra, mà nói là gian dâm với Khả Thường. Vì Quận vương yêu quý Khả Thường, nhất định sẽ tha cho".
- Mày là đồ đê tiện, - Quận vương nói, - tại sao lại nghe theo hắn làm hại hòa thượng Khả Thường.
- Đô quản nói là, nếu cô vô sự thì ta sẽ nuôi cả nhà cô, nếu như phải hoàn trả tiền cho Quận vương thì ta sẽ bỏ ra. Nay con phải về nhà, Quận vương đòi trả lại tiền, con không sao lo được, đành phải đòi tiền ông ta trả cho Vương phủ. Bởi thế cha mẹ con đến hỏi tiền, ông ta đã vô cớ đánh chửi cha mẹ con. Nay con xin khai thực để Quận vương rõ, con xin chết trước mặt Quận vương.
- Trước đây Đô quản hứa nuôi gia đình ngươi thì có gì làm chứng?
- Thưa Quận vương, khi Đô quản hứa, sợ ông ta lật lọng con đã cầm tấm thẻ bài đỏ làm tin.
Quận vương thấy thế đùng đùng nổi giận, dậm chân quát thét:
- Đồ đê tiện! Đã làm cho Khả Thường phải chịu oan.
Thế rồi Quận vương báo cho phủ Lâm An bắt Đô quản tới sảnh đường xét hỏi, Đô quản phải khai ra sự thực, bị đánh tám mươi gậy, đày tới đảo Sa Môn. Tân Hà về nhà, không phải hoàn lại một ngàn quan tiền. Quận vương sai người tới chùa Linh Ẩn, đòi hòa thượng Khả Thường tới dinh Quận vương.
Hòa thượng Khả Thường sống tại lều cỏ, vết thương đã lành, ngày mồng năm tháng Năm lại đến. Khả Thường lấy bút mực viết một bài từ về đời mình:
Sinh vào ngày Đoan ngọ
Làm hòa thượng ngày Đoan ngọ
Mắc tội ngày Đoan ngọ
Vì đời trước Tân Hà mắc tội.
Nếu ta không nhận
Tân Hà sẽ chịu khổ đau.
Nay việc đời đã rõ,
Ta hãy về nơi cõi Phật.
Mồng năm tháng Năm vào giờ ngọ
Lời kia tiếng nọ hết sạch rồi
Mồng năm tháng Năm, thanh thiên bạch nhật
Lời kia tiếng nọ đã hết rồi.
Làm xong bài từ về cuộc đời mình, Khả Thường ra khỏi lều cỏ ở đó có con suối, Khả Thường ra suối tắm rửa sạch sẽ, về lều cỏ ngồi xếp chân bàn tròn viên tịch, rồi sai người nói cho Thượng tọa biết. Thượng tọa dùng chiếc khám của mình, đặt Khả Thường ngồi vào, rồi khiêng lên đỉnh núi. Thượng tọa đang định châm lửa, thì thấy người của phủ Quận vương tới đòi Khả Thường. Thượng tọa nói:
- Ngài hãy về nói với Quận vương, Khả Thường đã hóa rồi. Tôi đang định châm lửa, thì Quận vương cho người tới đòi, nay tạm dừng, xin chờ lệnh Quận vương.
Người ấy nói:
- Sự việc oan khuất nay đã được sáng tỏ, Khả Thường là người vô tội. Quận vương cho tôi tới đòi, nhưng Khả Thường đã viên tịch. Tôi sẽ về bẩm với Quận vương, nhất định ngài sẽ đích thân tới xem châm lửa.
Người ấy về ngay Vương phủ, tâu trình lại sự việc và dâng bài từ của Khả Thường lên Quận vương. Quận vương rất đỗi kinh ngạc. Hôm sau Quận vương cùng Lưỡng Quốc phu nhân tới chùa Linh Ẩn tham dự lễ thiêu hóa Khả Thường. Các nhà sư mời Quận vương tới núi sau chùa, chính tay Quận vương và phu nhân đốt hương. Quận vương ngồi xuống. Thượng tọa cùng các sư đọc kinh xong, sau đó tay châm lửa, miệng đọc kinh:
Bánh chưng Khuất Nguyên còn thơm dẻo,
Thuyền rồng sao nỡ vội bỏ di.
Từ nay cắt đứt trần duyên nợ,
Chẳng cần kiếp sau lại kết duyên
Kính cẩn bái lạy hòa thượng Khả Thường viên tịch:
Mồng năm tháng Năm giờ tốt
Ai tắm nước hoa lan
Bánh chưng tắm vàng xương bồ, giát ngọc
Cần biết “diệu pháp hoa"
Niệm kinh Đại thừa
Tay không chạm Tân Hà,
Chịu mang tiếng bẻ hoa.
Nay đà sáng tỏ
Hát “Khúc Dương Quan”.
Hôm nay mồng năm tháng Năm,
Sao đã vội về Tây Trúc
Tịch diệt trở về cái không,
Quản chi ngày giờ độc.
Các sư trong chùa đều đến cả,
Hiến dâng hương nến
Soi tỏ tam muội(1)
Để thấy rõ cái chân thật vốn có,
Ôi! Hát hết khúc Bồ Tát Man,
Xuôi tay trở về cõi Phật.
 
(1) Tam muội: tiếng dùng của nhà Phật (dịch từ tiếng Phạn: samàdhi) có nghĩa là làm cho tinh thần yên tĩnh, dứt bỏ mọi ý nghĩ. Là một trong những phương pháp tu hành của đạo Phật. (ND).
 
Trong ánh lửa người ta thấy Khả Thường chào từ biệt, cảm ơn Quận vương, phu nhân, thượng tọa và mọi người.
- Chỉ vì kiếp trước ta còn nặng nợ, rời bỏ kiếp này. Nay ta trở về tiên cảnh, không bao giờ trở lại cõi nhân gian nữa. Ta là Thường Hoan Hỷ Tôn giả, một trong năm trăm vị La Hán.
Đúng là:
Xưa nay đạo trời đều sáng tỏ.
Xấu tốt lâu rồi cũng rõ ra.
Ai ơi, hãy gắng làm điều thiện,

Tích đức thì sau được đáp đền.
Về Đầu Trang Go down
https://triamquan.forumvi.com/
Tri Âm Quán
Thành Viên Tích Cực
Thành Viên Tích Cực
Tri Âm Quán


Tổng số bài gửi : 6340
Reputation : 2
Join date : 31/07/2013
Đến từ : Thị Trấn Chũ

Đoán Án Kỳ Quan - Page 5 Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Đoán Án Kỳ Quan   Đoán Án Kỳ Quan - Page 5 EmptyMon Apr 21, 2014 5:07 pm

nhiều tác giả
Đoán Án Kỳ Quan
Phạm Tú Châu - Nguyễn Văn Thiệu (Dịch và biên soạn)
Chương 6
Hòa Thượng Viết Thư Tình
Vào chuyện - Giá cô thiên:
Dâu gai rợp lá xanh mơn mởn
Tằm xuân ăn rỗi tiếng rào rào
Vũ Môn dập dềnh hoa đào sóng
Nguyệt Điện xuân sang quế ngát hương
Chim bằng sải cánh về biển Bắc
Chim phượng bay theo hướng mặt trời.
Tay mang kiếm, sách, đường xa lắc
Thanh vân dặm thẳng lại ra di
Thương tay sĩ tử sao bận rộn.
Hàm Dương cách Trường An bốn mươi lăm dặm, một người tên là Vũ Văn Thụ, liền trong ba kỳ thi đều tới Trường An ứng thí. Vậy mà trong ba kì thi anh ta đều không đỗ. Vợ là Vương Thị thấy chồng thi trượt trở về, làm một bài từ chuyên nói về chồng thi hỏng. Đầu đề bài từ là Vọng Giang Nam. Bài từ ấy như sau:
Chàng ôm hận mang về nghiên bút.
Hoài công nghiền ngẫm dã bao năm,
Uổng phí sức sôi kinh nấu sư.
Tủi hổ bút nghiên,
Đầm đìa nước mắt.
Thiếp buồn đơn độc, thuyền một chiếc,
Chẳng dám mong bia đá bảng vàng.
Tháng ngày nhan sắc phôi pha,
Cam phận nương thân xóm vắng.
Ý vẫn chưa hết, Vương thị nhìn chồng lại làm thêm bốn câu thơ:
Chàng thường tự đắc khoe tài giỏi
Cớ sao thi trượt phải trở về.
Lần sau chàng nhớ về đêm nhé,
Về ban ngày thiếp xấu hổ chàng ơi.
Giải nguyên Vũ Văn từ đó phẫn chí nghĩ: "Thi không đỗ, nhất định không về". Tới kì thi năm sau, Vũ Văn thi đậu, cứ ở lì Trường An không về nữa. Vợ Vương thị thấy thế nghĩ rằng: "Ta từng làm thơ chế giễu chàng, bởi thế chàng không về". Vương thị bèn viết một phong thư, bảo quản gia Vương Cát:
- Anh hãy giúp ta đưa phong thư này cho chàng.
Trong bút thư, trước hết nói chuyện thăm hỏi, sau đó làm một bài từ, đầu đề là Nam Kha tư.Lời bài từ như sau:
Đêm qua thiếp thấy hoa đèn nở,
Sáng nay chim thước hót trên cành.
Quả nhiên cánh én từ xa tới,
Báo tin chàng thi đỗ về kinh.
Nỗi buồn xưa cũ xua tan hết,
Vui mới hân hoan rạng mặt mày.
Thiếp xưa lầm trách chàng thua kém,
Khiến chàng hờn giận chẳng về quê.
Sau bài từ Vương Thị lại viết thêm bốn câu thơ:
Tràng An nơi ấy chẳng bao xa,
Nước biếc non xanh canh diệu kỳ
Chàng nay hiển đạt còn trẻ lắm,
Thiếp biết chàng đêm ngủ nơi nao.
Vũ văn Thụ nhận thư mở ra xem, đọc hai bài từ và thơ, nghĩ: "Trước đây nàng làm thơ bảo mình phải về vào ban đêm, nay ta thi đậu lại nhắn ta về". Bèn lấy ngay giấy bút, làm bài khúc tên là Đạp sa hành:
Chân bước thang mây
Tay vin cành quế Họ tên ghi chót vót bảng vàng
Cương bạc yên vàng long lánh sáng
Dự yến vua ban, ngao du phường phố
Ta nay phỉ chí tang bồng.
Viết thư báo người khuê các
Lần này tớ ra dáng phong lưu.
Làm xong bài từ, Vũ Văn lấy một tờ giấy hoa tiên gấp thành phong thư. Định viết cho vợ một lá thư nữa, do xếp lại thư cho ngay ngắn, lỡ tay mực rơi ướt giấy. Vũ Văn gấp một tờ giấy khác, viết xong đưa cho quản gia Vương Cát, bảo anh nói với vợ rằng:
- Ta ở Trường An đã đỗ rồi, đến đêm ta sẽ về, chưa tối ta chưa về đâu.
Vương Cát nhận thư, đi bốn mươi lăm dặm đường về thẳng Nhà.
Vũ Văn Thụ gửi thư đi thì trời đã tối, ở nhà trọ chẳng có việc gì bèn đi ngủ. Vừa mới chợp mắt đã mơ mơ màng màng, thấy mình về nhà. Vương Cát tụt giày cỏ rửa chân. Vũ Văn Thụ hỏi:
- Vương Cát đi nhanh nhỉ?
Hỏi hai ba lần không thấy Vương Cát trả lời, Vũ Văn Thụ sốt ruột ngẩng đầu nhìn, thì thấy vợ là Vương Thị cầm nến đi vào phòng. Vũ Văn Thụ bước theo gọi:
- Mình ơi! Anh đã về rồi!
Vũ văn Thụ nói hai ba lần mà không thấy vợ trả lời. Anh liền theo vợ vào phòng, thấy Vương Thị đặt nến trên bàn, rút ngay phong thư ra, rồi lấy chiếc lược vàng cắt phong thư, song trong đó chỉ có một tờ giấy trắng. Người vợ mỉm cười, và dưới ánh nến viết ngay lên tờ giấy đó bốn câu thơ
Em vội buông rèm bóc thư ra,
Giấy tiên trắng toát vẫn ngời hoa.
Mới hay chàng nhớ em da diết,
Không chữ mà sao vẫn mặn mà.
Viết xong Vương Thị lấy chiếc phong bì khác bỏ thư vào dán kín, rồi lấy chiếc lược gẩy ngọn nến, làm bắn vào mặt Vũ Văn Thụ. Anh giật mình tỉnh giấc, hóa ra là mình đang ngủ ở nhà trọ đèn vẫn còn đang sáng. Nhìn lên bàn, quả nhiên thấy bỏ nhầm tờ giấy trắng gửi về, bèn cầm ngay tờ giấy viết lại bốn câu thơ trên. Đến hôm sau, cơm sáng xong, Vương Cát cầm phong thư của vợ tới, Vũ Văn mở ra xem, trong đó viết bốn câu thơ đúng như bốn câu thơ Vũ Văn nằm mơ thấy đêm qua. Thế rồi Vũ Văn sắp xếp hành lí về nhà ngay. Đó gọi là "phong nhầm thư”.
Câu chuyện sau đây lại là “gửi nhầm thư”. Hai vợ chồng người nọ đang ở nhà, thấy có người đưa một bức thư tới cho vợ. Chỉ vì phong thư ấy mà đã xẩy ra một câu chuyện kì quặc.
Đúng là:
Bụi theo vó ngựa bao giờ hết,
Lòng người sớm muộn cũng rõ thôi.
Lông mày kẻ nhạt, cài nghiêng lược
Chẳng thích phấn son vẫn nuột 
Mây vờn cửa sổ sâu thăm thẳm
Vuốt nhẹ hoa tiên học thảo thư
Càng nhiều màu sắc càng xinh đẹp
Người trần sao cốt cách thần tiên?
Thoạt nhìn cứ ngỡ hoa mai nở
Nhìn kĩ, hoa mai cũng chẳng bằng.
Ở ngõ Táo Sóc, phủ Khai Phong, Biện Châu, Đông Kinh, có một người tên là Hoàng Phủ Tùng. Anh ta năm nay hai mươi sáu tuổi là Tả ban điện trực, vợ là Dương Thị, hai mươi bốn tuổi, nuôi một đứa hầu mười ba tuổi, tên là Nghênh Nhi. Nhà chỉ có ba người, ngoài ra không có ai là thân thích.
Hoàng Phủ điện trực được sai mang quần áo ra biên giới, khi về nhà thì đã cuối tháng Giêng. Cách ngõ Táo Sóc không xa có một quán trà, chủ quán là Vương Nhị, hôm ấy vào giữa trưa trà bán hết thì thấy một người đàn ông vào quán. Người ấy lông mày rậm, mắt to, môi dày, đầu vấn chiếc khăn như úp chiếc thùng, mặc chiếc áo rộng tay. Vạt áo gấp lật xuống, chân đi giày. Người ấy bước vào quán. Chủ quán Vương Nhị rót trà bưng tới mời. Người ấy cầm chén trà, uống xong nhìn Vương Nhị nói:
- Tôi ngồi đợi người quen một lát.
- Xin ông cứ tự nhiên. - Vương Nhị nói.
Chờ lúc lâu, thấy một người con gái bưng mâm tới rao:
- Ai bánh trứng chim đây!
Người ấy vẩy tay gọi:
- Cô bán bánh trứng chim ơi!
Thấy có người gọi, cô tiểu nhỏ bưng mâm vào quán đặt lên bàn, lấy chiếc tăm tre xâu một ít bánh, rắc thêm ít muối, rồi đưa cho người ấy, nói:
- Mời ông ăn bánh.
- Ta sẽ ăn, - người ấy nói, - nhưng trước hết ta nhờ cô một việc.
- Thưa ông, làm gì ạ? - Cô tiểu hỏi.
Người ấy chỉ vào nhà thứ tư trong xóm Táo Sóc, hỏi cô tiểu:
- Cô có biết nhà ấy không?
- Biết! - Cô tiểu trả lời. - Đó là nhà Hoàng Phủ điện trực.
Điện trực mang quần áo ra biên giới vừa mới về.
- Nhà ấy có mấy người? - Người ấy hỏi.
- Có ba người: Điện trực, Tiểu Nương Tử và một bé hầu.
- Cô có biết Tiểu Nương Tử không? - Người ấy hỏi.
- Người vợ trẻ thường thì không bước ra khỏi rèm, nhưng cũng có khi mua bánh của tôi, nên tôi biết. Ông hỏi bà ấy làm gì?
Người ấy lấy từ chiếc túi kim tuyến ra khoảng năm mươi đồng, đặt vào mâm bánh của cô tiểu. Cô tiểu nhìn thấy thích quá cứ đứng chắp tay, không rời nửa bước, nói:
- Thưa ông, có việc gì sai bảo?
- Tôi phiền cô một việc.
Thế rồi người ấy rút từ trong tay áo ra một tờ giấy trắng, gói một đôi vòng và hai chiếc kim thoa, một tờ thiếp rồi đưa cho cô tiểu nói:
- Ba thứ này cô đưa cho Tiểu Nương Tử, không được đưa cho Điện trực. Khi thấy vợ Điện trực chỉ nói là có một người dặn đi dặn lại rằng đưa ba thứ này cho chị. Đừng nấn ná ở đó trở lại báo tin cho ta biết ngay.
Cô tiểu đặt mâm bánh trên quầy gửi Vương Nhị, rồi cầm ba thứ đó đi vào ngõ Táo Sóc. Tới cửa nhà Điện trục, cô mở rèm nhìn vào nhà. Hoàng Phủ điện trực đang ngồi trên ghế, thấy đứa nhỏ bán bánh liều lĩnh mở bừa mành nhòm vào rồi lại bỏ đi. Hoàng Phủ quát ầm lên. Thật là:
Cầu Đương Dương, Trương Phi dũng mãnh,
Quát đuổi, Tào Công trăm vạn quân.
Hoàng Phủ hỏi:
- Mày làm gì?
Đứa nhỏ ấy cùn cụt bỏ đi. Hoàng Phủ chạy thốc ra, tóm lấy tay nó lôi lại, hỏi:
- Tại sao mày thấy tao rồi bỏ đi?
- Có một người bảo con đưa ba thứ này cho bà, chứ không đưa cho ông.
- Thứ gì? - Hoàng Phủ hỏi.
- Ông đừng hỏi, không đưa cho ông. - Đứa bé nói.
Hoàng Phủ nắm chặt tay tống một phát như trời giáng vào đầu nó, nói:
- Hãy đưa ta xem!
Đứa trẻ ấy bị đánh, đành phải lấy gói ấy ra, nói:
- Bảo tôi đưa cho bà ấy chứ không đưa cho ông!
Hoàng Phủ giật lấy gói giấy ấy, mở ra xem thì thấy một đôi vòng vàng, hai chiếc kim thoa và một tờ thiếp, trong đó viết:
“Nhân dịp đầu xuân, kính chúc nàng tràn đầy hạnh phúc.
Một ngày nào đó ta hân hạnh được nâng chén chúc nàng. Ta luôn luôn tưởng nhớ tới nàng, song không tới được, ta có chút tặng phẩm nhỏ mọn và một bài từ gửi tặng nàng. Kính mong nàng vui lòng nhận cho”.
Bài từ ấy như sau:
Được biết chồng em đã trở về,
Khiến lòng anh đau đớn tái tê.
Xuyến vàng đôi chiếc, thoa đôi chiếc,
Nhận lấy nghe em, kẻo anh buồn.
Từ dạo xa em anh cô quạnh.
Một mình vò võ sống đơn côi.
Hoàng Phủ xem xong, trợn mắt, nghiến răng hỏi cô tiểu nhỏ:
- Đứa nào bảo mày đưa đến?
Cô tiểu nhỏ chỉ ra quán trà của Vương Nhị đầu ngõ nói:
- Có một người, lông mày rậm, mắt thao láo, mũi hếch, môi dày bảo tôi đem lại cho bà, và dặn không được đưa cho ông.
Hoàng Phủ tóm gáy cô tiểu nhỏ điệu ra quán trà. Cô tiểu nhỏ chỉ vào quán trà nói:
- Vừa rồi ông ấy ngồi trên chiếc ghế này, và bảo tôi đưa cho bà những thứ ấy, chứ không đưa cho ông, sao ông lại đánh tôi.
Mặc cho Vương Nhị phân trần, Hoàng Phủ cứ lôi cô tiểu nhỏ đi. Về tới nhà Hoàng Phủ đóng sầm cửa lại, cài then, cô tiểu nhỏ sợ run cầm cập.
Hoàng Phủ gọi người vợ đẹp như hoa từ trong nhà ra, nói:
- Cô hãy nhìn những thứ này đi.
Người vợ chẳng hiểu vì sao, tới ghế ngồi. Hoàng Phủ cầm những thứ ấy đưa cho vợ xem. Người vợ đọc tờ thiếp, chẳng hiểu ra sao. Hoàng Phủ nói:
- Cô thấy tôi đi ba tháng trời áp tải quần áo ra biên giới, không biết ở nhà cô đã cùng đứa nào uống rượu.
- Tôi làm vợ anh từ nhỏ. - Người vợ nói. - Từ khi anh đi, tôi chưa từng uống rượu với ai cả!
- Không có đứa nào uống rượu, thì tại sao lại có những thứ này?
- Tôi không biết.
Hoàng Phủ xông vào đánh vợ túi bụi. Vợ ôm mặt gào khóc, chạy vào trong nhà. Hoàng Phủ vào nhà lấy một nắm roi tre ra vứt xuống đất, gọi Nghênh Nhi tới. Nghênh Nhi mới mười ba tuổi, vẫn còn là đứa trẻ, cánh tay nó ngắn cũn, chân vòng kiềng, nó chỉ biết bổ củi gánh nước, biết ăn cơm, biết ỉa đái.
Hoàng Phủ lấy chiếc dây trên giá áo xuống, trói chặt lấy hai tay đứa bé, vứt dây qua xà nhà, kéo dây treo đứa bé lên, dùng roi tre đánh. Hoàng Phủ hỏi:
- Ta đi ba tháng trời, cô ở nhà có uống rượu với đứa nào không?
- Chẳng có ai cả. - Đứa bé nói.
Hoàng Phủ dùng roi quất vào mông, vừa đánh vừa hỏi.
Đứa bé kêu như lợn chọc tiết, không chịu nổi, nói:
- Ba tháng ông vắng nhà, đêm nào bà cũng ngủ với một người.
- Ghê thật! - Hoàng Phủ nói.
Hoàng Phủ thôi không đánh nữa, cởi dây ra, nói:
- Mày hãy lại đây ta hỏi! Cô đã ngủ với đứa nào?
Đứa bé lau nước mắt, nói:
- Thưa ông, quả thực con không dám giấu. Từ khi ông đi, bà ở nhà thường ngủ với một người, không phải ai khác, đó chính là con.
- Mày đừng đùa với tao? - Hoàng Phủ nói.
Thế rồi Hoàng Phủ cầm lấy chiếc khóa đi ra, khép cửa vào rồi khóa lại. Đi quanh xóm gọi bốn người tuần tra địa phương, đó là Trường Thiên, Lý Vạn, Đồng Bá, Tiệt Siêu. Về nhà Hoàng Phủ mở khóa đẩy cửa vào, rồi lôi cô tiểu nhỏ bán bánh tráng chim ra, nói:
- Phiền các ông bắt giữ lấy con bé này.
- Quan phụ mẫu sai bảo, chúng tôi xin tuân lệnh. - Bốn người ấy nói.
Đừng đi vội, vẫn còn người nữa. - Hoàng Phủ nói.
Thế rồi Hoàng Phủ gọi Nghênh Nhi và người vợ đẹp như một cành hoa ra, nói:
- Giải cả mấy người này đi.
- Thưa quan phụ mẫu, - Tiết Siêu nói, - chúng tôi không dám bắt bà.
- Các ngươi sợ không dám bắt bà ấy ư? Việc này can hệ đến tính mạng đấy!
Sợ quá bốn người tuần tra phải giải vợ Hoàng Phủ, Nghênh Nhi và cô tiểu bán bánh tới Tiền Đại Doãn phủ Khai Phong.
Hoàng Phủ chào quan Đại Doãn, rồi trình tờ thiếp lên quan. Tiền Đại Doãn xem qua, lập tức bảo quan cấp dưới xử ngay vụ này. Thời ấy Sơn Định thừa hành giải quyết vụ này. Hỏi cô tiểu nhỏ cô bé trả lời:
- Con gặp ở quán trà một người, lông mày rậm, mắt to, mũi hếch, môi dày. Người ấy bảo con đem phong thiếp này cho Tiểu Nương Tử. Ông đã đánh con vẫn khai như thế.
Hỏi Nghênh Nhi, Nghênh Nhi đáp:
- Con không thấy ai đến uống rượu với Tiểu Nương Tử, con cũng không biết người gửi phong thiếp ấy là ai. Đánh chết con cũng khai thế.
Hỏi Tiểu Nương Tử, Tiểu Nương Tử đáp:
- Từ thời còn trẻ con làm vợ anh ấy, chẳng có người thân thích nào lai vãng tới, chỉ có hai vợ chồng con. Con cũng không biết kẻ nào gửi thiếp tới.
Sơn Định thấy Tiểu Nương Tử gầy gò như thế, làm sao chịu nổi tra tấn, nay truy hỏi cô ấy bằng cách nào đây? Sơn Định gọi cai ngục dẫn ra một phạm nhân. Đây là một tên tướng cướp, biệt hiệu là Tĩnh Sơn Đại Vương. Hắn mặt mày hung tợn như một con quỷ gieo tai vạ cho con người.
Tiểu Nương Tử nhìn thấy tên phạm nhân này sợ quá, hai tay ôm lấy mặt không dám nhìn. Sơn Định nhìn Tĩnh Sơn Đại Vương, bảo với người coi ngục:
- Hãy treo ngược tên này lên cho ta.
Sau đó dùng cành gai đánh, tên cướp kêu như lợn chọc tiết. Sơn Định hỏi:
- Ngươi đã từng giết người phải không?
- Thưa ngài con đã từng giết người.
- Ngươi đã từng đốt nhà phải không?
- Thưa ngài con đã từng đốt nhà.
Sơn Định cho người giải Tĩnh Sơn Đại Vương vào ngục.
Sơn Định quay lại hỏi Tiểu Nương Tử:
- Ngươi xem, Tĩnh Sơn Đại Vương cũng không chịu nổi đòn, đã phải nhận tội giết người đốt nhà. Tiểu Nương Tử hãy khai đi, ngươi có chịu nổi những trận đòn như thế không?
Tiểu Nương Tử hai hàng nước mắt rơi lã chã, nói:
- Thưa ngài, đến nước này thì con che giấu cũng không được nữa. Chúng con lấy nhau từ khi còn trẻ, chẳng có người thân tích nào lai vãng tới. Con không biết kẻ nào gửi thiếp đến. Nay thì tùy quan Đại Doãn quyết định.
Hỏi đi hỏi lại mãi, Tiểu Nương Tử vẫn khai như thế.
Sau đó ba hôm, Sơn Định đang đứng trước cửa nha môn, chưa biết giải quyết vụ này thế nào, ngẩng đầu lên thì thấy Hoàng Phủ tới vái chào hỏi về việc ấy:
- Tại sao vụ án đã ba hôm mà vẫn chưa giải quyếtChẳng phải ngài đã nhận tiền của kẻ viết tờ thiếp ấy nên cố ý trì hoãn không giải quyết?
Sơn Định thấy thế nói:
- Vậy thì theo ý ngài như thế nào?
- Thôi thì li dị quách cho xong, - Hoàng Phủ nói.
Ngay hôm ấy Sơn Định về nha môn trình văn bản lên Tiền Đại Doãn. Tiền Đại Doãn gọi Hoàng Phủ tới nói:
- "Bắt cướp thì phải có tang vật, bắt gian dâm thì phải trai trên gái dưới", đằng này vô tang chứng thì bắt tội làm sao được!
- Tới nay thì tôi không muốn chung sống với cô ấy nữa, xin tình nguyện li dị.
- Tôi làm theo ý ông. - Quan Đại Doãn nói.
Hoàng Phủ ra về. Cô tiểu và Nghênh Nhi được thả. Tiểu Nương Tử bị chồng bỏ, khóc sướt mướt bước ra khỏi công đường, nàng nghĩ: "Ta bị chồng bỏ, không người thân thích để nương tựa thôi thì chết quách đi cho xong". Tiểu Nương Tử bước lên cầu Thiên Hán Châu, nhìn xuống dòng nước xiết, định nhảy xuống thì đằng sau có một người túm lấy áo, Tiểu Nương Tử quay lại thì đó là một bà già, búi tóc, lông mày trắng như tuyết, mắt đục lờ, tóc bạc. Bà già nói:
- Con ơi! Tội gì con phải chết? Con có nhận ra ta không?
- Con không nhận ra bà, - Tiểu Nương Tử nói.
- Ta là cô của con. - Bà già nói. - Từ khi con đi lấy chồng, ta nghèo không dám bén mảng tới nhà con. Nay thấy chồng con kiện con, hằng ngày ta vẫn theo dõi con. Bây giờ chồng con bỏ con, việc gì con phải tự tử.
- Hiện nay con, trên không chằng, dưới không rễ. Chồng con không cần con, con chẳng có ai thân thích dựa dẫm, không chết đi thì sống làm gì?
- Bây giờ con hãy đến nhà cô, rồi sẽ tính sau.
Tiểu Nương Tử nghĩ: "Bà này chắc chắn không phải là cô mình, nay không có nơi nương tựa, thôi thì cứ theo bà, rồi sau này sẽ rõ".
Tiểu Nương Tử theo bà cô về nhà thì thấy bà chẳng có nghề ngỗng gì, song nhà cửa lại khang trang, cũng có màn xanh, có bàn ghế đầy đủ. Ở nhà bà cô được hai ba ngày, hôm ấy vừa cơm nước xong, thì thấy ngoài cửa có một người gọi ầm ầm.
- Bà mang đồ của ta đi bán, sao không đem trả tiền ta.
Nghe thấy thế, bà ta vội vã ra mời người đàn ông ấy:
- Xin mời ông vào.
Tiểu Nương Tử thấy người vừa vào, lông mày rậm, mắt thao láo, mũi hếch, môi dày, vấn chiếc khăn trùm tới tận mi mắt, mặc áo dài cổ rộng nẹp to, giày tất sạch bong. Tiểu Nương Tử bụng bảo dạ: "Rất giống người đàn ông gửi tờ thiếp mà cô tiểu nhỏ đã nói". Người ấy vào ngồi lên ghế, rụt rè nói:
- Bà bán cái vật đáng giá ba trăm quan tiền của ta, đã tới hàng tháng rồi sao không đem tiền đến trả?
- Cái ấy thì đã bán rồi, song tiền chưa lấy được. Khi nào lấy được tôi sẽ trả ông ngay.
- Tiền trao cháo múc, - người đàn ông nói, - sao lại chịu lâu đến thế! Lấy được tiền bà phải đưa ngay cho tôi.
Nói xong người đàn ông bỏ đi. Bà già trở vào nhìn Tiểu Nương Tử, nước mắt bà ta ứa ra, nói:
- Giờ thì biết làm thế nào đây?
- Có việc gì thế! - Tiểu Nương Tử hỏi.
- Người này vốn là thông phán Tế Châu, - bà ấy nói, - ông ta họ Hồng. Nay không làm quan, bán một số trang sức bằng ngọc. Trước đây ông ấy bảo ta đi bán, ta đã bị người ta quịt tiền, đến nay không có tiền trả, khiến ông ta sốt ruột. Mấy hôm trước ông ta có nhờ ta một việc, ta vẫn chưa làm được.
- Việc gì thế? - Tiểu Nương Tử hỏi.
- Ông ta bảo ta tìm cho ông ta một người vợ bé, mà phải là người đẹp. - Bà ấy nói. - Nếu đẹp như Tiểu Nương Tử thì nhất định ông ấy sẽ rất thích. Tiểu Nương Tư bây giờ đã ở đây, chồng lại bỏ, không còn lối thoát, thôi thì cô sẽ nói vun vào cho con lấy ông ấy. Không biết ý con thế nào?
Tiểu Nương Tử trầm ngâm hồi lâu, bất đắc dĩ nghe theo lời cô tới nhà người ấy.
Thời gian cứ chầm chậm trôi đi, vào mồng một tháng Giêng năm sau, từ khi bỏ vợ, Hoàng Phủ không lúc nào vui, đúng là:
Thời gian như gió lửa,
Thiêu tàn nỗi khổ đau.
Hoàng Phủ nhớ lại: "Hằng năm cứ vào mồng một tháng Giêng, vợ chồng sánh vai nhau tới chùa Đại tướng Quốc dâng hương. Năm nay ta lủi thủi đi một mình". Tự nhiên hai hàng nước mắt ứa ra, lòng buồn vô hạn, đành gắng gượng mặc chiếc áo dài tím, mang vàng hương đến chùa Đại Tướng Quốc dâng hương. Vào chùa thắp hương xong, vừa ra khỏi cửa thì thấy một người đàn ông dẫn theo một người đàn bà. Người đàn ông ấy lông mày rậm, mắt thao láo, mũi hếch, môi dày; người đàn bà đi theo lại là vợ Hoàng Phủ. Chồng nhìn vợ, vợ nhìn chồng, bốn mắt đăm đăm nhìn nhau chẳng ai dám hé răng.
Người đàn ông và người đàn bà ấy vào chùa. Hoàng Phủ đang đứng trầm tư ngoài cửa chùa, thấy một bà sư đang xin tiền dầu đèn đứng đó, bỗng thấy hai người ấy đi vào, miệng lẩm bẩm: "Ngươi đã làm đời ta khổ, sao hôm nay ngươi lại đến đây". Rồi rảo bước đi theo.
Thấy bà sư đuổi theo hai người ấy, Hoàng Phủ ngăn lại nói:
- Có phải bà sư đuổi theo hai người ấy không?
- Đúng thế - bà sư nói, - chẳng nói giấu gì ông, lão ta đã làm đời tôi khổ, tới nay tôi không cất đầu lên được là vì hắn.
Hoàng Phủ hỏi ngay:
- Bà có nhận ra người đàn bà ấy không?
- Không. - Bà sư nói.
- Người ấy là vợ tôi. - Hoàng Phủ nói thẳng.
- Tại sao vợ ông lại theo hắn?
Hoàng Phủ kể lại chuyện gửi thiếp và việc mình bỏ vợ cho bà sư nghe. Bà sư hỏi:
- Thế là thế nào? Ông có nhận ra hắn không?
- Không, - Hoàng Phủ đáp.
- Hắn là sư chùa ở Phồn Đài Đông Châu. Chịu khổ hạnh nhất là những người tu hành tại chùa Phồn Đài. Ta vốn là sư, song là giám viện tại chùa này. Ta có trên dưới một trăm đồng, cắt tóc làm đồ đệ của hắn. Cách đây một năm hắn lấy trộm của sư trong chùa hai trăm lạng bạc rồi biến mất tăm. Ta bị tra khảo, đuổi khỏi chùa đi ăn xin, thật là tội nghiệp. Ta lưu lại chùa Đại Tướng Quốc hóa vàng hương. Hôm nay gặp hắn ở đây ta làm sao mà chịu được!
Vừa nói xong thì thấy hắn dẫn người đàn bà ấy từ trong hành lang đi ra. Bà sư vén áo rảo bước định lôi hắn. Hoàng Phủ vội ngăn lại, nói rằng, hãy xem rõ hành tung của hắn rồi sẽ kiện lên quan.
Hai người cứ bám theo hắn.
Người đàn bà ấy nhìn thấy chồng nước mắt giàn giụa, vào chùa thắp nhang rồi đi ra. Trên đường về hắn hỏi người đàn bà rằng:
- Tại sao Tiểu Nương Tử nhìn thấy chồng lại khóc? Không phải ta dễ dàng mà lấy được cô. Dạo ấy ta qua cửa nhà cô, thấy cô đứng trước rèm xinh đẹp tuyệt vời, ta đã mê cô từ đó. Ta lấy được cô chẳng phải dễ lắm đâu!
Hai người lời qua tiếng lại thì vừa lúc ấy họ về tới nhà. Người đàn bà ấy hỏi:
- Thế thì tờ thiếp ấy do ai gửi?
- Ta nói cho cô biết, chính ta nhờ cô tiểu nhỏ bán bánh ấy gửi đấy. Chồng cô trúng kế của ta, quả nhiên bỏ cô thật.
Người đàn bà ấy nghe xong túm lấy áo hắn kêu:
- Ối trời cao đất dày ơi!
Nghe thấy người đàn bà kêu, hắn cuống lên, giơ tay bóp cổ muốn cho người đàn bà ấy chết đi.
Hoàng Phủ và bà sư theo tới cửa, thấy hắn tức tối đi vào, lại nghe bên trong có chuyện, hai người chạy vào thấy người đàn bà bị hắn bóp cổ đang giẫy giụa. Hoàng Phủ và bà sư bắt luôn giải hắn tới Tiền Đại Doãn phủ Khai Phong.
Giai nhân từng đỡ tay người ngọc
Tráng sĩ vung gươm chém kẻ thù,
Đời đời công tích còn ghi rõ,
Cháu con thừa hưởng nghiệp vinh hoa.

Đại Doãn ra công trường giải quyết việc này. Hoàng Phủ và vợ kể lại tất cả những sự việc đã xẩy ra. Tiền Đại Doãn đùng đùng nổi giận, lệnh cho sai nha đánh cho hòa thượng một trăm gậy, rồi giải xuống Tả Tư Lý viện để điều tra rõ vụ này. Điều tra thấy đúng sự thực, cho Hoàng Phủ đưa vợ về nhà vợ chồng lại đoàn tụ. Bà sư được khen thưởng. Gã hòa thượng đều phải nhận là âm mưu lừa gạt chiếm đoạt người đàn bà, rồi lại âm mưu hãm hại vợ Hoàng Phủ, bị khép vào tội chết. Còn mụ đàn bà đồng mưu lừa đảo không ra đầu thú, song đã bị bắt đi ở nơi khác.
Về Đầu Trang Go down
https://triamquan.forumvi.com/
Tri Âm Quán
Thành Viên Tích Cực
Thành Viên Tích Cực
Tri Âm Quán


Tổng số bài gửi : 6340
Reputation : 2
Join date : 31/07/2013
Đến từ : Thị Trấn Chũ

Đoán Án Kỳ Quan - Page 5 Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Đoán Án Kỳ Quan   Đoán Án Kỳ Quan - Page 5 EmptyMon Apr 21, 2014 5:45 pm

nhiều tác giả
Đoán Án Kỳ Quan
Phạm Tú Châu - Nguyễn Văn Thiệu (Dịch và biên soạn)
Chương 7
Bản Văn Tự Hợp Đồng
Ăn uống thường cho thêm muối dấm,
Nơi không cần đến chẳng nên đi
Muốn người coi trọng xin gắng học,
Sợ người đời biết, chớ làm chi.
Năm Khánh Lịch triều Tống Nhân Tông, cách thành Biện Lương, Đông Kinh ba mươi dặm, có một thôn tên là Lão Nhi. Trong thôn có hai anh em họ Lưu, nhà vốn theo nghề nông. Người anh là Lưu Thiêm Tường, trạc bốn mươi tuổi, vợ chết. Người em tên là Lưu Thiêm Thụy, ba mươi nhăm tuổi, vợ là Điều thị ba mươi tuổi có một đứa con tên là An Trú ba tuổi. Anh em sống bằng nghề cày cấy trồng trọt.
Năm ấy vì hạn hán lụt lội mất mùa, một hôm Thiêm Thụy nói với anh rằng:
- Mùa màng thất bát, chúng ta lấy gì mà sống? Thôi thì anh em mình dọn đến nhà chú Trương Học Cứu thôn Hạ Mã, huyện Cao Bằng, Lộ Châu nhờ vả một thời gian, ý anh thế nào?
- Anh tuổi đã cao đi không được nữa, - Thiêm Tường nói, - mình chú thím đi thôi.
- Anh ạ, nhân thể hôm nay em mời lí trưởng Lý làm chứng, viết hai bản văn tự hợp đồng, anh giữ một bản, em cầm một bản, em tới nhà chú nương nhờ, “người ta khó mà lường tính hết được việc trước sau”, anh tuổi cao, ruộng vườn sản nghiệp dù có bán cũng không được, nay viết văn tự làm bằng.
- Em nói phải đấy. - Thiêm Tường nói.
Thế rồi họ mời lý trưởng Lý tới, viết bản văn tự hợp đồng rõ ràng minh bạch, mỗi người cầm một tờ.
Họ làm mâm cơm mời lý trưởng. Trong lúc ăn uống lý trưởng nói:
- Tôi có một đứa con gái, nếu ông Thụy bằng lòng xin cho An Trú thì hôm nay cứ nói thẳng.
- Ông đã nói thế, - Lưu Thiêm Tường nói, - thì sẽ chọn ngày lành tháng tốt dẫn lễ.
Chỉ trong mấy ngày họ đã chuẩn bị xong xuôi. Lưu Thụy thu xếp hành lí, từ biệt anh lên đường. Vì Lưu Thụy đường xa dặm thẳng tới nương nhờ người thân, có người nghĩ: Đi thì dễ, về thì khó. Đúng là:
Trời lúc nắng lúc mưa,
Nước khi hưng khi thịnh.
Muôn sự do trời định
Đời người thật long đong.
Lưu Thụy đưa vợ con đi ròng rã mấy ngày trời mới tới thôn Hạ Mã huyện Cao Bằng, gặp chồng dì là Trương Học Cứu, kể hết gia cảnh khó khăn và xin nương thân ở đây. Người ấy rất mừng giữ lại nhà.
Thời gian thấm thoát, thoáng cái đã được hai năm. Vợ Lưu Thụy lên cái nhọt ở đầu, chạy chữa hơn một tháng mà vẫn đau đớn nhức nhối không ăn uống được, rồi qua đời. Lưu Thụy khóc lóc đau thương lo ma chay cho vợ. Hai tháng sau thấy người gầy rộc, phờ phạc rồi ngã bệnh, chữa trị mãi mà không khỏi. Trương Học Cứu khuyên Lưu Thụy hãy nén đau thương, bồi dưỡng sức khỏe để nuôi dưỡng An Trú nên người. Nửa năm sau do tiết trời thay đổi, Lưu Thụy bị cảm, đầu đau nhức lên cơn sốt. Đúng là "họa vô đơn chí, phúc bất trùng lai", ốm sáu bảy tháng thì Lưu Thụy lìa bỏ cõi đời. Trương Học Cứu chôn cất vợ chồng Lưu Thụy bên cạnh phần mộ tổ tiên.
Ngày tháng thoi đưa, An Trú sống với Trương Học Cứu được mười lăm năm, đã trở thành một chàng trai mười tám tuổi, thông minh đĩnh ngộ, đức độ tài năng, có học và biết lễ nghĩa.
Một hôm vào dịp tiết Thanh minh, vợ chồng Trương Học cứu mua sắm lễ vật cùng An Trú đi tảo mộ. Tới mộ phần, bày lễ vật rồi khấn khứa, Trương Học Cứu nói với vợ:
- Tôi có câu chuyện muốn nói với bà. Tôi nghĩ rằng An Trú đã trưởng thành. Năm nay lại có nhiều thuận lợi. Tôi định bảo An Trú đem hài cốt vợ chồng Lưu Thụy về quê để nhận bác. Ý bà thế nào?
- Ông nói phải lắm. - Vợ Trương nói. - Đây là việc âm đức.
Hai vợ chồng bàn bạc xong xuôi, bảo An Trú:
- Con hãy cúng mộ tổ, đâu đó đến hai ngôi mộ kia vái mấy vái.
- Thưa cha, - An Trú hỏi, - đây là mộ của ai?
Vái xong Học Cứu nói:
- Con đừng hỏi nữa, hóa vàng hương đi rồi về nhà.
- Cha mẹ không cho con biết họ tên người thân đã mất rồi, con sống làm gì nữa, thà rằng con tự vẫn cho xong.
- Con hãy lại đây cha nói để con hay. Đấy chính là cha mẹ đẻ của con. Còn ta chỉ là cha mẹ nuôi thôi. Quê con là thôn Lão Nhi cách thành Biện Lương ba mươi dặm. Bác con là Lưu Thiêm Tường, cha con là Lưu Thiêm Thụy, cùng với mẹ con là chị Hai Lưu. Cách đây mười lăm năm, lúc ấy con mới lên ba, vì đói kém, bố mẹ con đã đưa con tới đây nương nhờ. Mẹ con bị lên một chiếc nhọt ở đầu rồi chết. Cha con do thời tiết thay đổi mắc bệnh cảm cũng mất theo. Vợ chồng ta đã lo quan tài chôn cất, và coi con như con đẻ.
Không nói ra thì thôi, mà nói ra thì An Trú đến bên phần mộ gào lên khóc nức nở.
- Con là đứa con bất hiếu. Con không biết cha mẹ đã qua đời.
- Con ơi đừng phiền muộn nữa. - Trương Học Cứu nói. - Con hãy chọn ngày tốt, đem hài cốt cha mẹ về quê, nhận bác Lưu Thiêm Tường, mai táng hài cốt cha mẹ. Đừng quên ơn cha mẹ nuôi là được rồi.
- Thưa cha mẹ, công của cha mẹ nuôi còn hơn cả công lao cha mẹ đẻ. Con đâu dám quên ơn. Nếu trời cho khấm khá con xin kết cỏ ngậm vành báo đáp.
Hôm sau họ nhờ người chọn ngày tốt, An Trú gói hài cốt cha mẹ, thu xếp quần áo, tiền ăn đường và bản văn tự hợp đồng thành một gánh, chào vợ chồng Trương Học Cứu lên đường về quê.
Trương Học Cứu nói:
- Xưa kia bố mẹ con tới đây chẳng có một đồng một chữ, một đầu đòn gánh gánh con, còn đầu bên kia là gia tài nghèo nàn. Con đi đường phải cẩn thận, đường rừng núi hiểm trở khó đi, về tới nhà thì gửi thư ngay báo tin cho cha mẹ.
- Cha mẹ cứ yên tâm, đừng lo nghĩ gì.
Thế rồi An Trú từ biệt cha mẹ nuôi, quảy gánh ra đi.
Từ ngày vợ chồng người em ra đi đến nay đã mười lăm mười sáu năm trời, Lưu Thiêm Tường không có tin tức gì về em, nghĩ rằng, chẳng biết là còn hay mất. Vì nhà không có người liền lấy một người nạ dòng là Vương thị, người vợ kế dẫn cả đứa con riêng về nhà.
Một hôm, Vương thị nghĩ: "Chồng mình có một người em và đứa cháu đi nơi khác kiếm ăn, nếu về họ sẽ đuổi con mình đi lúc đó thì rầy rà to".
Hôm ấy là ngày tế xuân, lão Lưu đi ăn cỗ không có nhà. Mãi tới chiều cỗ bàn xong mới về. Đúng lúc ấy An Trú đương hỏi thăm đường, tới cửa nhà đặt gánh xuống. Vợ Lưu Thiêm Tường hỏi:
- Anh tìm ai?
- Cháu tìm bác cháu, cháu là con của ông Lưu Thiêm Thụy, cách đây mười lăm năm, bố mẹ con và con đi nương thân nhà người thân thuộc, hôm nay cháu trở về.
Đang hỏi han thì Lưu Thiêm Tường rượu say trở về, thấy An Trú, hỏi:
- Anh là ai? Đến nhà tôi làm gì"
- Thưa bác, cháu là An Trú.
- Thế cha mẹ cháu đâu?
- Từ khi xa bác, tới nhà ông Trương Học Cứu tại thôn Hạ Mã, huyện Cao Bằng, Lộ Châu nương nhờ, không đầy hai năm sau thì cha mẹ cháu mất, chỉ còn lại mình cháu. Cha mẹ cháu quá cố, cháu được ông Trương Học Cứu nuôi nấng từ ngày đó đến nay. Nay cháu đem hài cốt cha mẹ cháu về quê an táng, xin bác thương tình.
Lão Lưu đang say rượu. Vợ Lưu nói:
- Nhà ta chẳng có ai đi nơi khác nương nhờ người thân cả, tự nhiên anh ở đâu tới nhận xằng.
- Cháu có bản văn tự hợp đồng làm tin, nên mới về đây nhận bác.
Vợ Lưu bảo lão Lưu:
- Đuổi thằng này đi, nó tới nhà mình nhận trăng nhận cuội.
Lão Lưu cầm hòn gạch đập vào đầu An Trú chảy toang máu, lăn quay ra đất. Đúng lúc ấy lí trưởng họ Lý tới hỏi lão Lưu:
- Người bị đánh ngã là ai đó?
- Nó giả danh là con Lưu Thụy, tới nhận tôi, rồi lại chửi tôi bị tôi đánh.
- Tôi nghe người ta nói, - lí trưởng họ Lý nói, - nên tôi tới xem sao. Đừng nói đúng hay không, để tôi dìu anh ta dậy hỏi xem đã.
Lý trưởng họ Lý hỏi:
- Anh là ai?
Cháu là con Lưu Thiêm Thụy, tên là An Trú.
- Thế bao năm nay anh đi đâu, bây giờ mới về?
- Con được ông Trương Học Cứu thôn Hạ Mã, huyện Cao Bằng, Lộ Châu nuôi nay đã khôn lớn, con đem hài cốt cha mẹ về quê an táng. Song hai bác lại bảo con nhận vơ, con cũng đã đưa văn tự hợp đồng, nhưng bác ấy không thèm xem, mà đánh con, may được bác cứu giúp.
Lý trưởng bảo:
- Hãy gánh những thứ này đi theo ta.
Thế rồi đưa An Trú về nhà. An Trú đặt gánh xuống, cúi lạy lý trưởng Lý. Lý trưởng Lý nói:
- Bà nó ơi, Lưu An Trú, con rể bà đưa hài cốt cha mẹ về quê đây này!
Lý trưởng Lý bảo Lưu An Trú đặt hài cốt trước nhà, rồi nói:
- An Trú, ta là bố vợ, còn đây là mẹ vợ của con.
Rồi ông gọi con gái là Mãn Đường ra nói:
- Con hãy lạy linh cữu của bố mẹ chồng con đi.
Họ bày lễ vật, cúng bái, hóa vàng hương xong, dọn cỗ khoản đãi An Trú. Rồi lý trưởng Lý nói:
- Ngày mai con tới Bao Phủ doãn, phủ Khai Phong cáo giác con bị bác trai và bác gái đánh trọng thương.
Nghỉ lại đó một đêm, tới sáng hôm sau An Trú tới cáo giác với Bao Tướng Công phủ Khai Phong. Tướng Công lập tức sai người đi bắt vợ chồng Lưu Thiêm Tường tới, và mang theo cả bản văn tự hợp đồng lên trình quan. Lại cho gọi cả lý trưởng Lý tới làm chứng.
Hôm ấy, tất cả những người có liên quan đều tới phủ đường.
Bao Tướng Công hỏi:
- Lưu Thiêm Tường, có phải Lưu An Trú là cháu ngươi Không?
- Không phải! - Lưu Thiêm Tường trả lời.
- Không phải! - Vợ Thiêm Tường cũng nói. - Nếu là cháu ruột, thì tại sao bao nhiêu năm nay chẳng biết sống chết thế nào?
Bao Tướng Công lấy hai bản văn tự hợp đồng ra xem, đùng đùng nổi giận giao lão Lưu cho nhà giam tra khảo.
An Trú nói:
- Thưa Tướng Công, bác con thật đáng thương, tuổi đã già, không con cái, xin tướng công thương tình.
- Hãy đưa vợ kế ra tra khảo! - Bao Tướng Công nói.
- Mong tướng công trị tội con, hai bác con không có liên quan gì. - An Trú nói.
Bao Tướng Công sai người đánh lão Lưu ba mươi gậy.
An Trú nói:
- Thưa Tướng Công, thà rằng Tướng công cứ đánh con chứ đừng đánh bác con. Thưa Tướng Công, chỉ cần việc nhà rõ ràng minh bạch, con sẽ suốt đời không dám quên ơn Tướng công.
Thấy An Trú là người hiếu nghĩa, Bao Tướng Công tha mọi người về nhà, nói:
- Chờ ta tâu lên triều đình.
Triều đình rất hài lòng thấy An Trú có lòng hiếu thảo, khen ngợi Lưu An Trú hiếu nghĩa song toàn, phong tặng giữ chức huyện doãn Trần Lưu, cho gia đình Lưu Thiêm Tường được đoàn viên.
Lý trưởng Lý chọn ngày lành tháng tốt làm lễ thành hôn cho Lưu An Trú với Lý Mãn Đường.
Sau đó một tháng hai vợ chồng thu xếp hành trang chào đôi bên cha mẹ, lên đường tới huyện Cao Bằng tạ ơn Trương Học Cứu, rồi trở về huyện Trần Lưu nhậm chức. Vợ chồng Lưu An Trú sống hạnh phúc bên nhau tới tận đầu bạc răng long. Đúng là:
Lý trưởng Lý vẫn đợi chờ chàng rể,
Vợ Lưu Tường định hãm hại cháu con.
Lưu An Trú người hiếu nghĩa song toàn.

Bao Tướng Công xử hợp đồng văn tự.
Về Đầu Trang Go down
https://triamquan.forumvi.com/
Tri Âm Quán
Thành Viên Tích Cực
Thành Viên Tích Cực
Tri Âm Quán


Tổng số bài gửi : 6340
Reputation : 2
Join date : 31/07/2013
Đến từ : Thị Trấn Chũ

Đoán Án Kỳ Quan - Page 5 Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Đoán Án Kỳ Quan   Đoán Án Kỳ Quan - Page 5 EmptyTue Apr 22, 2014 11:08 am

nhiều tác giả
Đoán Án Kỳ Quan
Phạm Tú Châu - Nguyễn Văn Thiệu (Dịch và biên soạn)
Chương 8
Tào Bá Minh Nhặt Được Của Rơi
Vào chuyện:
Hai tám giai nhân khéo điểm trang,
Phòng ngủ hằng đêm đổi trai tân Hai tay ngà ngọc ngàn người gối,
Một hạt minh châu vạn khách dòm
Giả dối hằng trăm ngàn mánh khóe.
Sinh bao lòng dạ xấu xa thay.
Hai hàng nước mắt tương tư giả,
Đón người cửa trước rước cửa sau.
Thời Chí Chính triều Nguyên, vùng Đông Quan phủ Đông Bình, Tào Châu, có một quán trọ. Chủ quán họ Tào, tên là Bá Minh, trạc ba mươi tuổi. Vợ chết, để lại một đứa con tên là Lư Nhi.
Thành Tào Châu có một kĩ nữ tên là Tạ Tiểu Đào, hai mươi hai tuổi, kiều diễm nhất vùng. Bá Minh đã gian díu với cô hơn một năm, trong lòng rất yêu cô, muốn lấy cô làm vợ. Tiểu Đào mồm thì thề thốt, nhưng lòng dạ kĩ nữ có thật đâu. Cô ta vốn đã có một người đàn ông độc thân tên là Thường Đô Quân, và sống với hắn đã năm năm nay. Tiểu Đào lại một lòng một dạ muốn lấy hắn, vì Thường Đô Quân không có tiền, nên vẫn phải tiếp khách.
Không ngờ Bá Minh yêu Tiểu Đào say đắm, muốn lấy làm vợ. Một hôm Bá Minh tới thành bàn bạc với người cô của mình. Cô Bá Minh chồng chết, cùng với con mở hàng cơm. Cháu tới nhà hai cô cháu cùng ngồi trò chuyện. Bá Minh nói:
- Cô ạ! Vợ cháu mất đã lâu, nhà không có ai, nay Tạ Tiểu Đào muốn lấy cháu, mà cháu cũng rất yêu cô ấy, cháu đến nói để cô biết.
- Cháu không được lấy cô ta, - người cô nói, - cô ta là gái làng chơi, lòng dạ không thật, lấy một cô gái nhà lành khác có hơn không.
Bá Minh không nghe lời, chào cô ra về, tự mình lo tiền sắm lễ, làm giá thú cưới Tạ Tiểu Đào về làm vợ. Chỉ vì không theo lời cô nên suýt nữa phải chết thê thảm. Đúng là:
Gió thu chưa tới ve đã biết,
Chết đến bất thường ai biết đâu.
Cổ thi từng viết:
Đôi má tựa mồi thơm,
Lông mày lưỡi câu sắc. Câu Ngô Vương một lần,
Mà nhà tan nước mất.
Tào Bá Minh sống với Tạ Tiểu Đào được hơn hai tháng. Bỗng một hôm, Thường Đô Quân tới thăm Tạ Tiểu Đào. Tiểu Đào thì thầm to nhỏ với Thường Đô Quân:
- Em với anh muốn trở thành vợ chồng cũng dễ thôi. Hằng ngày vào lúc canh năm Bá Minh thường đi đón khách không ở nhà. Anh chờ tới canh năm khi hắn về, đánh chết hắn thì chúng mình sẽ mãi mãi là vợ chồng. Như thế chẳng tốt sao?
Thấy Tiểu Đào nói thế, Thường Đô Quân mừng rỡ, nói:
- Kế của em hay lắm!
Thế rồi Thường Đô Quân ra về.
Vào canh năm thường có một tên cướp đường gọi là con hổ thọt Tống Lâm. Ban ngày hắn không dám ra, chỉ xuất hiện vào lúc nửa đêm. Một hôm hắn lẻn vào nhà nọ, lấy trộm một ít đồ vật mang về, đúng vào lúc canh năm chạm trán Tào Bá Minh, Bá Minh quát thét:
- Ngươi là ai?
Tống Lâm nói:
- Còn ngươi là ai?
- Ta là Tào Bá Minh mở quán trọ ở Đông Quan.
- Tào Bá Minh! - Tống Lâm nói. - Không lộ ra thì thôi, nếu ngươi lộ ra ta sẽ không tha ngươi đâu.
Nói xong Tống Lâm bỏ đi.
Mấy hôm sau, vào lúc canh năm Tào Bá Minh đi đón khách. Lúc ấy đang mùa đông, tuyết rơi lả tả, chờ mãi không có khách, Bá Minh chẳng kể gì đến gió tuyết, cứ thế ra về. Đi chưa được một dặm, Bá Minh vấp phải một vật gì trên đường, ngã sóng soài lổm ngổm bò dậy thì thấy một chiếc bao, nghĩ rằng: "Nếu bao có tiền mang về còn khá, nếu không có tiền mà mang về càng thêm lo nghĩ mà chết". Rồi Bá Minh gọi ầm lên: "Đằng trước có ai đánh rơi chiếc bao không?". Kêu mãi chẳng thấy ai tới nhận. Tuyết xuống mỗi lúc một dày, đêm đã khuya lắm rồi, Bá Minh đành vác bao về nhà. Gõ cửa, Tiểu Đào ra mở, thấy chiếc bao bèn hỏi:
- Những thứ này ở đâu đấy?
- Em ạ! Anh và em giàu to rồi! - Bá Minh nói. - Khoảng canh năm, thấy tuyết rơi nhiều, trời lạnh không có khách tới, anh đành bỏ về, giữa đường vấp phải chiếc bao ngã dụi xuống đất bò dậy gọi mãi chẳng thấy ai đến nhận. Anh đành phải mang chiếc bao về để chúng ta dùng. Người ta thường nó: "Người không cướp của không giàu, ngựa không ăn cỏ đêm không béo". Đây cũng là trời cho vợ chồng ta.
Bá Minh thấy hơi lo. Đúng là:
Tự dưng của đến không trả được
Chẳng thấy mừng vui cũng chẳng buồn.
Cổ thi viết:
Trời im hơi lặng tiếng,
Thăm thẳm biết đâu tìm.
Trời chẳng cao chẳng xa,
Ở ngay lòng ta đấy.
Châu Doãn Tào Châu bước ra công đường, bỗng thấy phủ Đông Bình sức giấy xuống bắt ngay Tào Bá Minh, người mở quán trọ ở Đông Quan, Tào Châu. Châu Doãn gọi ngay Trương Thiên, nói:
- Ngươi hãy đi bắt ngay Tào Bá Minh tới đây.
Trong chốc lát Tào Bá Minh tới, quỳ trước cửa công đường. Châu Doãn hỏi:
- Tại sao ngươi dọa nạt người, cướp lấy tang vật mang về
Nhà. Hãy khai rõ sự thực.
- Thưa tướng công, - Tào Minh nói, - con chưa cướp của bao giờ.
Châu Doãn quát đánh. Sai nha lôi Bá Minh ngã sấp, đánh hai mươi gậy, đến nỗi rách da toạc thịt, máu tươi đầm đìa, nhưng Bá Minh vẫn không chịu nhận. Đang định hỏi tiếp, thì thấy Tiểu Đào mang bao đến công đường tự thú, nói:
- Mấy hôm trước đây, không biết Bá Minh lấy ở đâu về một bao, không biết là của ai con mang lên tự thú.
- Mày là con đĩ xấu xa! - Tào Bá Minh nói. - Ta với mày là vợ chồng, mày lại đồng mưu với kẻ khác hãm hại ta!
- Tang vật rành rành, tại sao ngươi không nhận? - Châu Doãn giận dữ quát.
Tào Bá Minh cứ một mực kêu oan:
- Thưa tướng công, vào canh năm con đi đón khách, thấy chiếc bao này nằm trên đống tuyết, con nhặt mang về, chứ hoàn toàn con không lấy của ai.
Châu Doãn không nghe, truy hỏi nhiều lần, Bá Minh không chịu nổi buộc phải khóc lóc van xin. Tạ Tiểu Đào giả vờ sụt sịt nói:
- Em sợ anh phải chịu đòn nên mang bao ra tự thú. Anh khai ra là xong.
Bá Minh chửi:
- Đồ đê tiện, mày đã giết tao rồi!
Châu Doãn cho cùm Bá Minh, gói tang vật lại, làm văn bản trình lên trên, giải tới phủ Đông Bình để đưa ra ngoài ngàn dặm sinh sống. Đúng là:
Mai rùa hầm không nát,
Chỉ hại cành dâu khô.
Hôm ấy, hai người áp giải Bá Minh qua cửa nhà người cô. Bá Minh nói với cô rằng:
- Lúc đầu cháu không nghe lời cô, nên bây giờ bị gái điếm thông đồng với kẻ khác hãm hại. Cháu gửi đứa con cho cô, sau này chết đi con nhờ cô nuôi nấng dạy bảo nó là được rồi.
Người cô dọn rượu mời cháu và hai người sai nha. Họ được lệnh giải Bá Minh, cầm theo tang vật, và tờ trình tới phủ đường. Xong việc, họ phải chờ mang giấy của trên về.
Bộ Tả Thừa hỏi Bá Minh:
- Tại sao ngươi dọa người cướp của, hãy khai rõ sự thục.
- Thưa tướng công đèn trời soi xét vào canh năm con nhặt được chiếc bao này, chứ hoàn toàn con không lấy cắp.
- Hiện có tên trộm bị Tống Lâm đánh chết, - Bộ Tả Thừa nói, - Tống Lâm đã khai ngươi lừa dối cướp lấy số tang vật của tên cướp ấy. Tang vật hiện còn, ngươi chối làm sao được.
Bá Minh cứ khóc lóc kêu:
- Con lấy con gái điếm Tạ Tiểu Đào làm vợ, đến nay bị nó hãm hại. Xin Tướng Công soi xét.
Nghe thấy nói thế, Bộ Tả Thừa thấy nghi hoặc: "Việc này thật khó xét xử hãy giam Bá Minh lại, sai người tới Tào Châu bắt Tiểu Đào tới, may ra mới rửa oan được cho Tào Bá Minh".
Đúng là:
Báo ứng vốn vô tư,
Tiếng dồn như nhau cả.
Muốn biết mầm tai họa,
Phải xét từ việc làm.
Sai nha tới Tào Châu, bắt Tạ Tiểu Đào về phủ đường. Bộ Tả Thừa cho giải Tiểu Đào tới quỳ trước phủ đường. Bộ Tả Thừa nói:
- Con gái điếm này hãy khai mau. Ngươi đã gian dâm với đứa nào, rồi bày mưu hại Tào Bá Minh? Hãy khai thực ta sẽ tha, nếu không, ta sẽ đánh chết.
Tạ Tiểu Đào quanh co không chịu khai. Bộ Tả Thừa lệnh:
- Hãy nọc nó ra đánh một trăm gậy cho chết đi!
Sai nha lôi Tiểu Đào ra đánh, mới đánh được mười gậy Tiểu Đào không chịu nổi phải khai:
- Thưa Tướng Công, con đã có tình sâu nghĩa nặng với Thường Đô Quân, về sau bị Tào Bá Minh cưới làm thiếp, bởi thế con với Thường Đô Quân đã bày mưu, bảo Tống Lâm đem tang vật vứt trên đường chờ Bá Minh nhặt mang về rồi vu vạ cho Bá Minh để lấy thiếp làm vợ. Thưa Tướng Công đó là sự thực.
Bộ Tả Thừa lệnh giam dâm phụ và ngục, sai ngay bốn người hỏa tốc tới Tào Châu bắt Đô Quân. Bắt được Đô Quân sẽ đưa ngay Tạ Tiểu Đào vào làm nô tì cho quan. Đúng là:
Nếu như ác độc chưa báo ứng,
Trời đất quỷ thần vẫn thiên tư.
Hôm sau, Thường Đô Quân bị bắt giải tới công đường. Bộ Tả Thừa không hỏi, lệnh:
- Hãy đánh hắn một trăm roi gai.
Đô Quân bị đánh toạc ra rách thịt, máu me đầm đìa. Bộ Tả Thừa cho gọi Tào Bá Minh, Tạ Tiểu Đào vào trước công đường phán xét. Hai người quỳ một bên, Thường Đô Quân quỳ một bên: Bộ Tả Thừa buộc Đô Quân phải cung khai là do mê đắm Tiểu Đào mà mưu đồ hãm hại Tào Bá Minh. Bộ Tả Thừa cầm bút phán quyết, đánh Thường Đô Quân ba mươi gậy, thích chữ vào trán, đày đi xa ba ngàn dặm làm khổ sai, không cho phép về quê. Tạ Tiểu Đào phạt vào nhà quan làm nô tì. Tào Bá Minh vô sự, cho về nhà.
Tào Bá Minh lạy tạ Bộ Tả Thừa đã xét xử công minh, trở về nhà, hai cha con lại mở quán trọ như cũ, sống cho tới hết đời. Đúng là:
Vẽ hỗ, vẽ da xương khó vẽ,

Biết người biết mặt chẳng biết lòng.
Về Đầu Trang Go down
https://triamquan.forumvi.com/
Tri Âm Quán
Thành Viên Tích Cực
Thành Viên Tích Cực
Tri Âm Quán


Tổng số bài gửi : 6340
Reputation : 2
Join date : 31/07/2013
Đến từ : Thị Trấn Chũ

Đoán Án Kỳ Quan - Page 5 Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Đoán Án Kỳ Quan   Đoán Án Kỳ Quan - Page 5 EmptyTue Apr 22, 2014 6:17 pm

nhiều tác giả
Đoán Án Kỳ Quan
Phạm Tú Châu - Nguyễn Văn Thiệu (Dịch và biên soạn)
Chương 9
Nhận Lầm Xác Chết
Vào chuyện:
Thế sự ngày nay thật rối bời,
Sống phải khôn ngoan mới thảnh thơi.
Ngẫm ra, nước mất nhà tan nát,
Đều chỉ vì, tham ngọc tiếc hoa.
Vào năm Minh Đạo nguyên niên, thời Tống Nhân Tông, phía bắc cầu Thành Chúng An gần chùa Quan âm, quận Ninh Hải, lộ Triết Giang (tức Hàng Châu ngày nay), có một thương gia tên là Kiều Tuấn, tự Ngạn Kiệt, quê cha đất tổ ở Tiền Đường. Cha mẹ mất sớm, Kiều Tuấn là người khôi ngô tuấn tú nhưng lại hiếu sắc tham dâm. Vợ là Cao thị, đã bốn mươi tuổi mà vẫn không có con trai, chỉ có người con gái mười tám tuổi, tên là Ngọc Tú. Nhà có ba người, và một đứa ở tên là Trại Nhi.
Kiều Tuấn có bốn năm vạn quan tiền, chuyên đi mua tơ lụa ở Trường An, Sùng Đức đưa về Đông Kinh bán, rồi buôn táo hồ đào, tạp hóa về nhà bán. Một năm có tới sáu tháng vắng nhà Kiều Tuấn có một quán rượu, nhưng giao hết cho Trại Nhi, chỉ thuê một người làm công tên là Hồng Tam, chuyên ở nhà cất rượu. Vợ cao thị hằng ngày trông coi việc xuất nhập tiền nong.
Mùa xuân năm Minh Đạo thứ hai, khi đã bán xong tơ lụa ở Đông Kinh, Kiều Tuấn mua hồ đào, táo mang về, thuyền tới bến sông Thượng Tân, Nam Kinh, thì gặp gió to, phải nằm kẹt ở đó ba ngày không sao đi được. Đang đứng bên thuyền của mình, Kiều Tuấn nhìn thấy thuyền bên có một người đàn bà đẹp da trắng như tuyết, tóc xanh như mây, Kiều Tuấn nhìn thấy mê tít, bèn hỏi dò người chân sào:
- Thuyền của anh có người khách nào đấy. Vì sao lại có cả quan thi ở đó nữa?
- Chu Tuần Kiểm, phủ Kiến Khang mắc bệnh chết, nay gia đình đưa linh cữu về Sơn Đông, người đàn bà trẻ ấy là thiếp hầu của ông ấy. Ông hỏi người đàn bà ấy làm gì?
- Ông bạn ạ! - Kiều Tuấn nói. - Ông hỏi giúp tôi phu nhân Tuần Kiểm nếu muốn gả người thiếp ấy cho tôi, tôi sẽ tình nguyện đưa cho bà nhiều tiền của lễ vật để lấy người ấy làm thiếp. Ông thu xếp xong việc, tôi sẽ tạ ơn ông năm lạng bạc.
Người chân sào bèn vào khoang thuyền, hỏi phu nhân già:
- Thưa phu nhân, cô gái trẻ đằng trước, bà có muốn gả cho người khác không?
Thấy hỏi thế, phu nhân bằng lòng gả ngay người đàn bà trẻ ấy cho Kiều Tuấn làm thiếp, khiến cho:
Cả nhà đều chết hết.
Vạn quan tiền mất toi
Hai má như mồi thơm
Lông mày, lưỡi câu sắc
Câu Ngô Vương một lần
Mà nhà tan cửa nát.
Phu nhân già nói với người chân sào:
- Ngươi có nói với người lái buôn ấy được không? Nếu có ai lấy cô ấy thì ta bằng lòng gả, chỉ cần đưa cho ta một ngàn quan là xong.
- Thuyền bên có một người khách buôn táo, muốn lấy Nhị Nương Tử, nên có ý bảo tôi nói với phu nhân.
Phu nhân bằng lòng. Người chân sào trở lại nói với Kiều Tuấn:
- Phu nhân đã bằng lòng gả cho ông rồi.
Thấy nói thế Kiều Tuấn rất mừng, mở ngay hòm lấy ra một ngàn quan tiền giao cho người chân sào đưa cho phu nhân. Phu nhân nhận tiền rồi bảo người chân sào mời Kiều Tuấn sang gặp. Kiều Tuấn thay quần áo, sang thuyền chào phu nhân. Phu nhân hỏi quê quán, họ tên, rồi gọi thị thiếp tới bảo:
- Tướng Công đã qua đời, đứa con của ta lại rất ghê gớm, ta gả cô cho ông này làm thiếp, bây giờ cô hãy sang thuyền bên, tới Đại Mã Đầu, quận Ninh Hải sống. Cô phải hết lòng hầu..hạ ông ấy, đừng thoái thác!
Người đàn bà và Kiều Tuấn chào từ biệt phu nhân già. Phu nhân cho người đàn bà ấy mang quần áo đồ đạc của mình sang thuyền Kiều Tuấn. Kiều Tuấn lấy ra năm lạng bạc đưa cho người chân sào.
Kiều Tuấn rất đỗi vui mừng, hỏi người đàn bà:
- Em tên gì?
- Em là Xuân Hương, hai mươi lăm tuổi.
Đêm ấy trên thuyền, Kiều Tuấn cùng nàng chung chăn gối.
Hôm sau trời quang mây tạnh, tất cả thuyền bè đều giương buồm lên đường. Kiều Tuấn đi sáu bảy ngày mới tới Bắc Tân Quan, ép thuyền lên bờ, gọi một chiếc kiệu cho Xuân Hương về Vũ Lâm Môn, tới cổng thì họ xuống kiệu.
Kiều Tuấn dẫn Xuân Hương về nhà, vào trước gặp Cao thị báo cho Cao thị biết chuyện, rồi trở ra đón Xuân Hương vào gặp Cao thị. Thấy Xuân Hương, Cao thị nói ngay:
- Anh đã lấy cô ấy về tôi không dám ngăn cản, song anh phải nghe theo tôi hai điều thì tôi mới tha cho anh.
- Em hãy nói đi, - Kiều Tuấn nói, - hai điều ấy là gì?
Cao thị nói thẳng với Kiều Tuấn là: có nhà khó ở, có nước khó về! Đúng là:
Lụn bại tại vì sa quán rượu
Tai ương là bởi có tình nhân,
Trai tài có ý mê người đẹp,
Gái sắc hững hờ gã trai quê,
Sao anh đã vội nghe lời vợ,
Phân cửa chia nhà hại lắm thay.
Không nghe lời vợ làm việc lớn,
Nam nhi như thế được mấy người.
Lúc ấy Cao thị nói với chồng:
- Nay anh đã lấy vợ về thì anh dẫn cô ấy đi nơi khác mà ở, không cho anh để cô ấy ở cái nhà này.
- Được thôi, - Kiều Tuấn nói, - tôi sẽ đi thuê nhà khác ở với cô ấy.
- Từ hôm nay trở đi, - Cao thị nói, - tôi không ở với anh nữa. Tiền, đồ đạc, trang sức, quần áo trong nhà là của mẹ con tôi không cho phép anh mang đi. Anh có nghe không?
Kiều Tuấn trầm ngâm hồi lâu, nghĩ bụng: "Nếu không theo thì khó mà sống được. Thôi thì nghe theo cho yên chuyện", rồi nói:
- Anh theo lời em.
Cao thị im lặng.
Sáng sớm hôm sau Kiều Tuấn dỡ hàng và hành lý về nhà rồi nhờ người thuê một ngôi nhà ở Cục Tiền Đồng, nay là Cống Viện. Kiều Tuấn chọn ngày tốt, kiểm lại hàng, dọn đến nhà mới, rồi cứ hai ba ngày lại về nhà cũ một lần.
Thời gian thấm thoát thoi đưa, mới thoáng qua mà đã nửa năm, Kiều Tuấn mua tơ xong, chuẩn bị ít gạo củi để ở nhà, nói với Chu thị:
- Em ráng ở nhà một mình, anh đi độ vài tháng thì về. Nếu có việc gì cần kíp thì hãy về nhà nói cho chị cả biết.
Sau đó Kiều Tuấn về nói với vợ cả Cao thị:
- Ngày mai anh đi, nhiều lắm cũng chỉ độ hai tháng thì về. Nếu có việc gì xẩy ra, em hãy để ý đến Chu thị, để giữ thể diện cho vợ chồng mình.
Con gái nói:
- Cha đi rồi thu xếp mà về cho sớm nhé.
Kiều Tuấn từ biệt vợ con, trở về thu xếp chuẩn bị mai lên đường. Lúc Kiều Tuấn xuống thuyền đi Đông Kinh đã là tháng Chín.
Biền biệt hai tháng trời, Chu thị ở nhà vò võ một mình, suốt ngày tựa cửa ngóng trông mà chẳng thấy chồng về. Mùa đông đã tới. Năm ấy trời rất lạnh, rồi bỗng một buổi chiều mây đen ùn ùn kéo đến, bầu trời tối sầm lại, rồi tuyết rơi dữ dội. Cao thị ở nhà lo lắng: "Chồng mình ra đi đã tới mùa đông rồi mà sao vẫn không về", rồi nói với con gái:
- Chu thị ở nhà rét mướt mà Trại Nhi lại ốm nặng không đến được.
Rồi Cao thị bảo Hồng Tam đưa gạo, củi, than, tiền cho Chu thị.
Thấy tuyết xuống nhiều, Chu thị đóng cửa ngồi khóc một mình, bỗng thấy tiếng gõ cửa, cứ ngỡ rằng chồng về, vội vã ra mở cửa, thấy Hồng Tam gánh các thứ tới. Chu thị nói:
- Anh Hồng Tam, lâu nay Đại Nương và Đại Thư có khỏe không?
- Đại Nương thấy ông chưa về, nghĩ rằng bà thiếu tiền chi dùng, nên bảo tôi mang củi, gạo và tiền tới cho bà.
Thấy thế Chu thị nói:
- Hồng Tam, về cho tôi gửi lời cám ơn Đại Nương và Đại Thư nhé!
Hồng Tam chào từ biệt Chu thị trở về.
Trưa hôm sau lại thấy tiếng gõ cửa, Chu thị nghĩ: "Trời tuyết to thế này không biết ai gọi cửa". Chính vì người này mà sau đó Chu thị không thể sống chung với Kiều Tuấn.
Hôm ấy tuyết rơi mỗi lúc một to. Chu thị đang ngồi trong phòng sưởi ấm, thấy có tiếng gõ cửa, đứng dậy nhìn ra thì thấy một người chít khăn rách, mặc áo cũ, hỏi Chu thị:
- Bà ơi, ông Kiều Tuấn có nhà không?
- Ông nhà tôi đi từ tháng chín tới nay vẫn chưa về. - Chu thị trả lời
- Tôi là lý trưởng tới gọi Kiều Tuấn đến Hải Ninh đắp đê, cứ làm mười ngày lại nghỉ hai mươi ngày, ông ấy không ở nhà thì tôi tìm giúp cho ông bà một người, bà trả công cho họ.
- Thế thì nhờ ông tìm giúp, tôi sẽ trả công. - Chu thị nói.
Lý trưởng chào Chu thị ra về. Hôm sau ăn cơm xong lý trưởng dẫn tới một chàng trai trạc hai mươi tuổi tới gặp Chu thị. Lí trưởng nói:
- Anh này người huyện Thượng Hải, tên là Đồng Tiểu Nhị. Cha mẹ mất sớm, nay đi làm thuê sống qua ngày. Mỗi năm chỉ cần bà trả bốn năm quan tiền, mùa đông, mùa hạ may cho anh ta vài bộ quần áo. Tôi thấy nhà bà neo người, có thể thuê anh ấy làm việc nhà, không ngại gì đâu.
Thấy lý trưởng nói thế Chu thị rất mừng, nói:
- Đúng là nhà tôi không có người làm thật.
Thấy người ấy hiền lành, lương thiện bèn cám ơn lý trưởng, nhận thuê người ấy làm việc ngay tại nhà.
Sáng hôm sau lý trưởng đến gọi đi phu. Chu thị đưa cho ít tiền, rồi Tiểu Nhị theo lý trưởng đi làm mười ngày mới về. Tiểu Nhị ở nhà cần cù siêng năng nhóm bếp, quét nhà, việc gì cũng chịu thương chịu khó.
Kiều Tuấn ở Đông Kinh bán tơ, thường đi lại với Thẩm Thụy Liên, một gái làng chơi có tiếng, rồi ở ngay nhà cô ăn chơi tiêu xài. Anh ta chỉ luyến hoa tiếc liễu mải mê vui thú, hoàn toàn bỏ mặc vợ con ở nhà.
Đâu có biết Trại Nhi ở nhà ốm đau đã chết hơn một tháng, Cao thị bảo Hồng Tam mua sắm quan tài, đưa ra bãi hỏa táng ngoại thành hỏa thiêu. Cao thị vốn là người trinh tiết, tuy bán rượu ở cửa hàng nhưng chẳng chút tà tâm.
Không ngờ, từ khi Chu thị cho Đồng Tiểu Nhị ở tại nhà, lại gian díu với anh ta, mỗi lần đi phu trở về, thường mang cơm nóng canh sốt cho Tiểu Nhị ăn. Tiểu Nhị thấy không có ai ở nhà càng cần mẫn siêng năng. Chu thị thường đầu mày cuối mắt khơi gợi. Tiểu Nhị cũng có tình ý nhưng không dám gần.
Một hôm, đúng vào đêm ba mươi tháng Chạp, Chu thị bảo Tiểu Nhị mua ít rượu, thịt, cá, hoa quả về ăn tết. Đến tối Chu Thị bảo Tiểu Nhị đóng cổng, vào bếp hâm rượu, thái thịt làm cỗ đặt lò sưởi, đốt đèn, bày mâm trên chiếc giường trong phòng. Tiểu Nhị ngồi dưới bếp đốt lửa. Chu thị khe khẽ gọi:
- Tiểu Nhị, hãy vào phòng ăn cơm uống rượu:
Tiểu Nhị ngượng ngùng bước vào, dường như Tiểu Nhị đang đi vào chỗ chết. Đúng là:
Chỉ vì rượu gái cùng tiền của,
Chôn vùi sự nghiệp đấng nam nhi.
Trong nhà không thể không kẻ ở
Ngờ đâu gặp phải bọn côn đồ.
Rõ ràng chuyên xẩy ra kì quặc,
Thế mà che mắt đấng trượng phu.
Lúc ấy Chu thị gọi Tiểu Nhị vào giường, nói:
- Tiểu Nhị, lại đây, lại đây! Tôi và anh uống vài chén rượu. Hôm nay chúng ta là vợ chồng có được không?
- Tôi không dám! - Tiểu Nhị đáp.
Chu thị trách:
- Đồ ngốc!
Thế rồi Chu thị bế Tiểu Nhị lên giường, ngồi sát vào Tiểu Nhị rồi ôm chầm vào lòng, cởi thắt lưng bảo Tiểu Nhị sờ vào đôi vú trắng ngần. Hồn vía Tiểu Nhị phiêu diêu bồng bềnh, ôm ghì lấy khuôn mặt Chu thị, thè lưỡi sang mồm Chu thị vô cùng khoái lạc
Chu thị rót rượu, hai người nâng cốc, uống chung năm sáu chén. Chu thị nói:
- Anh ngủ ở ngoài, em ngủ trong phòng, giá lạnh chịu sao nổi. Không nghe theo lời em, anh thật là ngốc nghếch.
Tiểu Nhị quỳ xuống nói:
- Cảm ơn Nương Tử đã có lòng, kẻ hèn mọn này đã có tình ý từ lâu rồi, nhưng không dám nói ra. Nay được Nương Tử nâng đỡ, ơn ấy có đổi mạng sống cũng không đền đáp nổi.
Hai người nói xong cởi áo quần sống như vợ chồng. Một đêm mây mưa khoái lạc, không cần phải kể.
Sáng dậy Tiểu Nhị đun nước, rửa bát, nấu cơm, Chu thị dậy trang điểm rửa mặt rồi ăn cơm. Đúng là:
Nam thanh nữ tú,
Gái sắc trai tài.
Họ sống với nhau như vợ chồng. Hàng xóm láng giềng đều biết, song chẳng ai để ý tới chuyện không đâu.
Vì không có người bán rượu, Cao thị phải đứng bán rượu ngoài cửa hàng. Bỗng một hôm nghe thấy người ta nói, Chu thị thông dâm với Tiểu Nhị, Cao thị rất sốt ruột, cho Hồng Tam tới bảo Chu thị dọn về nhà để hai bên đỡ tốn kém. Được tin, Chu thị nhờ Hồng Tam về cảm ơn lòng tốt của Đại Nương, và hứa sẽ dọn đồ đạc về nhà ngay tối nay. Hồng Tam ra về.
Chu thị bèn gọi Tiểu Nhị tới bàn:
- Hôm nay Đại Nương bảo ta về nhà thì anh sẽ như thế nào bây giờ?
- Thưa bà, bà lớn ở nhà không có người, con xin tình nguyện tới đó bán rượu cho bà lớn. Có điều là không được vui thú cùng bà. Đôi ta bỗng dưng phải xa nhau.
Nói xong hai người ôm nhau khóc. Chu thị nói:
- Anh hãy yên tâm. Tôi thu xếp đồ đạc quần áo, anh gánh giúp tôi về chỗ bà lớn. Tôi sẽ nói với bà lớn giữ anh lại, rồi chúng ta lén lút vui thú với nhau, chờ cho chồng tôi về sẽ liệu kế sau.
Tiểu Nhị thấy thế vui vẻ trả lời:
- Xin trông chờ vào sự cố gắng của bà.
Chiều hôm ấy Tiểu Nhị thu xếp gánh đồ đạc đến nhà bà lớn. Đến chiều Hồng Tam mang đèn lồng tới đón Chu thị. Chu thị lấy khóa khóa cổng, cùng với Tiểu Nhị về nhà.
Thiêu thân lao vào đĩa đèn chết,
Dơi vấp phải sào mạng cũng toi.
Làm người xin đừng ai giả dối,
Ngẩng lên ba thước thấy thánh thần.
Nếu như kẻ ác không báo ứng,
Thiên hạ côn đồ giết lẫn nhau.
Tiểu Nhị, Chu thị về nhà gặp Cao thị. Cao thị nói:
- Nay cô đã về đây ở, tại sao không đuổi Tiểu Nhị đi mà còn dẫn nó về. - Trước mắt Đại Nương không có người sai bảo, thôi thì cứ lưu nó lại để sai vặt, đến khi anh Kiều Tuấn về đuổi nó đi cũng chưa muộn.
Cao thị là một người trong trắng, nghĩ bụng: "Ở nhà ta trực tiếp trông coi thì họ gian díu với nhau làm sao được". bèn cho Tiểu Nhị ở lại trông coi cửa hàng, cất rượu, cần gì là có người sai bảo ngay.
Không ngờ mấy tháng trời, Chu thị tuy có tình ý với Tiểu Nhị nhưng không thể tự do hành lạc như khi ở một mình.
Một hôm Chu thị thấy Đại Nương khen Tiểu Nhị cần mẫn siêng năng, lại biết giữ bổn phận, Chu thị bèn chớp lấy thời cơ nói:
- Sao Đại Nương không gả Đại Thư cho Tiểu Nhị có được không?
Nghe thấy thế Đại Nương nổi giận chửi:
- Ngươi là đồ hèn, không có chí khí! Chả lẽ con gái ta lại lấy đứa làm thuê ư?
Chu thị bị Đại Nương chửi ba bốn ngày mà vẫn không dám nói năng gì. Đại Nương chỉ biết mình quang minh chính đại mà hoàn toàn không cho rằng Chu thị đã thông dâm với Tiểu Nhị, nên Chu thị muốn Cao thị gả con gái cho hắn ta. Nếu Cao thị nghĩ ra trước điều này đuổi Tiểu Nhị đi thì sau này không đến nỗi tan cửa nát nhà, mình và con cũng không phải chết trong tù ngục.
Người xưa nói: "Một năm là đứa ở, hai năm trở thành ông, ba năm thành cụ”. Không ngờ Kiều Tuấn đi biền biệt mãi không về. Tiểu Nhị ở nhà Đại Nương đã hơn một năm, mọi việc trong nhà đều dựa vào Tiểu Nhị và trở thành chủ nhà, ức hiếp Hồng Tam. Mỗi khi gặp Ngọc Tú, Tiểu Nhị thường hay trêu ghẹo, rồi một hôm, không ngờ Tiểu Nhị gian dâm với Ngọc Tú. Việc này Chu thị biết nhưng vẫn giấu Đại Nương.
Dạo ấy vào tháng sáu, trời nóng nực oi bức, Ngọc Tú tắm trong phòng, Đại Nương bước vào, thấy vú con gái to, chợt giật mình. Chờ cho con gái tắm xong, Đại Nương gọi vào nhà hỏi:
- Mày đã bị đứa nào trêu ghẹo mà vú to như thế? Hãy nói thực thì ta tha cho.
Ngọc Tú không thể chối cãi được, đành nói thật:
- Con đã bị Tiểu Nhị lừa.
Cao thị giậm chân kêu trời:
- Việc này hoàn toàn do Chu thị chỉ lối đưa đường, làm hại con gái ta, biết thế nào đây?
Định làm to chuyện, nhưng lại sợ chuyện vỡ lở, con mình sẽ khổ một đời. Cao thị chau mày ngẫm nghĩ hồi lâu: "Phải giết thằng khốn nạn này thì người ta mới không biết được".
Hai tháng sau, hôm ấy đúng vào dịp tết Trung thu, Cao thị bảo Tiểu Nhị mua cá, thịt, hoa quả làm cỗ. Đêm ấy, Cao thị, Chu thị và Ngọc Tú thưởng trăng ở vườn sau, bảo Hồng Tam và Tiểu Nhị ăn riêng chỗ khác. Vào canh ba, Cao thị gọi Tiểu Nhị thưởng cho hai bát rượu. Tiểu Nhị không dám chối từ uống một hơi cạn hết, không ngờ say quá ngã gục. Hồng Tam uống rượu xong, một mình về phòng ngủ.
Tiểu Nhị vì say rượu, trúng kế Cao thị, đêm ấy quả là:
Dương gian vừa biến mất một người.
Đông Nhạc lại thêm oan hồn mới.
Lúc ấy Cao thị giục con gái đi ngủ, rồi nói với Chu thị:
- Ta chỉ quan tâm tới việc buôn bán trong nhà, nào ngờ ngươi lại thông dâm với thằng khốn nạn ấy. Các ngươi đều cùng một giuộc, ngươi đã cố ý bảo nó gian dâm với con gái ta. Ông ấy mà về thì ăn nói sao đây? Ta là một người trong trắng, nay gọi ngươi về ngươi lại làm nhục gia phong nhà ta, phải làm thế nào đây? Không còn cách nào khác, bây giờ ta và ngươi phải giết tên khốn kiếp ấy, chẳng thần thánh ma quỷ nào biết được. Nếu ông ấy về, ngươi và con gái ta cũng sẽ tránh được tiếng xấu xa, mọi người đều vô sự. Ngươi hãy tìm cho ta một chiếc thùng.
Lúc đầu Chu thị không nghe, bị Cao thị chửi:
- Chính vì người thông dâm với thằng đê tiện ấy nên đã làm hại con gái ta, bởi thế ngươi vẫn còn luyến tiếc nó!
Chu thị bị chửi như tát nước vào mặt, đành vào phòng lấy ra một chiếc thùng gai đưa cho Đại Nương. Đại Nương cầm lấy thắt cổ Tiểu Nhị.
Đàn bà vốn yếu chân mềm tay, thắt hàng giờ đồng hồ mà không chết. Tiểu Nhị kêu lên. Đang lúc khẩn cấp, không có gì trong tay, Cao thị bảo Chu thị vào bếp lấy ngay chiếc búa bổ củi bổ vào đầu Tiểu Nhị, óc phọt ra chết giẫy đành đạch.
Cao thị bàn với Chu thị:
- Chết thì chết rồi, nhưng chiếc xác này xử lí thế nào đây?
- Hãy gọi Hồng Tam dậy, - Chu thị nói, - buộc một hòn đá to vào xác mang vứt xuống sông Tân Kiều để chiếc xác ấy thối rữa thì chẳng ma quỷ thần thánh nào biết được.
Cao thị rất mừng, bèn vào gian nhà cất rượu gọi Hồng Tam tới. Hồng Tam ra vườn sau, thấy xác Tiểu Nhị, nói:
- Trừ khử được tai họa này thì tốt quá. Nếu còn để nó ở nhà này ông nhà mà về thì mất mặt.
- Nhân lúc trời chưa sáng, - Chu thị nói, - hãy mang chiếc xác này đưa ra sông Tân Kiều, buộc hòn đá to vào và vứt xuống sông. Sáng mai nếu có ai hỏi thì cứ nói là đêm qua Tiểu Nhị đã lấy trộm đồ trang sức rồi trốn đi. Nhà nó lại không có người đến tìm thế là tai họa không còn nữa.
Hồng Tam mang chiếc xác đi, Đại Nương soi đèn đưa ra khỏi cửa. Lúc ấy đã vào canh năm, Hồng Tam tới bờ sông, lấy một hòn đá to buộc vào xác chết vứt xuống sông, rồi đẩy ra tận giữa dòng. Sông này chỉ sâu hơn một trượng, chiếc xác chìm xuống đáy, chắc rằng sẽ vĩnh viễn không còn tông tích. Hồng Tam trở về, khe khẽ đóng cổng. Đại Nương và Chu thị vào buồng ngủ.
Cao thị tuy tự cho mình là trong sạch, nhưng thiếu chút thông minh, làm hỏng việc này. Nếu như đã biết được việc gian dâm, thì chỉ cần đuổi Tiểu Nhị đi là xong chuyện. Song nay lại thắt cổ Tiểu Nhị chết, sau này bị người ta cáo giác nên đã chết trong ngục, tan cửa nát nhà.
Hồng Tam ngủ tới sáng, dậy cất rượu. Đại Nương vẫn đứng trước quầy hàng bán rượu như mọi ngày. Ngọc Tú không thấy Tiểu Nhị, cũng không dám hỏi. Chu thị giả vờ nói:
- Thằng Tiểu Nhị là một đứa quá tồi tệ, đêm qua nó đã lấy trộm đồ trang sức rồi trốn đi.
Ngọc Tú ở trong phòng cũng chẳng hỏi gì thêm. Những người hàng xóm cũng chẳng để ý gì đến Tiểu Nhị có còn ở nhà Đại Nương hay không.
Từ hôm sát hại Tiểu Nhị, Cao thị cứ giật mình thon thót, lúc nào cũng lo lắng buồn rầu, chỉ sợ người ngoài phát hiện ra. Đúng là.
Muốn người coi trọng xin gắng học,

Sợ người đời biết chớ có làm.
Về Đầu Trang Go down
https://triamquan.forumvi.com/
Tri Âm Quán
Thành Viên Tích Cực
Thành Viên Tích Cực
Tri Âm Quán


Tổng số bài gửi : 6340
Reputation : 2
Join date : 31/07/2013
Đến từ : Thị Trấn Chũ

Đoán Án Kỳ Quan - Page 5 Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Đoán Án Kỳ Quan   Đoán Án Kỳ Quan - Page 5 EmptyTue Apr 22, 2014 6:39 pm

nhiều tác giả
Đoán Án Kỳ Quan
Phạm Tú Châu - Nguyễn Văn Thiệu (Dịch và biên soạn)
Chương 9 (B)
Bên cống Thanh Hồ ngoài Vũ Lâm Môn có một người chuyên sống bằng nghề đóng giày, tên là Trần Văn, vợ là Trình Ngũ Nương. Hôm ấy vào đầu tháng Mười Hai, vợ chồng to tiếng, Trần Văn đến ngay chợ da bên cầu Lý Bồ rồi không thấy về, mãi tới chiều hôm sau cũng không thấy bóng dáng đâu cả. Trình Ngũ Nương rất sốt ruột, lại qua một đêm nữa vẫn biệt vô âm tín. Trình Ngũ Nương ở nhà một mình lo đứng lo ngồi.
Gần một tháng trời vẫn không thấy tin tức chồng, Trình Ngũ Nương buộc phải vào thành, tới chợ hỏi các cửa hàng bán da. Họ đều nói:
- Hàng tháng nay có thấy chồng chị tới mua da đâu? Hay là chết ở đâu rồi!?
Có nhiều người lại hỏi:
- Khi đi chồng chị mặc áo gì?
- Cách đây một tháng, khi đi nhà tôi mặc áo lụa xanh, - Trình Ngũ Nương nói, - đội khăn chữ vạn, nói là đi chợ mua da, tới nay đã một tháng vẫn không thấy về. Chẳng biết đã đi đâu?
Mọi người đều bảo chị cứ đi quanh quẩn trong thành mà hỏi thì may ra sẽ biết tin.
Trình Ngũ Nương cảm ơn mọi người, rồi đi vào thành tìm suốt một ngày mà vẫn không thấy tin tức gì. Hai hôm sau, ăn cơm sáng xong, chị lại vào thành, vừa tới Tân Kiều, thấy có người đứng bên bờ sông kêu toáng lên:
- Có người chết dưới sông, mặc áo xanh, đang nổi phập phờ dưới nước.
Nghe thấy thế Trình Ngũ Nương vội đến bên cầu, rẽ đám đông vào xem, thì thấy một xác chết mặc áo xanh, dập dềnh dưới nước, nhìn xa thấy hao hao chồng mình. Trình thị bèn gào lên khóc:
- Anh ơi, vì sao anh lại chết dưới sông này.
Mọi người đều sững sờ. Trình thị bảo với mọi người rằng:
- Bác nào vớt xác chồng em lên em sẽ biếu năm mươi quan tiền uống rượu.
Lúc ấy có một người sa cơ lỡ vận, gọi là Vương Tửu Tửu, chuyên nịnh nọt bợ đỡ, lừa người lấy của. Hắn là một tên lưu manh, nên chẳng ai dây với hắn. Thấy Trình Ngũ Nương hứa biếu năm mươi quan tiền uống rượu, hắn bèn bước tới nói:
- Chị ơi, tôi sẽ lôi chiếc xác ấy lên để chị xem.
Ngũ Nương gạt nước mắt nói: - Nếu bác giúp được, em vô cùng cám ơn.
Vương Tửu Tửu thấy một chiếc thuyền đi ngang qua, bèn nhảy xuống thuyền gọi:
- Bác lái, hãy dừng thuyền lại một chút, chờ tôi giúp chị này kéo chiếc xác lên bờ.
Vương Tửu Tửu đứng trên thuyền, dùng chiếc sào đẩy xác chết vào bờ, hắn nhận ra đây là xác Đổng Tiểu Nhị, nhưng không nói ra. Trình thị tới, nhìn thấy mặt đã bị nước làm tướp da, không nhận ra được. Song nhìn quần áo thì hao hao như chồng mình, bèn gào lên khóc thảm thiết, nói với Vương Tửu tửu:
- Phiền bác đi với cháu mua chiếc quan tài về khâm liệm rồi hãy tính toán sau.
Vương Tửu Tửu bèn đi theo Trình Ngũ Nương, tới báo cho Lý Đoàn người trông coi việc khám xét tử thi, mua quan tài, gọi hai người tới bờ sông khiêng xác bỏ vào quan tài, rồi đặt bên bờ sông. Thời ấy bên cầu không có nhà nào ở, hằng ngày chỉ có thuyền bè qua lại.
Trình thị lấy ra năm mươi quan tiền đưa cho Vương Tửu Tửu. Được tiền rồi, Vương Tửu Tửu đến ngay quán rượu của Cao thị, lấy cớ là mua rượu, hỏi Cao thị:
- Vì cớ gì nhà bà lại đánh chết Đổng Tiểu Nhị vứt dưới cầu sông Tân Hà, nay đã nổi lên. Bà bảo có buồn cười không, có một người ở đâu nhận lầm là chồng mình, mua quan tài khâm liệm, hôm nào đó sẽ đến chôn cất.
- Vương Tửu Tửu, ông chỉ nói liều, - Đại Nương nói, - thằng Tiểu Nhị đã ăn cắp đồ trang sức rồi bỏ trốn, truy tìm không thấy, làm gì có chuyện đó.
- Đại Nương, - Vương Tửu Tửu nói, - bà đừng chối nữa! Giấu người khác chứ che mắt ta làm sao được. Nếu bà đưa cho ta một ít tiền nói khó với ta thì ta lờ đi, để người đàn bà ấy nhận nhầm cho xong chuyện. Nếu như cãi khuấy, không chịu đưa tiền cho ta, thì ta sẽ lên phủ tố giác bà giết người.
Cao thị nghe xong, chửi ầm lên:
- Ngươi là thằng lưu manh cướp của giết người, là thằng ăn mày mạt kiếp. Chồng ta đi vắng đến đánh lừa ta.
Vương Tửu Tửu bị chửi, hằm hằm tức giận, bỏ đi, và việc này đã liên quan tới bốn nhân mạng nhà họ Kiều. Nếu người đàn bà ấy cứ cho bừa hắn một ít tiền thì không đến nỗi xẩy ra việc ấy.
Trời tuyết cò kia bay mới thấy,
Liễu xanh anh vũ hót mới hay.
Tội ác dù nhỏ,
Xin chớ có làm.
Áo mặc cơm ăn,
Do mình cày cấy.
Ôi cuộc sống ấy,
Vui thật là vui.
Bị Cao thị chửi cho một trận, Vương Tửu Tửu đến ngay An phủ ty quận Ninh Hải tố giác. An phủ tướng công đang ngồi trong sảnh đường, sai tay chân gọi Vương Tửu Tửu vào hỏi:
- Ngươi có việc gì oan khuất?
Vương Tửu Tửu quỳ trước sảnh đường nói:
- Con là Vương Thanh, người huyện Tiền Đường, nay tới cáo giác. Láng giềng con có một người tên là Kiều Tuấn đi buôn bán xa chưa về. Vợ anh ta là Cao thị, thiếp là Chu thị, con gái là Ngọc Tú đã gian dâm với một người làm thuê là Đổng Tiểu Nhị. Không biết vì duyên cớ gì mà mưu sát Đổng Tiểu Nhị, vứt xác xuống sông Tân Kiều, nay xác nổi lên. Con đã nói việc này với Cao thị, song Cao thị đã mắng chửi con tàn tệ. Nhà Cao thị có một người làm công tên là Hồng Tam, dám cùng họ mưu sát Tiểu Nhị. Thấy việc ấy con không đang tâm, bởi thế con lên bẩm báo với ngài. Xin ngài đèn trời soi xét.
- An phủ nghe xong, bảo viên lục sự ghi lại lời khai của Vương Thanh, đồng thời viết lệnh, sai hai người dẫn Vương Thanh đi bắt ba người nhà của Kiều Tuấn và Hồng Tam, cấp tốc giải về sảnh đường.
Sai nha tới bắt Cao thị, Chu thị, Ngọc Tú và Hồng Tam, rồi khóa cổng, giải về phủ. Những người này quỳ trước sảnh đường. Tướng Công tên là Hoàng Chính Đại người Thái Châu, là một người giảo hoạt, tham lam và tàn khốc. Ông ta hỏi Cao thị:
- Đổng Tiểu Nhị hiện ở đâu?
- Đổng Tiểu Nhị lấy trộm đồ đạc, hiện không biết trốn đâu? Cao thị nói.
- Xin Tướng Công cứ hỏi Hồng Tam sẽ rõ. - Nha lại nói.
An phủ bèn đánh Hồng Tam năm mươi roi gai, hai chân Hồng Tam tóe máu. Không chịu nổi đòn, Hồng Tam khai:
- Thoạt tiên Đổng Tiểu Nhị gian dâm với Chu thị, sau đó dọn về nhà, lại gian dâm với Ngọc Tú. Cao thị biết được, sợ chồng về làm nhục gia phong, cho nên vào đêm rằm tháng tám, thưởng trăng Trung thu, Cao thị đã cho con và Tiểu Nhị uống rượu. Cả hai đều say. Con sợ lỡ việc, về gian nhà cất rượu ngủ. Đến canh năm, thấy Cao thị, Chu thị tới gọi con ra vườn sau, ở đó con thấy xác Tiểu Nhị nằm trên vũng máu. Con mang ra sông vứt. Trở về con hỏi Cao thị, tại sao lại giết Tiểu Nhị. Cao thị nói: "Nó và Chu thị thông đồng lừa dối con gái ta để gian dâm, nếu bất chợt Kiều Tuấn về biết được làm thế nào. Đuổi nó đi thì không được, lại sợ nó nói ra sự thực, không còn cách nào khác, ta đã dùng thừng thắt cổ nó". Con là người thực thà, bèn nói: "Nó là một tên vô lại, phải trừ khử ngay đi". Thưa Tướng Công, đó là sự thực.
Thấy đã rõ ràng, An Phủ bắt Hồng Tam điểm chỉ vào bản ghi lời khai. Hồng Tam đã khai hết sự thực, hai người đàn bà hồn xiêu phách lạc, Ngọc Tú run cầm cập. An Phủ hỏi Ngọc Tú, Ngọc Tú khai:
- Thoạt tiên Chu thị gian dâm với Tiểu Nhị, mẹ con gọi hai người về nhà. Tiểu Nhị chòng ghẹo con nhiều lần, con không chịu nghe. Sau đó cưỡng bức con ra vườn sau để gian dâm. Đến ngày rằm tháng tám, chuẩn bị cỗ bàn trông trăng, ăn uống xong mẹ con giục con đi ngủ. Con hoàn toàn không biết chuyện Tiểu Nhị chết.
An phủ lại hỏi Chu thị:
- Ngươi đã gian dâm với Tiểu Nhị, tại sao ngươi lại làm hại con gái ngươi, hãy khai mau.
Chu thị hai hàng nước mắt đầm đìa, khai hết sự thực. An phủ lại hỏi Cao thị:
- Tại sao ngươi mưu giết Tiểu Nhị?
Không thể chối cãi được, Cao thị đành phải khai rõ từ đầu. Sau đó tất cả đều bị tống vào nhà lao.
An phủ căn cứ vào lời khai, lập bản án. Hôm sau sai huyện úy cùng với pháp y áp giải bọn Cao thị tới cầu Tân Hà khám nghiệm tử thi.
Hôm ấy cả trong và ngoài thành đều náo động, người ta lũ lượt đi xem, không sao kể xiết. Huyện úy áp giải họ tới Tân Hà, bật nắp quan tài, lôi xác chết ra khám nghiệm, rồi lại bỏ vào quan tài. Huyện úy dẫn bốn người ấy về thưa với An phủ:
- Đổng Tiểu Nhị tuy bị búa bổ vỡ sọ, song vẫn còn vết thắt cổ.
An phủ cho sai nha đánh mỗi người hai mươi gậy, tất cả đều ngất đi, một lúc sau mới tỉnh. Họ lấy một chiếc cùm dài cùm Cao thị và dùng xích sắt xích Chu thị, Ngọc Tú, Hồng Tam lại, rồi tống ngục. Vương Thanh theo nha môn xử lý.
Vợ người thợ khâu giày biết mình nhận lầm xác chồng cũng không khóc nữa, thấy khủng khiếp quá, không dám gặp mọi người.
Ngọc Tú trong tù không ăn uống được, hôm sau thì chết. Hai hôm sau nữa Chu thị cũng chết. Hồng Tam ốm nặng, lính coi ngục bẩm báo An phủ, An phủ sai thầy thuốc chữa trị, nhưng không khỏi, rồi cũng chết. Chỉ có Cao thị mình mẩy sưng húp, chỗ bị đánh đau đớn nhức nhối không sao chịu nổi, cơm cháo không ăn được, thuốc uống cũng vô dụng, rồi chết nốt.
Thật đáng thương, chưa đầy nửa tháng mà bốn người lần lượt chết trong nhà tù. Lính coi ngục bẩm báo, Tri phủ nói với thư lại:
- Kiều Tuấn đi đã lâu không trở về, ở nhà thê thiếp mưu sát người, đáng phải đền mạng. Bọn gây ra tội ác đã chết. Hãy viết tờ biểu tâu lên triều đình, rồi mới quyết đoán.
Chưa đầy một ngày thì chiếu chỉ của triều đình tới, mở ra đọc: "Kẻ gây ra tội ác đều đã chết, nay tịch thu toàn bộ gia sản nhập vào công khố. Thi thể Tiểu Nhị không thấy thân chủ tới nhận, thì đem hỏa thiêu".
An phủ lập tức sai nha lại mở cổng nhà Kiều Tuấn, đem toàn bộ của cải gia sản nhập vào công quỹ, và hỏa thiêu xác Đổng Tiểu Nhị.
Lúc ấy, Kiều Tuấn đang sống vất vưởng khổ sở tại nhà Thẩm Thụy Liên ở Đông Kinh, hoàn toàn không hay biết ở nhà đã xẩy ra việc gì. Ở đó được hai năm thì vốn liếng hết sạch, mụ chủ nhà chứa nói:
- Con gái ta mê ngươi, nên không tiếp khách, cứ thế này mãi sao được? Ngươi có tiền thì bỏ ra mà chi dùng, không tiền thì hãy rời khỏi nhà ta, để cho con ta tiếp khách, chứ cứ ở đây thì cả nhà ta chết đói.
Trước đây Kiều Tuấn là người lắm tiền, song nay nhẵn túi, bị chủ nhà chứa đuổi xơi xơi, Kiều Tuấn nước mắt lưng tròng, muốn lần mò về quê, nhưng không tiền ăn đường. Thấy Kiều Tuấn khóc, Thẩm Thụy Liên cũng giàn giụa nước mắt nói:
- Anh Kiều, em đã làm khổ anh. Trước đây em cũng góp nhặt được ít tiền, anh hãy cầm lấy mà ăn đường. Nếu anh còn thương em thì hãy về nhà lấy ít tiền rồi trở lại.
Kiều Tuấn rất mừng, ngay tối ấy thu xếp quần áo cũ, Thẩm Thụy Liên đưa cho ba trăm quan tiền, Kiều Tuấn bỏ vào túi hành lí, chào chủ nhà chứa, đeo túi cầm gậy chào Thụy Liên. Hai người bịn rịn chia tay.
Kiều Tuấn đáp thuyền, chưa đầy một ngày tới Bắc Tân Quan thì trời đã tối, bèn sang chiếc thuyền người quen tá túc, sáng hôm sau vào thành. Nhà thuyền trông thấy Kiều Tuấn ngạc nhiên nói:
- Anh Kiều, sao lâu nay anh ở đâu mà không về? Người thiếp là Chu thị của anh gian dâm với một người làm thuê. Cao thị gọi về nhà, không biết thế nào anh ta lại gian dâm với con gái anh. Tôi nghe người ta nói, không biết thế nào mà Cao thị lại mưu sát người làm thuê, Hồng Tam mang xác ra vứt ngoài sông Tân Kiều. Được hai tháng thì xác nổi lên, vợ một người thợ giày đến nhận nhầm. Sau đó lại có một người nhận ra đó là xác người làm thuê nhà anh, rồi tố giác lên An phủ ty Quan cho người về bắt Cao thị, Chu thị, Ngọc Tú và Hồng Tam. Họ không chịu nổi tra tấn đã phải cung khai. Quan giam vào nhà lao, không chịu nổi. Đến nay cả bốn người đều chết. Triều đình đã ra lệnh tịch thu toàn bộ gia sản. Bây giờ anh đi đâu? Kiều Tuấn nghe xong chẳng khác nào sét đánh ngang tai.
Kiều Tuấn sững sờ, chết lặng người không sao nói được. Người chủ thuyền dọn cơm rượu ra, song Kiều Tuấn không sao nuốt nổi, hai hàng nước mắt chảy xuống như mưa, khóc nấc lên, anh nghĩ: "Không ngờ nay đến nỗi có nhà không về được, có nước không sống được, bây giờ làm sao đây?". Trằn trọc suốt đêm không sao ngủ được, hôm sau khi trời chưa sáng rõ, Kiều Tuấn từ biệt chủ thuyền khăn gói quả mướp vội vã tới Vũ Lâm Môn. Đến cửa hàng bán đồ cổ của Vương Tương Sĩ đối diện với nhà mình, thấy nhà cửa đã bị phá dỡ, chỉ còn lại một mảnh đất hoang tàn.
Đúng lúc ấy Vương Tướng Sĩ mở cửa, Kiều Tuấn đặt khăn gói xuống chào:
- Thưa bác! Không ngờ con ra đi nhà cửa lại đến nỗi tan nát thế này.
- Anh Kiều Tuấn! - Vương Tướng Sĩ nói. - Anh đi đâu mà mãi không về?
- Chỉ vì mất hết vốn liếng, - Kiều Tuấn nói, - nên cháu không về được, và cháu cũng không hề biết tin tức gì ở nhà.
Vương Tướng Sĩ mời Kiều Tuấn vào ghế ngồi rồi nói:
- Cháu ơi, hãy nghe già nói: "Sau khi cháu đi...", - ông kể lại hết những việc đã xẩy ra rồi nói - Chỉ buồn cười vợ anh thợ giày vì chồng đi đâu rồi chết, đã nhận nhầm xác. Sau đó bị thằng Vương Tửu Tửu đi báo, vợ con anh và Hồng Tam bị bắt, rồi bị tra tấn, không chịu nổi đã bị chết trong nhà tù, gia sản đều bị tịch thu. Bây giờ anh đi đâu?
Kiều Tuấn nghe xong hai hàng nước mắt cứ trào ra, chẳng còn biết đi đâu nữa, thở dài não nuột, nói:
- Thôi thế là hết rồi! Tôi năm nay bốn mươi tuổi, không vợ con, không nhà cửa, tài sản hết nhẵn, biết dựa vào ai!
Kiều Tuấn tới chiếc cầu thứ hai trên Tây Hồ, nhìn hồ nước mênh mông, rồi nhẩy xuống đó chết.
Cả nhà Kiều Tuấn đều chết cả, thật đáng thương thay!
Ngàn năm trăng gió Tây Hồ,
Chuyện xưa còn mãi đến giờ chưa khuây.
Thi thể không được liệm vào quan tài chôn xuống đất, đó là kết cục của kẻ tham dâm háo sắc.
Vợ đẹp như hoa chết trong tù,
Kiều Lang đành phải nhẩy xuống hồ
Chỉ bởi gây nên điều ô nhục,

Gia tài bỗng chốc thuộc đế vương.
Về Đầu Trang Go down
https://triamquan.forumvi.com/
Tri Âm Quán
Thành Viên Tích Cực
Thành Viên Tích Cực
Tri Âm Quán


Tổng số bài gửi : 6340
Reputation : 2
Join date : 31/07/2013
Đến từ : Thị Trấn Chũ

Đoán Án Kỳ Quan - Page 5 Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Đoán Án Kỳ Quan   Đoán Án Kỳ Quan - Page 5 EmptyWed Apr 23, 2014 11:34 am

nhiều tác giả
Đoán Án Kỳ Quan
Phạm Tú Châu - Nguyễn Văn Thiệu (Dịch và biên soạn)
Chương 10
Gã Thư Sinh Lỗ Mãng Cưỡng Đoạt Người Đẹp
Ta thành thực khuyên người đời hãy kìm nén xuân tình, đừng chơi bời lêu lổng, làm hư hỏng con gái người khác, mà âm đức của mình cũng bị hại. Cần phải biết rằng bản tính con người là vui mừng, giận dữ, buồn lo, thích thú, từ đó mà sinh ra biết bao sự sum họp, chia lìa, bi ai, vui sướng. Dưới đây ta không nói tới chuyện vui buồn, giận dữ, bi ai, li biệt, mà chỉ kể mấy chuyện vui. Chẳng hạn người ta toàn tích trữ thóc gạo củi đuốc, bạc vàng châu báu, trên mình mặc toàn lụa là gấm vóc, ăn toàn của ngon vật lạ, nhưng ta thì chạy vạy từng bữa, rau cháo qua ngày, ăn đói mặc rét. Loại người này có muốn vui vẻ cũng chẳng được. Nhưng lại có một loại người có đạo đức phẩm chất, có chí khí, an bần lạc đạo như Nhan Tửu giỏ cơm bầu nước, ở nơi ngõ nhỏ tồi tàn, Tử Hạ(1) quần áo tả tơi vá chằng vá đụp, song họ vẫn vui vẻ sống cuộc đời nghèo túng. Lại ví như có những quan văn làm tới chức tể tướng trong triều, quan võ làm tới chức đô đốc tổng binh, lúc nào cũng tiền hô hậu ủng, áo tía đai vàng, rất mực oai phong vô cùng tôn quý. Chỉ có riêng ta suốt đời không được phát đạt, thua kém mọi người, thì vui sao được? Lại có một loại người bụng đầy chữ, ăn to nói lớn, tuy danh không thành chí không đạt song vẫn dương dương tự đắc, coi thường mọi người, làm những đều vô liêm sỉ. Bởi thế nên có người không thích phú quý. Chỉ có sắc đẹp đối với con người cũng chẳng khác nào ong bướm tìm hoa, cứ sán vào hút nhụy, không chịu buông lơi. Cũng chẳng khác gì con thiêu thân lao vào đĩa đèn đến chết mới thôi.
(1) Nhan Tử (Nhan Uyên), Tử Hạ đều là học trò của Khổng Tử.
Xưa nay chỉ có người đàn ông nước Lỗ sống độc thân, là không hiếu sắc. Vào một đêm mưa to gió lớn, nhà người láng giềng đổ sập có một người đàn bà chạy sang trú nhờ, người đàn ông nước Lỗ này đóng chặt cửa không cho vào. Lại có một vị tú tài tên là Đậu Nghi, đọc sách đêm trăng, có một người đàn bà đến ve vãn, Đậu Nghi thẳng thắn chối từ, đấy mới đúng là người thấy gái mà không mê. Từ thời Bàn Cổ tới nay chỉ có hai người ấy. Còn như Liễu Hạ Huệ ngồi lòng không rối loạn, thì không viết được tờ cam đoan. Còn những kẻ đào tường khoát ngạch, dưới bộc trong dâu, thì không kể sao cho xiết. Người ta thường nói: Đàn ông muốn đến với đàn bà thì cách nhau một dãy núi, còn đàn bà muốn đến với đàn ông chỉ cách một tờ giấy mỏng mà thôi. Nếu như nhà người đàn bà kín cổng cao tường thì người đàn ông dù có trăm phương ngàn kế cũng chỉ là một giấc mộng xuân mà thôi. Thời ấy có một đôi trai gái phong lưu tuấn tú tằng tịu với nhau rồi thành vợ chồng, đó là Tư Mã Tương Như và Hàn Thọ. Nếu như con gái của Cổ Sung không nhìn thấy Hàn Thọ thì Hàn Thọ cũng không dám vượt qua bức tường cao phía đông nam để gian díu với nhau. Nếu như Tư Mã Tương Như phong lưu tài tử, ăn diện sang trọng mà con gái Trác Vương Tôn không được nghe khúc nhạc "Phượng cầu hoàng", thì Tương Như cũng không thể cùng nàng trốn đi để thành bạn tri âm bán rượu. Bởi thế trai gái tằng tịu với nhau đều do người con gái mà ra. Nếu cứ đổ lỗi cho người đàn bà thì lẽ nào người đàn ông phủi trắng tay. Người đàn ông vốn luôn có ý muốn hành dâm, khi con gái đầu mày cuối mắt đưa tình, hoặc buông ra những câu nói khêu gợi, kín kín hở hở, thì người đàn ông dốc hết công sức nghĩ ra trăm phương ngàn kế nay khơi mai gợi như lửa gần rơm, thế là họ tư thông với nhau. Dù cho thanh danh mất hết, tính mạng chẳng còn họ cũng chẳng quản, cho nên có thể nói, đàn ông quả là to gan lớn mật. Bởi thế chẳng người nào không dám dùng tài năng để đổi lấy sắc đẹp.
Vào những năm Vĩnh Lạc, huyện Lâm Quế phủ Quế Lâm, Quảng Tây, có một vị tú tài tên là Mạc Khả, tự Thúy Hà. Xưa kia nhà khá giả, cha là Mạc Khảo, suốt đời đi thi cốt mong được khoác chiếc áo xanh mà không được. Song Mạc Thúy Hà mới mười hai tuổi, đi thi lần đầu đã đỗ tú tài. Thời ấy có một nhà phú hộ họ Vương, mua một số lễ vật tới xin anh ta làm con rể. Thúy Hà vốn thông minh đĩnh ngộ, hiểu biết sớm, khôn ngoan hơn người, mới mười tuổi đã biết chuyện trăng hoa.
Những ngày nghỉ học thấy kẻ ăn người ở là ôm chầm lấy chúng làm tình. Khi lớn lên yêu đương cuồng nhiệt, đùa chúng đùa đảng la cà tới ngõ liễu đường hoa. Bọn gái làng chơi thấy Thúy Hà trẻ đẹp, tài tử phong lưu, đều muốn bỏ tiền ra để sống với Thúy Hà. Dần dà Thúy Hà trở thành người khinh bạc. Thấy Thúy Hà sống phóng đãng, cha mẹ đau buồn, đổ bệnh rồi lần lượt qua đời. Người chú họ định cưới chạy tang cho Thúy Hà, song gần đến ngày cưới thì con gái nhà họ Vương bỗng ốm nặng rồi chết. Thúy Hà nghe tin dữ rất đau buồn, đến khi tới khâm liệm thấy người vợ ấy rất xấu, mới nghĩ rằng mình gặp may. Từ đó trở đi Thúy Hà cho rằng phải trực tiếp chọn được người đẹp mới lấy. Bởi thế dù cho nhà họ Trương hay họ Lý đến xin làm con rể, nhưng Thúy Hà đều không ưng. Thời gian cứ lần nữa trôi đi, Thúy Hà lại quen thói tới nơi ngõ liễu đường hoa. Ngờ đâu đến năm mười chín tuổi lại đỗ rất cao, được xếp thứ nhì. Những gia đình danh giá giàu có đua nhau đến xin nhận Mạc Thúy Hà làm con rể. Thúy Hà dương dương đắc ý, bắc bậc kiêu kì, nghĩ rằng "Lần thi hội này dễ dàng như trở bàn tay", khoác lác chẳng chút xấu hổ, nói với mọi người rằng:
- Chờ đến ngày bia đá bảng vàng mới động phòng hoa chúc cũng chưa muộn.
Bởi thế tạm gác chuyện hôn nhân lại, vội vàng thu xếp trẩy kinh ứng thí, nhờ chú trông coi việc cửa nhà, cùng với mấy người bạn lên đường. Lúc ấy là giữa mùa đông, dọc đường mưa tuyết sương gió, trời rét căm căm. Sau khi thi đậu, Thúy Hà mặc sức trăng hoa, thân thể suy nhược , phong hàn rất dễ thâm nhập, nên bị ốm giữa đường. Tới Dương Châu thì ốm nặng, phải và quán trọ. Bạn bè mời thầy đến chạy chữa thuốc thang, mấy ngày sau bệnh có thuyên giảm đi đôi chút, nhưng không phải một sớm một chiều mà khỏi hẳn được. Thấy không thể thi Hội được, mọi người lên đường theo tiếng gọi công danh, để Thúy Hà ở lại, dặn Lai Nguyên là người nhà chăm sóc, rồi họ tới kinh thành ứng thí. Đúng là:
Gặp nhau không xuống ngựa
Lại vội vã lên đường.
Thúy Hà ốm ròng rã hơn một tháng trời, mãi đến trung tuần tháng Giêng mới khỏi hẳn, cũng chưa dám làm gì, chỉ ở đó nghỉ ngơi tĩnh dưỡng. Khi ốm Thúy Hà nằm mơ thấy Quan âm Đại Sĩ dùng cành dương liễu rảy nước vào mặt, từ đó khỏi bệnh rồi dần dần khỏe lên. Người chủ quán biết được nói:
- Chùa Quỳnh Hoa quê tôi xưa nay Quan âm rất linh thiêng, Bồ Tát luôn luôn hiển thánh, cứu nhân độ thế. Được Bồ Tát phù hộ Thúy Hà vô cùng cảm động, hứa sẽ đến đó thắp hương. Đến ngày mồng một tháng Hai, Thúy Hà sắm sửa vàng mã hương nến bảo Lai Nguyên mang đi rồi hai người thư thái lên đường tới chùa Quỳnh Hoa. Thấy trên đường phố cực kì hoa lệ, toàn là những nhân vật mũ cao áo dài, lại có cả những khách buôn bán thập phương tụ hội về đây, ngựa xe đông nghịt, đi lại như mắc cửi, quả là chốn phồn hoa đô hội. Thúy Hà ngắm cảnh dọc đường, vô cùng mãn nguyện, cảm thấy lòng lâng lâng sung sướng. Chàng nghĩ tới một câu thơ của người xưa "Tháng ba hoa khói xuống Dương Châu”, quả thực không phải là một câu sáo rỗng. Chẳng mấy chốc họ tới chùa Quan âm, trước tiên vào chùa thắp hương cầu nguyện, rồi sau đó tới các miếu thờ thắp hương lễ bái. Người Quảng Tây vốn rất sùng bái, nên Thúy Hà cũng vô cùng cung kính. Lễ Thần xong, đi thưởng ngoạn những di tích tại chùa Quỳnh Hoa, hoa quỳnh trồng tại đền Hậu Thổ trong chùa từ thời Đường xưa kia, nay không còn nữa. Người xưa thường làm thơ ngâm vịnh loài hoa này; nên nay mới biết hoa quỳnh đẹp.
Thiên hạ trăm loài hoa
Hoa quỳnh thật quý hiếm
Bám rễ nơi đền thiêng
Chẳng thể di dời được
Tám nhụy ngát hương thơm
Một cây tỏa ngàn cành
Hương thơm hơn kim túc
Sắc đẹp hơn ngọc hoa
Sương ướt như thoa phấn Ráng pha tựa tô son
Gió lay Thường Nga múa
Mưa rơi Thủy Tiên nghiêng
Nhàn nhạt như khói phủ
Lãng đãng bóng trăng sa
Một ngày chán trần thế
Mọc cánh bay về trời
Dấu vết còn lưu lại,
Khiến người tiếc ngẩn ngơ.
Chẳng nơi nào có hoa quỳnh, mà chỉ ở Dương Châu mới có. Đến thời cuối Tống đầu Nguyên, hoa bỗng nhiên tàn héo, từ đó loài hoa này mất hẳn. Người đời sau trồng hoa bát tiên thay vào đó, quả thực đây không phải là hoa quỳnh. Xưa kia ngôi chùa này vốn có tên là Phiên Ly, chỉ vì hoa quỳnh mà nổi tiếng, bởi thế tương truyền gọi là chùa Quỳnh Hoa. Các danh nhân xưa nay thường tới đây ngâm vịnh.
Thúy Hà du ngoạn xong trở về quán trọ. Hai hôm sau lại tới thăm di tích Uyển Mê Lâu thời Tùy, rồi du ngoạn hết các danh lam thắng cảnh ở Dương Châu. Thúy Hà thấy tâm tình thư thái, tinh thần hồi phục, bản tính phóng đãng xưa kia trổi dậy, lại lân la tới chốn lầu xanh hái hoa thưởng nguyệt, mặc sức truy hoan.
Mới thoáng qua mà đã là trung tuần tháng Hai. Vốn là, hằng năm vào giữa tiết xuân, các nam thanh nữ tú lại tới chùa Quỳnh Hoa thắp hương cầu nguyện, rồi ra vùng ngoại ô chơi xuân. Thúy Hà biết được tin này, hằng ngày cứ cơm nước xong là tới chùa dạo quanh đây đó, mong gặp được duyên kì ngộ. Nào ngờ, đi mấy ngày liền mà chẳng tìm được chút thú vui nào. Vì sao vậy? Nếu con gái của những nhà quyền quý tới dâng hương thì theo sau kiệu là kẻ hầu ngươi hạ, tới cửa chùa họ đuổi tất cả các du khách ra rồi mới xuống kiệu, khi vào chùa thắp hương lễ bái thì nô tì theo sau đông nghịt, dù có người đẹp nhưng vẫn không sao nhìn thấy, Thúy Hà chẳng còn trông ngóng gì. Ngay những cô gái có chút ít nhan sắc, con cái những nhà trung lưu, sợ người ta chòng ghẹo nên bao giờ họ cũng tới chùa từ sáng sớm, khi mà du khách chưa tới. Những người như thế cũng khó mà nhìn thấy được. Còn những đám đông chen lấn nhau chẳng qua đều là những kẻ ăn người ở hay những cô gái quê mùa, Thúy Hà nghĩ rằng trong số đó chắc chẳng có ai là người đẹp, nên rất coi thường. Đến ngày mười chín tháng Hai, là ngày Quan âm Bồ Tát đắc đạo, những người tới dâng hương đông gấp mấy ngày thường. Họ chen lấn nhau mãi tới xế trưa, du khách mới thưa vắng dần. Mạc Thúy Hà thấy mệt mỏi, tới lầu Tử Đồng nghỉ ngơi.
Chùa Quỳnh Hoa có một số điện thờ: Trấn Vũ là phúc thần, đây là ngôi điện chính; Quan Thế âm Bồ Tát cứu khổ cứu nạn cho con người; Quan Thánh Đế Quân người Hoa và các tộc thiểu số đều thờ cúng, ba nơi này người ta tới thắp hương đông nhất. Còn Tử Đồng chỉ trông coi việc bút nghiên, trong ba trăm sáu mươi nghề, chỉ người theo nghề nghiên bút là ít hơn cả, cho nên trước bệ thờ Văn Xương, lèo tèo vài nén hương, thậm chí nhang tàn khói lạnh.
Mạc Thúy Hà ngồi đó một lúc lâu, rồi bước xuống lầu. Vừa ra khỏi cửa định trở về quán trọ, chợt thấy một cô gái xinh đẹp vào đền thắp hương, sau cô là một gái hầu. Nhìn thấy cô, Thúy Hà hồn vía chơi vơi, thầm nghĩ: "Đi rạc cẳng mấy ngày, hôm nay mới gặp được một cô gái đẹp, thật là may mắn".
Cô gái này là người như thế nào? Cha cô họ Khiết Tư, từng làm Viên ngoại lang. Tổ tiên vốn là người dân tộc thiểu số miền Tây Vực, nhập tịch tại Giang Đô. Vì họ kép khó gọi nên bỏ chữ Khiết đi, chỉ giữ lại chữ Tư làm họ. Tư Viên ngoại là người ngang ngạnh, không hợp với mọi người, bỏ quan về sống ở nhà. Ông chỉ sinh được một người con gái, tên là Tử Anh, người rất đẹp. Phu nhân của Viên ngoại là Bình Thị, ba năm trước đây bị ốm, tiểu thư Tử Anh cầu nguyện Phật phù hộ cho mẹ mình và hứa với Quan âm Bồ Tát sẽ thêu hai cành phan. Không ngờ mệnh trời đã hết, phu nhân ốm liệt giường rồi tạ thế, song Tử Anh vẫn mong mỏi được đền ơn Phật. Cô thêu xong hai cành phan, xin cha nhân ngày Quan Thế âm đắc đạo đến chùa hoàn thành ý nguyện của mình. Tư Viên ngoại vốn là người tôn sùng Bồ Tát, lại nghĩ rằng Tử Anh mới mười lăm tuổi, còn nhỏ nên đã cho phép cô đi. Vả lại vì buổi sáng người đông, ông dặn con đừng đi sớm. Tư Viên ngoại vốn là vị quan thanh liêm, bổng lộc ít, đến khi về nhà chẳng quan tâm gì đến việc dông dài, nhà cửa lạnh lẽo như băng giá. Mấy người gia nhân biết việc, không chịu được khổ sở buồn tẻ đều bỏ đến những nơi sung sướng đông vui, chỉ còn lại mấy người hầu nhà quê không thể đi được. Ông đã cho mấy người ấy theo tiểu thư đi thắp hương dâng cành phan. Mấy người đàn bà ấy trang điểm vào, tiểu thư Tử Anh trông thấy quá xấu xí rất buồn.
Nghĩ rằng: "Nếu để cho họ đi theo thì người ta sẽ cười đến vỡ bụng mất". Bởi thế chỉ để cho Liên Phòng, một cô gái trực tiếp hầu mình cùng với hai người nhà quê khiêng kiệu, hầu hạ tiểu thư tới chùa dâng cành phan, và tới dâng hương tại điện chính, nơi thờ Quan Thánh Đế. Sau đó tới lầu Tử Đồng, thấy nơi đây vắng vẻ, không có du khách lai vãng tới, hai người hầu đều bỏ đi chơi. Không ngờ tiểu thư đã lọt vào mắt Mạc Thúy Hà, chỉ hiềm một nỗi chàng không gần gũi trò chuyện với nàng được.
Vì thấy dáng vẻ, cử chỉ nàng thuộc lớp người quý phái, sợ tới gần nàng sẽ gây ra rắc rối. Thúy Hà nghĩ rằng sau Văn Xương lâu là đài Đổng Trọng Thư đọc sách, nơi đây không có người qua lại, có thể ngẫu nhiên tiểu thư tới nơi này du ngoạn, vậy tại sao ta không tới nấp tại đó, chờ cho nàng tới sẽ được nhìn thỏa thích. La cà ở đây suốt ngày, nên Thúy Hà rất thông thuộc nơi này, nghĩ thế, Thúy Hà bèn đến đài Đổng Trọng Thư ẩn nấp. Xưa kia Đổng Trọng Thư làm tướng của Giang Đô vương.
Giang Đô vương vốn là người ngạo mạn hiếu dũng, Đổng Trọng Thư dùng lễ để cảm hóa ông, Giang Đô vương đã sửa chữa lỗi lầm đi theo điều thiện. Bởi thế Dương Châu dựng đài thờ, noi theo tấm gương ông, đài thờ đó được đặt tên là đài Đổng Trọng Thư đọc sách. Chuyện này dân thường không biết, cho nên họ không đến. Nào ngờ nơi ấy đã xẩy ra cuộc gặp gỡ bất ngờ đối với Mạc Thúy Hà.
Tới Tử Đồng lâu thắp hương, tiểu thư Tử Anh thấy hương tàn khói lạnh, cũng là do tấm lòng của nàng đối với những bậc đại gia, nên nàng nói với Liên Phòng bảo những người theo hầu mang lửa tới, Liên Phòng vội xuống lầu gọi, nhưng chẳng thấy một ai. Đang lúc vội thì Liên Phòng muốn đi tiểu tiện.
Cô rẽ ra phía sau lầu, ngoặt qua một lối đi nhỏ, thấy một chỗ rất vắng vẻ, kín đáo. Nơi đây cây cối tre trúc um tùm, có mấy chiếc bể non bộ giả cảnh Thái Hồ lung linh tinh xảo, vừa cao vừa to bên núi có một cây mai cổ thụ. Liên Phòng nghĩ: "Trong vườn hoa nhà mình không có nhiều núi giả đẹp như thế, và cũng không có cây mai cổ thụ nào như thế". Thế rồi Liên Phòng lẻn vào cạnh núi giả đi tiểu tiện. Thời ấy học sĩ họ Đào từng làm một bài thất ngôn tuyệt cú, chẳng khác nào ông đã làm thơ vịnh Liên Phòng:
Người đẹp xinh tươi vẻ thướt tha,
Mai già tựa núi dáng la đà.
Thạch lựu đỏ au già nứt vỏ Ngọc châu tràn đất chảy tóe ra.
Đi tiểu tiện xong, Liên Phòng vội vã quay trở lại, chạy lên lầu thưa với chủ. Tử Anh chờ sốt ruột, trách Liên Phòng đi quá lâu. Liên Phòng nói:
- Không thấy một người hầu nào, ngay cả phu khiêng kiệu cũng đi hết cả rồi. Tiểu thư cứ đi lễ đi.
Tử Anh thắp hương trước đền thờ Văn Xương, lễ xong đứng dậy. Liên Phòng nghĩ tới phong cảnh phía sau, muốn dạo chơi một lát, nói: - Thưa tiểu thư, đằng sau lầu có núi giả và cây cối rất thanh u tĩnh mịch, sao tiểu thư không tới đó dạo chơi?
- Sao ngươi biết? - Tiểu thư hỏi.
- Vì con đi tiểu tiện mới tới nơi đó. - Liên Phòng nói.
- Mày liều thật, - tiểu thư nói, - lỡ người ta biết thì ngượng chết đi được.
- Nơi ấy rất vắng vẻ tĩnh mịch, - Liên Phòng nói, - chẳng thấy bóng một người nào. Ngước nhìn thấy một tòa đài cao to, nhất định trên đó phong cảnh sẽ rất đẹp.
Vẫn còn tính trẻ con, Tử Anh thấy nói nơi đó đẹp, lại không có người lui tới, bỗng chốc ưng ngay, theo Liên Phòng xuống lầu, len lỏi qua lối đi nhỏ tới đài Đổng Trọng ThưQuả nhiên thấy núi giả, cây cối, tre trúc um tùm, thanh u vắng vẻ, nàng rất vui thích. Rẽ sang núi Thái Hồ leo lên đài, thì thấy một ngôi miếu nho nhỏ, trong đó thờ một pho tượng. Ngoài miếu, phía bên trái là một chiếc lò hóa vàng hương, bên phải là một chiếc bể đá lớn thả sen. Vì Liên Phòng vừa đi tiểu tiện, nên tới đó rửa tay, nhìn vào bể nói:
- Tiểu thư, tới đây mà xem này, nước trong vắt, trông thấy đáy thật là thanh khiết, sao tiểu thư không tới rửa tay.
- Tay ta sạch, không cần phải rửa.
- Nước trong vắt thế này hãy rửa một chút đi.
Tử Anh nghe theo Liên Phòng, bèn tới bể rửa tay. Liên Phòng vội vã lấy từ trong tay áo ra một chiếc khăn lụa đưa cho tiểu thư lau.
Hai người đang quay vào bể lúi húi rửa tay vui đùa, ngờ đâu Mạc Thúy Hà rảo bước lên đài, thỏa thuê nhìn tiểu thư.
Tử Anh lau tay xong, quay lại, thấy một chàng trai đứng ngay trước mặt, giật mình thầm trách: "Mình là con gái, lẽ ra không nên nghe đứa hầu đến đây chơi", rồi khe khẽ giục Liên Phòng:
- Có người, ta đi thôi.
Đang định đi, thấy Mạc Thúy Hà đứng trước cản đường,
Liên Phòng nhanh trí nói:
- Tiểu thư tay sạch rồi, ta đi thắp hương thôi.
Thế rồi cô dẫn tiểu thư vào miếu. Tử Anh cũng không biết Đổng Trọng Thư là vị thần như thế nào, vội vã thắp hương, lễ xong bước ra. Lúc ấy Mạc Thúy Hà lòng những bối rối mẩn mê, chưa biết nên nói thế nào, chợt nghĩ ra một kế, nói:
- Tôi cũng phải rửa tay một chút rồi mới thắp hương được.
Chàng nhúng tay vào bể khuấy khuấy, vén vạt áo trước lên lau, để lộ ra chiếc áo đỏ bên trong. Vốn là mấy ngày liền cứ quanh quẩn đi dạo trong chùa, ước mong sẽ có một lúc nào đó được gặp người đẹp, cho nên chàng diện rất sang. Đầu chít khăn nhiễu màu lá sen rất thời thượng, chiếc áo lót bên trong bằng lụa trắng, làm nổi bật chiếc áo the màu đỏ, ngoài chiếc áo lót bằng lụa trắng là chiếc áo the mềm bằng tơ nõn. Những thứ này đều chuẩn bị sẵn ở nhà, nghĩ rằng nếu đỗ tiến sĩ sẽ mặc tới dự yến vua ban, tạ ơn thầy học, khoe khoang sự phong lưu với bạn bè. Nào ngờ, ốm không đi thi được, bèn thắng hộ tới chùa Quỳnh Hoa ve gái. Nếu như lúc ấy Tử Anh thắp hương lễ xong rồi ra về thì Mạc Thúy Hà cũng chỉ được nhìn thỏa thích mà thôi, chứ chẳng xơ múi gì. Nào ngờ, hằng ngày Tư Viên ngoại sống rất tiết kiệm, ăn mặc tằn tiện không ưa xa hoa lãng phí, tiểu thư cũng quen sống như thế từ nhỏ, nên khi ra khỏi miếu, thấy Mạc Thúy Hà vén áo lau tay, nàng cảm thấy xót ruột thầm nghĩ: "Vị tú tài này thật là phí của, chiếc áo mới thế mà lại đem lau tay, chắc rằng chàng không mang khăn lau đi". Điều ấy hoàn toàn không nên, tiểu thư quay lại bảo Liên Phòng đưa khăn tay cho chàng mượn. Thúy Hà lầm tưởng rằng tiểu thư có tình ý với mình, cầm lấy khăn lau tay mà hồn vía lên mây, nói:
- Phiền tiểu thư quá, tôi vô cùng cám ơn tấm lòng của tiểu thư.
Rồi chàng lấy từ trong tay áo ra một nén bạc đưa cho Liên Phòng, nói:
- Đây là chút nghĩa mọn, xin báo đền đức lớn.
Liên Phòng biết ý không dám nhận, định bỏ đi, song Thúy Hà lôi lại nhét bạc vào tay áo Liên Phòng, rồi anh ta chạy như bay xuống chân đài, gài chặt lấy cửa sau Tử Đồng lâu. Liên Phòng vội vàng quay lại nói với tiểu thư rằng, tú tài đã như thế, như thế. Tiểu thư nghiêm mặt quát:

- Đồ hèn, sao không nói thẳng với anh ta rằng, ta là người nhà của Tư Viên ngoại, cần gì số bạc của anh!
Về Đầu Trang Go down
https://triamquan.forumvi.com/
Tri Âm Quán
Thành Viên Tích Cực
Thành Viên Tích Cực
Tri Âm Quán


Tổng số bài gửi : 6340
Reputation : 2
Join date : 31/07/2013
Đến từ : Thị Trấn Chũ

Đoán Án Kỳ Quan - Page 5 Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Đoán Án Kỳ Quan   Đoán Án Kỳ Quan - Page 5 EmptyWed Apr 23, 2014 12:22 pm

nhiều tác giả
Đoán Án Kỳ Quan
Phạm Tú Châu - Nguyễn Văn Thiệu (Dịch và biên soạn)
Chương 10 (B)
Thấy tiểu thư tức giận, Liên Phòng vội chạy xuống chân đài nói lại những lời của tiểu thư với Thúy Hà rồi trả lại bạc. Song Mạc Thúy Hà không nhận, nói:
- Ngươi là người nhà Tư Viên ngoại, không cần số bạc của ta, nhưng phải biết rằng ta là cử nhân thi Hội, lẽ nào lại mong tiểu thư tiếc thay cho bộ quần áo của ta, mà đưa khăn cho ta.
Liên Phòng thấy anh ta ăn nói chẳng ra sao, không thèm trả lời vứt bạc xuống đất chạy vụt lên đài nói với tiểu thư:
- Số bạc ấy con đã vứt trả anh ta rồi. Người ấy không phải là người vùng ta, tự xưng là cử nhân thi Hội. Nói rất vô lí, con cũng mặc xác anh ta.
- Ta chơi ở đây đã lâu, chắc những đứa hầu đang chờ ngoài kia, ta phải ra ngay đi. - Tử Anh nói.
Liên Phòng dìu tiểu thư đi theo đường rải sỏi vòng đến núi Giả Thái Hồ, Mạc Thúy Hà đứng đó cản đường, nói:
- Tiểu thư hãy nán lại một chút, tôi có câu chuyện muốn nói với nàng.
Tiểu thư giật mình lùi lại, nấp vào núi giả Thái Hồ, bảo Liên Phòng nói với anh ta rằng:
- Anh đã tự xưng là cử nhân thi Hội, thì phải biết giữ phép của người có học, cớ sao lại ngăn đường ta.
Liên Phòng nói lại với Thúy Hà.
Mạc Thúy Hà cười khanh khách nói:
- Ta là người Quảng Tây, đi mấy ngàn dặm tới đây, may mắn được gặp tiểu thư, há chẳng phải là số trời dun rủi ư? Ta chẳng có ý gì, chỉ mong được gặp mặt chào tiểu thư, nói với tiểu thư một đôi câu rồi sẽ để tiểu thư đi.
Liên Phòng nói lại với tiểu thư. Tử Anh đùng đùng nổi giận, lại bảo Liên Phòng nói với Thúy Hà rằng:
- Anh là cử nhân Quảng Tây, thì chỉ giở thói côn đồ ở Quảng Tây chứ không thể giở trò ấy ở Dương Châu của ta được. Hãy để cho ta đi, nếu vẫn còn vô lễ ta sẽ gọi người nhà tới thì e rằng ngươi sẽ mất mặt. Hơn nữa ta là người nhà Viên ngoại chẳng đụng được đến ta đâu. Ta về thưa với Viên ngoại thì ngươi khó mà thoát được.
Thấy thế Mạc Thúy Hà bèn nghĩ ra một kế nói:
- Tiểu thư chỉ dọa được người nhà quê thôi, dù cho Viên ngoại có ghê gớm cũng chẳng làm gì được một cử nhân từ nơi xa đến như ta. Cửa vào ta đã đóng chặt cả rồi, những đứa ở nhà tiểu thư dù có biết bay cũng không vào được. Và cũng chẳng sợ tiểu thư bay đi đâu cả, lẽ nào ta tha thiết cầu mong tiểu thư như thế mà lại thả tiểu thư ra một cách vô ích! Chẳng hóa ra cuộc đời ta vô vị nhạt nhẽo lắm sao? Nếu không đáp lễ nói chuyện với ta thì cũng phải thế nào ta mới cho đi. Bằng không thì đến tết cũng chẳng đi được.
Liên Phòng lại nói lại những lời ấy với tiểu thư. Tiểu thư rất lo lắng, oán trách Liên Phòng.
- Ngươi là đồ đê tiện, đã rủ rê ta tới đây, đến nỗi gây ra chuyện rắc rối này.
Liên Phòng nhanh trí đáp:
- Lúc đầu đúng là con sai, nhung chính cô bảo con đưa khăn tay cho anh ta cơ mà.
Tử Anh bị câu nói ấy chẹn họng, cứ hối hận mãi. Song cô lại sợ rằng nếu hắn cưỡng bức thì biết làm thế nào bây giờ. Tiểu thư rất hoang mang. Nàng bèn lấy từ tay áo ra một chiếc khăn là màu hồng, giao cho Liên Phòng đưa cho Mạc Thúy Hà và bảo Liên Phòng nói rằng:
- Chàng là người quân tử có học, phải hiểu đạo lí. Ta với chàng chẳng thân thích chẳng bạn bè gì, hoàn toàn không có chuyện gặp nhau. Chiếc khăn lụa này chỉ là chút quà để chàng mở cửa cho ta đi mà thôi.
Mạc Thúy Hà nhận chiếc khăn tay, cười nói:
- Ta không phải là người gác cổng chùa Quỳnh Hoa, nên ta không cần tiền mở cửa. Chiếc khăn tay trước là của cô, chiếc khăn tay này là của tiểu thư. Tiểu thư cho ta gặp thì thôi, nếu không ta sẽ đưa chiếc khăn này tới nói cho Viên ngoại biết, mọi người sẽ nghi ngờ mối quan hệ của chúng ta, song việc này nhờ cô bàn bạc với tiểu thư.
Liên Phòng là một đứa hầu nhát gan, thấy thế sợ quá, tim cứ đập rộn lên. Chạy như bay tới nói với tiểu thư
- Việc này nguy to rồi, người ấy cứ ăn vạ, sao tiểu thư không cho hắn gặp. Nếu như hắn nói với Viên ngoại thật thì con sẽ bị đánh chết mất. Thôi thì cứ liều gặp hắn, xin hắn cho về là xong.
Tử Anh biết rằng về nhà sẽ rắc rối to, song hối không kịp nữa. Trù trừ do dự một hồi, không còn cách nào khác đành phải theo Liên Phòng tới bể giả Thái Hồ. Liên Phòng vẫy tay nói:
- Tiểu thư bằng lòng rồi, hãy tới gặp tiểu thư ngay.
Mạc Thúy Hà mừng quá, mặt mày rạng rỡ hẳn lên, bước tới chào rất lễ phép. Tử Anh quay lại đáp lễ. Chào xong, Mạc Thúy Hà bước tới chắp tay nói:
- Tôi là cử nhân tân khoa huyện Quế Lâm, phủ Quế Lâm, Quảng Tây, tên là Mạc Khả, nhân dịp lên kinh đô ứng thí, đi qua quý phủ, nghe thấy tiểu thư là người đẹp vô song, bởi thế không muốn lên kinh, ngụ tạm ở đây tìm gặp tiểu thư. Không ngờ trời cũng chiều lòng người , dun rủi ta được gặp tiểu thư ở đây, đúng là mối lương duyên tiền định. Lại được tiểu thư ban ơn tặng chiếc khăn là, đó là một vật báu của đời ta. Song mối lương duyên sau này khó gặp, ngày hội ngộ cũng không thể hẹn trước được. Vậy tiểu thư bảo ta làm gì bây giờ?
Nghe thấy thế Tử Anh mặt đỏ bừng, vừa tức giận vừa buồn cười nghĩ thầm: "Biết nói thế nào đây". Thế rồi tiểu thư ghé sát vào tai Liên Phòng nói thầm:
- Ngươi hãy bảo với anh ta rằng, vừa rồi anh nói là được gặp sẽ cho đi, bây giờ đã gặp rồi còn muốn gì nữa.
Liên Phòng nói xong, Mạc Thúy Hà nói:
- Ta chẳng có ý gì khác, chỉ cần tiểu thư xếp đặt ta thỏa đáng, nếu không thì dù ta có chết cũng không cho tiểu thư ra.
Lúc ấy Tử Anh thấy tiến thoái lưỡng nan, tự than thở với mình: "Thế là đời ta hết rồi! Đây là nỗi oan nghiệt kiếp trước của ta". Rồi khe khẽ bảo Liên Phòng nói với anh ta rằng:
- Ngày mồng một tháng Ba tới là ngày giỗ của phu nhân.
Hôm đó làm cỗ chay, cúng tới mồng ba mới xong. Tối hôm ấy, khi hóa vàng hương, tiễn đưa bồ tát, tôi chờ gặp ở cửa, lúc đó sẽ trả lời anh.
Mạc Thúy Hà nghe thấy nói thế hớn hở vui mừng, chẳng khác nào nhận chiếu chỉ của vua, rồi nói:
- Tiểu thư không lừa tôi đấy chứ?
Tử Anh lại bảo Liên Phòng trả lời là:
- Nếu như thất tín thì lúc ấy anh cứ việc nói cho Viên ngoại biết.
Mạc Thúy Hà gật đầu, vội vàng chắp tay chào, nói:
- Những lời vàng ngọc của tiểu thư sẽ mãi mãi khắc sâu trong trái tim ta.
Nói xong Mạc Thúy Hà vội vã mở cửa Tử Đồng các, rồi lẩn vào trong những lùm cây rậm rạp. Thúy Hà đi rồi, Tử Anh thầm nghĩ, anh ta cũng là một nhân vật phong lưu, và không tránh khỏi đôi phần rung động. Mặc dù như thế, xong rốt cục vì là đàn bà mà bỗng nhiên gặp phải chuyện không đâu, khiến cho tiểu thư khi thì mặt đỏ bừng lên, khi thì tái nhợt đi, trống ngực đập hơn trống làng, không sao trấn tĩnh được. Tử Anh vội vàng cùng với Liên Phòng xuống khỏi Tử Đồng các. Những người hầu và phu khiêng kiệu chẳng thấy bóng dáng tiểu thư đâu cuống cuồng bổ nhào đi tìm khắp mọi nơi không biết đã bao lâu rồi. Tử Anh không dám chậm trễ, lên ngay kiệu về nhà. Tới phòng rồi mà vẫn còn hốt hoảng. Thơ rằng:
Lửa gần rơm trở thành tai họa,
Gỗ kia có mục mọt mới ăn.
Hoa đào không chảy theo dòng suối,
Ngư ông sao biết được lối vào.
Tuy tiểu thư đã hẹn, song Mạc Thúy Hà vẫn còn nghi hoặc, chẳng biết thực hư ra sao. Mấy hôm ấy anh ta cứ bồn chồn, bấm đốt ngón tay đã tới ngày mồng một tháng ba, bèn lân la tới cửa nhà họ Tư nghe ngóng. Thấy nhà ấy làm chay thật, Thúy Hà khấp khởi mừng thầm: Chắc rằng tiểu thư không nói dối. Và Thúy Hà rất hy vọng sẽ gặp được Tử Anh. Thế rồi anh ta sực nghĩ ra, đi vòng từ cổng trước ra cổng sau, nghiêng nghiêng ngó ngó. Cửa trước thông ra đường cái quan, cửa sau thông ra một con đường nhỏ. Phía đông là cửa thành, phía tây gần một con sông. Thúy Hà đã thuộc hết đường đi lối lại. Đến chiều ngày mồng ba, Thúy Hà len lén mặc chiếc áo xanh và đội chiếc mũ nhỏ của Lai Nguyên lẻn ra khỏi quán trọ, đi thẳng tới nhà họ Tư. Chờ tới lúc vàng vàng mặt trời mà vẫn chưa thấy rước Phật, anh ta rất sốt ruột, nghĩ: "Không biết tới lúc rước Phật tiểu thư có ra không?”. Vừa lo sợ vừa nghi hoặc. Ngờ đâu đêm ấy Tử Anh còn lo sợ nghi ngờ bằng mấy Thúy Hà. Nàng bàn với Liên Phòng, định ra nhưng lại sợ xảy ra việc chẳng lành, mà không ra thì lại sợ Thúy Hà đã giữ được chiếc khăn làm bằng chứng, hắn sẽ giở trò đểu cáng lu loa lên, thì mất hết cả danh dự. Liên Phòng nói:
- Con thấy hành tung của hắn, phong lưu cũng thực phong lưu mà đểu cáng cũng thực là đểu cáng, tiểu thư nghĩ thế không sai. Theo con, thôi thì tới khi rước Phật hãy ra xem sao. Chỉ cần hắn trông thấy là chạy tọt vào ngay. Đã trông thấy rồi thì không phải là thất tín, chỗ đông đúc, mọi người nhìn thấy thì hắn sẽ không dám lôi lấy tiểu thư đâu.
Đã đến nước này, Tử Anh đành làm theo lời Liên Phòng.
Hôm ấy người rất đông, các nhà sư đến tụng kinh, những người trong thân tộc đến chung vui đều có kẻ ăn người ở theo hầu. Thúy Hà cũng mặc như kẻ ăn người ở, trà trộn với những người hầu. Người nhà nọ cứ tưởng người nhà kia, chẳng sao phân biệt được. Vào khoảng gần tối, hòa thượng rước Phật đi hóa, Tử Anh lẻn đến bên cửa ngấp nghé ngóng trông.
Mạc Thúy Hà đi lẫn trong đám đông, mắt đăm đăm liếc nhìn, thấy tiểu thư đứng bên cửa, anh ta quay ngoắt lại bước lên thềm, hai người vừa giáp mặt nhau, Liên Phòng thấy đích xác hai người nhìn thấy nhau rồi, lập tức lôi ngay tiểu thư vào. Tiểu thư quay ngoắt vào nhà, lúc ấy hòa thượng đọc kinh chưa xong, tiếng trống tiếng thanh la ầm ĩ huyên náo, ai ai cũng ngước nhìn hòa thượng, chẳng để ý gì đến những việc khác. Nói thì chậm, nhưng thực ra lúc ấy thấy tiểu thư quay ngoắt vào, Mạc Thúy Hà nhanh như chớp, soạt một cái chui qua khe cửa. Cũng bởi vì duyên số nên chẳng ai nhìn thấy. Thúy Hà bám sát gót tiểu thư, đi thẳng vào phòng. Đêm hôm khuya khoắt như thế mà anh ta đột nhập vào nhà, lỡ ra có người bắt được thì chắc chắn cho rằng anh ta không phải là trộm cướp cũng là gian dâm, họ lập tức đánh chết cũng chẳng sao. Thúy Hà mê gái cả gan liều mạng xông vào, dù cho có bị chém một nhát chết tươi cũng chẳng kể gì. Thấy Mạc Thúy Hà xông vào phòng, tiểu thư như hồn lìa khỏi xác, chỉ sợ người ta trông thấy thì nguy to. Nàng chẳng kể gì đến thể diện, cùng Liên Phòng ngáng cửa đẩy hắn ra. Mạc Thúy Hà là một gã con trai mới lớn, hai người con gái đẩy làm sao nổi. Thúy Hà nói:
- Tiểu thư đừng nóng vội, hãy cho tôi nói một câu đã.
Liên Phòng đưa tay bịt mồm hắn lại, nói:
- Đây là nơi ngươi nói được sao?
- Dù không được nói thì cũng cho tôi nói một câu thôi. - Thúy Hà nói. - Tôi là cử nhân Lĩnh Thạch, đi thi Hội qua đây, vì ngưỡng mộ tài sắc của tiểu thư, tôi phải vứt bỏ cả công danh chờ đợi ở đây. Không hẹn mà được trời xe mối lương duyên, gặp nàng dưới chân đài Đổng Trọng Thư. Mang ơn tiểu thư tặng khăn để làm tin, hẹn đêm nay gặp tôi, tôi dám liều chết đến đây, cả gan vứt bỏ cả tấm thân đỗ liền hai khoa, đánh đổi cửa rồng, tìm đến thềm phượng. Lẽ nào nàng không ưng thuận.
Nói xong Mạc Thúy Hà quỳ xuống. Tiểu thư nói:
- Ai bắt ngươi quỳ, ai bắt ngươi lạy, ngươi hãy mau mau ra đi.
- Đến nước này thì tôi làm sao mà ra đi. Tôi nghĩ rằng, ra cũng chết, mà tiểu thư không ưng cũng chết. Thôi thì hãy chết trong phòng ngủ của tiểu thư, còn hơn chết bên ngoài phòng tiểu thư.
Nói xong Thúy Hà rút từ trong tất ra một con dao nhỏ, đâm vào yết hầu. Khiến cho ba hồn bảy vía tiểu thư lìa khỏi xác, nàng giơ tay cướp lấy dao. Thúy Hà buông dao ra ôm ghì lấy ngang lung tiểu thư, lúc ấy không sao được, tiểu thư đành mặc cho Thúy Hà vồ vập. Liên Phòng coi chặt ngoài cửa theo dõi động tĩnh. Chỉ thấy:
Một bên là Nam cung học sĩ,
Một bên là Đông các giai nhân.
Nam cung học sĩ thèm thuồng sắc đẹp,
Đông các giai nhân e sợ rụt rè.
Một đằng chưa biết mùi đời, sao hiểu được mây mưa vân vũ.
Một dằng lão luyện phong tình, biết hết cả thương ngọc tiếc hương.
Thoả thuê đùa bỡn hoa hai đường hồng tươi khoe sắc
Ngả nghiêng rung cây ngọc cánh hoa lả tả tuôn rơi.
Đêm ấy họ trở thành vợ chồng. Họ chưa từng quen, song đã như mạ già ruộng ngấu. Tới đêm hôm sau, Thúy Hà lại tằng tịu với Liên Phòng, thấy tiểu thư cho phép, Liên Phòng sao dám chối từ. Từ đó trên dưới hòa hợp, trở thành một giuộc. Ban ngày họ kê một chiếc giường giấu sau tấm bình phong, đêm khuya khi mọi người yên ắng, Thúy Hà mới ra. Bởi thế trong nhà chẳng ai biết được, chỉ có bọn con hầu mang cơm nước tới phòng, song vì đã vi phạm gia phong, tiểu thư ngày đêm lo âu, chỉ sợ sự việc bại lộ. Hơn nữa Mạc Thúy Hà là người phóng đãng, sống trong chiếc giường giấu sau bình phong mười mấy ngày, cảm thấy bí bức buồn chán, bàn nhau trốn về Quế Lâm. Tính toán xong họ thu xếp những đồ trang sức quý hiếm gói lại. Tiểu thư, Liên Phòng và Thúy Hà trang điểm như nhau, nhân lúc đêm khuya mở cửa vườn sau, men theo con đường nhỏ đi ra. Đường đi lối lại ở đây Thúy Hà thăm dò kĩ. Chỉ có điều, khi đi vội vã Thúy Hà đã đánh rơi mất chiếc giày. Ra khỏi cửa sau, hành lí gọn nhẹ, đường đi thông thuộc, họ tới ngay bến đò, thuê thuyền về thẳng Quảng Tây, bỏ mặc cả Lai
Nguyên ở lại quán trọ. Thơ rằng:
Xấu xa trên bộc với trong dâu
Chim cút mà sao cũng hao cầu
Tơ đã nhúng chàm không trắng lại,
Xuôi theo dòng nước chẳng ngoái đầu.
Tư Viên ngoại thấy con gái và đứa hầu Liên Phòng biến mất tăm, biết rằng đây là chuyện tư tình, không dám làm ầm ĩ lên, giấu kín như bưng. Song chỉ sợ nhà Hồ Thông Phán đến cầu hôn, không thể từ chối được. Rất may có một đứa ở tên là Lan Hương bị bệnh thương hàn, đứa ở này cũng khá xinh đẹp, Tư Viên ngoại bèn nghĩ ra một kế, cho uống một thang thuốc không theo quân thần tá sứ, trong khoảnh khắc đứa ở đã chết. Tư Viên ngoại nói đổ đi rằng tiểu thư ốm chết, rồi báo với nhà Hồ Thông Phán. Nhà họ Hồ sai một người đàn bà đến hỏi thăm, người ấy không biết mặt tiểu thư, thì làm sao biết được tiểu thư thật hay giả. Tư Viên ngoại làm ma khá linh đình, khóc than thảm thiết. Tụng kinh niệm Phật bảy tuần, rất tốn kém. Thân bằng cố hữu đều tới thăm hỏi phúng viếng. Cháu của Hồ Thông Phán tuy chưa nên vợ nên chồng, song cũng mặc tang phục tới đưa ma. Hồ Thông Phán cũng đích thân đến nhà. Thế là sự việc xấu xa ấy đã dựa vào cái chết của đứa con hầu để che giấu mọi người. Đúng là:
Trương Công uống rượu Lý Công đền,
Đầu độc gái hầu, gia chết con,
Tuyền đài ôm hận không nơi tố,
Thế gian nguyền rủa gã Mạc Thùy.
Đêm ngày mồng ba tháng Ba, thấy chủ đột ngột bỏ đi suốt đêm không về, Lai Nguyên cho rằng Thúy Hà không chịu nổi sự vắng vẻ tĩnh mịch, đã tới lầu xanh tìm vui thú. Ăn cơm sáng xong, sửa soạn đi đón chủ về, thì chẳng thấy khăn áo của mình đâu cả. Lai Nguyên thấy rất lạ, lẽ nào chủ lại mặc áo của mình. Đến khi đi tìm khắp mọi nơi thì chẳng thấy đâu. Đã năm sáu ngày ròng rã Lai Nguyên đi tìm chủ, vậy mà chẳng thấy tăm hơi, anh không còn đủ kiên nhẫn đi tìm nữa, đành phó mặc cho số phận. Hôm sau dậy sớm ra nhà xí, Lai Nguyên nhặt được một chiếc khăn vàng, trong đó có thêu ba chữ "hiệu Vĩnh Hưng". Nghĩ thầm "Âu cũng là trời dun rủi, một chiếc khăn to dùng để gói quần áo cũng được, gói gạo cũng được, mà làm chăn đắp cũng được". Thế là Lai Nguyên hớn hở nhặt mang về. Tính ra đã hơn hai mươi ngày rồi mà vẫn không thấy chủ về củi gạo cũng hết nhẵn, trong người không còn một xu dính túi. Nghĩ rằng: "Không biết chủ vui thú ở nơi nào mà để mặc ta chịu khổ ở đây. Đến nay một hạt gạo cũng không còn, lẽ nào ta chịu ở đây chết đói ư? Thôi thì ta hãy mang hai bộ quần áo của chủ đi cầm lấy mấy lạng bạc, mua ít gạo, củi để lót lòng rồi sẽ tính sau. Nghĩ thế, Lai Nguyên lấy luôn hai bộ quần áo lụa, lại sợ hiệu cầm đồ làm bẩn, anh lại lấy luôn chiếc khăn vàng mới nhặt được gói lại, rồi khóa cửa ra khỏi nhà trọ. Trên đường đi Lai Nguyên không biết nên đến hiệu cầm đồ nào thì mới bán được giá cao, rồi lại nghĩ, mình đã có hàng thì lo gì chỗ bán, chỗ nào mà chẳng bán được, thôi chẳng tính toán làm gì.
Đang lúc gặp xúi quẩy, Lai Nguyên cũng chẳng cho điều ấy là hệ trọng, cứ bước bừa. Không ngờ đi qua con đường nhỏ sau nhà Tư Viên ngoại, thấy một dải tường đá, trên một chiếc cổng lầu nhỏ, thấy treo tấm biển, trên đó viết hai chữ "Túc Cơ”. Hai cánh cửa vườn nửa khép nửa mở. Lai Nguyên biết đây là vườn hoa của người ta, bước vào xem. Đang lúc vào cuối tháng Ba, cây cối xanh um, hương thơm ngào ngạt, cành mơ trĩu quả, chim oanh đậu trên cây thùy dương hót líu lo, trong bồn đá, hoa đỗ quyên nở rộ. Lai Nguyên nghĩ: "Ở huyện Lâm Quế của mình lúc này cũng có oanh hót trong liễu biếc, chỉ có điều mình không về được!”. Đang miên man nghĩ ngợi, bỗng thấy một chiếc giày màu hồng nhạt dưới gốc cây, nhặt lên xem, nhận ra đây là chiếc giày của chủ mình. Tại sao chiếc giày ấy lại rơi ở chốn này? Anh bỗng sinh nghi, cứ thì thầm nói một mình, trầm ngâm mãi, muốn đi mà không sao dứt được: Nào ngờ, Tư Viên ngoại mất con gái, tuy đã nói dối rằng con ốm chết để che giấu người ngoài, song trong lòng lúc nào cũng u uất, vừa rầu rĩ, vừa tức giận. Ông đang đi tản bộ trong vườn hoa để nỗi lòng khuây khỏa, bỗng thấy Lai Nguyên tay cầm chiếc giày thẫn thờ suy nghĩ. Viên ngoại quát hỏi:
- Ngươi là ai, sao dám xộc vào cửa sau nhà ta, chẳng phải là người tới ăn trộm ư?
Thế rồi ông hô người tới bắt. Mấy người hầu chạy vụt ra, chẳng hỏi han gì, cứ thế lôi xềnh xệch, đấm đá túi bụi. Lai Nguyên nói:
- Xin các ông đừng đánh tôi, tôi là quản gia của cử nhân tướng công.
Mọi người thấy thế dừng tay, Viên ngoại hỏi:
- Ở thành Dương Châu có mấy vị cử nhân, vậy ngươi là người nhà của vị nào?
- Chủ tôi không phải là cử nhân của bản châu, mà là cử nhân Mạc ở huyện Lâm Quế, phủ Quế Lâm, Quảng Tây.
- Đã là nơi khác đến thì làm sao mà xác nhận được. - Tư Viên ngoại nói. - Ta chỉ hỏi ngươi tới đây làm gì?
- Tướng công nhà con lên kinh đô thi Hội, từ mùa đông năm ngoái, ngày mồng ba tháng Ba vừa rồi ra khỏi nhà, gần một tháng rồi mà vẫn chưa thấy về. Vì hết cả gạo, củi, con đành mang mấy bộ quần áo đi bán để lấy tiền chi dùng, nhân tiện hỏi dò tướng công hiện đang sống ở đâu. Con đi qua đây, thấy trong này có nhiều hoa đẹp nên vào xem. Ngẫu nhiên con nhặt được chiếc giày dưới gốc cây bách, đó lại là chiếc giày của tướng công con, cho nên con cảm thấy nghi ngờ.
Viên ngoại cầm lấy chiếc giày xem, thầm nghĩ "Kẻ đi đôi giày này đúng là một đứa khinh bạc". Rồi ông hỏi:
- Tướng ông của ngươi là cử nhân, vì sao không đi thi Hội?
- Chỉ vì tướng công của con giữa đường bị ốm, phải nghỉ tại đây nên đã lỡ mất kì thi.
- Tướng công của ngươi bao nhiêu tuổi, thường ngày thích gì?
- Tướng công của con mới hai mươi tuổi, người trắng trẻo, phong lan khoáng đạt, cầm kì thi họa đều rất tinh thông, phong hoa tuyết nguyệt đều ưa thích.
Nghe thấy nói thế, Tư Viên ngoại nghĩ thầm: “Vốn là một người không chịu tuân theo phép tắc, song tại sao chiếc giày của người ấy lại rơi tại nhà ta? Hay là con gái ta bị người ấy dụ dỗ? Chỉ có điều xưa nay con gái ta chưa từng ra khỏi nhà, nên người ấy không thể nhìn thấy được". Ông lại nghĩ tiếp: “Chỉ có hôm mười chín tháng Hai nó tới chùa Quỳnh Hoa dâng cành phan, trừ phi đó là ngày chúng đã hẹn nhau từ trước, sự việc thật khả nghi. Chỉ có điều đã che giấu người ta rồi, hơn nữa không vạch áo cho người xem lưng, nên cũng không nhắc đến nữa”. Ông nói với Lai Nguyên:
- Ngươi không phải là trộm thì đi đi, không nên quanh quẩn ở đây mà bép xép.
Lai Nguyên mang gói quần áo và chiếc giày ra khỏi vườn hoa, tới một cửa hiệu cầm đồ bán. Cửa hiệu cầm đồ này là của nhà họ Trần, người Huy Châu, ở ngay sát nhà Tư Viên ngoại. Người chủ quán mở chiếc gối ra xem, thấy trong đó có thêu ba chữ "hiệu Vĩnh Hưng" bèn nói:
- Hay quá, nhà ta mất đồ đạc đã tìm ra manh mối rồi!
Những người trong cửa hàng thấy thế hò nhau đến xem, họ đều nói:
- Không cần phải nói nữa, đúng rồi.
Thế là họ lấy ra một chiếc xích, xích vào cổ Lai Nguyên. Lai Nguyên phân trần, họ bạt cho mấy cái tạt tai. Chửi:

- Mày là tên ăn cắp, tang vật sờ sờ ra đấy mà còn cãi bướng.
Về Đầu Trang Go down
https://triamquan.forumvi.com/
Tri Âm Quán
Thành Viên Tích Cực
Thành Viên Tích Cực
Tri Âm Quán


Tổng số bài gửi : 6340
Reputation : 2
Join date : 31/07/2013
Đến từ : Thị Trấn Chũ

Đoán Án Kỳ Quan - Page 5 Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Đoán Án Kỳ Quan   Đoán Án Kỳ Quan - Page 5 EmptyWed Apr 23, 2014 1:17 pm

nhiều tác giả
Đoán Án Kỳ Quan
Phạm Tú Châu - Nguyễn Văn Thiệu (Dịch và biên soạn)
Chương 10 (C)
Vốn là, vào lúc canh tư đêm ngày mười chín tháng Ba, bọn trộm đã lẻn vào cửa hiệu này, lấy đi một số vàng bạc, ngoài ra châu báu quần áo không mất thứ gì. Chiếc khăn này cũng bị chúng lấy cắp, không biết vì sao chúng vứt đi. Lai Nguyên nhặt được, hôm nay gói quần áo tới rồi bị sa lưới. Chẳng cần nói lôi thôi, họ trói ngay lại giao cho người hầu, giải lên huyện Giang Đô thẩm vấn. Lai Nguyên khai anh là người nhà cử nhân họ Mạc, chiếc khăn này nhặt được vào sáng ngày hai mươi tháng Ba. Tri huyện cũng nghĩ "Đã lấy cắp của nhà người ta thì tại sao lại mang tang vật đến cửa hàng người ta mà bán? Người này hẳn không phải là trộm thật". Rồi tống Lai Nguyên vào nhà giam, cử người đi điều tra, sau đó mới xét xử tiếp.
Nào ngờ Tư Viên ngoại nghe thấy nói việc này, lại nghĩ rằng con gái mình đã theo bọn trộm cướp. Không biết trút giận vào đâu, bèn gửi thư lên quan huyện nói: "Buổi sáng Lai Nguyên đã lẻn vào trong vườn nhòm ngó, hắn đúng là tên trộm, không còn nghi ngờ gì nữa". Tri huyện xem thư, bảo đem Lai Nguyên ra thẩm vấn lại. Lai Nguyên vẫn khai là người nhà của cử nhân họ Mạc. Tri huyện hỏi, cử nhân họ Mạc ở đâu, Lai Nguyên khai thực rằng:
- Cử nhân đã bỏ nhà đi từ ngày mồng ba tháng Ba, tới nay không biết là đi đâu.
Tri huyện cười nói:
- Có lý nào chủ đi đã lâu mà người nhà lại không biết, đúng là khai láo.
Thế rồi ông ra lệnh cùm kẹp và tra tấn cực hình. Lai Nguyên không chịu được đành khai là kết đảng với bọn trộm cướp phân tán tang vật. Cuối cùng quan huyện nói, chỉ có một chiếc khăn không cũng khó mà kết tội được, vẫn giam vào nhà giam, lệnh cho sai nha đi truy lùng bọn trộm cướp rồi xét xử sau.
Lai Nguyên bị giam tại nhà giam Giang Đô, vì chưa định được tội danh, trong người không có một xu dính túi, không có người thân thích đem cơm, trước mắt chỉ có con đường chết mà thôi. May mà Chu Tiểu Kiều, người chủ quán trọ, biết đích xác đây là quản gia của cử nhân họ Mạc, anh ta hằng ngày thật thà chất phác, ban đêm chẳng bao giờ ra khỏi quán trọ, mà ban ngày sao lại gặp tai họa như thế. Cho nên ông chăm sóc Lai Nguyên như một người thân. Rồi ông đích thân đến nhà giam an ủi:
- Tướng công của anh còn rất nhiều quần áo cất trong hòm, hiện việc đang cần kíp có thể đem bán đi, chờ khi nào chủ anh về thì mọi việc sẽ rõ.
Lai Nguyên giàn giụa nước mắt cảm ơn lòng tốt của ông. Từ đó Lai Nguyên yên tâm nghỉ ngơi tại nhà giam, mỏi mắt trông chờ chủ nhà đến cứu. Đúng là:
Mai rùa muốn nát mà vô kế,
Dâu khô gặp họa chẳng nói năng.
Lại nói, Mạc Thúy Hà đưa Tử Anh và Liên Phòng về huyện Lâm Quế, chỉ nói là thi trượt trở về, qua Dương Châu cưới một người thiếp, và mua một thị tì. Anh em bè bạn đều không biết chuyện này. Từ xưa tới nay mối tình trăng hoa đắm say hơn nhiều so với ân ái vợ chồng kết tóc se tơ. Về nhà được mấy tháng thì đẻ con trai, hai năm sau lại sinh thêm đứa con nữa. Liên Phòng tuy được "chút cơm thừa canh nguội” không biết là tử cung mắc chứng hàn lãnh, nên không có con. Đáng buồn cười là, sau khi Mạc Thúy Hà lấy được Tử Anh cũng không đi chơi bời lăng nhăng nữa, mà chỉ quanh quẩn ở nhà với Tử Anh. Năm Mạc Thúy Hà hai mươi hai tuổi, lại đúng vào kì thi Hội. Tháng Mười lại thu xếp lên đường tới kinh đô. Khi chia tay, Tử Anh mỉm cười nói:
- Lên kinh đô lần này nhất định sẽ qua Dương Châu, không cần phải nán lại chùa Quỳnh Hoa nữa.
Liên Phòng nói:
- Nán lại chùa Quỳnh Hoa cũng chẳng ngại gì, có điều không cần đến bể thả sen bằng đá ở đài Đổng Trọng Thư đọc sách để rửa tay nữa.
Hai người vốn là nói đùa, nhưng họ cũng nhắc lại việc vô lại đã xẩy ra cách đây hai năm. Mạc Thúy Hà toát mồ hôi, im lặng không sao đối đáp được. Trầm ngâm một lúc, Thúy Hà mới nói:
- Lần này qua Dương Châu, tiện đường ta sẽ tìm Lai Nguyên thôi, còn việc trai gái này khác thì ta đã chán ngán rồi, các em không cần nghĩ ngợi lo lắng làm gì.
Chia tay hai người , Mạc Thúy Hà lên đường, thẳng tới kinh đô. Dọc đường, đói ăn khát uống, ngày đi đêm nghỉ, chẳng bao lâu đã tới kinh thành. Lần thi ấy, Mạc Thúy Hà đỗ Hoàng giáp. Đến tháng Ba được cất nhắc làm Tri huyện huyện Nghi Chinh, lĩnh bằng rồi lập tức tới nhiệm sở. Đi qua Dương Châu thì tới nội địa huyện ấy, trước hết Thúy Hà tới quán trọ xưa kia. Quang cảnh ba năm trước đây vẫn thế, chỉ khác đi chút ít Chủ quán trọ Tiểu Kiều trông thấy, vội cầm tay nói:
- Mạc tướng công, ông đi đâu lâu thế, khiến cho Lai Nguyên bị nhà họ Trần, người Huy Châu vu cho ăn trộm, bị tra tấn hết sức đau đớn khổ sở.
Ông kể lại hết từ đầu cho Thúy Hà nghe. Thúy Hà nói:
- Ông đừng có ầm lên. Lần trước không đi thi Hội được tôi rất lo lắng, nên tạm tới nơi khác giải sầu. Không ngờ đi tới ba năm, đến nỗi làm đứa quản gia phải khổ. Nay tôi đã đỗ tiến sĩ rồi, và được cất nhắc làm chức tri huyện huyện Nghi Chinh, chờ khi nhậm chức xong tôi sẽ tới tìm hiểu thêm.
Chu Tiểu Kiều thấy Thúy Hà nhậm chức tri huyện một huyện gần đây bèn quỳ xuống khấu đầu. Mạc Thúy Hà vội vàng đỡ dậy, nói:
- Ngươi là người quen biết cũ, đừng thi lễ như thế. - Rồi nói thêm. - Việc đến nhậm chức là quan trọng, nên tôi không thể lưu lại đây lâu được ông đừng tiết lộ việc này với ai, và cũng đừng đến nói trước cho Lai Nguyên biết. Sau này Lai Nguyên ra khỏi ngục, nhất định sẽ tới tìm ông. Ông cứ lẳng lặng đưa đến Nghi Chinh, tôi sẽ hậu tạ.
Nói xong Thúy Hà xuống thuyền tới ngay huyện Nghi Chinh nhậm chức. Mấy hôm sau sai gia nhân về đón Tử Anh, Liên Phòng tới nha môn.
Năm ấy quan Tuần án mới là Án Lâm, là quan trên của Mạc Thúy Hà, hai thầy trò rất tâm đầu ý hợp. Mạc Thúy Hà nói lại chuyện Lai Nguyên bị vu khống. Tới mùa thu năm ấy Tuần án đến huyện Giang Đô, Dương Châu, tìm hiểu tình hình, giải quyết các vụ án. Tuần án xét đến vụ án Lai Nguyên, lật đi lật lại thấy vô bằng cớ, ông phê ngay vào bản án rằng:
"Kẻ trộm cướp vàng bạc, châu báu rồi vứt khăn ra đường, Lai Nguyên nhặt được. Người kia vứt thì người này nhặt đó chẳng phải là người nước Sở được cung nước Sở. Không bắt được bọn trộm cướp mà chỉ bắt Lai Nguyên thì quả là oan vậy. Mong huyện Giang Đô phúc thẩm để làm sáng tỏ".
Giấy gửi tới huyện Giang Đô, quan huyện đưa Lai Nguyên ra phúc thẩm. Lúc ấy nhà họ Trần người Huy Châu không còn mở cửa hàng ở Dương Châu nữa. Tri huyện tha Lai Nguyên ra, nói:
- Đáng tiếc là người chủ mất của không còn ở đây nữa, nếu còn thì phải ghép hắn vào tội vu cáo mới đúng.
Lai Nguyên về quán trọ, thấy Chu Tiểu Kiều, anh bái tạ cảm ơn. Chỉ nói rằng nhờ trời được tha, chứ đâu có biết vì sao. Chu Tiểu Kiều nói lại cho Lai Nguyên biết hết mọi chuyện, rồi ngay đêm ấy dẫn Lai Nguyên tới huyện Nghi Chinh. Chu Tiểu Kiều tạm nghỉ bên ngoài. Lai Nguyên được lệnh cho vào nha môn, thấy gia chủ, anh quỳ xuống khấu đầu, kể lại chuyện bị vu cáo và phải chịu nhục hình như thế nào. Lai Nguyên vừa nói vừa núc nở, khóc đến nỗi làm cho nước sông Hoàng Hà trong lại, đáy biển nứt nẻ! Mạc Thúy Hà nói:
- Tuy gia chủ bỏ rơi ngươi song ngươi cũng tự phải thấy rằng mình đã gặp phải rủi ro.
Lai Nguyên khóc xong mới tới chào phu nhân Tử Anh. Nghe tiếng nói, Lai Nguyên biết phu nhân là người Dương Châu, nói:
- Hóa ra bà cũng là người Dương Châu, ngài cưới từ bao giờ thế? Mạc Thúy Hà vẫn còn lương tâm, thấy Lai Nguyên hỏi thế mặt đỏ bừng, nói rằng cưới đã lâu rồi.
Hôm ấy họ bày cơm rượu thịnh soạn, Lai Nguyên đánh một bữa say túy lúy. Sau đó lấy ra ba mươi lạng bạc, sai người đưa cho Chu Tử Kiều để đền ơn.
Từ đó Mạc Thúy Hà cải tà quy chính, trên con đường công danh rất thanh liêm chính trực, thói trăng hoa không còn nữa. Một hôm Thúy Hà nói với Tử Anh:
- Ta xem ra Lai Nguyên đã vì ta mà bị tù tội, chịu khổ sở ròng rã ba năm trời, ta rất thương. Nay Lai Nguyên đã lớn tuổi mà vẫn chưa vợ con, Liên Phòng vẫn hầu hạ ta, song rất mừng là vẫn chưa có con, ta muốn vun vào cho Lai Nguyên và cho chúng về làm quản gia, để họ sống với nhau cho thoải mái, khỏi phải sống bó buộc tù túng ở nha môn.
Lúc ấy Liên Phòng giả vờ không nghe, song kì thực Liên Phòng tính vốn ưa hoạt động, "một ngựa một yên", có gì mà không được.
Tử Anh lại cũng là người có tình nghĩa, nên đã nói vun vào cho họ nên vợ nên chồng. Đám cưới cũng tổ chức đàng hoàng. Tuy không để danh bảng vàng nhưng vẫn coi là động phòng hoa chúc. Cưới nhau xong được tròn một tháng, họ lên đường về Quảng Tây, tuy không phải là áo gấm về quê, nhưng cũng rạng rỡ mặt mày. Đúng là:
Nếu không rét lạnh thấu xương
Thì hoa mai chẳng ngát hương hỡi chàng.
Tử Anh ở huyện Nghi Chinh được một năm, nàng nói với chồng:
- Từ khi theo chàng, miễn cưỡng em trở thành vợ chồng, suốt đời không gặp cha mẹ. Mẹ thiếp chẳng may đã mất, song cha thiếp vẫn còn. Thiếp nghĩ từ huyện Nghi Chinh cách Giang Đô không đầy trăm dặm, giá chàng cho em được gặp cha một lần cũng tốt.
Nói xong, Tử Anh nước mắt cứ trào ra, cảm thấy mình xót xa tủi hổ.
- Phu nhân đừng quá lo lắng, - Mạc Thúy Hà nói, - hãy để ta lo liệu dần dần.
Hôm sau nhân dịp đi công cán tới Dương Châu, Mạc Thúy Hà bèn tới nhà Tư Viên ngoại xin bái kiến. Chàng gửi danh thiếp Viên ngoại thấy trong danh thiếp viết: "Kẻ hậu sinh Mạc Phủ cúi đầu bái kiến". ông cứ ngỡ là quan huyện láng giềng đến đón mời, nào ngờ đâu đó là con rể của mình. Mạc Thúy Hà cứ ngồi lì ở đấy, Tư Viên ngoại đành cho dọn tiệc khoản Đãi. Trong khi ăn ngẫu nhiên hỏi:
- Quan phụ mẫu là cụ khánh ư?
Phàm là những người đỗ tiến sĩ, cha mẹ còn sống thì gọi là “cụ khánh” nếu cha còn mẹ mất thì gọi là "nghiêm thị"; mẹ còn cha mất thì gọi là "từ thị", cha mẹ đều mất thì gọi là "vĩnh cảm". Mạc Thúy Hà nghe Tư Viên ngoại hỏi thế, giàn giụa nước mắt, nói:
- Thưa ngài, song thân tôi đều đã qua đời, tôi không được hầu hạ phụng dưỡng.
- Quan phụ mẫu song thân đã mất sớm, còn ta, không có con cái thì cũng buồn khổ như nhau thôi.
Nói xong Tư Viên ngoại tự nhiên ứa lệ. Chẳng ai còn lòng dạ nào mà ăn uống, rồi cả hai đều buông đũa.
Khi chia tay, Mạc Thúy Hà nói:
- Hôm nay chia tay với ngài, không biết bao giờ mới được gặp lại? Nếu ngài không chê tệ huyện hẻo lánh tồi tàn thì kẻ hậu sinh này cũng xin quét cửa đón tiếp ngài.
- Phần mộ tổ tiên của tôi tại chân núi Tây Hà. - Viên ngoại nói. - Hằng năm vào mùa xuân tôi đều tới đó tảo mộ và đi qua quý huyện, sau này chúng tôi sẽ tới bái kiến quan phụ mẫu.
Sau đó Mạc Thúy Hà bái biệt ra về.
Vào tháng Ba năm sau quả nhiên Viên ngoại đến Nghi Chinh đáp lễ. Mạc Thúy Hà biết tin, báo cho Tử Anh:
- Cha nàng hôm nay tới đây, nàng có gặp ông hay không?
- Thiếp luôn luôn nhớ tới công ơn dưỡng dục của cha, cũng phải mặt dày mày dạn mà gặp ông.
Nghe xong, Mạc Thúy Hà một mặt cho người chuẩn bị bữa tiệc, một mặt ra đón Tư Viên ngoại vào trong nha môn dự tiệc.
Trong lúc ăn uống, Mạc Thúy Hà nói:
- Quan muốn dạy bảo điều gì? - Tư Viên ngoại nói.
- Kẻ hậu sinh này rất xấu hổ chưa nói tới chuyện thông gia, từ nay trở đi con sẽ là con rể của ngài, vợ con sẽ ra bái kiến ngài.
- Tôi đâu dám.
Tư Viên ngoại vừa nói xong, thấy Tử Anh đi ra quỳ xuống lạy Tư Viên ngoại mắt đã kém nhẻm, nhìn không rõ, bỗng chốc cũng quỳ xuống lạy, đứng dậy nhìn, kêu toáng lên:
- Vì sao? Vì sao lại thế này? Trách nào chiếc giày mầu hoa đào đánh rơi trong vườn có người nói là của Mạc Cử nhân, đến bây giờ mới rõ.
Nói xong ông rất giận dữ. Mấy năm trời mất con, ông không cảm thấy nỗi vui mừng đột ngột như từ trên trời rơi xuống, mà chỉ thấy lửa giận trong lòng ngùn ngụt dâng lên. Ông than thở rằng "Con gái mình không ra gì, thì oán sao được người ta".
Rồi nói với Mạc Thúy Hà:
- Lúc đầu đứa con gái tôi cũng chẳng ra gì, nó là đứa vô liêm sỉ, đã làm bại hoại gia phong, không cứng cỏi, bị rơi vào địa ngục, dạo bị cướp đi tôi đã nói dối rằng nó đã chết để che mắt Hồ Thông Phán. Nay nếu tin đó lộ ra, tôi xấu hổ, anh cũng xấu hổ, từ nay đến khi chết anh cũng đừng gặp tôi nữa.
Nói xong ông phủi áo bỏ đi. Hậm hực chửi Mạc Thúy Hà một kẻ liều lĩnh, coi trời bằng vung. Thúy Hà đành ngậm đắng nuốt cay tiễn Tư Viên ngoại ra về. Tử Anh về phòng, ốm liệt ba tháng trời chẳng nói chẳng rằng, không biết là bệnh gì.
Năm tháng cứ trôi đi, Mạc Thúy Hà ba năm mãn nhiệm, rồi lần lượt được thăng tới chức bố chính sứ Phúc Kiến. Hối hận vì sự lỗ mãng của mình thời trai trẻ, đã làm tổn hại đến gia phong, làm hại con gái người ta. Bởi thế rất nghiêm khắc dạy dỗ con cái, tuân theo phép tắc chuẩn mực. Đứa con lớn đặt tên là Mạc Ngã Như (không như ta), đứa bé đặt tên là Mạc Ngã Tự (không giống ta). Cả hai đều thi đỗ tiến sĩ, làm quan tại kinh sư. Ngờ đâu gặp hạn lớn, Mạc Thúy Hà đang làm quan tại Phúc Kiến thì đổ bệnh. Mà chứng bệnh này cũng rất kì quái không phải là chứng thất tình(1) lục dục(2) không phải là chứng hàn nhiệt phong thấp, không phải là chứng nội thương ngoại cảm, chỉ là chứng hôn mê trầm uất, cáu gắt, khi cười khanh khách, khi hát rống lên, khi vật vã cung đao múa kiếm, tự cắt vào da thịt mình. Miệng cứ nói là có ma quỷ, có trộm cướp, có kẻ rình mò.
(1) Thất tình: bảy thứ tình cảm của con người: mừng, giận, thương, sợ, yêu, ghét, muốn.
(2) Lục dục: những tình dục do lục căn mà sinh ra.
 
Tử Anh ngày đêm phụng dưỡng thuốc thang, không dám rời nửa bước. Một hôm Mạc Thúy Hà đang nằm ngủ, đột ngột nhổm dậy nói:
- Ta chẳng phải là thần nào khác, ta chính là Đức Già Lam ở chùa Quỳnh Hoa, Mạc Khả là gái điếm ở Quế Lâm. Đại phú gia hứa chuộc cô gái điếm này về làm vợ. Bỗng nhiên Đại phú gia này nuốt lời hẹn ước, bỏ về Dương Châu. Người đàn bà ấy phẫn uất tự tử. Bởi thế người đàn ông đầu thai thành con gái, người đàn bà đầu thai thành con trai, nên mới xẩy ra chuyện đời nay. Đời nay Mạc Khả phú quý, hai con đều thi đỗ, ấy là vì khi đời trước làm gái điếm, từng chu cấp những người nghèo đói, xây cầu dựng quán, cho nên mới được báo đáp như thế. Gần tới lúc chết mắc bệnh hiểm nghèo, là vì đã vô cớ cưỡng bức Tử Anh, buộc Tử Anh phải theo mình. Làm bại hoại lương tâm nên bị quả báo. Quả báo là đời sau phải chịu, còn họa báo thì chịu hại ngay nhãn tiền. Bởi thế ta khuyên người đời hãy sớm tu nhân tích đức là điều thiện.
Nói xong Mạc Thúy Hà lại nằm vật ra ngủ, vẫn hoàn toàn trở lại Mạc Thúy Hà như ngày thường. Phút chốc hộc ra mấy chậu máu rồi chết. Ô hô! Thương thay!
Nghe thấy Già Lam hiển thánh, Tử Anh lại một lần nữa kinh dị. Khâm liệm Mạc Thúy Hà, đưa quan tài về Quảng Tây. Vợ chồng Lai Nguyên ra đón. Để tỏ lòng biết ơn tình xưa nghĩa cũ, Liên Phòng vô cùng đau thương. Sau đó gặp hai người con của Thúy Hà về chịu tang. Mãn tang ba năm, Tử Anh cũng đổ bệnh. Gọi hai con đến bên giường dặn rằng:
- Cha con sinh ở Quế Lâm, mẹ sinh ở Giang Đô, mộng hồn đều có chốn về, vì duyên số ngẫu nhiên đời nay gắn bó với nhau. Đó là lời di chúc của ta.
Nói xong Tử Anh trút hơi thở cuối cùng. Hai người con nghe thấy nói thế cũng chẳng hiểu gì, chỉ nói là lúc lâm chung đã nói bừa, và cũng chẳng tìm hiểu tường tận. Ngờ đâu Tử Anh đến lúc chết vẫn còn minh mẫn, đó cũng là lời giáo hóa của Đức Già Lam ở chùa Quỳnh Hoa. Người đời sau đã làm một bài thơ rất hay. Bài thơ ấy như sau:
Trai gái mắc oan đều có gốc,
Phong tình đâu phải chuyện bỗng dưng.
Oan trái đời nay chưa trả được,

Chỉ sợ đời sau mắc vạ lây.
Về Đầu Trang Go down
https://triamquan.forumvi.com/
Tri Âm Quán
Thành Viên Tích Cực
Thành Viên Tích Cực
Tri Âm Quán


Tổng số bài gửi : 6340
Reputation : 2
Join date : 31/07/2013
Đến từ : Thị Trấn Chũ

Đoán Án Kỳ Quan - Page 5 Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Đoán Án Kỳ Quan   Đoán Án Kỳ Quan - Page 5 EmptyWed Apr 23, 2014 2:48 pm

nhiều tác giả
Đoán Án Kỳ Quan
Phạm Tú Châu - Nguyễn Văn Thiệu (Dịch và biên soạn)
Chương 11
Gã Tham Lam Mua Nhà Chứa Bán Dâm
Chí sĩ không dám nói,
Tích lại thành tai ương.
Tiểu nhân vô nghề nghiệp,
Muốn người làm mối manh.
Giải thoát được u uất,
Mới biết mở mắt nhìn.
Cửa son ác như hổ,
Phần lớn bị đuổi về.
Bài thơ này là của tú tài La Ẩn nói về đồng tiền. Hai câu cuối nói về các vị quan trong công đường. Nói rằng, dù còn người hung ác như hùm sói, nhưng nếu có tiền thì con người không còn hung ác nữa. Tiền khiến cho quan lại mặt mày hớn hở, cho tai qua nạn khỏi, hà hơi tiếp sức đều rất công hiệu. Bởi sức mạnh của đồng tiền, nên có những người bất chấp tất cả trở thành kẻ tham lam tàn ác, mặt dày mày dạn, táng tận lương tâm, hằm hằm nổi giận, khiến người sợ hãi, rồi sau đó ra sức vơ vét tiền bạc của người. Nhưng người nào chẳng may bị chúng động tới đều thịt nát xương tan. Đó chính là tệ nạn phổ biến xưa nay, từ quan trên đến quan dưới, nên chẳng ai bảo được ai. Thảng hoặc có người giữ mình liêm khiết, thì thường bị chúng đố kỵ, cho rằng, nếu không giả dối che đậy thì cũng là chạy theo danh vọng, rồi hùa nhau bài xích, chèn ép đổi trắng thay đen, dìm người ấy xuống tận đất đen, không sao cất đầu lên được. Bởi thế, ngạn ngữ có câu: "Quan to không cần tiền thì về làm vườn; Quan nhỏ không đòi tiền thì như con gái không biết lấy chồng". Thế mới biết kẻ tham lam thì phú quý; người liêm khiết thì mãi nghèo khổ. Bởi nhìn vào tấm gương như thế, nên thấy tiền tài là họ bất chấp cả tính mạng, dù bị chê cười khinh bỉ, vẫn chẳng chút xấu hổ. "Mặc cho người đời chê cười, ta vẫn là ông quan tốt." Hai câu nói ấy vẫn là hiện thực.
Tuy nói thế, song tiền tài vẫn là nguồn sống không thể thiếu. Nếu như ngang nhiên nhai xương hút tủy thì quả là không được. Chẳng hạn như Phạm Sử Vân thời xưa, từng làm quan lệnh ở Lai Vu nhưng vẫn vui lòng sống cuộc sống đạm bạc. Lại như Nhậm Ngạn Thăng làm tới Thị trung mà ngày ông chết, con ông áo quần vẫn rách tả tơi, che không kín thịt da, điều ấy ta cảm thấy mủi lòng. Theo ta thì cũng không muốn người ta tham lam, chỉ có điều lấy nó phải theo đạo lý, đừng vô liêm sỉ. Ta cũng không muốn cấm người ta tàn khốc, song đánh người phải có pháp luật mà không được thương luân bại lý. Trong sách có nói: "Xuất phát từ cái lợi mà làm". Đây là một lời nói hay về sự không tham lam. "Người biết yêu người thì luôn luôn được người yêu mến". Đó là một lời nói hay về sự không tàn ác. Lại có chỗ nói rằng: "Tài vật nhiều vô tận sẽ trả lại tạo hóa; phúc nhiều vô tận thì trả về cho con cháu”. Những bậc thánh hiền xưa kia chẳng ai không khuyên người ta làm điều thiện, chẳng ai là không khuyên người ta cứu giúp mọi người.
Song một điều nực cười là, người trong thế gian biết được tệ nạn không được phép làm ấy lại ngồi ở bên trên. Dù cho anh nói bã bọt mép song cũng như gió thoảng ngoài tai. Nếu không bị quả báo công minh, thì những tệ hại ấy cứ như buồm xuôi gió, luôn đi về phía trước mà không bao giờ quay đầu trở lại. Nay tôi muốn kể một câu chuyện về sự tham lam tiền của để thức tỉnh những người còn đang mê muội. Thơ rằng:
Tiền của ai ai mà chẳng thích,
Phong lưu ai chẳng có lòng tham.
Chỉ vì mất hết lòng liêm sỉ,
Ngàn năm không xóa sạch vết nhơ.
Thời Tống, ở Tây Hòa, có một người tên là Ngô Ái Đào. Vì được xem cuốn sách lạ nói về Đào Chu Công trở nên giàu có. Ái Đào rất thích, nghĩ rằng: Đào Chu Công trước kia tên là Phạm Lãi, đã giúp Việt Vương diệt Ngô, sau đó công thành danh toại, đưa Tây Thi lên thuyền rong chơi Ngũ Hồ, đổi tên là Đào Chu Công, làm nghề buôn bán mà trở nên giàu có. Đây là một nhân vật phong lưu vào bậc nhất xưa nay, ta là người có học và tài năng chẳng kém gì Đào Chu Công, sau này công thành danh toại ta cũng học theo cách sống phong lưu khoáng đạt của ông ta. Nhất định ta sẽ làm nên sự nghiệp như Chu Công. Bởi thế Ái Đào bèn đổi tên thành Chu Công. Xưa kia Tây Hòa nằm trong vùng Ung Châu cổ, vốn thuộc đất Tây Khương. Thời Tần thuộc Lâm Triệu, thời Ngụy đổi thành Mân Châu. Cổ thi có câu: "Sơn Đông tể tướng, Sơn Tây võ tướng". Vùng Tây Hòa rất ít văn nhân, chỉ có Ngô Ái Đào, từ nhỏ đã xuất chúng, sách chỉ xem qua là nhớ ngay. Thấy của người cũng cứ nhớ mãi, tìm mọi cách lấy cho bằng được. Khi còn nhỏ đi học lấy cả những mẩu mực thừa, những mảnh giấy vụn của bạn bè. Còn vật dụng của mình thì giữ bo bo chẳng cho ai lấy một ly. Tính tình Ái Đào lại hung hăng, nóng nảy, bạn bè nói không vừa ý là lửa giận bốc lên, túm tóc kéo áo, ném gạch ném đá, không chiếm được một chút lợi lộc không chịu yên. Đây là tâm tính hung ác tham lam bỉ ổi sẵn có từ khi còn trong bào thai, ngay cả trời cũng chẳng làm gì nổi Ái Đào.
Thôn Cửu Gia có chín họ, nên đặt tên thôn là Cửu Gia, Ái Đào là người sinh ra ở đó. Số người trong chín họ này rất đông, nhung từ xưa tới nay chưa có một tú tài nào. Ngô Ái Đào là tú tài đầu tiên của thôn, không lâu sau được cất nhắc làm người coi giữ lương thựcVùng này không có ai đỗ đạt, nên Ngô Ái Đào đỗ tú tài chẳng khác nào đỗ trạng nguyên. Hắn ngông nghênh, tự do thâu tóm, quyết đoán mọi việc trong làng. Về lý thì không được thu tiền, nhưng Ái Đào vẫn cứ thu. Cả thôn đều thiệt hại, song chẳng biết kêu đâu. Đỗ liền hai khoa, cậy tài giỏi Ngô Ái Đào càng ngày càng làm bừa, khiến dân chúng như chim lồng cá chậu, không ai thoát khỏi tay Ái Đào. Nào ngờ Ái Đào là người thi đỗ cao nhất Tây Hòa, nhưng so với những người tài cao ở các huyện vùng Quan Tây thì Ái Đào chẳng đáng kể gì. Thi liền mấy khoa, Ái Đào không kiếm được một chiếc áo màu lam. Mỗi khi Ái Đào đi thi, những người trong thôn Cửu Gia đều đến đền Thổ Cốc, miếu thờ Thành hoàng, đền thờ Văn Xương Đế Quân khấn vái, mong cho Ái Đào thi trượt. Sau khi yết bảng không thấy người mang giấy báo về thôn, mọi người lúc ấy rất vui mừng, tự nguyện góp ít tiền mua lợn về bái tạ thần linh.
Ngô Ái Đào thi trượt, mất hết cả nhuệ khí, song hằng năm vẫn đi thi theo bổn phận của người học trò, cũng như gió xuân theo mùa mà thôi. Mãi tới ngoài năm mươi tuổi mới được cử làm cống sinh. Khi Ái Đào tựu trường, trong phủ cũng có cờ biển tiễn đưa, khiến trường học trở nên rất náo nhiệt. Ngô Ái Đào thì lên mặt, còn người trong thôn thì chẳng ai vui mừng, chỉ lo Ái Đào tới quấy nhiễu. Ngô Ái Đào tỏ ra công bằng, chia toàn bộ kẻ giàu người nghèo trong toàn thôn thành ba loại thượng, trung, hạ, ghi vào sổ sách, báo hết danh thiếp, rồi cho người nói rằng: "Một là ta may mắn được cử làm cống sinh, được tôn làm người chức sắc trong thôn. Hai là lên kinh đô thiếu tiền chi tiêu, mỗi nhà phải cho ta vay ít tiền, đợi khi làm quan ta sẽ trả lãi. Nếu ai không bằng lòng thi ta ghi vào sổ là không cho mượn". Những người thôn quê thường sợ rắc rối, chỉ muốn yên thân nên chẳng ai dám chống lại. Kẻ giàu người nghèo đều phải dâng hiến, tất cả số bạc ấy đều phải cân lại, nếu chất lượng bạc xấu đều phải bổ sung cho bằng đủ.
Đầu tiên Ngô Ái Đào cướp không những người trong thôn một khoản tiền lớn, dương dương đắc ý đem theo người hầu vào kinh thi Đình. Ngô ái Đào rà xét lại tỉ mỉ những người làm quan, phàm là những người Quan Trung làm quan tại kinh đô, bất luận là chức tước to hay nhỏ, Ái Đào đều viết một tờ thiếp, với danh nghĩa là học trò thân quyến đến bái yết xin được họ chú ý và hy vọng trong kỳ thi đình được xếp thứ hạng cao. Song xưa nay lòng người khác nhau, người thì ghét chạy chọt, lại có người thích xu phụ. Ngô Ái Đào theo lối quảng canh, nhất định Ái Đào được những người thân thiết, thích danh dự nhận là học trò, và được họ nâng đỡ. Quả nhiên thi Đình, Ái Đào được xếp thứ hạng cao và được bổ nhiệm làm Nho học Huấn đạo. Được hơn một năm, đúng vào dịp mở khoa tiến sĩ, Ngô Ái Đào đã làm một bài phú về việc quản lý tiền tài rất hay và đã trúng tuyển. Được điều làm giám thuế đề cử tại lộ Kinh Hồ. Ái Đào tới đó nhậm chức, cho người về đón vợ con. Vợ cả Ngô Ái Đào không có con. Người vợ lẽ sinh được một trai một gái. Con trai lên mười tuổi tên là Ngô Tỉnh, con gái tám tuổi đều được đưa tới nha môn, đóng tại thành Kinh Châu. Sau khi đi hành hương ba buổi sáng, Ngô Ái Đào bèn khởi thảo một bản yết thị, treo trước nha môn. Yết thị ghi:
"Ta vốn sinh trưởng ở Tây Bưu vì ngẫu nhiên được đảm nhiệm chức vụ này, trên giao cho ta trông coi việc thuế má ở vùng quan trọng. Ta xấu hổ vì thân phận thấp kém, cho nên luôn đau đáu trong lòng, song trông coi việc thuế khóa cho dù một thước hay một tấc cũng không để thất thoát được, ta làm hết sức mình, đặt ra phép tắc, không cho phép thương nhân thay đổi. Hơn nữa, bản thân luật pháp làm theo ý chí, không bàn tới nhân tình. Hàng hóa phải tính theo kích thước và trọng lượng. Trừ những kẻ không đi theo cửa quan trốn thuế, phải nộp một nửa số hàng hóa ra, số còn lại phàm là chở thuyền hay gánh bộ, hàng hóa lớn hay bé đều phải báo quan, đánh thuế bằng một phần mười. Nếu ai không tuân theo thông cáo này sẽ phải phạt. Nay yết thị".
Sau khi đưa ra tờ yết thị này, lại gọi các nhà hàng tới nói rằng:
- Xưa nay tệ lậu thuế ở các bến đò cửa khẩu rất nhiều, ta đều biết hết. Các ngươi phải thận trọng tuân theo phép công, không cho phép các thương nhân thông đồng trốn tránh thuế má, có nhiều báo ít, lừa dối quan phủ. Nếu ta điều tra ra, nhất định sẽ xử theo pháp luật.
Thấy bản yết thị, và lại nghe Ngô Ái Đào nói thế, biết đây là một viên quan hà khắc, quả nhiên không ai dám làm bậy. Tất cả những khách buôn đều phải nộp đơn khai báo thành thực song vẫn phải kiểm tra lại. Nếu gặp những thương nhân buôn bán lớn, họ bới lông tìm vết, moi ra những sơ hở rồi phạt rất nặng. Hằng ngày thu thuế nhập vào tư dinh, Ái Đào đích thân lần lượt kiểm tra, không được mảy may rơi rụng. Theo lệ cũ thư lại và những nhân viên thu thuế đều có thưởng, song tới nay hoàn toàn bãi bỏ việc này, ngay cả tiền lương cũng không chịu cấp phát. Ái Đào nghĩ rằng những thuyền qua lại tại các bến sông khi qua trạm thuế này nhất định sẽ có thuyền còn sót lại chưa đóng thuế. Thế rồi Ái Đào cho người đón đường các bến đò, cầu cống buộc phải đi qua trạm thuế.
Vào một buổi sáng vừa mở cửa trạm, thấy có mấy thuyền chở lợn con, đi theo sau là mấy thuyền chở hàng, Ngô ái Đào quát:
- Đây là thuyền lậu thuế, phải bắt lại.
- Thuyền bán lợn con, xưa nay không phải đóng thuế. - Khách buôn nói.
- Nói láo! - Ngô Ái Đào nói. - Nếu đều không nộp thuế thì thuế nhà nước làm sao có được.
Người buôn lợn cứ năn nỉ rằng:
- Hàng này lệ cũ đều được miễn trừ, trước cửa nha môn đã dựng bia ghi như thế, xin ngài kiểm tra lại thì sẽ rõ.
- Bây giờ có lệ mới, - Ngô Ái Đào nói, - không cho phép. Xem lại bia cũ làm gì?
Rồi bảo, cứ mười con lợn phải nộp vào nha môn một con. Nếu kẻ nào bướng thì phạt gấp đôi. Không sao được, người buôn lợn đành ngậm đắng nuốt cay nộp thuế mất một phần mười số lợn. Vừa cho thuyền lợn con đi, thì đằng sau lại có một thuyền nhỏ đi tới. Ngô Ái Đào bảo người coi cống xem là thuyền gì, người ấy xem xong bẩm rằng đó là thuyền chở dân địa phương. Trong thuyền chỉ có hai phụ nữ và mấy hộp lễ vật, ngoài ra không có hàng hóa gì khác. Ngô Ái Đào nói:
- Đàn bà cũng giống hàng hóa, tại sao không nộp thuế, lẽ nào người không bằng súc vật ư? Vả lại khắp nơi bọn buôn người rất đông, ta không thể xem xét tỉ mỉ được. Từ nay người đi trên thuyền, bất kể là nam hay nữ, mỗi người phải nộp năm phân. Người mười lăm tuổi trở xuống cho tới các đứa ở, chỉ phải nộp ba phân. Những người nhà quê gần đây nếu như chở thóc gạo, đậu, lúa mạch, bất luận là đi trả tô hay nộp thuế, đều phải nộp. Ngoài ra buôn gà vịt, cá tươi, hoa quả, rau và các loại cỏ củi rừng đều phải nộp thuế một phần mười. Những người gánh, đội, buôn các loại thức ăn gia súc, đi lại trong chợ đều phải nộp như thế. Những người đi qua có hành lý, trừ những vật giấu trong người không khai báo, nếu khám ra sẽ nhập vào nha môn một nửa, còn lại ai không có hàng hóa, mỗi người đều phải nộp năm phân. Những hàng buôn được nha dịch bao che nếu điều tra ra sẽ phạt ba mươi gậy, cùm một tháng, và vẫn phải phạt để bồi thường.
Những luật lệ ấy vừa đưa ra, khắp nơi xa gần đều nhao nhao đồn ầm ĩ, không ai không kinh hãi. Những người buôn bán, ai ai cũng kêu ca thấu tận trời xanh. Có mấy vị quan chức già về hưu, thấy sự việc đáng nực cười, bèn cùng nhau tới báo Ái Đào rằng:
- Thuế thu vốn đã có quy định cũ, không nên tự ý thu tăng lên. Dân chúng truyền nhau nói toang ra khắp nơi, nếu dân thường nghe thấy cũng chẳng sao, chỉ sợ tin ấy truyền đến kinh sư, thì e rằng tiên sinh sẽ gặp trở ngại.
Ngô Ái Đào nghe xong, cúi xuống nói:
- Xin nghe theo lời dạy bảo của các vị.
Song sau khi chia tay họ, Ngô Ái Đào cười nói:
- Người nào làm quan, người ấy lập pháp, bàn đến luật cũ hay lệ mới làm gì. Hơn nữa các quan chức cũ đã nghỉ việc thì quản làm sao được việc của quan địa phương.
Ái Đào ngày càng hà khắc, ngay cả thuyền những giám sinh mà các quan đã cử đi qua đây, trừ những quan đương chức quan trọng ra, còn tất cả đều phải thi hành. Dù cho ai đó gửi danh thiếp xin miễn thuế, Ái Đào cũng không tiếp, họ tức khí chửi mấy câu, Ái Đào cũng coi như không nghe thấy. Những quan lại ấy không làm gì được Ái Đào, dù có tức cũng bấm bụng cho qua.
Có một hôm vừa ra khỏi nha môn, thấy người trong làng gánh một gánh cỏ nước, Ái Đào bèn bảo tay chân gọi lại hỏi:
- Gánh cỏ nước này bao nhiêu cân, tại sao không nộp thuế?
- Cỏ nước là để cho lợn, - người ấy bẩm, - xưa nay có phải nộp thuế đâu!
- Đều là thức ăn gia súc, tại sao lại không đóng thuế.
Rồi Ngô ái Đào gọi cửa hàng đem cân tới cân, cứ một trăm cân lấy mười cân, đưa vào nha môn nuôi lợn. Một hôm đang ngồi trong nhà, thấy một người mang chiếc thùng gỗ đi qua, tưởng đó là hòm tơ lụa, Ái Đào bèn vội vàng gọi vào, thì hóa ra đó là nhà tu hành đi khất thực, mang một thùng cơm chay. Ngô Ái Đào cũng cứ mười bát bắt nộp một bát đưa cho kẻ hầu người hạ và nha dịch điểm tâm. Ngay cả những thuyền đánh cá đi qua, cũng phải nộp một phần mười tôm, cá, cua, lươn để nhắm rượu. Chỉ có những người ăn mày xin được ít cơm thừa canh cặn là không phải nộp để chi dùng. Quả thật thượng vàng hạ cám tất cả đều thu bằng hết, không sót một ai. Những thương nhân bên ngoài, hai đường thủy bộ, coi như không để sót một nguồn lợi nào. Đến lúc Ngô Ái Đào tính đến các hiệu buôn và những thư lại trong nha môn. Họ đã nhiều năm chiếm cứ ở đây và làm rất nhiều việc. Ái Đào cho rằng những việc ấy đã xâm hại đến thuế khóa nhà nước, phải thu lại một ít để sử dụng. Thoạt đầu Ái Đào soi mói những sai sót của thư lại, dùng trượng gậy đánh, rồi tống giam hoặc kìm kẹp. Những người này hằng ngày quen ăn ngon mặc đẹp, da thịt mỡ màng làm sao chịu được khổ sở. Họ hiểu rằng bản quan làm thế chỉ vì tiền, bèn mang ngay vàng bạc đến thế mạng. Nếu chưa thỏa mãn, quan vẫn không tha. Ngay những nhân viên thu thuế trong nha môn chỉ để kiếm cơm ăn áo mặc còn không thoát được, thì những cư dân lân cận, tại bản ti, chẳng có chút liên quan gì thì họ thoát sao được.
Bởi thế người vùng này gọi Ngô Ái Đào là Ngô Ái Tiền hay là Ngô Lột Da. Lại có người hiếu sự, viết thư nặc danh, muốn tụ tập thương nhân đốt nhà đuổi Ái Đào đi. Biết được Ngô Ái Đào có phần sợ hãi, một mặt cho dò la tìm ra người cầm đầu, một mặt chiêu mộ mấy chục binh lính để đề phòng, mỗi người một ngày được trả công năm phân. Số tiền công này Ngô Ái Đào không bỏ ra, mà bắt những thương nhân phải nộp thêm để bù đậy. Ngô Ái Đào phát hóa đơn cho binh lính, xem số hàng hóa trên đơn nhiều hay ít thì chủ hàng phải theo đơn nộp một số tiền để trả công. Nắm được hóa đơn, những người này hạch xách thương nhân, thỏa mãn yêu cầu của họ mới thôi.
Những sai dịch trong ty thuế chỉ có những binh lính ấy mới được Ngô ái Đào ban cho ân huệ này. Bởi thế những kẻ tâm phúc làm tai mắt cho Ngô Ái Đào càng ra sức gây sự để làm hại dân địa phương. Những ai vô phúc đụng đến Ngô Ái Đào đều phải gặp tai họa. Tiếng kêu oan vang trời dậy đất, lan truyền khắp nơi. Những khách buôn giang hồ thường hay thề với nhau rằng: "Nếu tôi dối trá thì Ngô Lột Da sẽ hại tôi". Lời thề ấy kinh sợ chẳng khác gì câu: "Trời đánh thánh vật". Song đây lại là nơi xung yếu, tất cả hàng hóa lên rừng xuống biển đều phải qua, chẳng trốn tránh vào đâu, đành để Ngô Ái Đào làm tình làm tội. Thơ rằng:
Táng tận lương tâm không biết nhục
Núi sông vơ vét sạch sành sanh
Ích kỷ hại người vô đạo đức
Đầu độc dân đen chính bọn này.
Ở Huy Châu có một phú thương họ Uông, mua lụa là gấm vóc ở Tô Hàng hết mấy nghìn lạng bạc tới Xuyên Trung bán. Qua Kinh Châu đã nộp thuế theo lệ, nhưng bọn binh lính thấy hàng hóa cực nhiều, lại đòi thương nhân họ Uông nộp thêm mười lạng bạc. Xưa nay khách buôn một đồng cũng phải tính toán, chỉ có tiền thuế do triều đình đặt ra, không còn cách nào đành bấm bụng nộp. Nghe nói phải nộp theo hóa đơn mười lạng bạc, rõ ràng là đòi cả tính mạng của mình thì làm sao mà nộp được, phú thương họ Uông nói:
- Ta đi buôn đã lâu, ngay gần đây ta đi qua các ty thuế Bắc Tân, Hử Dã cũng không có lệ ấy.- Đây là lệ mới của ông lớn, - bọn lính nói, - trừ phi không qua cửa này, chứ đã qua thì dù chỉ thiếu một xu cũng không cho đi.
Một người khách buôn bên cạnh nói:
- Đề cử mới nhậm chức ở Hử Dã, so với ở đây cách nhau một trời một vực. Hôm kia có một thuyền nhỏ chở một số vải, vì tham chút lợi nhỏ không nộp thuế, đi qua cầu nhà họ Trương, bị bọn côn đồ ăn khống ùa lên thuyền như ong vỡ tổ lục soát. Kẻ đánh người cướp, phút chốc mất hết cả thuyền vải. Ngay quần áo mặc trên người chúng cũng lột bằng hết. Người khách buôn ấy cuống lên vật vã kêu trời kêu đất, chết đi sống lại. Đúng lúc ấy, Đề cử Hà Kỳ đi thăm bạn trong quận trở về, thuyền qua cầu, nghe thấy tiếng kêu oan, ông sai người bắt đưa về nha môn xét hỏi: "Thuyền nhỏ đi qua cửa sông, tuy là chở ít hàng, song lậu thuế đáng phải phạt". Rồi ông phạt người khách buôn ấy mười lăm gậy. Sau đó ông bảo bọn côn đồ rằng: “Đã bắt kẻ chống lại, tại sao không bẩm quan trừng trị, lại tự ý đánh và cướp hàng, tội ấy còn nặng hơn lậu thuế. Phạt mỗi đứa năm mươi gậy, cùm ba tháng". Ông lại nói với mọi người rằng: "Đã đi buôn thì tại sao không biết luật pháp, quả là ngươi tự chuốc lấy tội. Song ta thấy hàng hóa không nhiều, lại đã bị trách phạt, ta sẽ trả lại hết số hàng ấy. Từ nay về sau đừng liều lĩnh thế nữa". Những lời nói tốt đẹp ấy thật là nhân từ, chẳng khác nào cha mẹ dạy bảo cháu con! Bởi thế, chẳng thương nhân nào không khen ông là người liêm chính. Nếu ở đây mà vi phạm như thế thì ông ấy đánh cho tuốt xác, may mà sống được thì phúc to bằng cái đình.
Mọi người nghe xong đều nói:
- Quả đúng thế thật, nếu không có núi cao thì làm gì có đất bằng.
Bọn lính trợn mắt quát người vừa nói:
- Cứ theo anh ví như thế thì ông lớn của ta là người xấu ư?
Người khách ấy thấy mình lỡ lời, im lặng rồi vội vã trốn ngay để khỏi phải rắc rối. Thương nhân họ Uông đang lúc bực tức, nói tiếp:
- Người ta thường nói: "Chuông trong chùa nhưng tiếng ở ngoài", lại nói: "Miệng người đi đường là bia" tốt hay xấu đều được người ta đồn đại, bịt làm sao được miệng người đời.
Ông vừa nói xong, thì bọn lính nổi khùng tát thẳng vào mặt, quát: - Đồ ngu, phát hóa đơn lại không nộp tiền, thối không ngửi được.
Thương nhân họ Uông là một phú ông giàu có, chưa từng bị sỉ nhục bao giờ bất chợt nổi giận chửi toáng lên:
- Đồ chết đâm! Ta đã nộp hết thuế rồi, cớ sao còn hạch sách lấy thêm tiền, rồi đánh ta, đúng là đồ vô lương tâm, thôi thì ta cũng vì mấy lạng bạc ấy mà chơi với mày một trận.
Nói xong quay lại, định nhổ neo đi, tên lính đó lôi lại, tống thương nhân họ Uông thêm mấy quả, chửi:
- Đồ ngu, mày chửi ai đấy? Hãy về gặp ông lớn.
Ông Uông kêu mọi người đến cứu, thấy binh lính hành hung, không ai dám dây vào. Ông Uông bị bọn này lôi về nha môn. Ngô Ái Đào ra khỏi dinh mở cửa, bọn lính quỳ xuống bẩm:
- Thuyền tên Uông hàng hóa rất nhiều, khai báo còn giấu giếm, hắn lại còn chỉ trích lệ mới ban hành của ông lớn hà khắc và chửi bới tàn tệ.
Ngô Ái Đào thấy thế nổi giận lôi đình, đập bàn quát:
- Có việc ấy ư? Hãy lục soát ngay hàng của hắn.
Ông Uông cứ kêu khan kêu vã là vì lính hạch sách, đánh đập chửi bới nên mình mới thế, song Ái Đào nào có nghe. Chỉ trong phút chốc chúng khuân hết hàng hóa về dinh và lần lượt kiểm tra, không ngờ, quả nhiên khai thiếu mất hai hòm. Ngô Ái Đào quát:
- Hãy tóm cổ, đánh cho hắn năm mươi gậy.
Bọn lính đánh xong. Ngô ái Đào nói:

- Lậu thuế, theo lệ phải nhập vào công quỹ một nửa.
Về Đầu Trang Go down
https://triamquan.forumvi.com/
Tri Âm Quán
Thành Viên Tích Cực
Thành Viên Tích Cực
Tri Âm Quán


Tổng số bài gửi : 6340
Reputation : 2
Join date : 31/07/2013
Đến từ : Thị Trấn Chũ

Đoán Án Kỳ Quan - Page 5 Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Đoán Án Kỳ Quan   Đoán Án Kỳ Quan - Page 5 EmptyWed Apr 23, 2014 3:31 pm

nhiều tác giả
Đoán Án Kỳ Quan
Phạm Tú Châu - Nguyễn Văn Thiệu (Dịch và biên soạn)
Chương 11 (B)
Rồi ông ta bảo tay chân lấy kéo cắt vải ra chia. Xưa nay nhập vào công quỹ, cứ mười cái lấy năm, nhưng đây thì cứ cắt đôi nhập cho quan một nửa, còn một nửa trả lại cho thương nhân. Tiếc thay, mấy ngàn lạng bạc hàng hóa đều bị cắt nham nhở thậm chí cả gấm chức cẩm hồi văn cũng bị cắt nát như thế.
Ông Uông đau lòng, lúc đầu thì oán hận, sau đó lại cười, than thở rằng:
- Thôi thôi, thế là hết, trời làm lên rồi trời lại phá, ấy là do thời vận, do số mệnh!
Nói xong ông bèn đem số lụa bị cắt nham nhở ấy chất thành đống trước cổng nha môn, mua mấy gánh rơm chất xung quanh rồi châm lửa. Lụa cháy đùng đùng, khói lửa ùn ùn bốc lên mù mịt trời đất. Lúc ấy Ngô ái Đào đã trở về tư dinh, chợt thấy trước cửa nha môn bốc cháy, vội ra công đường; biết thương nhân họ Uông đã đốt lụa, đùng đùng nổi giận, quát:
- Thằng nhãi này cố ý làm nhục ta ư?
Rồi lập tức sai lính bắt ngay. Một mặt sai người dập lửa, và hứa cho hết số lụa đang cháy dở. Mọi người tham chút lợi nhỏ, phút chốc họ mang thùng to thùng nhỏ múc nước kìn kìn đập tắt ngọn lửa. Ngô Ái Đào gọi chức trách sở tại và không cho phép mọi người lấy lung tung mà phải nhập số vải cháy đỏ ấy vào công đường tự mình phân chia. Khi Ngô Ái Đào nói thế thì số vải cháy dở ấy đã bị họ cướp sạch. Đến khi đi bắt thương nhân Uông, ai ngờ rằng sau khi đốt vải, ông Uông đã lên thuyền, thuận buồm xuôi gió, không biết ông đã đi được bao nhiêu đường đất. Sai nhân về bẩm báo, Ngô Ái Đào buồn rầu, bực bội bỏ về. Lúc ấy, giá mà ông Uông chịu thiệt mười lạng bạc thì làm gì đến nỗi mất tiền vạn, há chẳng phải vì không muốn mất ít mà phải mất nhiều ư? Cho nên người đời nói:
Mất một chút hóa ra lại được,
Thiệt đôi phần mà lợi xiết bao.
Thời ấy ở sát vách trạm thuế, có một người tên là Vương Đại Lang chuyên nghề nấu rượu, giết lợn, làm ăn khá phát đạt. Ông có hai con, con trai lớn là Chiêu Nhi mười bảy tuổi, con thứ là Lưu Nhi mười ba tuổi, trong nhà có ba bốn người làm thuê và hầu hạ. Cả nhà sống yên vui, chỉ có điều Vương Đại Lang là người thẳng thắn, cương trục, nói năng chẳng kiêng nể ai. Những người láng giềng thân cận phần lớn đều ghét, chẳng mấy ai ưa. Hôm ấy chứng kiến sự việc của thương nhân họ Uông; ông rất bất bình, buột miệng nói:
- Giá ta mà gặp phải việc oan ức này thì ta chỉ xí cho mấy nhát dao chứ ta chẳng chịu.
Bất chợt bọn lính nghe thấy. Hôm ấy đúng vào ngày cưới con, Vương Đại Lang mời họ hàng thân thích đến ăn cỗ, mãi tới tận khuya vẫn chưa tan. Không ngờ đang đêm có một tên trộm mò vào, song chẳng lấy được gì. Hắn bèn tới chỗ vắng khoét ngạch, chui sang nha môn, cạy cửa lẻn thẳng vào phòng ngủ. Ngô Ái Đào mơ mơ màng màng, nghe thấy tiếng lạch cạch hòm xiểng, choàng tỉnh giấc kêu toáng lên:
- Nguy rồi, trộm đang ở đây.
Chỉ vì tiền của, Ngô Ái Đào còn đang quần đùi áo lót liều mạng nhẩy xuống bắt trộm. Ở phòng bên phu nhân cũng tỉnh giấc gọi gia nhân dậy. Ngô Ái Đào chạy ra khỏi phòng đuổi theo tên trộm, thấy cửa mở toang, kêu ầm lên:
- Chúng bay đâu, mau mau bắt lấy nó!
Bị đuổi sát nút, tên trộm quay lại đâm Ngô Ái Đào. Số Ngô Ái Đào chưa chết, thấy tên trộm giơ dao, Ái Đào vội né người, mũi dao sượt qua trán, toạc một mảng da, Ái Đào không dám đuổi theo nữa. Gia nhân lập tức đốt đèn đuốc tìm kiếm khắp chỗ. Vốn là tên trộm đã đào ngạch qua bức tường bao chui sang bên kia, họ vội vã hỏi ra mới biết đó là nhà Vương Đại Lang, Ngô Ái Đào sai lính sang ngay nhà ấy bắt trộm.
Lúc đó cả nhà Vương Đại Lang vừa đi ngủ. Tuy nghe thấy bên nha môn kêu trộm, song cũng không ngờ tên trộm ấy lại chui từ nhà mình sang, nên cũng chẳng thèm để ý tới. Đến khi bọn lính đập cửa thình thình mới dậy mởBọn lính xông vào, tìm khắp mọi chỗ nhưng chẳng thấy bóng dáng tên trộm đâu cả. Lính trở về bẩm báo:
- Nhà Vương Đại Lang cửa vẫn đóng, mà chẳng tìm thấy tên trộm đâu cả.
- Cửa vẫn đóng thì trộm chạy đi lối nào? - Ngô Ái Đào nói.
Rồi nghi cho chính Đại Lang, bèn cho người gọi Đại Lang tới. Dưới ánh nến, Ngô Ái Đào nhìn kỹ thì thấy Đại Lang na ná như tên trộm vừa rồi. Hỏi:
- Cổng nhà người không mở mà sao lại không tìm thấy tên trộm. Vậy ngươi bảo sao đây?
- Hôm nay nhà con có việc vui mừng, vừa mới đi ngủ thì sai nhân của ngài tới tìm trộm, con mới biết trộm đã khoét ngạch từ nhà con chui sang nha môn, còn việc tên trộm ra vào thế nào, quả tình con không biết.
- Cửa vẫn đóng mà ngươi lại bảo không biết tên trộm đi lại thế nào ư? Đồ vật tên trộm lấy đi là chuyện nhỏ, nhưng kẻ bất lương ấy đâm ta mới là chuyện lớn. Ngươi phải bắt tên trộm ấy cho ta.
- Con biết đi tìm nó ở đâu bây giờ, hay là ngài lại sai người của ngài đi bắt? - Vương Đại Lang nói.
- Nói láo! - Ngô ái Đào nói. - Nó ra vào theo lối nhà ngươi mà ngươi còn chối không biết. Vậy ngươi bảo người của ta đi bắt ở đâu?
Thế rồi Ngô Ái Đào bảo bọn lính áp giải, bắt Vương Đại Lang phải tìm ra tên trộm. Vốn là lúc ấy tên trộm cuống lên, chạy bừa ra vườn sau, thấy một cây hạnh cổ thụ, cành lá um tùm, liều mạng leo tít lên tận ngọn, thu mình lại như một tổ chim khách. Gia nhân đèn đuốc tìm khắp mọi chỗ nhưng chỉ soi bên dưới, không soi lên trên, vì thế tìm không thấy. Chờ cho hai bên lùng sục xong hắn mới tụt xuống, vẫn chui sang nhà Vương Đại Lang. Lúc ấy Vương Đại Lang đã bị bắt, cửa trước cửa sau mở toang, hắn len lén ra khỏi cổng, vì thế không ai biết được tung tích, song cả nhà Vương Đại Lang thì bị hại. Đúng là:
Mai rùa hầm không nát,
Chỉ hại cành dâu khô.
Ngô Ái Đào kiểm lại số bạc và đồ vật đã mất, viết một tờ đơn sáng sớm ra công đường, cho gọi chức trách địa phương tới hỏi, Vương Đại Lang có việc gì, hằng ngày làm gì, nhà có những ai. Người địa phương thưa:
- Nhà Vương Đại Lang có hàng ngàn lạng bạc, tính tình tuy ngang ngạnh, song vẫn giữ gìn bổn phận. Có hai người con còn nhỏ, trong nhà có ba bốn người làm thuê.
Ngô Ái Đào nghe thấy nói nhà Đại Lang giàu có, bèn động lòng tham, nói:
- Ta xem ra ngươi không phải là người lương thiện, nên rất khả nghi.
- Vậy ngươi có bắt được tên trộm không? - Bọn lính hỏi chen vào.
Nào ngờ bọn lính này biết được Vương Đại Lang giàu, cũng muốn moi ít tiền. Vương Đại Lang xưa nay vốn là một người ngang ngạnh, tự cho mình chẳng có gì đáng hổ thẹn, nên chẳng rỉ ra cho chúng một đồng bạc, một giọt rượu nào. Bọn chúng rất căm, nghĩ tới sự việc về họ Uông trước đó, Vương Đại Lang từng nói: "Chỉ xí cho mấy nhát dao", đến nay ông lớn bị đâm vào trán, quả là rất khớp với lời nói ấy, vậy không phải hắn thì còn ai nữa. Vì thế chúng giải Vương Đại Lang vào nha môn, bẩm việc ấy với Ngô Ái Đào. Mọi người đều nghe thấy câu nói ấy nên Vương Đại Lang có mồm mà không sao chối cãi được.
Ngô Ái Đào nghe thấy như lửa đổ thêm dầu, không còn nghi hoặc gì nữa, phồng mang trợn mắt quát:
- Cổng nha môn không mở, thì trộm đi đường nào. Đúng là ngươi rồi. Ta hỏi ngươi, ta ở đây không gây khó dễ cho dân chúng địa phương, chẳng có thù oán gì, tại sao ngươi đâm ta?
Vương Đại Lang gào lên phân trần, kêu oan, nhưng nào ai làm chứng cho. - Chỉ có hai tội lấy trộm và đâm người, song tùy ngươi nhận lấy một tội. Ngô Ái Đào quát:
- Hãy kẹp hắn lại.
Bọn sai nha dạ ran, xông tới lôi Vương Đại Lang ngã sấp ngã dụi, mắc kẹp vào rồi hai bên ra sức bóp, Vương Đại Lang ngất xỉu. Bọn Nha lại túm tóc lôi dậy, Đại Lang dần dần tỉnh lại Ngô Ái Đào hỏi:
- Tang vật giấu ở đâu? Hãy khai mau!
Vương Đại Lang trợn tròn mắt, nói:
- Ông vu oan cho dân lành lấy trộm, thì khai làm sao được.
- Mày là tên trộm hung hãn, ta không tha mày. - Ngô Ái Đào giận dữ quát thét.
Nói xong, Ái Đào hô đánh một trăm gậy. Sai nha đánh đủ một trăm. Ngô Ái Đào lại hỏi:
- Thế bây giờ mày có khai không?
- Dù có kẹp chết ta cũng không khai. - Vương Đại Lang gào lên.
- Ngươi không khai ư? - Ngô Ái Đào nói.
Rồi Ái Đào bảo tháo kẹp ra, gọi lính lại nói:
- Ta muốn hắn phải trả tang vật cho ta, các người hãy giải hắn về nhà lục soát.
Rồi bảo thư lại lấy một tập sổ giấy trắng, mấy chục phong bì, giao cho lính nói:
- Tất cả những gì có trong nhà hắn dù to dù nhỏ, dù tiền của hay đồ quý hiếm, cứ ghi rõ rành rành mạch, rồi đóng gói lại. Dù một sợi chỉ, một hạt thóc cũng đừng tự tiện đụng vào. Sau đó giải cả vợ con và gia nhân của hắn tới đây.
Vương Đại Lang hai chân trọng thương không đi được, bọn lính phải dìu về. Tới nơi, vợ con Vương Đại Lang và các gia nhân xúm lại kêu oan. Bọn lính khóa hết cổng trước cổng sau, rồi tìm hết từ trong ra ngoài, từ trên xuống dưới, lật hòm mở tủ lục soát. Soát xét từ lỗ chuột đến hố phân, chuồng lợn, chuồng gà chẳng sót chỗ nào, song chẳng thấy tang vật đâu cả. Sau đó chúng cho kiểm kê tất cả cái gì có trong nhà ghi hết vào sổ. Niêm phong xong xuôi, chúng trói Dương thị vợ Vương Đại Lang, con cả Chiêu Nhi và ba người làm công, một người cất rượu và một người bán hàng họ Vương. Chỉ để lại một đứa ở và hai người vợ của người làm thuê. Đứa con thứ là Lưu Nhi lúc đó đi tìm người thân đến bàn bạc, không có nhà nên không bị bắt.
Lúc ấy trời đã tối, Ngô Ái Đào còn ở công đường chưa về phòng nghỉ, trong ngoài công đường đèn đuốc sáng rực như ban ngày. Bọn lính giải những phạm nhân vào, bẩm rằng tìm không thấy tang vật, rồi trình sổ ghi chép lên. Ngô Ái Đào mở ra xem, thấy tiền của, quần áo, đồ trang súc, dụng cụ, rượu chè, thóc gạo ghi trong sổ sách rất nhiều, nói:
- Nó chẳng qua chỉ là một thằng đồ tể, song sao lại có nhiều của cải đến thế, nhất định nó là một tên oa trữ lớn của bọn trộm cướp.
Rồi Ngô Ái Đào để quyển sổ lên giá, quay lại hỏi bọn Dương thị:
- Tiền chồng người lấy của ta giấu ở đâu? Khai ra sẽ không phải tra tấn.
Bọn Dương thị đều thưa:
- Chồng con hoàn toàn không ăn trộm, thì làm gì có tang vật.
- Nói như thế thì hóa ra ta đổ oan cho chồng ngươi ư?
Thế rồi Ái Đào hô tay chân kẹp Dương thị, cha con Vương Đại Lang và người nhà của Vương Đại Lang... kẻ bị cùm người bị kẹp, tiếng kêu oan, rên xiết thê thảm, náo động nha môn.
Chiêu Nhi và gia nhân đau quá không chịu nổi, cứ chỉ bừa là gửi tại nhà láng giềng nọ, giấu ở nhà thân thích kia, nói tới chỗ nào là sai, người tới chỗ đó khám xét. Thương thay cho mấy nhà dân lương thiện ấy, đều bị vơ vét sạch, chứ làm gì có tang vật. Tra khảo tàn khốc, xét hỏi mấy ngày, rốt cục chẳng tìm ra manh mối gì. Vương Đại Lang biết rằng không sao tránh khỏi cái chết, gào lên:
- Ngô Ái Đào mày đã ngược đãi thương nhân ở đây không sao kể xiết, nay lại vu vạ cho gia đình ta. Ta còn sống không chống nổi mày, nhưng chết xuống âm ti nhất định tao phải cãi với mày cho ra nhẽ.
Ngô Ái Đào vô cùng giận dữ, đập bàn quát:
- Đồ gian tặc, mày lẻn vào công đường ăn trộm của cải, lại còn đâm cả tao, bảo tao vu cho mày, lại còn định xuống âm ti đối chứng ư? Lẽ nào luật lệ dưới âm ti lại dung túng cho mày tiếp tục cướp của giết người? Trên dương thế mày hãy khai ra tang vật ngay, thì ta sẽ cho mày xuống âm ti mà kêu oan, rồi Ái Đào bảo bọn lính. - Ta biết rằng thằng này cứng đầu cứng cổ không sợ cùm kẹp, ngày mai ngươi tới phủ, gọi mấy thằng truy bức trộm cướp già đời tới đây, chúng có rất nhiều ngón đòn như "Hầu Tôn hiến quả", "Lừa nhổ cọc"... phải truy đến cùng để hắn khai ra tang vật, rồi định tội danh hắn. Đó mới là:
Nỗi oan đã kết từ kiếp trước,
Đời nay phải trả oán đời xưa.
Bọn truy bức này chẳng khác quỷ sứ dưới địa ngục diêm la, lòng dạ của chúng chẳng khác nào sắt đá, chúng vâng lệnh lôi tám người tới một công sở bỏ không, chia ra làm bốn nơi để tra khảo, nếu những lời khai giống nhau, thì đúng sự thực. Vợ chồng Vương Đại Lang vào một nơi, Chiêu Nhi và người làm công cho họ Vương vào một nơi, ba người gia nhân và một người cất rượu lại chia thành hai nơi. Thường là bọn tra tấn người vừa dùng thừng treo lên thì bọn trộm cắp đã phải khai, song như thế còn dễ chịu. Nếu không khai thì chúng dùng gậy dần khắp mình mẩy từ trên xuống dưới, đánh đến nỗi ai nhìn thấy cũng rất thương tâm. Dù cho có mình đồng da sắt, đến đây cũng nát ra như bã. Bởi thế những người oan khuất vô tội, không chịu khai, đều toi mạng. Lúc ấy, Chiêu Nhi mấy ngày liền bị kẹp đau đớn, thì làm sao chịu nổi sự tra tấn đánh đập độc ác này, nó không thở được, rồi lặng lẽ im bặt, xỉu người đi.
Bọn chúng vội vàng thả xuống, song gọi mãi mà không tỉnh lại. Chúng chạy như bay về báo cho nha môn, Ngô Ái Đào đưa cho chúng một tờ giấy đỏ trên đó viết: “Vương Chiêu Nhi tuy chết, song bọn phạm nhân vẫn phải tiếp tục tra khảo nghiêm khắc, không được dựa vào đó mà đùa với pháp luật để chuốc lấy tội. Đây là mệnh lệnh đặc biệt".
Bọn sai nha nhận được lệnh này, bèn lần lượt dùng hết các loại tra tấn. Mặc dù dùng mọi thủ đoạn, song Vương Đại Lang cứ gào tên Ngô Ái Đào lên mà chửi rủa. Sai nha tuy biết rõ là oan uổng, nhưng đây là ý của quan phủ nên buộc phải làm thế. Chỉ duy có Dương thị, là đàn bà nên chúng nhẹ tay chút ít còn lại chúng chẳng nới lỏng. Tới đêm ngày thứ hai thì năm người nữa bỏ mạng, đó là ba gia nhân, người bán hàng họ Vương và người thợ cất rượu. Việc này không chờ bọn tra khảo đi báo, mà đã có bọn lính tới đó giám sát đi báo. Ngô Ái Đào biết được Vương Đại Lang chửi bới mình, nghiến răng căm giận. Ngày thứ ba tới công đường, Ngô Ái Đào gọi bọn tra khảo lại dặn:
- Các ngươi nên biết rằng Vương Đại Lang hôm nay sẽ không còn trên cõi đời này nữa. Các ngươi phải hết sức vì ta.
Bọn tra khảo thưa rằng chúng đã hiểu. Sau đó chúng nói với Vương Đại Lang:
- Đại Lang, anh hãy nhớ cho kỹ, sang năm vào giờ này, ngày này, tháng này là ngày giỗ của anh, đó là lệnh quan, anh đừng oán chúng tôi.
- Được - Vương Đại Lang đáp, - ta sẽ tự tìm Ngô Ái Đào, chứ oán gì các ông. Ta đang muốn chết đây, xin các ông hãy nhanh lên một chút. - Lại kêu lên một tiếng thật to. - Em ơi, anh đi đây, em phải tiếp tục chống cự đến cùng.
Dương thị nghe thấy gào lên:
- Anh ơi, đây là oan nghiệp của kiếp trước, em cũng phải lập tức đi theo anh.
Vương Đại Lang lại gào lên:
- Chiêu Nhi con ơi! Cha không bao giờ được gặp con nữa, không, biết con có được sống không, chỉ sợ cha gặp con dưới suối vàng thì thật là bất hạnh. Nghĩ tới đây, Vương Đại Lang tự nhiên ứa mấy giọt nước mắt. Bọn tra khảo nói:
- Đại Lang ơi, anh nên biết rằng, con trai cả anh đêm qua đã đi trước chờ anh, năm người giúp việc của anh đêm qua cũng đi rồi. Anh cứ yên tâm, cùng họ làm bạn đồng hành.
Vương Đại Lang nghe thấy con trai mình và mọi người đều đã chết tự nhiên dòng máu trong mắt trào ra, cổ tắc nghẹn, có nói lấy nửa lời cũng không được. Bọn chúng vội vã lấy thùng tròng vào cổ rồi thít chặt, chỉ trong nháy mắt Vương Đại Lang qua đời. Thương thay chỉ trong ba ngày, bảy người vô tội đã chết không được như chó lợn.
Từng nghe đạo chính ác như hổ,
Ngờ đâu đánh đập chỉ vì tiền.
Ba ngày bảy người vô tội chết,
Oan ức, hồn thiêng biết kêu đâu.
Ngay lúc ấy bọn tra khảo tới bẩm rằng Vương Đại Lang đã chết. Ngô Ái Đào nói:
- Hãy đem chôn tên giặc ấy phía nam cửa khẩu, chôn con hắn ở phía bắc cửa khẩu, làm cho cha con chúng dưới âm ty phải kẻ nam người bắc. Còn năm xác chết ba phải chôn ở một chỗ cách đây năm dặm, để chúng không thể nhìn thấy nhau.
- Vương Đại Lang vốn có của cải, có thể mua cho anh ta một cỗ quan tài không? - Bọn lính nói.
- Tên ấy là kẻ hung ác, - Ngô Ái Đào nói, - xác nó không để cho lợn ăn là đủ lắm rồi, cần gì phải quan tài.
Rồi Ái Đào lại nói với bọn tra khảo:
- Con vợ nó phải tra khảo mạnh vào, nhất định sẽ tìm ra tang vật.
- Người đàn bà này hãy từ từ hoãn lại đã. - Bọn tra khảo nói.
- Đúng là kẻ cắp thì làm sao mà hoãn được!
- Trong ba ngày, đàn ông trong nhà nó đều chết cả. Nếu tiếp tục truy bức nghiêm khắc thì người đàn bà này cũng khó mà lường được, nếu cấp trên biết e rằng sẽ bất lợi.
- Nó tới ăn trộm tiền thuế quốc gia, lại còn đâm quan chức lẽ nào không trị đến cùng ư? Dù cấp trên biết được cũng chẳng ngại gì.
- Đương nhiên ngài không ngại, chỉ có điều chúng con chẳng biết vì cớ gì mà việc ấy không sao làm nổi.
Ngô Ái Đào giận dữ quát: - Ta biết các ngươi thông đồng với bọn trộm cướp, nên không chịu truy hỏi người đàn bà này, nhất định các ngươi biết rõ sự thực nên thoái thác.
Ngô Ái Đào quát giam bọn tra khảo lại, rồi đưa Dương thị ra thẩm vấn để tìm ra sự thực và trị tội. Dương thị lại bị đánh đập hàng ngàn gậy, tay chân bị lùm kẹp gẫy nát, song Dương thị vẫn không khai. Ngô Ái Đào lại gọi bọn lính tới, nói:
- Ta ngờ rằng tang vật vẫn còn giấu ở nhà, chỉ có điều các ngươi chưa chịu khó tìm, ta sẽ đích thân tới lục soát, nhất định sẽ ra.
Sau đó Ngô Ái Đào tới ngay nhà Vương Đại Lang.
Lúc ấy hai người đàn bà và một đứa ở đang coi nhà, nghe tin chồng chết đang sụt sùi khóc. Bỗng nghe quan phủ tới tìm tang vật, sợ quá trốn ra lối cửa sau. Ngô Ái Đào dẫn bọn lính tới gọi chức trách địa phương cùng tới nhà Vương Đại Lang, lại lục soát hết trước sau, rồi vào một gian nhà, thấy trong đó để bảy chiếc quan tài, bèn bảo bọn lính mở ra. Bọn lính nói:
- Những chiếc quan tài này đã có từ lâu, lần trước cũng đã khám, không cần phải mở ra xem nữa.
- Các ngươi làm sao mà biết được, - Ngô Ái Đào nói, - xưa nay bọn trộm cướp thường giấu của cải vào quan tài để tránh nghi ngờ. Nhà nó vốn là một tên trùm oa trữ của ăn trộm, những của cải cướp được xưa nay đều giấu ở đó. Không thế thì tại sao trong nhà lại để nhiều quan tài đến vậy?
- Những quan tài này, - chức trách địa phương nói, - là thi hài các ông chú ông bác thuộc hai đời trước, và vợ cả của Vương Đại Lang, tất cả là bảy người. Vì hắn tính vốn keo kiệt, không dám bỏ tiền ra làm ma, nên đã để trong nhà từ lâu lắm rồi. Ai ai cũng biết, nhất định trong đó không có tang vật.
Ngô Ái Đào không tin, cứ dứt khoát đòi mở ra xem, chức trách địa phương và láng giềng hàng xóm cứ nằng nặc kêu xin, Ngô Ái Đào mới thôi. Lục soát chán chê mà chẳng thấy tang vật đâu Ngô Ái Đào đứng giữa nhà quát:
- Tên ăn trộm này giỏi cất giấu thì ta cũng giỏi xử lý.
Nói xong Ngô Ái Đào bảo bọn lính kiểm kê lại toàn bộ hòm xiểng đã niêm phong đem về nhập kho. Gọi các cửa hàng tới chia nhau mang hết rượu chè, thóc lúa, lợn gà đi bán. Hạn trong ba ngày phải mang tiền đến nộp kho, ghi vào sổ sách, chờ khi nào truy hỏi Dương thị tìm ra tang vật mới trả lại.
Ngô Ái Đào lại nói:
- Ngôi nhà này ở sát nách nha môn, từng tụ tập bọn trộm cắp sau này rất đáng lo ngại.
Thế rồi bảo ngay chức trách địa phương lập tức mang vứt quan tài ra bãi đất hoang nhà ấy biến thành nơi kinh doanh và chỗ ở cho lính bảo vệ nha môn. Xử lý xong vẫn đưa Dương thị ra truy bức. Hỏi Dương thị giấu con thứ ở đâu, cần phải bắt cho bằng hết.
Thương thay cơ nghiệp rất chính đáng của Vương Đại Lang, gặp sự chống trả của phủ quan, chỉ trong mấy ngày mà tan nát hết, cả nhà bị hủy diệt, há chẳng phải là oan nghiệt của kiếp trước sao. Nghe thấy ai ai cũng vô cùng phẫn nộ. Bỗng chốc khắp nơi xa gần đều biết, các thân hào thân sĩ đều bất bình, trình đơn lên phủ huyện kêu oan cho họ. Có vị quan về hưu viết đơn gửi cho Ngô Ái Đào nói: "Phạm nhân không còn con, cả nhà chết tới bảy người, đã đền hết tội, theo lý thì vợ phải được tha". Ngô Ái Đào xét thấy người đời đồn đại về mình không tốt, đành phải tha cho Dương thị và những người tra tấn họ. Dương thị tìm được con trai thứ, họ hàng thân thích bàn với Dương thị rằng, tới nay quan trên đều biết được nỗi oan uổng của mình, thì tại sao không tố cáo để báo thù. Thế rồi Dương thị lập tức viết đơn đưa tới các nha môn kêu oan.
Đúng lúc ấy thì Thiết Ngự Sử mới nhậm chức đi tuần du xem xét các vụ án, thấy Ngô Ái Đào là một viên quan tham ô, tàn ác chưa từng thấy. Hắn đã giết bảy mạng người nhà Vương Đại Lang hết sức oan uổng, bèn dâng sớ lên triều đình. Bài sớ viết như sau:
"Thần nghe nói, người giữ cương vị quản lý tiền bạc của nhà nước, trên không làm hại nước, dưới không làm hại dân, như thế mới xứng đáng với chức vụ. Song Ngô Ái Đào trông coi vùng thượng du, trấn giữ một vùng đất trọng yếu, không nghĩ tới thương xót dân chúng, bồi dưỡng nguồn mạch đất nước. Tự ý làm loạn kỷ cương, đánh thuế cả người đi đường. Chuyên hành bạo ngược, chỉ cốt tham lam. Bởi thế, thương nhân oán hận, dân chúng ta thán. Những bài ca dao về sự bòn xương rút tủy từ lâu đã truyền khắp vùng Giang Hán. Cái tên Lột Da người dân đặt cho hắn nghe thấy khắp nơi. Xưa kia Lưu Yến Tang chiếm dê, được lợi chả đáng là bao, cũng chưa đến nỗi hại dân hại nước, thế mà đời sau còn cho Lưu Yến Tang là kẻ vơ vét. Nay Ái Đào là kẻ thù của thương nhân, bị cả nước oán ghét, tội hắn như thế nào đây! Thật là quái lạ, hắn vu cho dân ăn trộm, bịa đặt chứng cứ. Chưa đầy ba ngày mà giết tới bảy người, xác vứt xuống sông, vứt quan tài tổ tiên ra đồng hoang, chiếm nhà cửa cho tay chân ở, vét sạch của cải vào túi mình. Oan hồn đêm ngày kêu khóc, người đi đường thương xót, thần dân đều căm giận. Phàm quan coi giữ các chức trách không cho phép làm rối loạn. Việc thu thuế má, giải quyết kiện tụng, và xử lý việc trộm cắp phải xác đáng, tất cả đều quy vào việc chấp hành pháp luật. Mà hình phạt tàn khốc bạo người đến mức cả nhà phải chết, vậy thì lẽ trời ở đâu, phép nước có còn không! Thần nhận lệnh tuần du các địa phương, chức trách là phải diệt trừ tàn bạo, rửa oan cho những người vô tội. Tận mắt thấy nỗi oan khuất lẽ nào lại nhẫn tâm im lặng? Xin căn cứ vào sự thực tâu trình lên triều đình, cúi xin triều đình đưa Ngô Ái Đào tới Pháp ty, lên án sự thối tha của hắn, truy đến cùng tội sát nhân của hắn, làm cho pháp luật nghiêm minh, cho mọi người đều thấy. Có như thế phép nước mới sáng tỏ mà dân cũng được minh oan, hình pháp công bằng mà đạo quân vương cũng công bằng".
Chiếu chỉ phê xuống phải điều tra chính xác và trị tội. Ngô Ái Đào nghe thấy tin ấy rất hoang mang. Tự liệu sức không thể đứng vũng được. Trước hết hắn sai người về sửa sang nhà cửa một mặt viết tờ sớ thanh minh tâu lên triều đình, mang nhiều vàng bạc tới kinh đô, nhờ những quan lại quen biết, tìm cửa chạy tội. Bài sớ của hắn viết:
"Thần như một cây gỗ mục, tham lam chức quyền, vốn biết mình như một con ruồi, không thể đảm đương nổi nhiệm vụ, đâu dám ăn uống như một con chuột chù. Từ ngày nhậm chức tới nay, hằng ngày tự răn mình, dù gian khổ cũng vẫn cứ vui lòng, dù một ly cũng không dám thu vượt. Bởi thế các thương nhân ca ngợi thần là cán cân công lý, chức trách địa phương cũng không kêu ca thần là người xấu. Song những kẻ ghét thần lại chỉ trích thần là kẻ tham lam tàn khốc, bịa đặt ra những bài ca dao cho thần là người hút tủy dân, gọi thần là Lột Da. Không có gió mà nổi nóng, điều đó chẳng khác nào nói mê, quả là oan cho thần lắm. Song vẫn chưa hết, họ còn mượn việc trộm cướp để dựng nên chuyện thần làm sai pháp luật, ấy có phải là lương tâm không? Khi kẻ trộm đột nhập vào dinh thự của thần lấy vàng, thần tha cho rồi đuổi đi, tên trộm bèn giơ dao đâm thần, may mà sượt vào trán thần nên không chết. Đến khi truy tìm tông tích thì thấy tên trộm đã khoét ngạch phía bên trái dinh thự. Thần sai người đi bắt, nó sợ tội tự tử. Việc truy tìm đồng đảng là điều đương nhiên của pháp luật. Nếu việc ấy mà không trị thì cấp trên cho thần không thi hành luật pháp mà nghiêm trị thì những kẻ ghét thần chỉ trích thần là tàn khốc bạo ngược, như thế chẳng phải là vu cáo bịa đặt ư? Phải chăng họ muốn kẻ trộm giết thần để cướp hết tiền thuế nhà nước thì họ mới sướng hay sao? Vả lại địa phương có trộm cắp mà thần không xử tội thì lại trách thần bắt được trộm mà lại tha, điều đó cũng chẳng khác nào làm trái luật pháp vậy. Tuy thế thần không dám nói, không dám phân trần. Vì sao vậy? Quả thật đó là thần không dám làm cho kẻ ghen ghét phẫn nộ. Kính xin hoàng thượng thương thần một thân một mình sớm ban ơn truất chức thần để bịt miệng những kẻ ghét thần, để thần an toàn trở về ngôi nhà nhỏ bé của mình, đó là điều may mắn cho thần lắm lắm".
Xưa nay khéo nói thường làm rối loạn tai người nghe. Bản sớ Ngô Ái Đào trần tình, triều đình thấy Ngô Ái Đào bị tên trộm đâm, hơn nữa người chức trách không dẹp được nạn trộm cắp sẽ bị quở trách là bắt được trộm lại tha, đó là những lời nói rất có lý. Triều đình bèn phê là, Sở ty phải điều tra thật rõ ràng minh bạch rồi phúc trình cụ thể lên triều đình. Thời ấy Trung thư thị lang Thái Xác đang đương chức, mọi quyền hành ông đều thâu tóm trong tay. Bạn thân của Ngô Ái Đào đã đút lót cho Thái Xác, nên ông đã gợi ý cho Sở ty nể mặt ông. Sở ty phúc trình lên triều đình như sau:
“Thấy Ngô Ái Đào có dấu vết tham lam xấu xa, ai ai cũng biết, tuy có tô vẽ thêm, song công luận khó mà bịt được. Vì thế không thể để Ngô Ái Đào ở đây thêm một ngày nào nữa. Duy vụ án Vương Đại Lang, tên trộm đâm quan, việc ấy có nguyên nhân, hắn có chết cũng không oan uổng. Người chức trách dẹp trộm cướp không có phương pháp đáng phải phạt lương bổng. Chúng thần không dám tùy tiện, cúi xin hoàng đế phán xét".
Sau khi tâu lên, thánh chỉ theo như tờ trình cách chức Ngô Ái Đào thành dân thường, buộc phải lập tức rời khỏi nhiệm sở phạt ba tháng lương. Người nhận làm người nhà của Ngô Ái Đào biết được tin này, ngay đêm đó về báo tin cho Ngô Ái Đào. Ngô Ái Đào vội vã cho người nhà lên đường, chia một nửa binh lính hộ tống. Hòm xiểng của Vương Đại Lang vẫn còn trong kho, định đợi mang đi, nên cứ chần chừ chưa thỏa mãn, cuối cùng đành phải bỏ lại.
Mấy hôm sau, Thiết Ngự sử tới thi hành lệnh vua, đem tất cả tài sản còn lại trong kho trả cho Dương thị. Sau đó bắt một số lính đầu sỏ độc ác tới dinh quan trị tội. Lúc ấy Dương thị dẫn con và vợ của hai người làm công đến nha môn đòi mạng chồng. Kẻ gào khóc, người chửi rủa, không cho Ngô Ái Đào đi. Ngô ái Đào sợ quá lẻn vào trong, rồi bảo đóng chặt các cửa lại. Thấy hắn sợ hãi, những người địa phương trước đây bị Ngô Ái Đào hãm hại đều kéo đến. Song chẳng ai can thiệp, họ càng thừa cơ làm ầm ĩ lên, họ hô phóng hỏa đốt nhà, làm náo loạn đến sáu bảy ngày. Ngô Ái Đào không cách nào ngăn chặn thì lúc ấy quan thu thuế cấp trên tới. Xưa nay các quan thường bảo vệ lẫn nhau, thấy dân chúng túa vào đầy nha môn, ngượng quá quan phải đích thân khuyên nhủ mãi họ mới giải tán, lúc ấy Ngô Ái Đào mới ra khỏi nha môn, xuống thuyền đi ngay.
Những người hai bên bờ sông đã chất sẵn gạch, ngói, đất đá, ném như mưa xuống thuyền, gào lên chửi:
- Ngô Lột Da, các hòm xiểng mày đã chất đầy, tại sao mày không xếp số gạch đá này xuống thuyền mang về mà xây nhà.
Có người còn nói:
- Ngô Lột Da, chúng tao biếu mày ít sản vật địa phương như thế mới gọi là tình nghĩa.
Thế rồi họ lấy một bễ bùn to vứt xuống, rồi gạch, đất, đá, ngói cứ vù vù bay xuống thuyền như mưa. Ngô Ái Đào bèn chui vào khoang thuyền, gọi người nhanh chóng kéo buồm. Nào ngờ thuyền hàng rất đông, cửa cống tắc nghẽn, mặc dù khẩn cấp song không thể thoát nhanh được. Các thuyền buôn vỗ tay reo hò, nói:
- Ngô Lột Da, thuyền chở lợn con, thuyền chở người đang ở đây sao không đánh thuế?
- Ngô Lột Da, trên bờ có người đeo túi đi qua sao không sai người đi bắt?
Cứ thế họ vừa gọi vừa cười phá lên. Ngô ái Đào vừa uất ức vừa xấu hổ, chẳng nói được câu nào. Thật là:
Cho dù tát cạn Tam Giang
Khó mà rửa sạch nhuốc nhem mặt dày.
Về sau vị quan Đề cử mới tới nhận chức, xét thấy Vương Đại Lang quả thật chết oan uổng, thương vợ Vương vô tội, bèn thu ngôi nhà bỏ không của Vương thị làm thư phòng và cấp cho Dương thị năm trăm lạng bạc, coi như trả tiền mua nhà. Bảo Dương thị mua quan tài khâm liệm chồng, an táng cùng với bảy chiếc quan tài đã bị vứt ngoài bãi đất hoang. Thương nhân thấy ông làm những việc âm đức như thế, ai ai cũng ngợi khen, ông so với Ngô Lột Da khác nhau một trời một vực.
Ngô Ái Đào rời khỏi Kinh Châu, đi theo đường thủy Kiến Dương, châu Kinh Môn. Chiếc thuyền nhỏ của gia đình Ái Đào vốn đậu tại Tương Dương, chờ Ngô Ái Đào tới mới cùng khởi hành. Thấy người nhà mà mấy hôm trước Ngô Ái Đào sai về, quay trở lại báo rằng:
- Không thể về nhà được.
Ngô Ái Đào hỏi vì sao, người nhà nói:
- Người trong nha môn nói rằng, trước đây ngài đỗ tú tài, làm hại dân trăm chiều. Nay làm quan, kiếm được nhiều tiền của, những người nghèo trong thôn đã lấy sạch rồi, e rằng họ vẫn còn chê ít. Bởi thế họ đánh thanh la tụ tập cả thôn, đốt bằng địa cả nhà cửa, chờ quan về là họ cướp hết.
Ngô Ái Đào nghe xong sợ quá, mặt như chàm đổ, nói:
- Làm thế nào bây giờ?
Vợ Ngô ái Đào là một người thông minh, sáng suốt. Hằng ngày bà vẫn thường khuyên chồng làm việc tốt để tích âm đức, song Ngô Ái Đào nào có chịu nghe. Biết được tin ấy, vợ Ngô Ái Đào than thở:
- Người ta mãn nhiệm quan thì thân hào thân sĩ mang trướng đến chúc mừng, quan địa phương mở tiệc tiễn đưa, nhân dân đến đông nghịt tiễn chân giữ lại không cho về, cầm hương, cởi giày lập đền thờ sống, dựng bia ghi ân đức, vinh dự biết bao! Đến khi áo gấm về quê, thân thích ra mãi tận xa đón tiếp, quan phủ kính cẩn chúc mừng, lễ bái gia tiên, gặp gỡ làng xóm, vinh hạnh biết bao. Còn riêng ta rời khỏi nhiệm sở bị người ta trèo qua cổng chửi bới sỉ nhục, không cho đi. Tới khi xuống thuyền, gạch ngói đất đá lại ném xuống như mưa. Ru rú như chó tiền rưỡi, cuống quít như cá mắc lưới, chạy trốn thục mạng như gặp cơn binh lửa. Đến khi hỏi tới quê hương thì dân làng tụ tập hò hét, đốt nhà đốt cửa, ruồng rẫy không cho ở, mồ mả cha ông cũng không được thăm nom. Nếu ông nghe theo lời tôi thì làm gì đến nỗi có nhà mà chẳng về, đã có nước mà không ở được! Kết quả của sự làm quan như thế từ xưa tới nay chỉ có mình ông mà thôi. Bây giờ thì tiến thoái lưỡng nan, ta biết sống sao đây.
Ngô Ái Đào trong lòng đang phiền não, bị vợ trách móc càng thêm ngán ngẩm, bèn cười gượng nói:
- Đại trượng phu bốn biển là nhà, hà tất cứ phải quê hương.

Hơn nữa quê xa tít mãi tận Tây Bưu, đất đai cằn cỗi bạc màu, con người thô lỗ cục cằn có gì tốt đẹp lắm đâu! Từ lâu ta đã nghe Kim Lăng Kiến Khang là nơi sáu triều đại dựng kinh đô, là nơi ngàn năm văn vật vô cùng phồn thịnh. Xưa nay ta chưa đặt chân tới, nay ta hãy đến nương thân. Nếu nơi ấy hợp thổ nghi thì nhập cư ở đó, có gì mà không được!
Về Đầu Trang Go down
https://triamquan.forumvi.com/
Tri Âm Quán
Thành Viên Tích Cực
Thành Viên Tích Cực
Tri Âm Quán


Tổng số bài gửi : 6340
Reputation : 2
Join date : 31/07/2013
Đến từ : Thị Trấn Chũ

Đoán Án Kỳ Quan - Page 5 Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Đoán Án Kỳ Quan   Đoán Án Kỳ Quan - Page 5 EmptyWed Apr 23, 2014 5:01 pm

nhiều tác giả
Đoán Án Kỳ Quan
Phạm Tú Châu - Nguyễn Văn Thiệu (Dịch và biên soạn)
Chương 11 (C)
Ý đã định Ngô Ái Đào bèn cho thuyền rẽ thẳng đến Kiến Khang. Trước hết tìm một nơi tạm trú chân, rồi đuổi bọn lính đi theo phục dịch trở về, dần dà tìm nơi cư trú. Thấy thương nhân khắp các ngả đến đây tụ tập, sợ rằng có người biết dược họ tên tìm đến làm nhục, Ái Đào bèn bỏ chữ "khẩu” trong chữ "ngô" đổi họ thành "Ngũ”, hiệu là Hồ Tuyền cũng dựa theo ý chữ "Ái Đào". Ái Đào lại nghĩ rằng xưa nay không có họ "Ngũ” bèn thêm vào chữ "Ngũ” bộ nhân đứng, và dặn người nhà chỉ gọi mình là Viên ngoại, không được nhắc tới chữ "Ngô". Từ đó người ta đều gọi Ngô Ái Đào là Ngũ Viên ngoại. Ngô Ái Đào mua một ngôi nhà lớn, sau đó sửa sang, sắp xếp lại thật đàng hoàng. Không ngờ vợ Ái Đào vì khí uất đã đổ bệnh, chẳng bao lâu thì chết. Ngô Ái Đào tiếc của, khâm liệm ma chay rất sơ sài. Không lâu sau người vợ lẽ sinh con gái, rồi cũng mắc bệnh chết. Ngô Ái Đào mua một mảnh đất chôn hai người vợ ở đó.
Thời Ngô Ái Đào làm tú tài, moi móc những việc không đâu mà kiếm được tiền tươi thóc thật. Đến khi làm quan, tiền của cứ chảy vào như nước mà không chi ra, thật là hả hê. Đến nay lấy một đồng trong túi ra tiêu, thấy đau như hoạn, nghĩ: "Người ta thường nói, nhà có tiền kho cũng không thích bằng một ngày kiếm được một hào". Ta nay có một ít vốn nếu không tìm kế sinh nhai, kiếm ít tiền lời thì rồi cũng miệng ăn núi lở. Buôn bán thì xưa nay mình không am hiểu, mà nhờ kẻ giúp việc thì sợ nó cuỗm mất, còn mua ruộng vườn thì ta là quan đã về hưu, lại thay họ đổi tên, thay hình đổi dạng, mà phải thuê kẻ ăn người ở thì phải làm thế nào cho tốt được". Rồi ông ta chợt vỗ tay reo lên vì đã nghĩ ra một lối thoát, nghĩ rằng, nay đang ngồi chơi không, nhàn rỗi cần phải tìm thú vui thanh sắc. Xưa kia ta kết tóc xe tơ, cam sống đạm bạc, quần nâu áo vải. Tuy gọi là bà lớn song chưa từng xa hoa lộng lẫy. Nay nếu lấy vợ lẽ thì trước hết phải mua mất một món tiền lớn. Khi cưới về, nếu để vợ mặc quần nâu áo vải, ăn uống dưa muối đạm bạc thì chẳng ra sao cả. Còn nếu hằng ngày quần là áo lượt cơm trắng cá tươi thì tốn kém tiền của, như thế cũng chẳng phải là người biết tính toán. Thôi thì ta đánh liều bỏ ra mấy ngàn lạng vàng, lấy mấy kỹ nữ đẹp nhất, mở một kỹ viện làm kế sinh nhai trong nhà, lúc nhàn rỗi mình cũng được thú vui, nếu đêm nào không tiếp khách chúng lại ngủ với mình. Hằng ngày rượu quý thức ăn ngon đã có bọn làng chơi mời mọc, quần là áo lượt đã có khách làng chơi tặng cho, như thế thì việc ăn mặc của chúng, mình cũng chẳng phải tốn tiền. Hơn nữa tiền vốn vẫn còn, đêm đêm lại sinh lợi, ngày ngày thu tiền, quả là phong lưu sung sướng. Ngay Đào Chu Công cũng không tính tới khoản kinh doanh này. Huống hồ ông ta cũng chỉ có một Tây Thi, lại phải tốn cơm. Còn ta, nay tìm mấy kỹ nữ, lại kiếm được tiền tươi. Xem ra ta còn hơn hẳn Đào Chu Công.
Nghĩ rằng xưa kia Thái thú Cô Tang là Trương Hiến có sáu kỹ nữ đẹp. Người tấu thư gọi là Truyền Phương Kỹ, người dâng rượu gọi là Long Tân Nữ, người dâng thức ăn gọi là Tiên Bàn Sứ, người quản lý giấy tờ gọi là Mặc Ngả, người chuẩn bị lò hương gọi là Xạ Cơ, trông coi việc thơ phú gọi là Song Thanh Tử. Nay ta cũng theo ông ta tìm sáu kỹ nữ. Lão Trương chỉ cốt vui thú một mình ở nhà, cho nên tốn áo, tốn cơm. Còn ta thì sinh tài sinh lợi, chẳng ngại gì cùng mọi người hưởng lạc thú. Từ đó Ngô Ái Đào đi tìm sáu cô kỹ nữ cực đẹp, lại mua một khu nhà lộng lẫy cho họ ở. Chia thành sáu nơi, gọi là lục viện. Cũng học theo Thái thú họ Trương đặt tên: viện thứ nhất gọi là Phương Cơ, viện thứ hai gọi là Long Cơ, viện thứ ba gọi là Tiên Cơ, viện thứ tư gọi là Mặc Cơ, viện thứ năm gọi Hương Cơ, viện thứ sáu gọi là Song Cơ. Mỗi viện có bốn đứa gái hầu để sai khiến, lại tìm thêm một kỹ nữ lọc lõi quản lý sáu kỹ nữ ấy. Người kỹ nữ này tên là Lý Tiểu Đào, người Tiền Đường chuyển đến. Tuy đã hai bảy hai tám nhưng vẫn còn xuân sắc, nghề nghiệp tinh tường, lại giỏi khơi gọi lấy lòng, bởi thế Ngô Ái Đào rất thích giao cho làm chủ trại phấn son. Sáu cô gái này vừa đẹp vừa hiền dịu, nơi phòng the lại bày đặt rất sang trọng, bởi thế Ngũ Gia Lục viện nổi tiếng gần xa, Ngô Ái Đào phong lưu vơ được nhiều lợi tức.
Một hôm có một phú ông đến viện hưởng thú vui. Người này là ai vậy? Đó chính là thương nhân họ Uông, người trước đây đã bị Ngô Ái Đào phạt và ông ta đã thiêu hủy số tơ lụa gấm vóc còn lại. Ông vốn là người thi thư, hiểu biết. Vì lần ấy bị hại, bèn thề không bao giờ đi buôn, tới kinh sư mua một ngôi nhà và kiếm một chức quan, rồi tới Quan Tây tìm Ngô Ái Đào báo thù rửa hận. Vì không tìm được cơ hội trả thù nên lại trở về kinh thành. Ông có hai người bạn vay vốn mở hiệu cầm đồ tại Kim Lăng nên tới đây thanh toán. ông Uông nghe thấy kỹ nữ của Ngũ Gia Lục viện đẹp nổi tiếng, đang lúc ở quán trọ vắng vẻ, bèn tìm tới nơi lạc thú. Ông Uông không có người hầu hạ, chỉ đem theo một thằng nhỏ. Tới đây, không ngờ lại gặp Lý Tiểu Đào vốn là người em họ xa ở Hàng Châu, là bạn cố tri nơi tha hương nên vô cùng thân thiết, họ kể cho nhau nghe những chuyện lâu ngày xa cách. Uống trà xong, ông bảo Tiểu Đào dẫn đi thăm sáu viện. Quả nhiên người đẹp tuyệt vời, trần thiết tráng lệ. Ông Uông xem xong cứ thầm thán phục, hỏi Tiểu Đào:
- Chủ viện kỹ nữ họ Ngũ này là người ở đâu mà sao vốn to thế? Tìm ở đâu được những người đẹp đưa về đây?
- Chủ viện kỹ nữ này không phải tầm thường đâu, - Tiểu Đào nói, - Ông ấy là một người danh tiếng. Dù cho các kỹ viện nổi tiếng ở kinh thành cũng phải bái phục, tôn nơi đây vào bậc nhất.
Ông Uông cười nói:
- Tôi không ngờ ở đây lại có một chủ tiệm cỡ bự thế này.
- Ông chủ sáu viện này, - Tiểu Đào hạ giọng ghé sát vào tai ông Uông nói, - tuy là họ Ngũ, nhưng thực ra là họ Ngô. Cách đây ba năm từng làm Giám thuế Đề cử ở Kim Lăng. Dùng một khoản tiền lớn mua sáu người đẹp này để kinh doanh. Lại lấy tôi để trông coi họ. Người trong nhà đều gọi ông là Viên ngoại, cho nên người ta chỉ biết Lục viện nhà họ Ngũ. Chuyện này là do người nhà ông ta nói riêng với tôi. Xin anh chớ tiết lộ.
Nghe xong ông Uông vui mừng khôn xiết, nói:
- Hóa ra Ngô Lột Da mở viện kỹ nữ ở đây kiếm tiền. Hay! Hay, hay quá! Số tiền của hắn thu khi hàng hóa đi qua cái cống nhỏ ấy được khá nhiều, song số tiền của thu được không biết có nộp cho nhà nước được một nửa không? Thôi thôi! Hắn xuống dốc thì thù hận cũ ta cũng cho qua. Nay ta cũng cho hắn thêm một chút tiền ăn. Ta thưởng thức hết mùi vị của những cô gái ngọc ngà trong sáu viện này cũng hơn số tiền của nó đã chém mất của ta trước đây. Chẳng khác nào ta mặc áo gấm xí một nhát dao vào kẻ giấu mình trong vỏ ốc mà tiếng xấu còn để đến muôn đời.
Thấy thương nhân Uông lẩm bẩm nói rất nhiều, Tiểu Đào chẳng biết vì sao bèn hỏi, nhưng ông chỉ cười mà không đáp lại sau đó gói mười lạng bạc, nhờ tiểu Tiểu Đào đưa cho viện thứ nhất để ngủ với Phương Cơ. Hoan lạc một đêm rồi đề lên tường một bài thơ tứ tuyệt:
Xưa được nghe tin thấy lạ kỳ,
Xem ra danh tiếng chẳng sai gì.
Nếu ta không gặp gió xuân thổi,
Sao tới nhà ông gặp Phương Cơ.
Rồi lại gói mười lạng bạc đưa cho viện thứ hai để ngủ với Long Cơ. Cũng đề một bài thơ tứ tuyệt trên tường:
Rượu ngọt xưa nay rót chén vàng,
Đêm qua Long Cơ cứ tiếp tràn
Tới nay ta biết Ngô là Ngũ,
Nhấp nháp ngọt ngào thật khoái thay.
Lại gói mười lạng bạc đưa cho viện thứ ba để mây mưa với Tiên Cơ. Cũng đề một bài thơ tứ tuyệt lên tường:
Trăm mùi sao thấy vị này thôi,
Lưng đeo kiếm sắc giết nó thôi.
Trên bàn rượu ngọt xin cứ uống,
Cơm dẻo canh ngon ta cứ xơi.
Lại gói mười lạng bạc đưa cho viện thứ tư để làm tình với Mặc Cơ. Cũng đề lên tường một bài tứ tuyệt:
Tương tư hai chữ nghĩ mà hay,
Mực dẫm thơ khô nửa đêm nay.
Biết đúng là người thôn Chín Họ,
Lão này vốn từng đếm thẻ dây.
Lại gói mười lạng bạc đưa cho viện thứ năm, thưởng thức Hương Cơ. Sau đó cũng đề một bài thơ tứ tuyệt lên tường:
Yêu nàng thấy ngát thơm từ rốn.
Thân nàng nà nuột tựa mỡ đông.
Da nàng ấm áp như hồ nước,
Rửa sạch trần ai, mặt nhuốc nhơ.
Lại gói mười lạng bạc đưa cho viện thứ sáu. Cũng làm một bài thơ viết lên tường:
Chẳng biết làm thơ vẫn cứ đề,
Quý Phi nghiên bút vẫn dâng hầu.
Chẳng uổng năm sáu mươi lạng bạc,
Mua được phong lưu sáu viện này.
Thương nhân họ Uông phóng tay tiêu bừa sáu mươi lạng bạc, hoan lạc với cả sáu kỹ nữ tuyệt đẹp trong sáu viện. Đến ngày thứ bảy, trong lòng thầm nghĩ, thù không quá sâu, vui không quá mức, phen này đã rửa xong mối hận, ta phải rời khỏi nơi đây. Họ Uông lại lấy ra mười lạng bạc nữa đưa cho Tiểu Đào. Đang từ biệt, chợt có tin Viên ngoại đến. Chỉ thấy Ngô Ái Đào nghênh ngang đi tới. Tiểu Đào và sáu cô gái vội ra chào đón. Vốn là Ngô Ái Đào đã định ra luật lệ, hằng ngày sáu viện phải tính tiền làng chơi ghi vào sổ sách. Cứ mười ngày Ngô ái Đào đích thân đến đối chiếu thu tiền khách chơi đêm. Đích thân tới các viện kiểm lại một lần, thấy trên tường các viện đều đề thơ. Ngẫm nghĩ từng bài, Ái Đào thấy rất đáng lưu tâm. Vội trở ra, thì thấy thương nhân họ Uông đang chia tay sáu cô gái. Thấy Ái Đào, Uông vờ như không biết, Ái Đào thấy Uông cũng lờ đi như không hay, giơ tay hỏi:
- Quý khách ở đâu tới?
- Tôi là khách buôn sông ở đất Huy Châu. Trước đây ở Kinh Châu, gặp Ngô Lột Da đã chém đi hàng vạn lạng bạc hàng hóa. Vì hết sạch vốn đã theo các đạo sĩ vân du, học được một ít kiếm thuật để báo thù rửa hận. Nào ngờ hắn tham lam tàn bạo đã bị cách chức, người ở quê hương không cho hắn về, lại nghe nói hắn lẩn trốn ở Kim Lăng nên đến tìm. Song nghe thấy Lục viện nhà họ Ngũ có nhiều cô phong lưu xinh đẹp, trong người lại còn mấy chục lạng tiền vốn, bèn dốc ra cho mấy cô ở đây để tận hưởng sáu đêm lạc thú, coi như trước đây Ngô Lột Da cướp hết. Nay tôi từ biệt để đi tìm Ngô Lột Da để tính sổ ngài có biết hắn ở đâu không?
Mấy câu nói ấy khiến Ngô Ái Đào sợ mất vía, cuống lên phẩy phẩy tay nói:
- Không biết, tôi không biết.
Thế rồi quay lại bảo đứa hầu:
- Hãy rót nước mời ông đi.
Mồm thì nói nhưng chân thì vội vội vàng vàng đi tọt vào nhà trong, ông Uông thấy thế nói:
- Nếu như Ngô Lột Da cũng rụt cổ chui vào hang như thế thì chẳng tìm đâu được nữa.
Nói xong ha hả cười rồi ra. Lại đề ở cửa viện một bài thơ
Mũ áo cân đai mà chi nữa,
Phong lưu ta vẫn chuộng người xưa.
Ngũ Hồ rong ruổi tìm dấu cũ.
Sáu viện đi qua rũ bụi trần.
Người đời nguyền rủa đành cam chịu,
Tham ô thuở ấy đáng đời thay,
Hắn đã quên rồi liêm với sĩ,
Để lại ngàn thu tiếng xấu xa.
Người đời mai mỉa như thế, nào ngờ Ngô Ái Đào vẫn cứ vui thú thì quả cũng lạ. Rõ ràng hắn là giòi bọ trong hố phân nên không thấy thối tha. Năm tháng qua đi, con cái Ngô ái Đào đã trưởng thành, cũng phải dựng vợ gã chồng. Tuy Ngô Ái Đào là người giàu có, nhưng lại là dân ngụ cư, mang tiếng Ngũ gia Lục viện nên chả ai dám gả con cái mình cho con Ái Đào. Con trai Ái Đào tên là Ngô Tỉnh, vì đổi thành họ Ngũ nên đảo tên ngược lại là Ngũ Tỉnh Ngô. Hằng ngày Ái Đào vẫn khuyên con học hành, nói rằng:
- Ta là dân ngụ cư, không có ruộng vườn, hoàn toàn dựa vào sáu viện để lời lãi sinh sôi nẩy nở. Đây là cây tiền, rung một lần là rơi xuống một đấu, rung mười lần ta được một thạch, quả thực còn hơn cả đồng ruộng thẳng cánh cò bay. Sau này nếu con được thăng tiến thì không cần phải nói gì nữa. Còn như nếu không có ngày xuất thân, chỉ giữ lấy cái nghề này thì cả đời ăn không hết.
Mỗi lần tới kỹ viện thu tiền chơi đêm, Ái Đào thường dẫn con theo. Ở nhà Ngô ái Đào sống đạm bạc, ở viện lại sẵn rượu và thức ăn ngon, lần nào tới viện cũng ăn uống no say mới về. Ngô Tỉnh vốn ham ăn thích uống, tới đây được ăn ngon, thỉnh thoảng lại lẻn đi một mình tới kỹ viện. Gặp thức ăn khách làng chơi ăn thừa cũng cứ chén rồi mới về. Ngô Tỉnh lại mê đánh bạc, thường lấy trộm tiền của Ái Đào đánh bạc với kẻ ăn người ở và những kẻ đi ăn xin. Bọn chúng xúm lại rủ rê, thắng thì đánh mãi, thua thì chuồn thẳng. Trừ khi đến sáu viện thanh toán ra, suốt ngày Ngô Ái Đào đốc thúc người nhà trồng tre nuôi cá, trồng hành cấy rau, gánh tro chuyển phân, chăn nuôi gà lợn, gây dựng sự nghiệp như Đào Chu Công. Thúc giục con học hành, lại coi là việc phụ, nên Ngô Tỉnh rất thích vì được thả cửa chơi bời.
Một hôm Ái Đào định tới kỹ viện, vừa ra khỏi cửa được mấy bước, bỗng nhiên ngước lên trời thì thụp lạy kêu liền mấy tiếng:
- Đại Lang, Đại Lang, đúng là tôi sai rồi, xin Đại Lang tha cho tôi.
Những người nhà đi theo rất kinh ngạc, nói:
- Viên ngoại, sao lại thế!
Họ vội vã dìu lên, Ái Đào lại ngã dúi xuống. Nói bằng giọng địa phương:
- Ngô Lột Da, ngươi vô cớ vu oan giết hại nhà ta bảy người, nay trốn tới đây hưởng lạc, chơi bời, khiến ta đi khắp nơi tìm mà không thấy, nay mới gặp được ngươi, hãy mau mau trả mạng cho ta.
Người nhà nghe xong mới biết Vương Đại Lang trước đây đến đòi mạng, sợ toát mồ hôi, chạy ngay về gọi những người hầu tới khiêng Ái Đào về đặt lên giường. Hỏi tới Ngô Tỉnh thì không biết anh ta đã đi đâu đánh bạc rồi, chỉ còn đứa con gái đứng đó nhìn cha. Ngô Ái Đào miệng cứ nói lung tung:
- Trước đây ngươi cùm kẹp ta, treo ta lên rồi đánh, tam hình tam cấp đánh đập tra khảo, truy bức ta, bây giờ ngươi phải lần lượt nếm đủ mùi tra tấn để đền lại, trước hết hãy kẹp hắn.
Vừa nói xong thì Ái Đào kêu đau đớn, ra sức kêu van xin tha tội. Kêu gào một lúc lại nói:
- Hãy cùm nó lại.
Hai tay Ái Đào gò lại, kêu đau. Một lát sau lại nói:
- Hãy treo nó lên, giần cho nó một trận.
Vừa nói dứt thì chân tay quặt ra đằng sau, co dúm lại, đầu cất lên, gò vào tay chân. Lúc ấy Ái Đào kêu gào thảm thiết đau đớn không sao kể xiết. Một lát sau lại nói:
- Hãy kẹp nó lại.
Kẹp xong lại cùm, cùm xong lại treo, cứ như thế tới ba lần, khắp người Ái Đào thâm tím, toàn thân hiện lên những vết thừng buộc, gậy đánh, mười đầu ngón tay ngón chân đều rụng đi. Gia nhân mua lễ vật đặt lên giường cúng bái, cầu xin tha tội cho Ái Đào, Ái Đào cười khanh khách, cuối cùng lạnh lùng nói:
- Thời ấy chúng ta chưa bị đai đầu, nay cho nó nếm thử mùi vị này, coi như chúng ta được lãi.
Thế rồi đầu Ái Đào phình to như chiếc đấu, hai mắt lồi ra, xung quanh trán thịt lõm xuống như một cái rãnh. Một lát sau lại nói:
- Hãy moi xem tim gan hắn thế nào mà độc ác làm vậy.
Trong nháy mắt, từ lồng ngực cho tới bụng thịt thối rữa, lục phủ ngũ tạng bày hết ra ngoài, lúc ấy Ái Đào mới tắt thở, chết hẳn. Đúng là:
Xin người đừng ác độc,
Ác độc sẽ quả báo;
Khi đã làm điều ác,
Đau đớn đừng kêu ai.
Ái Đào chết, cũng có quan tài khâm liệm. Song da thịt thối rữa khó mà mó tay vào được. Người ta đành để cả quần áo rồi cuộn cả chiếc chăn hắn nằm cho vào quan tài để trong nhà .Lúc ấy Ngô Tỉnh được sống tự do, hắn không ở lục viện chơi gái thì đi tìm người đánh bạc. Bọn ma cô ở địa phương rất đông, thấy Ngô Tỉnh sẵn tiền chúng lân la tới rủ rê lấy tiền của. Chúng bảo với Ngô Tỉnh rằng, gái chơi trong viện tuổi cao, nhan sắc đã tàn, hãy giải thoát rồi kiếm sáu cô trẻ khác. Cứ ra ra vào vào như thế, họ mượn thể bỏ đi mất quá nửa. Những gia nhân thấy ông chủ nhỏ không nên người đều thay lòng đổi dạ, lần lượt tìm cách lấy trộm của cải rồi bỏ đi nơi khác sinh sống. Chẳng bao lâu họ đi hết, chỉ trơ lại đứa em gái trạc mười bốn mười lăm tuổi, trông coi một dinh cơ lớn như thế ai mà chẳng sợ. Ngô Tỉnh thấy nhà cửa trong viện rất nhiều bèn dọn đến đó ở để thu tiền chơi đêm cho tiện. Ngôi nhà lớn bỏ không, Ngô Tỉnh cho khiêng quan tài cha đến chỗ phần mộ mẹ, sau đó bán nhà cho người khác. Tiền bán nhà sau cũng vào sòng bạc hết. Trong vòng hai năm, gia tài Ngô Ái Đào khánh kiệt.
Những gái làng chơi, người thì bán đi, người thì theo khách chạy trốn, chỉ còn hai người. Đứa em gái lớn tuổi đã biết mùi đời không ai lấy, thấy trong viện có người khách nào kha khá, bèn lén lút tiếp khách. Lúc đầu thấy ngượng còn dấu anh, sau bén mùi quen đi, cứ công khai nay đón mai đưa. Ngô Tỉnh cũng cứ điềm nhiên mặc kệ, chẳng trách móc gì, ngược lại còn thấy vui vì đã có thêm một người tiếp khách.
Không lâu sau hai cô gái làng chơi còn lại cũng bỏ đi, chỉ còn trơ trọi lại một đứa em tiếp khách. Tiền kiếm được của một người trong đêm làm sao cung ứng nổi cho Ngô Tỉnh tiêu xài? Họ đành bán cả cái nhà chứa, phung phí mấy hôm rồi mua hai gian nhà nhỏ khác ở. Nhà cửa tồi tàn, tiền kiếm được một đêm quá ít cuộc sống ngày càng cùng quẫn. Những khách chơi thấy người tiếp ăn mặc không hợp thời, họ cũng không đến nữa. Đứa em gái nghĩ anh mình cờ bạc, chẳng thể giàu được, mà mình thì cũng túng quẫn, thôi thì tìm đường mà đi, thế rồi đứa em theo một khách làng chơi quen biết đi biệt tích. Đận ấy Ngô Tỉnh như một con khỉ, mồm không có cái nhai, tay chẳng biết làm gì, không sao được hắn phải đi đào tường khoát ngạch, trộm cắp qua ngày. Mới trót lọt được mấy lần thì bị người ta bắt được mang về tra khảo. Từ trước tới nay Ngô Tỉnh quen sống quần là áo lượt thì sao chịu được đánh đập. Vừa mới bị treo lên đã khai ra hết. Ngô Tỉnh bị đánh một trận nhừ tử, khép vào tội đồ, thích dấu vào mặt đưa đi đày, sau chết giữa đường. Chiếc quan tài của Ngô Ái Đào khiêng ra nghĩa địa không chôn, gió mưa làm ải mục mủn ra. Đó là kết cục cuối cùng của một tên tham lam tàn khốc. Có một bài thơ xưa còn để lại làm chứng:
Việc làm sai đúng tự mình ha,
Duyên do họa phúc chớ hỏi ai.
Thiên ác cuối cùng sẽ báo ứng,

Có điều chỉ sớm muộn mà thôi.
Về Đầu Trang Go down
https://triamquan.forumvi.com/
Tri Âm Quán
Thành Viên Tích Cực
Thành Viên Tích Cực
Tri Âm Quán


Tổng số bài gửi : 6340
Reputation : 2
Join date : 31/07/2013
Đến từ : Thị Trấn Chũ

Đoán Án Kỳ Quan - Page 5 Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Đoán Án Kỳ Quan   Đoán Án Kỳ Quan - Page 5 EmptyWed Apr 23, 2014 5:37 pm

nhiều tác giả
Đoán Án Kỳ Quan
Phạm Tú Châu - Nguyễn Văn Thiệu (Dịch và biên soạn)
Chương 12
Vương Phu Nhân Mơ Thấy Ba Ba. 
Điều Ly, Hợp Số Trời Đã Định
Ngoài cửa non xanh nước biếc,
Đường xa rong ruổi mịt mù.
Đi đường không ngại khó,
Phút chốc chồng bắc vợ nam.
Thôi thôi đừng khóc nữa,
Nhân duyên cuối cùng chẳng đoạn tuyệt đâu.
Đây là bài từ Như mộng lệnh, nói rằng trên đời vợ chồng gắn bó như keo sơn, vốn chỉ mong bách niên giai lão. Song trong đó vận mệnh khác nhau, hoặc là đàn ông cứng số sát vợ hoặc là đàn bà tinh tướng sát chồng. Trong sách tướng số có ghi: "Nam gặp Dương Nhân thì hại vợ, nữ phạm Thương Quan phải tái giá". Mệnh đã định như thế thì không sao thoát được. Trong đó cũng có trường hợp chồng không khắc vợ, vợ cũng không khắc chồng mà đột nhiên gặp biến cố, thế là hai vợ chồng đang sống cuộc đời ngọt ngào như mật, không rời nhau nửa bước, phút chốc sẻ nghé tan đàn. Vợ chồng chẳng khác nào như chim cùng tổ khi gặp hạn lớn tới, mỗi người bay một phương trời.
Cũng có thể sau khi chia ly, đoạn tình đoạn nghĩa, không bao giờ sống với nhau nữa, âu cũng là chuyện bình thường không lấy gì làm lạ. Chỉ có người nhân duyên chưa đứt, sau này lại trở lại với nhau, há chẳng phải là chuyện mới lạ sao?
Ngày xưa đời Đường có vị Ninh vương, em hoàng đế Huyền Tông. Dựa vào thế thân vương ông ta kiêu ngạo hống hách ngang tàng tham dâm hiếu sắc. Ngoài cửa vương phủ có vợ một người bán bánh, dáng người tầm thước trắng trẻo xinh đẹp dịu dàng, đôi mắt thanh tú, nước da trắng ngần, môi đỏ như son, đôi tay nõn nà tựa ngó sen, đôi chân nhỏ nhắn như đôi chân của Phiên Phi(1) mỗi bước đi như nở một bông sen. Ninh vương thấy nàng như bị hút mất hồn, liền sai người gọi vào phủ đường. Người phụ nữ ấy tuy gắn bó với chồng như keo son, song vì Ninh vương cưỡng bức buộc phải tuân lệnh. Nếu người bình dân phạm phải việc này, nặng thì ghép vào tội gian dâm, nhẹ thì coi như lừa gạt, nhất định mắc trọng tội. Song ông vốn là thân vương thì ai dám khép tội? Còn như câu "Con cháu thuộc dòng dõi nhà vua cũng khép tội như dân thường", thì đó là những điều trống rỗng chỉ nói mà không thi hành, chẳng có chút can hệ gì. Từ khi chiếm được người đàn bà này, suốt ngày dâm dục, không một ai được sủng ái như nàng. Tất cả những cô gái yêu kiều xinh đẹp trong phủ Ninh vương coi như bùn đất. Đúng là tình nhân chẳng khác nào Tây Thi, không ai tranh giành được.
(1) Phiên Phi: Phi của Đông Hôn Hầu, Nam Tề Đông Hôn Hầu đã xây ba cung điện cực kỳ xa hoa cho nàng ở, lại đúc những hoa sen bằng vàng để nàng đi.
 
Xuân qua thu tới, thoáng cái mà đã hơn một năm, niềm hoan lạc đã tới cực điểm thì mùi vị cũng dần dần trở thành bình thường. Vào một hôm đang dịp tháng Ba, hoa hải đường nở rộ. Ninh vương ngắm hoa uống rượu, vợ người bán bánh ngồi bên cạnh thưởng hoa, tự nhiên nước mắt trào ra. Thấy thế Ninh vương bèn hỏi:
- Nàng sống trong vương phủ của ta so với cuộc sống long đong được bữa sớm lo bữa tối ở nhà gã bán bánh lại không gấp hàng ngàn lần sao? Có gì đáng phiền lòng đâu mà khóc?
Vợ chàng bán bánh bèn quỳ xuống nói:
- Nếu tiện thiếp sinh ra và lớn lên tại vương phủ thì chẳng phải lo nghĩ gì, song trước đây thiếp là vợ người bán bánh, bởi thế thiếp chạnh lòng mà khóc.
Ninh vương vội đỡ dậy, nói:
- Tại sao trước đây nàng không chạnh lòng, nay ta mới thấy nàng như thế?
- Bởi vì, tiện thiếp là con gái nơi thôn dã, chỉ biết hoa đào hoa mận, hoa lê chứ có biết hoa hải đường thế nào đâu. Xưa kia thiếp cùng chồng bán bánh trước cửa phủ đường, thấy người trong vương phủ gánh hoa hải đường đi qua. Đời thiếp chưa từng nhìn thấy hoa hải đường bao giờ nên mới bảo chồng ngắt một bông cho thiếp cài đầu. Chồng thiếp vừa bước tới ngắt hoa thì bị người trong phủ đánh cho một gậy vào vai, nói: "Hải đường trong thiên hạ đều có sắc mà không có hương, chỉ có hải đường ở Xương Châu là có sắc có hương thôi. Ta vâng lệnh đại vương tới Xương Châu hái hoa về mà ngươi to gan lớn mật dám thò tay hái". Lúc ấy thiếp chỉ biết tự oán trách mình, vì mình mà chồng bị đánh. Nay thiếp thấy hoa hải đường trong vương phủ cho nên nhớ tới chồng, nước mắt cứ trào ra.
Ninh vương thấy thế bỗng mủi lòng, nói:
- Nay nàng còn nghĩ tới chồng, đó là điều tốt. Ta sẽ truyền lệnh cho chồng nàng tới đây gặp nàng có được không?
Vợ người bán bánh quỳ xuống nói:
- Nếu được gặp chồng một lần thì thiếp dẫu chết cũng không còn ân hận nữa.
Nghe xong Ninh vương gật gật đầu đỡ nàng dậy, ngay lập tức cho người đi gọi. Lát sau chồng nàng tới, quỳ xuống bên khóm hoa. Anh bán bánh tuy quỳ trong vương phủ, song vẫn nhìn vợ bằng con mắt lạnh lùng, không dám khóc mà cũng không dám ngước mắt nhìn. Ai ngờ người vợ thấy chồng gào lên khóc nức nở, không hề sợ hãi. Tuy Ninh vương sống phóng đãng nhưng vẫn thương người. Thấy tình cảnh ấy ông thầm nghĩ: "Vì ta tham sắc mà chia duyên rẽ thúy vợ chồng họ, ta quả là có tội" Thế rồi ông thưởng cho họ một trăm lạng bạc để che giấu nỗi hổ thẹn của mình, cho người bán bánh dẫn vợ về. Thời ấy nhà thơ Vương Duy có làm một bài thơ ghi lại chuyện này như sau:
Chẳng vì được sủng ái
Mà quên mối tình xưa.
Nhìn hoa hàng lệ nhỏ,
Chẳng nói cùng Sở vương.
Câu chuyện chia phôi lại sum họp này đó là vì vợ người bán bánh tuyệt đẹp lại gần vương phủ, suốt ngày liếc mắt đưa tình ngấm ngầm trang điểm dụ dỗ người nên xảy ra như thế.
 
Nay ta lại nói về một người đi thi bỗng chốc mất vợ. Chuyện này còn thê thảm hơn bị Ninh vương cướp đoạt rất nhiều. Sau này vô tình lại được sum họp, càng lạ lùng hơn chuyện vợ chồng người bán bánh được đoàn viên. Câu chuyện này xảy ra vào thời Cao Tông Nam Tống. Người này tên là Vương Tùng Sự, người Biện Lương. Thời nhỏ đỗ tú tài, được tiến cử vào trường Thái học. Vợ là Kiều thị, cũng là con nhà gia giáo, đi học hành và biết lễ nghĩa. Hai vợ chồng thật xứng đôi vừa lứa. Vì nghèo nên hai vợ chồng không có kẻ hầu người hạ và cũng chưa con cái. Thời ấy Cao Tông vừa mới xây dựng kinh đô ở Lâm An, khắp nơi trộm cắp nổi lên như ruồi. Năm ấy Vương Tùng Sự được nhậm chức, bàn với vợ rằng:
- Năm nay anh mới hai bốn hai nhăm tuổi, lẽ ra phải đi thi để đoạt công danh mới phải lẽ. Song chỉ vì nhà nghèo, lại thêm nạn trộm cắp. Vùng Biện Lương lại là miếng mồi của chúng, nếu chẳng may chúng tới thì cho dù anh không chết, cũng bị chúng bắt đi, suốt đời phải lưu lạc nơi đất khách quê người. Vả lại đường tới Lâm An cũng gần, anh định thu xếp tư trang cùng nàng tới Lâm An. Ở đó ta sẽ được sống yên ổn, chờ mãn hạn quan, trời đất yên hàn rồi sẽ trở về quê hương. Nếu như binh lửa chưa yên thì cứ nhập tịch ở Lâm An, có gì mà không được, ý em thế nào?
- Em là đàn bà con gái chẳng biết gì, em chỉ vâng theo lời anh thôi.
- Anh đã định rồi em đừng do dự gì nữa.
Thế rồi vợ chồng thu xếp hành lý, chọn ngày tốt lên đường, gửi nhà cửa cho người thân trông coi, rồi theo đường thủy thanh thản tới Lâm An. Thấy phong cảnh ở đây thật tuyệt vời:
Phượng Hoàng cao vòi vọi
Tần Vọng vút tầng mây,
Tuệ Nhật như bức bình phong nhiều đá lạ,
Cô Sơn u tịch ngan ngát nở hoa mai
Thiên Trúc, Phi Lai đối nhau ngọn ngọn,
Nơi đại bàng bay tới chốn linh thiêng.
Vạn Tùng, Phượng Hoàng lớp lớp đặt bày
Vốn là nơi suối Tiên xuất phát.
Hồ rộng mênh mông, đào liễu bên cầu tràn xuân sắc bao bọc thành tráng lệ nguy nga.
Hàng trăm lâu dài như bức họa
Không đếm xuể đình đài: Mộng Nhi, Thúy Vi
Phóng Hạc, du ngoạn cảnh thiên nhiên.
Mộ Đỗ Phủ, Phù Lai, Hứa Viễn nhìn không biết chán.
Khiến ta nhớ lại những bậc thánh hiền xưa,
Hẳn mới thấy mười tháp, chín cái không đầu, chứng tỏ nhân dân đời đời ghi nhớ.
Vương Tùng Sự tới Lâm An, vội vàng tìm nơi nghỉ trọ. Lâm An rộng lớn, buổi đầu còn lạ lùng bỡ ngỡ, nghỉ chân tại Bão Kiêm Doanh, xung quanh đều là nhà chứa. Hằng ngày gái làng chơi ăn mặc lòe loẹt đứng cửa đón khách. Đã có nhà chứa thì những gã làng chơi du đãng ăn diện lượn lờ đi lại. Bọn thanh niên đến chơi gái đó là điều đương nhiên, song ngay cả bọn không có tiền chơi gái cũng mò vào các nhà quả phụ uống nước chè hâm. Bởi thế Bão Kiếm Doanh vô cùng ồn ào nhốn nháo. Đã có bọn gái làng chơi, lại có những bọn thanh niên du đãng, nam nữ ô hợp, thì lại mọc ra những cửa hàng bán rượu thịt, bán thư họa, bán đồ cổ, bán ngọc thạch, lụa là gấm vóc, khăn tay, túi đựng đồ trang sức, túi hương liệu, thuốc kích thích xuân tình, dầu chải đầu, son phấn... Đã có những người buôn bán thì trộm cắp như ruồi, vợ chồng con cái bọn vô lại đều tụ tập ở đây.
Vương Tùng Sự không biết, đã thuê một chiếc kiệu khiêng Kiều thị về nơi ở. Phong tục của Lâm An xưa nay, dù là dân thường hay quan lại đều đi kiệu mát, đó là loại kiệu không có rèm che. Ngay có rèm đi chăng nữa, người ta cũng vén lên cho người ngoài nhìn thấy cũng chẳng ngượng ngùng gì. Vợ Vương Tùng Sự cũng đi loại kiệu mát không có rèm, Kiều thị là người xinh đẹp tuyệt vời đi kiệu tới nhà trọ. Ai ai nhìn thấy cũng tấm tắc khen ngợi:
- Không biết cô gái này ở đâu tới mà xinh đẹp đến thế.
Không ngờ chính vì nhan sắc tuyệt vời mà tai họa bỗng dưng ập tới. Đúng là:
Thỏ chết vì lông quý,
Rùa chết vì mai thiêng.
Vợ chồng Vương Tùng Sự vừa tới chỗ ở, thấy nơi đây không tốt thì trong lòng ngán ngẩm. Đến tối khi kỹ nữ tiếp khách, kẻ uống rượu, người hát xướng; bên đông chơi trò phạt rượu, bên tây đánh bài; trên lầu chơi đàn, dưới hiên thổi sáo; ầm ĩ nhốn nháo mãi tới tận đêm khuya mới yên. Vợ chồng Vương Tùng Sự thấy ở đây rất tồi tệ không yên tâm, bàn nhau dọn đi nơi khác. Mà cũng lạ thay, nhà cửa ở Lâm An chỉ đẹp mặt ngoài, còn bên trong chỉ ngăn gian bằng phên lau sậy trát vách, quét trang trí qua bằng lượt nước vôi. Cho nên nhà ở kề sách vách nhau không những chỉ nói với nhau một câu người ta cũng nghe thấy, mà ngay như đi đại tiểu tiện người ta cũng biết.
Chỗ ở của Vương Tùng Sự sát với một nhà chứa, thị là Lưu Trại, thường quan hệ với gã đồ tể Triệu Thành. Tên này vừa hung tợn vừa gian manh, quen thói xúi bẩy người khác kiện tụng. Ở sòng bạc hắn tha hồ bỏ túi, tại nha môn hắn tới từng người mua chuộc. Hắn còn kết giao với bọn vô lại, hô một tiếng là hàng trăm tên hưởng ứng. Hắn dùng mọi thủ đoạn cướp giật, lừa đảo dối trá, nuôi dưỡng trộm cướp, chứa chấp của gian, bức người khác phải đi vào con đường trộm cắp, chẳng từ một việc gì mà hắn không làm. Vì sợ nên Lưu Trại phải quan hệ với hắn, chứ hoàn toàn không phải là tự nguyện. Kiều thị đến nơi ở, Triệu Thành nhìn thấy đã có ý định đánh lừa. Bởi thế suốt mấy ngày liền hắn chỉ uống rượu tại nhà Lưu Trại để theo dõi động tĩnh. Nào ngờ vợ chồng Vương Tùng Sự bàn nhau chuyển nơi ở, mặc dù nói khẽ, song Triệu Thành cũng láng máng biết được. Hắn nghĩ: "Thằng ngu, mày ở nơi khác đến mà đã phân biệt sang với hèn, thật là đáng ghét. ở đây thì ngại gì mà mày dọn đi nơi khác. Ta phải xem hắn dọn đến đâu đã rồi sẽ xử trí". Đến khi Vương Tùng Sự đi tìm phòng, Triệu Thành bí mật theo dõi. Vì lúc đầu do vội vã nên tìm nhầm chỗ, lần này Vương Tùng Sự quyết phải tìm được nơi thật yên ắng tĩnh mịch. Mãi đến khi tới Tiền Đường mới tìm được chỗ ở vừa ý, sau đó lại tìm hiểu tỉ mỉ kỹ càng những nhà láng giềng, thấy họ đều là những nhà buôn bán, lúc đó Vương Tùng Sự mới yên tâm thuê nhà, nói với vợ chọn ngày tốt dọn nhà. Những việc ấy Triệu Thành biết rất tường tận.
Tùng Sự không có con ở đi theo, mọi việc đều phải nhúng tay làm. Tới hôm chuyển nhà, Kiều thị thu xếp hòm xiểng, Vương Tùng Sự nói:
- Tôi cùng với phu khuân vác mang đi trước, rồi sẽ thuê kiệu đón nàng sau.
Nói xong áp tải phu khuân vác mang hòm xiểng đi. Kiều thị đợi ở nhà chưa tới nửa giờ sau, thấy hai người đàn ông đến nói:
- Ông Vương bảo chúng con đến đón bà tới nhà mới ở Tiền Đường, kiệu đang chờ ngoài cửa.
Nghe xong Kiều thị lập tức đi ra, thấy một chiếc kiệu rèm vải Kiều thị lên kiệu, phu khiêng kiệu lập tức buông rèm rồi khiêng đi ngay.
Nàng cũng không biết đi được bao xa, tới cửa phu khiêng kiệu dừng lại, mở rèm, Kiều thị xuống kiệu bước vào nhà, chẳng thấy chồng đâu, chỉ thấy một tên gian manh lạ hoắc. Vốn là, khi Vương Tùng Sự dặn vợ, rồi mang đồ đạc đi trước , Triệu Thành ở gian bên nghe thấy bèn tương tế tựu kế, hắn đi thuê ngay hai người khiêng kiệu tới đánh lừa Kiều thị. Phong tục ở Lâm An xưa nay kiệu không buông rèm. Triệu Thành sợ Vương Tùng Sự trở về trông thấy sẽ bại lộ. Bởi thế buông rèm, rồi khiêng thẳng tới đây. Thấy nhũng người này Kiều thị biết rằng đã có chuyện, sợ quá mặt tái mét như chàm đổ. Lập tức quay ngoắt lại gọi phu khiêng kiệu:
- Các ngươi nói rằng nhà tôi bảo các anh đón tôi tới nhà mới, tại sao lại khiêng tôi tới đây? Hãy mau mau đưa tôi đi khỏi nơi này.
Bọn phu khiêng kiệu chẳng thèm trả lời, bỏ đi ngay. Triệu Thành gọi bọn đàn em, xốc nách đưa Kiều thị vào, nói:
- Chồng cô bảo chúng tôi ở đây coi rồi về ngay.
Kiều thị vừa yếu đuối, vừa sợ hãi, làm sao mà cưỡng nổi hai gã đàn ông này. Nàng bị chúng lôi vào nhà trong. Kiều thị kêu lên:
- Các người là ai mà lại vô lễ như thế. Chồng ta không phải là kẻ xoàng đâu, ông ấy là cống sĩ Hà Nam tới đây tham gia tuyển quan. Hãy mau mau đưa ta ra khỏi nơi này thì tất cả đều được bỏ qua. Nếu cứ chậm trễ thì ông ấy chẳng tha các ngươi đâu. - Xin cô đừng có nóng vội, - Triệu Thành nói, - hãy ở tạm đây vài hôm ta sẽ đưa đi.
- Nói càn, - Kiều thị nói, - ta là vợ người lương thiện, sao lại ở nhà ngươi được?
Triệu Thành nhếch mép cười, cúi sát vào mặt Kiều thị nói:
- Em ơi, em người Hà Nam, anh người Lâm An, thật là duyên trời dun rủi, sao em lại nói thế?
Kiều thị đùng đùng nổi giận, tát vào mặt hắn, chửi:
- Mày là tên kẻ cướp chết đâm chết chém! Đất nước đang thanh bình mày lại lừa dối đàn bà lương thiện, mày đáng khép vào tội chết.
Triệu Thành bị đánh, nổi khùng nói:
- Mày là con giặc cái! Chẳng ai bênh mày. Tao không nói khoác đâu, dù mày là tiểu thư, là bà lớn, đã vào tay tao thì có mà chạy đằng trời. Song rất tiếc mày là vợ một tên kiết xác, ta bắt chết phải chết, để sống được sống, xem có đứa nào dám làm gì được tao không?
Thấy thế Kiều thị nghĩ: "Mình đã rơi vào tay kẻ cướp, chồng lại không biết thì làm sao thoát được miệng hùm? Thôi thì cứ chết là xong". Rồi nói:
- Hóa ra ngươi là tên giết người cướp của, thôi ngươi hãy giết ngay ta đi.
- Nếu mày muốn chết, tao cũng không cho chết.
Đồng bọn nói:
- Ta nói thực với ngươi, đã đến đây không thoát được đâu, hãy ngoan ngoãn nghe theo thì hơn.
Lúc ấy Kiều thị muốn đâm đầu xuống sông xuống ao cũng không sao được, muốn treo cổ tự vẫn thì cũng bị bọn chúng coi chặt. Quả là muốn sống không được sống, muốn chết không được chết. Chẳng biết làm sao, Kiều thị nấc lên khóc nức nở. Khóc rồi lại chửi, chửi rồi lại khóc, đập đầu, đấm ngực, dậm chân, đầu tóc rối bù, ngay chiếc giày thêu ba tấc ba cũng bật tung ra.
Tại sao Triệu Thành bị đánh bị chửi như thế mà không hành hung. Chỉ vì hắn tham nàng kiều diễm, vốn rất muốn gian dâm, và cũng rất muốn bán nàng. Cho nên không dám giở trò hung ác mà chỉ ngấm ngầm toan tính. Hắn nói:
- Này các chú em, cứ mặc nó. Chờ khi ta chơi thả sức, nhất định sẽ cho nó một trận no đòn.
Một lát sau chúng mang cơm rượu đến, ăn uống trong tiếng khóc nghẹn ngào, nức nở của Kiều thị. ăn xong Triệu Thành đuổi bọn đàn em đi, gọi vợ là Hoa thị và các tì thiếp đến làm quen để đề phòng bất trắc. Triệu Thành có một vợ cả, hai vợ lẽ và bốn nàng hầu, tất cả bọn họ đều thay nhau tới khuyên nhủ Kiều thị. Chúng mang thau đồng đựng nước ấm cho Kiều thị rửa mặt. Kiều thị vẫn không nín. Hoa thị nói:
- Sắt sợ cho vào lò, người sợ rơi vào đồn, nay thì cô chẳng mọc cánh mà bay đi được, thôi thì cứ theo ông nhà tôi thôi.
- Theo sao được! Theo sao được. - Kiều thị gào lên.
- Thôi thì ngủ với ông ấy mấy đêm, - vợ hắn nói, - nếu như hầu hạ ông vừa lòng thì ông sẽ nhận cô làm vợ bé, cũng gọi là theo. Hoặc cho người khác làm vợ bé hay bán cho lầu xanh làm gái đứng cửa đón khách thì đó cũng gọi là theo. Thôi tùy cô muốn theo đằng nào thì theo.
Kiều thị nghe xong giậm chân gào lên khóc, đầu tóc sổ tung, chiếc trâm vàng rơi xuống đất, Kiều thị vội vàng cầm lấy. Chiếc trâm này vốn là sính lễ của Vương Tùng Sự, trên đó có đề bốn chữ "Vương Kiều trăm năm", cho nên nàng cực kỳ yêu quý. Đang lúc bị ô nhục, nàng không nỡ bỏ đi. Lúc ấy Triệu Thành lại uống thêm mấy chén rượu, lửa dục ngùn ngụt bốc lên. Kiều thị tuy sầu thảm, mắt đẫm lệ trông càng xinh đẹp, hắn không kìm nổi, xông tới ôm chặt Kiều thị hôn lên môi. Kiều thị phẫn nộ, tay đang cầm sẵn chiếc trâm, đâm ngay vào mặt trúng mắt phải Triệu Thành, sâu khoảng hơn một tấc. Đau quá Triệu Thành không chịu nổi, vội cầm chặt lấy cổ tay Kiều thị lôi ra, chiếc trâm theo tay ra ngoài, máu vọt ra, hắn ngã gục xuống đất ngất đi. Tiếc thay cơn hứng tình vừa mới trào lên bỗng chốc tiêu tan, vợ cả, hai vợ lẽ và bốn gái hầu vội vàng gói tàn hương vào khăn tay rịt vào mắt cho Triệu Thành, rồi xúm vào, kẻ lôi người đánh Kiều thị, náo loạn cả lên. Triệu Thành thiếp đi một lúc lâu mới ráng chịu đau đớn, nói:
- Được được! Mày là đồ khốn nạn, không theo ta thì thôi lại còn đâm ta mù mắt. Mày không biết rằng mày làm mù mắt tao thì luật pháp của riêng tao cũng rất công bằng.
Rồi hắn gọi con hầu dìu hắn vào trong nhà nghỉ, và cho gọi thầy thuốc đến chữa trị. Bảo thê thiếp thay nhau coi giữ, không cho Kiều thị tự vẫn. Thơ rằng:
Chim ăn liền cánh ở bãi sông,
Tên bắn từ xa thật hãi hùng.
Giam hãm trong lồng sao thoát được,
Mịt mù thảm thiết tiếng lẻ loi.
Vương Tùng Sự áp tải đồ đạc đến nơi ở mới, quay trở lại thuê kiệu. Tới nơi ở cũ chỉ thấy cửa trong cửa ngoài mở toang hoác, không biết vợ đã đi đâu. Hỏi những người lân cận, họ đều nói không biết. Chỉ có Lưu Trại nói:
- Tôi vừa thấy một chiếc kiệu tới đón cô ấy đi, họ không phải là người của ông thì là ai.
Nghe nói thế Vương Tùng Sự chưa biết phải làm thế nào. Một là mình người nơi khác tới, không người quen biết; hai là một thân một mình biết tìm đâu bây giờ. Đi tìm hai ba ngày nên chẳng thấy, trong lòng uất hận không biết trút giận vào đâu. Vương Tùng Sự bèn đệ đơn kiện lên phủ Lâm An, ghi tên cả hai người ở sát vách vào đơn kiện. Hai nhà này, một người là Lưu Trại, một người họ Lam trạc sáu bảy, sáu tám, người Nam Tấm chuyên làm đậu phụ. Mọi người đều gọi ông là Lam Lão Nhi, hay Lam Đậu Phụ. Phủ doãn Lâm An cho gọi Lưu Trại và Lâm Đậu Phụ tới phủ đường thẩm vấn, chẳng tìm ra vết tích gì. Một mặt cho điều tra truy tìm, một mặt bắt Lưu Trại, Lam Đậu Phụ phải cam đoan. Triệu Thành ở nhà chữa mắt, biết Lưu Trại bị kiện, hắn ngấm ngầm sai đồng bọn đảm bảo cho Lưu Trại. Lại dựa vào Lưu Trại đảm bảo cho Lam Đậu Phụ. Vương Tùng Sự đi kiện lần này chỉ mong tìm ra sự thục, nào ngờ đã bỏ vào đấy ít tiền mà vẫn không tìm ra, chẳng biết dựa dẫm vào đâu, Tùng Sự đành trở về nơi ở mới, tạm sống trong quán trọ, chờ ngày thi tuyển và dò la tin tức vợ. Thật là:
Khác nào đáy biển mò kim,
Lênh đênh sóng vỗ biết tìm nơi đâu.
Triệu Thành tuy bị mù một mắt song lòng dạ hắn vẫn như cũ. Hắn nghĩ rằng người đàn bà ấy là một người cứng rắn, chắc chẳng bao giờ theo mình, thôi thì hãy bán ngay cho chủ khác. Đúng lúc ấy có một vị tiến sĩ mới cũng họ Vương, tên là Tùng Cổ người huyện Ngô, phủ Bình Giang, mới được cất nhắc làm tri huyện Tây An, phủ Cù Châu. Vương Tùng Cổ trạc năm mươi tuổi, nhưng vẫn chưa có con, bởi thế ông muốn mua một người thiếp tại đế đô Lâm An. Chỉ cần người đàn bà ấy dung nhan kiều diễm, có đức hạnh thì dù người ấy có tái giá ông cũng mua với giá cao mà không so đo tính toán. Triệu Thành quen buôn tranh bán cướp, lại có một gã cò mồi cũng quen thói buôn bán này, nghe thấy tin đó bèn báo cho Triệu Thành biết. Triệu Thành định bán cho người này song vẫn còn do dự, sợ Kiều thị không nghe. Hắn bảo vợ hỏi dò Kiều thị, vợ hắn nói dối rằng:
- Ngài tri huyện mới nhậm chức tại Tây An, vợ cả đã mất, tiếng là vợ lẽ nhưng thực ra là vợ cả. Cô không chịu theo ông nhà tôi thì cô lấy người ấy cũng vốn là bà lớn như xưa, há chẳng tốt lắm sao?

Kiều thị nghe xong cứ suy đi tính lại mãi: "Chị ta nói cũng có phần đúng. Ta hiện ở đây dẫu có muốn chết cũng không chết được lại không được gặp mặt chồng, bao giờ vợ chồng mới được gặp nhau đây? Vợ chồng ta đang sống hạnh phúc bên nhau bỗng nhiên tên đạo tặc này làm cho đôi nơi cách trở, bị hắn làm nhục, mối thù này nếu không trả, thì dù có chết cũng không sao nhắm mắt được!". Rồi sau đó Kiều thị lại nghĩ: "Đã đến nước này đành nhẫn nhục sống qua ngày đoạn tháng, dựa vào thời cơ để tạo ra thời cơ. Lấy người ấy để thoát khỏi nơi này, rồi sẽ tìm cách trả thù. Nghe thấy Lâm An và Tây An cách nhau không xa, chồng mình thế nào rồi cũng được làm quanNếu chàng thương ta vô cớ lâm nạn, sau này sẽ có ngày biết được tông tích, lúc ấy mình sẽ nói rõ sự thực đã bị cướp và bán đi thế nào, hoặc nếu như những kẻ sĩ nghĩ tới những bạn bè đèn sách thì chưa biết chừng vợ chồng sẽ được gặp nhau, và cũng chưa biết đâu ta sẽ trả được mối thù này. Song nếu mình bị chôn chân ở đây cũng chẳng biết đây là đâu và cũng chẳng biết tên cướp này là họ Trương hay họ Lý. Ta hoàn toàn chẳng nắm được gì". Nghĩ hồi lâu nàng cảm thấy xấu hổ, không dám đáp lời, nước mắt giàn giụa rơi lã chã, nàng gục xuống bàn khóc nức nở.
Về Đầu Trang Go down
https://triamquan.forumvi.com/
Tri Âm Quán
Thành Viên Tích Cực
Thành Viên Tích Cực
Tri Âm Quán


Tổng số bài gửi : 6340
Reputation : 2
Join date : 31/07/2013
Đến từ : Thị Trấn Chũ

Đoán Án Kỳ Quan - Page 5 Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Đoán Án Kỳ Quan   Đoán Án Kỳ Quan - Page 5 EmptyWed Apr 23, 2014 6:15 pm

nhiều tác giả
Đoán Án Kỳ Quan
Phạm Tú Châu - Nguyễn Văn Thiệu (Dịch và biên soạn)
Chương 12 (B)
Kiều thị im lặng gục đầu khóc, Hoa thị chợt nhìn thấy chiếc trâm vàng bèn len lén rút lấy. Kiều thị biết được ngẩng đầu lên thì chiếc trâm đã nằm gọn trong tay Hoa thị. Kiều thị vội vàng cướp lấy thì người đàn bà kia đã vụt bỏ chạy. Kiều thị mất chiếc trâm, gào lên khóc, nghĩ: "Đây là vật sính lễ của chồng, là vật báu ta đã dùng đâm kẻ cướp để cứu mình, nay rơi vào tay người khác, chắc vợ chồng sau này sẽ không được gặp nhau nữa". Nàng chỉ muốn chết đi cho rảnh chứ không muốn lấy người khác, nàng khóc như mưa như gió rồi mê man thiếp đi. Nàng mơ thấy một con ba ba lớn bò đến bên mình. Trước đây Kiểu thị thường hay làm thịt ba ba, thấy con ba ba lớn nàng bèn cầm một con dao làm thịt. Con ba ba vươn cổ cất đầu lên, sợ quá Kiều thị rụt tay lại. Kiều thị nhớ tới chiếc trâm cài trên đầu, cũng không biết làm sao chiếc trâm lại đang ở trong tay mình, nàng ném chiếc trâm ấy vào con ba ba, song thấy tiếc bèn chạy theo nhặt lấy, thì không thấy chiếc trâm đâu cả. Tìm khắp nơi, chỉ thấy con ba ba ấy vươn cổ cất đầu lên nói: "Bà Kiều, bà Kiều ơi! Bà đừng thương tôi làm gì, hãy giết thịt tôi rồi nấu ngay đi. Bà đừng tiếc chiếc trâm làm gì. Tìm thấy cũng tốt mà không tìm thấy cũng thôi. Bà đừng nghĩ đến chồng nữa, ông Vương này không dứt được, mà ông Vương kia cũng không bỏ được". Thấy ba ba nói, Kiều thị rất lạ, dùng dao chặt vào người nó, song bị nó cắn chặt lấy cổ tay, đau đớn không sao chịu nổi, rồi tỉnh giấc. Kiều thị nghĩ: "Thường ngày chồng mình thích ăn ba ba, mình thường hầm thịt ba ba cho anh ấy, nhất định là do mình sát sinh quá nhiều nên nay đến nỗi vợ chồng phải chia lìa đôi ngả, âu cũng là do quả báo chăng?”
Đang nghĩ ngợi như thế thì Hoa thị đến hỏi:
- Có bằng lòng hay không thì nói ra, đừng làm lỡ việc người ta.
Không còn cách nào khác Kiều thị đành miễn cưỡng nghe theo. Triệu Thành lại nghĩ: "Con mẹ này rất ghê, nếu tới đó nó cứ tuồn tuột nói hết ra, mà quan lại họ bảo vệ nhau, đột nhiên trở mặt, đến hỏi tội ta thì quả là nguy hiểm. Vậy không thể cho họ biết được tung tích của mình". Rồi hắn dặn kẻ môi giới chỉ nói mình là người họ Hồ. Bọn này đều là kẻ cùng hội cùng thuyền, chúng hiểu ý nhau. Tên mối đến thuyền Vương Tri huyện, hẹn ngày mai tri huyện đích thân tới xem mắt. Triệu Thành đến một nơi vắng vẻ thuê một chỗ ở, đưa Kiều thị và vợ tới đó. Đến trưa hôm sau, Vương Tùng Cổ và người mối tới, nhìn kỹ Kiều thị, thấy nàng có nhan sắc, dáng vẻ lại kiều diễm ông rất vừa ý, rồi đi ngay. Lát sau người mối dẫn đến mười người, đưa ba mươi vạn đồng sính lễ. Việc đã đến nước này, Kiều thị đành phải chải đầu, ngậm hờn nuốt tủi lên kiệu. Tuy không phải chết vì thủ tiết, mà lại có mối lái cưới xin hẳn hoi, điều ấy còn hơn là chết dần chết mòn ở nhà Triệu Thành. Cũng cần biết rằng Kiều thị lấy người khác cũng là thất tiết. Song nếu ở nhà Triệu Thành thì luôn luôn bị coi giữ chặt chẽ, muốn chết cũng không chết được. Nhưng tới đây còn có thể nghĩ cách để báo thù. Giả dụ như chết thật thì sau này vợ chồng sao được gặp nhau mà trả thù rửa hận? Thuở ấy có người đã làm một bài thơ tứ tuyệt, nói về Kiều thị bị bắt, song biết tòng quyền, đó là điều rất đúng. Bài thơ như sau:
Ở tạm Lâm An được mấy ngày,
Tự nhiên mưa gió phải rời ngay.
Đông không ở được sang tây ở,
Khi đến được đông trăng về tây.
Kiều thị lên kiệu, ra khỏi thành Lâm An, Vương Tùng Cổ ép thuyền vào bến đò. Kiều thị lên thuyền và họ trở thành vợ chồng. Vương Tùng Cổ vốn muốn lấy thiếp để mong được đứa con, vì thấy Kiều thị là người nhan sắc nên khi chăn gối không thể tránh khỏi quá độ. Kiều thị vốn là người biết thi thư lễ nhạc bỗng chốc bị cưỡng đoạt, cảm thấy vô cùng xấu hổ. Mỗi khi bị Vương Tùng Cổ hỏi, nàng chỉ miễn cưỡng ậm ừ chứ thực ra thẳng vui thú gì. Vương Tùng Cổ nghĩ rằng đó chỉ là sự e thẹn ban đầu, chứ có ngờ đâu trong lòng Kiều thị đang ngổn ngang trăm mối, không thể chiều theo ý Vương Tùng Cổ được. Đã cưới được thiếp rồi, Vương Tùng Cổ bèn nhổ neo, qua Đồng Lô, Phú Dương, đi thẳng tới Tam Cù. Vì sao gọi là Tam Cù? Vì xưa kia trận lũ đột ngột xảy ra, chia thành ba dòng nên gọi là Tam Cù. Vùng Tam Cù thuộc địa phận Ngưu Nữ. Thời Xuân Thu thuộc đất Bỉ Cô Miệt Việt Tây; thời Tần gọi là Thái Mạt; thời Đông Hán gọi là Tân An; thời Tùy gọi là Tam Cù; thời Đường gọi là Cù Châu, tới triều Tống vì phủ Cù Châu có thành nên Tây An là huyện đứng đầu. Vương Tùng Cổ đến nhậm chức tại Tây An, sau khi tới yết kiến các cấp trên, ông bắt tay giải quyết những việc dân sự. Tất cả những việc tranh chấp về tiền thóc, hôn nhân, ruộng đất... ông đều giải quyết có tình có lý và quét sạch những tên độc ác, gian trá sâu mọt, minh oan cho những người dân vô tội. Bởi thế được muôn dân cảm phục, tôn ông là bậc thánh nhân. Ông là người thanh liêm, không tơ hào đến của dân. Cuộc sống của người dân huyện Tây An trở nên bình yên. Đúng là:
Đồng xanh mưa tạnh người cày ruộng
Làng hoa trăng sáng bé ngủ say.
Vương Tùng Cổ người làm nên sự nghiệp vào tuổi trung niên. Khi lên đường, Vương Tùng Cổ định mang theo vợ là An thị tới nhiệm sở, An thị nói:
- Tôi và ông đều đã gần năm mươi mà chưa có con cái. Thầy thuốc bảo đàn bà đến bốn chín tuổi đã tắt kinh thì không còn sinh nở được nữa, đời ông hãy còn dài, thôi thì cứ cưới thêm một người thiếp nữa, kiếm đứa con để hương khói sau này. Ông cứ đi một mình, còn tôi xin tình nguyện ở nhà ăn chay niệm Phật.
Bởi thế Vương Tùng Cổ đến Lâm An cưới thiếp rồi mới tới nhiệm Sở. Trong nha môn người bạn thân thiết nhất của Vương Tùng Cổ chỉ có Kiều thị. Ai ngờ Kiều thị lại nhớ người chồng cũ lúc nào cũng canh cánh khôn nguôi. Thời gian trôi đi rất nhanh, thoáng cái mà đã hai năm. Một hôm đúng vào tết trung thu vầng trăng tròn vành vạnh sáng vằng vặc trên bầu trời, Vương Tùng Cổ trong thư phòng, đốt hương ngắm trăng uống trà, Kiều thị ngồi hầu bên cạnh, ông chợt thấy bóng cây ngô đồng in lên hòn non bộ Thái Hồ. Trời về đêm se se lạnh, vắng vẻ đìu hiu, tiếng chim hạc cô đơn lẻ loi trên không trung, tiếng dế rí rỉ kêu không dứt dưới thảm cỏ đẫm sương đêm. Tuy là dinh quan, song ngay nơi chùa chiền cũng chẳng vắng vẻ tịch mịch đến nhường này. Nhân lúc thư nhàn Vương Tùng Cổ hỏi Kiều thị:
- Từ ngày nàng theo ta tới nay mới thoáng mà đã hai năm, song không hiểu vì sao chưa từng thấy nàng tươi tỉnh bao giờ.
- Phàm người ta vui buồn đều có nguyên do, - Kiều thị nói, - người buồn cảnh có vui đâu bao giờ. Có gượng gạo mà vui hay buồn cũng không được.
Thấy Kiều thị nói mập mờ, Vương Tùng Cổ bèn nói:
- Ta thấy nàng là người đức hạnh, tài năng, ta cũng không đối xử với nàng như một người vợ lẽ. Tại sao nàng không nói thực với ta?
- Người đàn bà thất tiết thì còn tốt nỗi gì? - Kiều thị nói.
- Thiếp vô cùng cảm ơn quan đã đối xử tốt với thiếp.
- Thiếp là người Biện Lương phải bước đi bước nữa, thế thì chồng trước của thiếp còn sống hay đã mất, tại sao lại đến Lâm An ở tại nhà họ Hồ?
- Thế ra người bán thiếp là họ Hồ ư?
Thấy thế Vương Tùng Cổ kinh ngạc nói:
- Nàng ở nhà ông ta tại sao lại không biết ông ta là họ Hồ? Chồng nàng là người thế nào?
- Thiếp đã bị người ta bán, nói ra thì bôi nhọ anh ấy, song không thể không nói. Huống hồ đã xa nhau hơn hai năm nay, chết cũng vô ích mà sống cũng vô ích.
Nói xong Kiều thị giàn giụa nước mắt, nghẹn ngào nức nở. Thấy Kiều thị khổ đau sầu thảm Vương Tùng Cổ cảm thấy ngay cả người vợ lẽ mình mua về cũng trở nên vô nghĩa. Ông buồn rầu rồi ngủ thiếp đi. Thấy ông đã ngủ say, Kiều thị bèn đề một bài thơ lên tường:
Nhỏ nhoi con ốc chẳng đáng bàn,
Tự nhiên tất bật tới Lâm An,
Cớ sao không phải anh em ruột,
Mà họ và tên lại rất gần.
Đề thơ xong Kiều thị đi ngủ. Sáng hôm sau Vương Tùng Cổ tới thư phòng, thấy bài thơ, biết là Kiều thị làm. Vương Tùng Cổ ngẫm nghĩ: "Con ốc sên nhỏ nhoi, chắc là nói chồng nàng là người đi cầu danh lợi, đến Lâm An thì thất lạc. Điều đó không cần phải nói, song hai câu sau ta cho rằng đó là lời nói bóng gió về họ tên chồng, buộc ta phải tìm ra. Bỗng chốc ta làm sao mà nghĩ ra được?". Vương Tùng Cổ đang lẩm bẩm một mình thì Kiều thị mang trà tới Vương Tùng Cổ nói:
- Ý bài thơ của nàng ta đã hiểu, nếu sau này dò tìm được người chồng trước của nàng thì trăng khuyết sẽ lại tròn.
Thấy thế Kiều thị vội quỳ xuống lạy:
- Thiếp cầu mong ông trăm năm phú quý, con cháu đầy đàn.
Kiều thị vui hẳn lên, mặt mày rạng rỡ, hơn hai năm nay chưa bao giờ Kiều thị vui như thế. Vương Tùng Cổ gật đầu cảm phục vì nàng không quên người chồng cũ.
Hơn một năm nữa lại qua đi, một hôm đang làm việc thì có một thầy tướng vào báo:
- Giáo thụ mới tới học phủ, vào bái kiến.
Vương Tùng Cổ thấy ông là người Biện Châu, trạc hai mươi tám tuổi. Xuất thân từ cống sinh, lúc đầu làm huấn đạo Hồ Châu, rồi được thăng chức giáo thụ. Ông họ Vương, tên Tùng Sự. Thấy tên ông không khác tên mình là mấy bèn nghĩ tới câu thơ của Kiều thị: "Cớ sao không phải anh em ruột mà họ và tên lại rất gần". Vương Tùng Cổ cứ trầm ngâm suy nghĩ, vậy thì chồng nàng là người này chăng? Ta hãy bình tĩnh xem xem có đúng không. Thế rồi ông ra nhà khách tiếp giáo thụ. Sau cuộc gặp này hai người thường đi lại với nhau, khi thì bàn việc công, khi thì hỏi han tới việc riêng. Dần dà họ trở nên thân thiết. Một là giữa chủ và khách không còn e ngại, hai là những người trí thức gặp nhau, chuyện trò rất tương đắc, cùng nhau nhâm nhi đôi chén rượu là chuyện bình thường. Thoáng cái đã hai năm trôi qua. Phía nam thành Cù Châu có núi Lạn Kha, nghe nói đó là động tiên thứ tám ở Thanh Hà. Vương Chất, một lão tiều phu thời Tấn, vào núi chặt củi, thấy hai cậu bé đang đánh cờ, Vương Chất đặt rìu xuống xem. Ván cờ chưa xong thì cán rìu của Vương Chất đã mục, cho nên gọi núi ấy là Lạn Kha sơn (núi cán rìu mục). Vì có dấu vết tiên, nên mọi người đều muốn đến nơi này du ngoạn. Vào một buổi sáng mùa xuân, Vương Tùng Sự chuẩn bị sẵn rượu và thức nhắm, sai người mang thư tới huyện mời Vương Tri huyện tới núi Lạn Kha ngắm hoa mai. Vương Tùng Cổ lập tức nghỉ việc lên kiệu đi ngay. Vương Tùng Sự còn mời ngài Diệp huấn đạo cùng tới tiếp khách. Diệp tiên sinh có tên kép là Lâm Xuân, người huyện Lạc Thanh. Ba vị đều ăn mặc thường phục, đi giày trắng tất trắng tay cầm tay thanh thản trèo lên núi, trải chiếu xuống đất ngồi uống rượu ngắm hoa. Hôm ấy trời quang đãng ấm áp, gió nhè nhẹ thổi. Mỗi cơn gió thoảng qua những cánh hoa lại rơi lả tả đậu trên vai áo hoặc bay vào chén rượu. Vương Tri huyện nói:
- Cảnh đẹp thế này chúng ta không thể phụ lòng, mỗi người dùng một vần, tức cảnh đề thi, để ghi lại cảm hứng vui sướng hôm nay.
- Như thế thì tuyệt vời, - Vương giáo thụ nói.
Thế rồi Vương Tùng Sự đưa cuốn Vận thi cho Vương Tri huyện, tri huyện cầm lấy, tiện tay mở một vần, đó là chữ "hồ". Tri huyện lại đưa cho Vương giáo thụ. Giáo thụ lại đưa cho Diệp huấn đạo. Diệp huấn đạo mở được chữ "tiên”. Cuối cùng tới Vương giáo thụ mở được một vần lại là chữ "thê", bỗng nét mặt Vương giáo thụ trở nên buồn rầu. Vả lại đề mục là chơi núi ngắm hoa, không dùng được chữ "thê", phải chăng đây là một vần hiểm, hơn nữa ông lại là người không vợ con, đột nhiên nghĩ về mình mà thương cảm. Ngài tri huyện và huấn đạo làm sao mà hiểu được nỗi lòng ấy. Vương Tri huyện cầm chén rượu trên tay, ngâm nga bài thơ mình vừa làm ra:
Núi xuân mai nở tràn thi hứng,
Chim đậu cành cây gọi rượu bầu.
Nếu không giai cú đến Kim Cốc, Ấy lũ Cao Dương bợm rượu xưa.
Diệp huấn đạo cũng đọc tiếp bài thơ của mình:
Mua được cảnh tiên chẳng mất tiền,
Hoa mai tinh khiết vẻ tự nhiên
Ngắt về không tặng Giang Nam khách
Mà tặng nàng tiên núi Cô Sơn.
Vương giáo thụ cầm vần trong tay mà vẫn chưa nghĩ ra thơ, nước mắt trào ra. Vương Tri huyện nói:
- Chính tiên sinh khơi ra cuộc du ngoạn này, tại sao lại không hứng thú nữa?

- Tôi đột nhiên bị cảm lạnh, - Vương giáo thụ nói, - bụng đau nhói cho nên thi hứng không đến, theo lệ phải phạt vì làm chậm.
Về Đầu Trang Go down
https://triamquan.forumvi.com/
Tri Âm Quán
Thành Viên Tích Cực
Thành Viên Tích Cực
Tri Âm Quán


Tổng số bài gửi : 6340
Reputation : 2
Join date : 31/07/2013
Đến từ : Thị Trấn Chũ

Đoán Án Kỳ Quan - Page 5 Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Đoán Án Kỳ Quan   Đoán Án Kỳ Quan - Page 5 EmptyWed Apr 23, 2014 6:39 pm

nhiều tác giả
Đoán Án Kỳ Quan
Phạm Tú Châu - Nguyễn Văn Thiệu (Dịch và biên soạn)
Chương 12 (C)
Cả một đời Triệu Thành được lợi, chỉ có lần quan hệ này chịu thiệt mà không biết. Chu Huyền theo Triệu Thành tới khắp mọi nơi, hết quán rượu này đến nhà chứa khác, hết sòng bạc này đến sòng bạc kia, không chỗ nào là chúng không thông thuộc. Dần dần Chu Huyền thành kẻ chơi bời du đãng không sòng bạc nào, không nhà chứa nào là hắn không đến. Ngay những vật mà vợ Triệu Thành tặng hắn cũng tiêu xài hết. Lưu Trại ở Bao Kiếm Doanh Tiền, cũng bỏ số vốn kiếm được mua gái làng chơi về tiếp khách. Mụ trở thành tú bà, quản gia và luôn thể hái hoa thưởng nguyệt. Chu Huyền thường lui tới đây. Đinh Kỳ là khách buôn bán vải vóc người Gia Hưng, đến nhà Lưu Trại chơi gái rồi quen Chu Huyền. Lưu Trại dụ dỗ bọn đánh bạc. Đinh Kỳ là một con bạc lọc lõi, Chu Huyền là một đứa mới chơi tập tọng, chỉ có mấy ván đã cháy túi, ngay cả chiếc trâm vàng mà Hoa thị tặng cũng không còn. Lúc ấy vào khoảng tháng Năm không ai chít khăn, nhận được trâm Đinh Kỳ cài ngay lên đầu. Tan cuộc, Chu Huyền buồn rầu bỏ đi. Đinh Kỳ còn ở lại uống rượu với gái làng chơi. Lúc ấy Triệu Thành tới, Lưu Trại mời Triệu Thành cùng ngồi uống rượu với Đinh Kỳ. Triệu Thành thấy chiếc trâm trên đầu Đinh Kỳ giống chiếc trâm của vợ mình, mượn xem, chợt giật mình. Đinh Kỳ nói:
- Vừa rồi Chu Nhất Quan thua bạc đã gán chiếc trâm này cho tôi.
Triệu Thành biết chắc vợ mình thông dâm với Chu Huyền, hắn nghĩ mình đã dụ dỗ Chu Huyền làm điều xấu xa này, thôi thì ta hãy che giấu cái xấu của gia đình mình đi, rồi sẽ kiếm cớ trị Chu Huyền. Kế đã định, hắn đi tìm Chu Thiệu, rất may Chu Thiệu đang ở nhà. Chu Thiệu vốn là tay hiếu động, quen biết nhiều nhà quyền quý, những người trong nha môn và cũng biết sơ sơ một vài người trong đạo lộ. Triệu Thành tới chào hỏi xong, hắn nói ngay tới việc Chu Huyền đánh bạc với Đinh Kỳ, thua bạc phải gán cả trâm vàng. Chu Thiệu nói:
- Thảo nào trong nhà đồ đạc mất khá nhiều. Hóa ra là thằng mất dạy ấy lấy đi biếu bố. Có điều thằng con tôi không có trâm vàng, không biết nó lấy ở đâu ra.
- Trong cờ bạc, được thua là chuyện thường, ông để ý làm gì đến nguồn gốc của nó? - Triệu Thành nói. - Nay ngài quan huyện Tiền Đường mới nhậm chức, sao ông không đi tố giác nó. Cũng chỉ vì tội ác Triệu Thành lâu nay đã chồng chất, bởi thế trong mấy trăm đơn kiện thì đơn kiện này ngài quan huyện xử ngay. Ông lệnh cho gọi đương sự tới xét hỏi. Vì là quan mới tới nhậm chức, không ai dám thờ ơ. Chỉ trong vài ngày đã bắt hết bọn phạm nhân tới.
Vương Tùng Sự ra lệnh xét hỏi ngay từ buổi trưa. Vào khoảng giờ Mùi, Vương Tùng Sự ra công đường, gọi các phạm nhân tới quỳ trước hiên. Thoạt tiên Vương Tùng Sự hỏi nguyên cáo Chu Thiệu:
- Ngươi có mấy người con?
- Thưa ngài con chỉ có một đứa.
- Ngươi là một người khá giả, mở cửa hàng vải vóc ở Dương Châu, lại chỉ có một đứa con sao không biết dạy dỗ nó mà để nó chơi bời hư hỏng.
- Cũng là cái nghiệp của con, bỗng chốc không làm nó thay đổi được.
Tri huyện lại gọi Chu Huyền tới, nhìn qua rồi hỏi:
- Ngươi còn ít tuổi sao không chịu học hành mà đã trai gái cờ bạc, lấy tiền của cha mẹ đi tiêu xài!
- Quả thực con không lấy tiền của cha mẹ để tiêu xài.
- Đồ nói càn! Ngươi không lấy tiền của cha mẹ thì sao cha mẹ ngươi lại đi cáo giác. Trước mặt ta ngươi còn quanh co. - Rồi quát thét. - Hãy lôi nó ra đánh cho ta.
Sai nha dạ ran. Họ lôi Chu Huyền sềnh sệch, chẳng khác nào chim ưng vồ nhạn. Chu Huyền sợ quá hồn xiêu phách lạc. Vốn là Triệu Thành muốn dựa vào việc kêu này để trị Chu Huyền, trả mối thù hắn đã gian dâm với vợ mình. Nay thấy tri huyện trị tội Chu Huyền, Triệu Thành rất hả dạ, nháy mắt ra hiệu cho nha lệ đánh cho Chu Huyền một trận nên thân. Song ngờ đâu tri huyện nhìn thấy, cho rằng nha lệ ăn tiền đút lót mà nương nhẹ. Ông hiểu ngay rằng người này quen biết nhiều người trong nha môn. Thấy Chu Huyền kêu khóc thảm thiết thương hắn còn ít tuổi, ông quát:
- Thôi! Dừng lại không đánh nữa.
Chu Huyền được tha, chẳng khác nào chết đi được sống lại.
Tri huyện gọi Đinh Kỳ hỏi:
- Ngươi dụ dỗ Chu Huyền chơi gái đánh bạc, lại cướp tiền bạc của hắn, rồi đánh Chu Thiệu trọng thương, hơn nữa ngươi là tên buôn muối, đáng khép vào tội đồ.
- Thưa ngài, - Đinh Kỳ nói, - con tới đây buôn bán tơ lụa chứ không phải là người bán muối. Đây là lần đầu tiên con gặp Chu Huyền, tại sao lại bảo con dụ dỗ anh ấy đi chơi gái đánh bạc, rồi cướp tiền của anh ta. Đây hoàn toàn là bịa đặt, vu tội cho con.
Tri huyện lại hỏi Chu Thiệu:
- Ngươi là người khá giả, nếu quả thực ngươi không bị người khác dụ dỗ thì tại sao lại đi kiện đứa con yêu quý của mình?
Chu Thiệu cúi đầu nói:
- Ngài quả thật là đèn trời soi xét.
- Chu Huyền chơi gái đánh bạc, - Đinh Kỳ nói, - có thể là do người khác dụ dỗ, chứ thực ra con không có liên can đến việc này.
- Đúng là Đinh Kỳ dụ dỗ con con, - Chu Thiệu nói - chứ quả thực không có ai khác. Tài sản mà hắn cướp đi có tờ ghi chép tỉ mỉ đây ạ. Thế rồi Chu Thiệu lấy từ trong tay áo ra một mảnh giấy trình lên quan huyện. Triệu Thành nói chen vào:
- Còn có một chiếc trâm vàng nữa ạ.
Tri huyện đùng đùng nổi giận quát:
- Ngươi là người làm chứng, ta không hỏi, sao người dám cướp lời?
Quan gọi nha lệ vả vào mồm Triệu Thành. Nha lệ dùng chiếc bàn vả bằng tre, vả một thôi một hồi tới hai mươi chiếc, quan mới bảo dừng lại. Mặt Triệu Thành sưng vác lên. Tri huyện hỏi:
- Trâm vàng hiện ở đâu?
Đinh Kỳ không dám che giấu, nói:
- Trâm vàng hiện con đang cầm.
- Đã giữ trâm, - quan huyện nói, - thì đúng là ngươi cướp của rồi.
- Con là khách, - Đinh Kỳ nói, - đến nhà Lưu Trại ngủ qua đêm, ngẫu nhiên gặp Chu Huyền, rồi đánh bạc. Chu Huyền thua, đem chiếc trâm gán cho con, đó là sự thực, còn số bạc mà Chu Thiệu tố cáo trong đơn đều là bịa đặt, xin ngài hỏi Lưu Trại thì biết rõ.
Đinh Kỳ vừa nói vừa rút chiếc trâm vàng từ tay áo ra. Nha lệ cầm lấy trình lên quan. Tri huyện cầm trâm xem, thấy chiếc trâm có bốn chữ "Vương Kiều trăm năm". Đó chính là sính lễ ngày cưới của ông. Gặp lại kỷ vật xưa, tri huyện vô cùng kinh ngạc. Ông thầm nghĩ: "Chiếc trâm này do Chu Huyền lấy trộm, nhất định là vật của vợ Chu Thiệu. Xem ra tên bán người chính là Chu Thiệu ư? Song phu nhân lại nói hắn người họ Hồ, mắt phải bị đâm mù. Nay lại là họ Chu, còn cả hai mắt, tạo sao lại thế?”. Trầm ngâm một hồi ông thấy rất khả nghi. Bảo dẫn bọn chúng đi, ngày mai sẽ thẩm vấn lại rồi kết thúc buổi làm việc.
Những người trong nha môn đều nói:
- Một việc nhỏ như thế, nặng thì cùm, nhẹ thì tha. Có gì khó đâu mà phải hỏi cấp trên.
Mọi người cho là tri huyện bất tài, chứ sao biết được ông đang nghĩ gì.
Vương Tùng Sự thu lấy chiếc trâm vào nha môn đưa cho Kiều thị, nói:
- Đúng lúc ta đang dò xét kẻ thù, không ngờ việc ấy bỗng dưng đem đến. Có một vụ kiện về đánh bạc, lại tra ra chiếc trâm này.
- Có phải nó họ Hồ không? Mắt phải có mù không?
- Chỉ vì hắn không phải họ Hồ, - tri huyện đáp, - mà mắt phải không mù nên anh mới nghi hoặc, về hỏi nàng.
- Sao thế nhỉ? - Kiều thị kinh ngạc nói.
- Thế hắn có con cái anh em gì không?
- Đều không có.
Tri huyện không sao quyết được, cứ suy đi nghĩ lại mãi rồi nói:
- Ta đã có cách, cứ truy hỏi Chu Thiệu lấy chiếc trâm ở đâu thì sẽ tìm ra thủ phạm.
Hôm sau ông ra công đường, cũng không nhận đơn, không giải quyết việc gì khác chỉ gọi những đương sự thuộc vụ kiện đang giải quyết ra xét hỏi. Tri huyện hỏi Chu Thiệu:
- Chiếc trâm vàng là của ngươi ư?
- Vâng ạ! - Chu Thiệu trả lời.
- Ngươi tự đánh lấy, hay đổi cho người khác, nó nặng bao nhiêu?
Chu Thiệu ấp úng không trả lời được, tri huyện quát:
- Hãy kẹp nó cho ta.
Sai nha vội vàng lấy kẹp ra. Chu Thiệu cuống lên nói:
- Quả thực chiếc trâm ấy không phải là của con, không biết con con lấy ở đâu.
Thằng nhỏ này hôm qua đã bị ăn đòn, nay thấy mang kẹp đến, hắn run sợ đành phải khai thực.
- Chiếc trâm ấy của vợ Triệu Thành cho con.
- Có đúng ngươi đã gian dâm với vợ Triệu Thành không?
Chu Huyền không dám trả lời. Tri huyện lập tức gọi Triệu Thành tới hỏi.
Triệu Thành quỳ trước công đường, tri huyện nhìn kỹ, thấy mắt phải hắn bị mù. Ông đột nhiên hiểu ra: "Kẻ bắt người ban ngày ấy chính là hắn. Hắn nói hắn họ Hồ cũng là do hắn sợ hậu họa nên đã giả mạo tên mà thôi". Thế rồi Vương Tùng Sự hỏi:
- Có phải ngươi thù Chu Huyền đã gian dâm với vợ ngươi, rồi dựa vào việc đánh bạc của Đinh Kỳ, ngấm ngầm xúi bẩy Chu Thiệu cáo giác con để kết liễu Chu Huyền không?
Bị nói đúng tim đen, Triệu Thành vô cùng kinh hãi, hắn cố chối quanh:
- Quả thực Chu Huyền có đánh bạc tại nhà Lưu Trại, chính mắt con trông thấy rồi báo cho cha hắn. Bởi thế hắn trả thù, cố ý vu khống vợ con cho hắn.
- Điều ấy có thể có - Tri huyện nói. - Ngươi có biết vợ ngươi lấy chiếc trâm này ở đâu không?
- Việc ấy con không biết.
- Ngoài vợ ra ngươi còn mấy thiếp và nàng hầu.
- Con còn hai thiếp và bốn nàng hầu.
Quan huyện thầm nghĩ: "Nó khai đúng như Kiều thị nói, thế thì đúng rồi". Quan huyện hỏi:
- Ngươi là người thế nào mà lại có tới hai thiếp bốn nàng hầu. Nhất định ngươi đã cưỡng đoạt người ta rồi.
- Thưa ngài, con là người an phận thủ thường, sao có thể làm những điều thương luân bại lý như thế.
- Ta xem ra ngươi là một tên gian ác. - Rồi quan huyện hỏi tiếp. - Tại sao mắt ngươi lại mù?
Nghe quan hỏi thế, Triệu Thành như sét đánh ngang tai, cứng họng không sao nói được. Tri huyện biết đích xác là hắn rồi. Ông nói:
- Ngươi là một tên gian manh, không biết ngươi đã gây ra biết bao tội ác, hãy khai ra mau, ta sẽ tha chết.
- Thưa ngài, quả thực con không làm điều gì xấu xa.
Tri huyện quát:
- Hãy kẹp nó cho ta!
Ba bốn nha lệ xông tới, lôi tuột giày tất hắn ra, mắc kẹp vào. Triệu Thành kêu như bò chọc tiết, song nhất định hắn không khai. Tri huyện viết một tờ trát đỏ, gọi hai nha lệ sừng sỏ tới khe khẽ nói với họ. Nha lệ tuân lệnh chạy như bay ra khỏi công đường. Chẳng mấy chốc họ đã giải vợ cả, hai thiếp và bốn nàng hầu của Triệu Thành tới nha môn, một xâu phạm nhân bị trói quỳ trước công đường. Nha lệ bẩm báo:
- Thưa ngài vợ con hắn, nha lệ đã bắt hết giải về đây.
Lúc ấy Triệu Thành bị ba chiếc kẹp kẹp chặt, ngất đi song hắn không chịu khai nửa lời. Vợ con hắn trông thấy khiếp mất vía. Tri huyện gọi Hoa thị tới, đưa chiếc trâm vàng cho thị xem. Hỏi:
- Có phải ngươi đã cho Chu Huyền chiếc trâm này không?
Vợ Triệu Thành thấy chồng ngất lịm đi như chết, lại thấy tri huyện rất oai nghiêm, không khác nào một vị thánh sống, đâu dám không nhận tội. Thị vội vàng nói:
- Thưa ngài đúng là con cho anh ấy.
- Ngươi và Chu Huyền thông dâm đã lâu chưa?
- Thưa ngài đã gần một năm rồi. - Hoa thị nói. - Cả lớn lẫn bé trong nhà con đều thông dâm với Chu Huyền chứ không phải chỉ mình con.
- Bắt đầu từ đâu?
- Vốn là chồng con dụ dỗ Chu Huyền đến nhà ngủ đêm, Hoa thị nói, - thế rồi thông dâm.
- Hóa ra là như thế. - Tri huyện nói, rồi lại hỏi tiếp.
- Chiếc trâm này ngươi lấy ở đâu? Tại sao chồng ngươi bị mù mắt? Hằng ngày hắn tàn ác thế nào? Phải khai thực, ta sẽ tha tội.
Hoa thị chỉ sợ những chiếc kẹp kia kẹp vào chân mình, nên thị đã khai hết từ đầu đến cuối về những việc gian ác hàng ngày của chồng và việc bắt cóc rồi bán Kiều thị... Tri huyện nói:
- Ta đã biết hết rồi không cần phải nói nữa.
Tri huyện lệnh tháo kẹp cho Triệu Thành, chọn chiếc gậy to nhất đánh hắn một trăm chiếc. Máu thịt trên hai chân của Triệu Thành bay tung tóe. Thấy Triệu Thành sắp toi mạng, tri huyện gọi Hoa thị nói:
- Ngươi là đồ đê tiện, đã giúp chồng ngươi làm điều ác, lại mắc tội gian dâm, ngươi cũng phải đánh bốn mươi gậy.
Còn bọn thiếp và gái hầu mỗi đứa đánh hai mươi gậy. Rồi ông cầm bút phê:
Xét thấy Triệu Thành độc ác như lang sói, lòng dạ hắn như rắn rết. Bắt vợ con người khác, gian dâm tới hàng trăm người. Cướp đoạt tài sản của người khác. Hắn còn dụ dỗ trai tơ đễ hành dâm. Tội ác hắn chồng chất không sao kể xiết. Hắn còn đầu têu cho thê thiếp hành dâm làm thương luân bại lý. Hoa thị ngẫu nhiên cướp trâm vàng để tặng kẻ hoan lạc với thị. Triệu Thành xúi bậy kiện tụng đễ rữa mối nhục riêng, Đinh Kỳ bị hắn hiềm khích. Chu Thiệu bị hắn xúi bẩy. Tuy mọi việc đều có nguyên do, song tạo ra nghiệp ác này chỉ xuất phát từ Triệu Thành. Chặt hết trúc không ghi hết tội ác của hắn. Căn cứ vào tội ác ấy thì xé xác hắn ra từng mảnh cũng chưa thỏa đáng. Nhưng việc trước khó mà liệt kê hết. Âm mưu không có chứng cứ. Hắn bí khép vào tội thành đán(1) Quả thực vẫn chưa đền hết tội. Lưu Trại là gái bán hoa, lại chứa cờ bạc, phải phạt bằng gậy để răn đe. Đinh Kỳ là lái buôn lại ngang nhiên đánh bạc, phải trừng phạt để răn đe. Chu Huyền bị dụ dỗ cờ bạc, trai gái, phạt bằng gậy để răn đe. Hoa thị và thê thiếp của Triệu Thành đánh đau bằng roi để cho chúng biết nhục, theo pháp luật phải bán cho nhà quan làm nô tì. Chiếc trâm vàng nhập kho. Chu Thiệu được miễn tội.
(1) Thành đán: một loại hình phạt có từ thời Tần, Hán. Ban đêm thì coi giặc giã ban ngày thì đắp Trường Thành.
 
Phán quyết xong, các phạm nhân đều được giải ra và gọi người bảo lãnh. Giam Triệu Thành vào ngục. Ngay đêm ấy hắn đổ bệnh. Thương thay cả một đời độc ác, đến nỗi phải chết trong tù ngục. Vợ con rơi vào tay người khác. Đúng là:
Thiện ác cuối cùng sẽ báo ứng.
Có điều chỉ sớm muộn mà thôi.
Vương Tùng Sự trở về tư dinh kể lại chuyện này cho Kiều thị. Được trả mối thù xưa, Kiều thị vô cùng mãn nguyện, chắp tay lạy tạ trời đất. Chiếc trâm này phải giao lên cấp trên, nên họ đánh một chiếc trâm khác nhập kho. Dân chúng ở Lâm An biết được đã xử xong vụ kiện này, chứ sao biết được sự thực bên trong của vụ án. Qua vụ án này tri huyện đã rửa được mối hận cho mình. Thời ấy ai ai cũng hết lời ca ngợi tri huyện, từ một vụ cờ bạc nhỏ mà đã tìm ra kẻ xúi bẩy, trừ được một tên đại gian ác. Tiếng tăm quan huyện ngày một lừng lẫy. Ba năm mãn nhiệm, ông được thăng lên chức thông phán phủ Thiệu Hưng. Sau đó vì công tích lớn, ông lại được thăng làm thái thú phủ Thiệu Hưng. Làm được hơn một năm thì Kiều thị ra sức khuyên ông trí sĩ, trở về Biện Lương. Vương Tùng Sự theo lời Kiều thị, lập tức dâng đơn lên thượng cấp, cáo bệnh về hưu. Các nha môn đều phê chuẩn theo nguyện vọng, Vương Tùng Sự thu xếp hành lý trở về quê.
Thuyền đến Tô Châu, họ nhớ tới ân đức của Vương Tri huyện, bèn ghé thuyền vào Xương Môn, hỏi thăm nơi ở của Vương Tri huyện, biết Vương Tri huyện ở Tiễu Hương Kinh, Linh Nham Sơn, Vương Tùng Sự mua sắm lễ vật, neo thuyền tại Độc Thôn, cùng Kiều thị đi kiệu tới Tiễu Hương Kinh. Trước tiên họ sai người tới đưa danh thiếp. Vương Tri huyện lập tức ra nghênh tiếp. Vốn là Vương Tri huyện trước đây từng trả thiếp cho Vương Tùng Sự, ân đức cảm động tới trời, bởi thế mà phu nhân của ông năm mươi mốt tuổi vẫn sinh được một con trai, đặt tên là Đức Hưng, lúc ấy đã bảy tuổi, học hành rất thông minh. Khi ra cửa đón Vương Tùng Sự, thấy hai chiếc kiệu bèn hỏi:
- Tại sao lại có hai chiếc kiệu?
Tùy tùng đáp:
- Phu nhân của thái thú cũng tới đây.
Vương Tri huyện thấy không yên tâm, sai người nói với Vương Tùng Sự rằng:
- Ta với ngài thái thú là bạn cũ nên mới ra đón tiếp ngài, còn phu nhân của ngài không có lý gì tới đây gặp ta.
Người tùy tùng nói với Vương Tùng Sự rằng Vương Tri huyện không cho phu nhân thái thú tới gặp. Thực ra họ cũng không hiểu vì sao. Kiều thị quay kiệu về thuyền. Vương Tùng Sự lưu luyến Vương Tri huyện, hai hôm sau mới cáo từ.
Tới Biện Lương, thời thế đã yên hàn. Vương Tùng Sự tìm một ngôi nhà nhỏ có vườn hoa ở Biện Lương, hàng ngày hai người sống thanh nhàn trong khuôn viên yên tĩnh này. Kiều thị cuối cùng vẫn không có con, Tùng Sự nuôi đứa con trai của anh họ làm người thừa tự, đặt tên là Linh Phục, có nghĩa là con nuôi. Vương Tùng Sự sống được mấy năm thì qua đời. Kiều thị ở vậy mười lăm năm sau mới chết. Trước lúc lâm chung, dặn Linh Phục rằng: - Lúc còn trẻ ta mắc tội với cha con, khi ta chết không được chôn cùng cha. Di hài của cha chôn chỗ mộ phần tổ tiên, còn quan tài của mẹ thì chôn ở chỗ khác.
Linh Phục nghĩ bụng: "Xưa kia cha mẹ ta rất thương yêu nhau, làm gì có chuyện mắc tội". Định hỏi lại xem sao thì mẹ đã nhắm mắt trút hơi thở cuối cùng. Linh Phục nghĩ rằng bà bỗng chốc bị lẫn mà dặn như thế, chứ đâu biết được những chuyện đã xảy ra trước đây. Thời ấy tại nhà Triệu Thành bà mơ thấy ba ba nói, sau này nếu không làm món ba ba cho Vương giáo thụ ăn thì làm sao có chuyện giáo thụ thấy vật mà nhớ đến người, rồi thổ lộ việc riêng của mình với Vương Tri huyện. Cái gọi là giết ta cũng sớm, đốt ta cũng sớm, quả là linh nghiệm thật. Nếu thời ấy chiếc trâm vàng không bị vợ Triệu Thành cướp đi thì sau này làm sao mà báo thù Triệu Thành được. Cái gọi là tìm được cũng tốt, tìm không được cũng tốt cũng thật đúng với điều trong mộng. Lúc ấy lấy Vương Tùng Sự sau đó bị Triệu Thành bắt cóc. Cái gọi là ông Vương này cũng chưa hết, thì sau này lại được Vương Tri huyện trả lại cho Vương Tùng Sự, ấy là cái gọi ông Vương kia cũng chưa hết. Giấc mộng ba ba cái gì cũng đúng cả. Người đời sau đã làm một bài thơ ca ngợi Vương Tri huyện không vì hiếu sắc mà quên nghĩa, đã làm cho vợ chồng Vương Tùng Sự được tái hợp. Bài thơ như sau:
Thấy sắc ai mà chẳng động lòng,
Thương thay người đẹp gặp gian manh.
Năm năm trăng lạnh Tây An huyện,
Khách quán đào hoa rực rỡ khai.
Bút tích mới hay tân giáo thụ,
Hầm canh mới biết món ăn xưa.
Nếu Vương Tùng Cổ không trọng nghĩa,
Ngọc bích sao về với Triệu quân.
Nhân phu nhân Vương Tri huyện năm mươi tuổi sinh con trai, về sau lại đỗ tiến sĩ nối tiếp mạch thư hương, thấy Vương Tri huyện được báo đền ân đức, người đời sau đã làm một bài thơ tứ tuyệt để ca ngợi:
Những mong cưới thiếp để sinh con,
Thiếp mất đào hoa rực rỡ xuân.
Chẳng phải học tài duyên không dứt,

Mà vì ân đức mới hiển vinh.
Về Đầu Trang Go down
https://triamquan.forumvi.com/
Tri Âm Quán
Thành Viên Tích Cực
Thành Viên Tích Cực
Tri Âm Quán


Tổng số bài gửi : 6340
Reputation : 2
Join date : 31/07/2013
Đến từ : Thị Trấn Chũ

Đoán Án Kỳ Quan - Page 5 Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Đoán Án Kỳ Quan   Đoán Án Kỳ Quan - Page 5 EmptySun Apr 27, 2014 6:10 pm

nhiều tác giả
Đoán Án Kỳ Quan
Phạm Tú Châu - Nguyễn Văn Thiệu (Dịch và biên soạn)
Chương 13
Nói Bừa Nên Thiệt Mạng
Kiên Nhẫn Được Minh Oan
Ngô Đan Dương Doãn Tôn Hử bị tay chân là Đới Viên, Cừu Lãm giết, bức vợ là Từ thị phải lấy hắn. Từ thị lấy cớ là đang có tang, hẹn bao giờ mãn tang sẽ lấy. Sau đó Từ thị ngầm tính kế với người tâm phúc của chồng. Đến ngày hẹn, quả nhiên thấy Từ thị ăn mặc rất đẹp, thản nhiên nói cười như không. Đới Viên nghĩ Từ thị là đàn bà, chắc không gây tai họa, liền sai người tới thăm dò. Thấy Từ thị ăn mặc rất đẹp cười nói tự nhiên lại càng không nghi ngờ, bèn ăn mặc rất sang trọng vào phủ cầu hôn. Tới nơi vừa mới chào hỏi thì Từ thị nói:
- Các người đâu?
Từ thị vừa nói dứt lời thì người hai bên xông tới, chặt đầu Đới Viên. Nhân lúc không để ý tới, họ cũng giết luôn Cừu Lãm. Từ thị thay lại tang phục, dâng hai chiếc đầu lên cúng chồng rằng mình đã trả được mối thù. Một con người vừa can đảm vừa khôn khéo, xứng đáng là đấng trượng phu trong nữ giới.
 
Sau đó có Tạ Tiểu Kiều, một người từng báo thù cho cha và anh, có thể sánh ngang với Từ thị. Còn ở chỗ khác lại thấy có chuyện vợ báo thù cho chồng. Ngột Mộc Bộ vợ chết, đã giết chồng người, lấy vợ người ta làm vợ kế. Người ấy rút dao đâm Ngột Mộc. Ngột Mộc hỏi vì sao, người ấy bảo ta trả thù cho chồng. Ngột Mộc không giết người đàn bà ấy mà đuổi đi rồi lấy vợ khác. Người đàn bà ấy tuy không hầu hạ kẻ thù, song cũng không biết tự bảo vệ mình để báo thù.
 
Lại có một Tổng binh ở Quảng Đông, giết người rồi cướp vợ làm thiếp. Nhân lúc hắn vào ngủ người đàn bà ấy cũng rút dao giết, Tổng binh sợ quá bỏ chạy. Đúng lúc ấy đứa ở đóng cửa, giữ người đàn bà lại, song không dám giết. Đến khi Tổng binh cho người tới bắt thì người đàn bà ấy đã tự vẫn. Đó là những người không quên chồng, không để thân mình bị ô nhục, song không trả thù được. Nếu như họ suy tính kỹ, biết rằng trước mắt không thể địch nổi thì sao không chờ sau này, chẳng chóng thì chầy mình cũng minh oan được cho chồng, chứ không nên liều mình cho hả nổi giận nhất thời. Nếu được thế thì người đàn bà này có thể sánh ngang với Từ phu nhân, Tạ Tiểu Kiều.
Chồng oan, thề tất báo,
Con cái nhờ ai nuôi?
Nhẫn nhục gần mười năm,
Đèn tàn đêm nuốt hận.
Chỉ ghét bọn bất lương,
Coi ta như gà mái.
Có chí ắt trả thù,
Phép vua không mất được.
Chồng chết con vẫn còn,
Con còn thù sẽ trả.
Đẹp thay nữ anh hùng,
Được muôn đời ca ngợi.
Người đàn bà này họ Tiền, vốn là con gái của một vị thân hào. Chồng chị họ Thủy, là họ có tiếng ở Thanh Hà. Bố chồng hiếu liêm(1) từng làm quan châu huyện. Gia đình nhà chồng giàu có được ba người con trai, con trưởng là Bá Tấn, con thứ là Trọng Duy, chồng chị là con út tên là Phúc Miện. Thuở nhỏ ba anh em thường chơi với nhau, anh đôi khi bắt nạt em, và em cũng có khi hỗn láo, song chẳng bao giờ để bụng, cãi nhau xong rồi thôi chứ không hề hiềm khích nhau. Đến khi mười bốn mười lăm tuổi, có khi anh lên mặt dạy bảo em, còn em thì ghét anh, tỏ ra ta đây người lớn. Đôi khi tỏ ra ta là chủ thì anh cho rằng em khinh thường mình, điều ấy cũng chẳng ngại gì. Song đến khi lập gia đình thì lòng dạ họ thay đổi hẳn. Trong ba nàng dâu thì ai cũng tỏ ra kiêu căng về gia thế của mình, có người thì tự hào về nhân phẩm, có người thì lên mặt vì tiền của, có người thì tự mãn về tài năng, thêm vào đó mẹ chồng lại kẻ trọng ngươi khinh và bọn nô tì thường hay xúc xiểm, làm lộn bậy cả lên.
(1) Hiếu liêm: cử nhân.
 
Suối kia vốn cùng nguồn,
Sau chia thành nhiều nhánh.
Theo thế đất vòng vèo,
Không bao giờ hợp lại.
Trong ba anh em, thì Bá Tấn lấy vợ ngay từ khi cha chưa làm hiếu liêm, vợ là con một nhà nho nghèo, đó là một người rất tiết kiệm, biết yêu quý tiền bạc. Bá Tấn cùng cha đồng cam cộng khổ, và cũng không thoát khỏi cảnh vất vả trong nhà. Rất may cha thi đỗ, mới kiếm được chút chức sắc, song cũng chỉ được cái tiếng mà thôi chứ không chịu học hành, không chịu giao thiệp với ai, anh ta chỉ là thần giữ của. Trọng Duy vốn có chút tài vặt, được cha cưới vợ cho khi vừa mới đỗ đạt. Vợ Trọng Duy là con một nhà giàu, có nhiều của hồi môn, bởi thế Trọng Duy kết thân với những danh sĩ. Thúc Miện lại được cha cưới vợ sau khi ông đã làm quan. Cho nên bố vợ là một danh gia vọng tộc, Thúc Miện nhờ vào thế lực cha nên học hành thành đạt. Theo Bá Tấn nói, trong ba người thì hai em không biết nỗi gian nan vất vả, không biết được cái gian truân của công việc trong nhà. Trọng Duy thì chê cười anh cả là một gã keo kiệt, em út là đứa khinh bạc. Thúc Miện khinh bỉ anh cả là kẻ bẩn thỉu, bụng dạ xấu xa, anh hai là kẻ tham danh, bất tài. Ba anh em họ dần dần trở thành:
Thế như nước với lửa,
Dần dần thù địch nhau.
Không ngờ từ sau khi họ có vợ thì mâu thuẫn ngày càng sâu sắc Vợ Bá Tấn là Cao thị, nói:
- Ta là dâu cả.
Vì không còn mẹ chồng nên phần lớn việc nhà đều do Cao thị cai quản, tất cả mọi việc đều đứng ra lo toan. Trong nhà, Cao thị là người có quyền hành nên bọn nô tì đua nhau nịnh nọt. Vợ của Trọng Duy là Vương thị, vì giàu có nên tung tiền ra như rác để áp đảo mọi người, bọn nô tì hùa theo xu phụ. Còn Tiền thị tuy là con dâu thứ ba, lại cậy mình là con nhà gia thế nên cũng không chịu lép, hơn nữa lại có chút tài, kẻ dưới không thể khinh thường bắt nạt, ngược lại họ sợ Tiền thị nên không dám gần. Ba người này quả là:
Chân vạc như Ngô Sở,
Can qua ắt nổ ra.
Xưa nay trong anh em, chị em dâu khi xảy ra điều này tiếng nọ thì người chồng phải biết dàn hòa, không nghe theo vợ sẽ không xảy ra cãi cọ. Anh em trai có gì tức nhau thì vợ phải biết phân giải, ngăn ngừa thì không sinh ra hiềm khích. Song anh em họ mỗi người một khác, không ai chịu ai. Tuy đã ăn riêng song họ vẫn mưu chiếm ruộng đất tài sản chung để dùng riêng. Tuy cùng ở một nhà nhưng họ luôn xoi mói nhau, rình mò nhau từng li từng tí. Kẻ tiếng chì người tiếng bấc, gần như ngày nào cũng có chuyện. Hơn nữa Bá Tấn lại có một người anh vợ là Tiến Tử An, một người vô cùng keo kiệt, chuyên xúi bẩy làm những điều xấu xa. Bên cạnh Trọng Duy lại có hai người khách giỏi nịnh nọt, khéo đặt điều, đó là Hoàng Trung Bạch và Trúc Tiêu Nhiên. Bên cạnh Thúc Miện lại có những bạn luôn ngông cuồng phóng đãng, đó là Cung Lạc Quân và Trương Quốc Tộ. Họ chỉ biết phá tung ra chứ không muốn hàn gắn. Bá Tấn là người trọng tiền bạc khinh tình nghĩa, Tiền Tử An xúi bẩy rằng:
- Hai người em thả sức kết bạn, chỉ riêng anh ta phải làm việc vất vả thôi thì cứ chia quách ra người nào phận nấy, mình tự lo lấy mình.
Trọng Duy là một kẻ hiếu danh, Hoàng Trọng Bạch và Trúc Tiêu Nhiên lại nói:
- Bá Tấn là một tên điền chủ, Thúc Miện là đứa trẻ ranh, thường chê bai anh trước mặt người ngoài.
Cung Lạc Quân, Tương Quốc Tộ đều là những kẻ không đứng đắn, thường là sau khi uống rượu cứ oang oang ca ngợi Thúc Miện rằng:
- Ông là người mưu lược, không nên như anh cả yên phận với đống tiền trước mắt, rằng Thúc Miện là một bậc chân tài, sẽ thăng tiến rất nhanh, không như người anh thứ hai toàn dựa vào đút lót cầu cạnh đánh lừa mấy vị quan trên. Những kẻ ăn người ở cũng hùa theo xúi bẩy. Đúng là:
Ngả nghiêng vì đứa ở, Lung lay bởi bạn bè.
Cây tử kinh ngoài ruộng,
Khó trở lại tốt tươi
Hiển nhiên tất cả đều dẫn đến chia rẽ, mà chia rẽ sẽ phải loại trừ nhau. Trong đó kẻ nào có mưu mô sẽ thắng, bè cánh đông sẽ thắng, kẻ nào đơn độc sẽ thua. Trọng Duy là một người đầy toan tính, biết anh cả là một người keo kiệt ngu đần, hàng ngày hắn thả ra một ít lợi lộc để làm thân với anh, thường xúi bẩy anh làm điều xấu, rồi đứng giữa châm chọc khích bác. Bá Tấn thấy Trọng Duy tôn kính mình, hơn nữa Trọng Duy học hành có tiếng tăm, nghĩ rằng thế nào Duy cũng đỗ và rất tin tưởng ở Trọng Duy. Vương thị vợ Duy thấy chồng xúi bẩy cũng tìm cách lôi kéo chị dâu cả, nay biếu cái này mai cho cái khác thả của ra để mua chuộc, dần dần thân thiết như chị em ruột và luôn nói xấu vợ chồng Thúc Miện.
Kế giỏi sai khiến người
Của nhiều lòng dễ dãi.
Hàn, Ngụy vừa hợp tung
Hàm Cốc cũng nguy ngập.
Thúc Miện là một người phóng đãng, không tự kiềm chế được thường hay nói những thiếu sót của anh chị cả với Trọng Duy. Song không ngờ Trọng Duy lại đem chuyện ấy nói với anh cả. Thúc Miện cũng nói với anh cả những sai sót của anh chị hai, thì anh cả lại đem chuyện ấy nói với Trọng Duy. Bởi thế hai người càng thù hận Thúc Miện, càng cấu kết với nhau ngày một chặt chẽ. Song Thúc Miện hoàn toàn không biết gì. Tiền thị đã thấy rõ điều đó nói với chồng rằng:
- Hai người rất thân thiết nhau, anh cứ thẳng như ruột ngựa, nói năng bừa bãi, e rằng họ sẽ oán trách anh, lần sau anh phải lưu tâm giữ mồm giữ miệng.
- Tính ta xưa nay vốn thẳng thắn, - Thúc Miện nói, - anh em ruột với nhau có gì thì cứ nói, ta không thể như câm như điếc được.
- Tuy là thế, - Tiền thị nói, - song cũng phải giữ gìn mới được.
Song Thúc Miện nào có chịu nghe lời.
Một hôm Thúc Miện uống rượu ở một nhà nào đó trở về, thấy hai ni cô ở nhà anh hai đi ra. Thúc Miện máu sôi lên, nói:
- Những ni cô này quen thói dụ dỗ đàn bà, cho hòa thượng vụng trộm! Anh Hai suốt ngày ở trường, các ngươi đến làm gì?
Thế là Thúc Miện làm ầm lên, đánh ni cô, rồi đánh cả người coi nhà của anh hai. Vương thị biết được rất căm tức. Vợ Bá Tấn cố ý dựng đứng lên rằng:
- Thúc Miện bảo ni cô và Vương thị gian dâm với hòa thượng, cho nên đánh ni cô.
Chuyện ấy làm cho Trọng Duy tức giận. Thúc Miện về nhà, Tiền thị trách móc, nói:
- Người nào phận nấy, việc gì đến anh? Cho dù ni cô có lai vãng tới thì anh nói việc ấy với anh Hai, lần sau không cho họ đến là được rồi, cớ sao lại làm chị ấy mất thể diện như thế?
Thúc Miện vốn là người cương trực, thẳng thắn, lại nghiện rượu bèn nói:
- Ngay đến cô cũng muốn gian dâm với hòa thượng ư?
Thấy chồng say, Tiền thị cũng không dám khuyên giải nữa.
Nhũng kẻ nghiện rượu,
Thường sống bê tha.
Nói năng bừa bãi,
Làm hại chính mình.
Một hôm Cao thị đánh đứa ở đến ba bốn mươi roi mà vẫn chưa thôi. Thúc Miện đang say vội chạy sang. Thấy Cao thị ngồi ở trên, còn anh cả đang đánh đứa ở. Thúc Miện hỏi mới biết nó lỡ tay đánh vỡ một chiếc bát. Đang còn hơi men, Thúc Miện nói:
- Tôi tưởng việc gì, hóa ra cái việc cỏn con ấy mà đánh nó ghê gớm như thế. Lỡ ra nó chết thì hàng ngàn hàng vạn chiếc bát cũng chẳng còn nữa đâu. Chị cả thì ngồi như thế mà anh thì đánh người, thật là đẹp mặt!
Thúc Miện cứ nói đi nói lại tới mấy lần rồi bỏ đi. Lúc ấy Bá Tấn xấu hổ, mặt đỏ bừng thôi không đánh nữa. Cao thị điên tiết nói với chồng:
- Chú út coi giữ chúng ta như thế thì kẻ ăn người ở ta sai bảo sao được.
Bên này Tiền thị cứ rày la chồng mua thù chuốc oán, nhưng Thúc Miện nào có lọt tai. Bên kia thì chị cả từ lâu đã căm ghét Thúc Miện đến tận xương tủy. Còn Thúc Miện cứ rượu vào lời ra, không giữ được mình, nên không những các anh muốn đánh, mà ngay cả bọn gia nhân của họ cũng ghét Thúc Miện. Đến như trước đây cha yêu quý Thúc Miện là thế, bây giờ thấy Thúc Miện nát rượu, lại thêm hai người anh nói xấu, nên cha cũng ghét Thúc Miện. Nhiều lần khuyên bảo con, song đã thành cố tật thì làm sao mà sửa được. Giá ở ngay nhà thì Tiền thị còn ngăn cản được, nhưng ra ngoài quần tam tụ ngũ, say mèm, hò hát nói năng bừa bãi thì cấm làm sao. Khi say bảo chị cả dung túng cho bọn ni cô ra vào, rồi bảo anh chị đánh bọn con hầu gần chết, hai anh sợ vợ, khi say Thúc Miện đem chuyện đó ra giễu cợt. Tất cả những chuyện ấy đều có thật. Bởi thế hai người anh tức giận, nói:
- Dứt khoát ta không để nó thế được, sau này nó sẽ dựa vào chuyện phòng the, việc nhân mạng để o ép ngăn cản mình. Thôi thì đánh nó chết đi là yên chuyện, rồi bảo đó là do cha, bắt cha phải nhận, chả nhẽ vì chết một đứa con mà cha chịu để hai đứa con kia phải đền mạng? Nhất định buộc cha phải nhận. Mà cha đã nhận rồi thì ai làm gì được mình. Thế rồi chúng quyết ra tay.
Hả dạ trừ mối hận,
Kể gì đến người thân.
Hôm sau khi ăn cơm xong, thấy Thúc Miện từ ngoài quán rượu trở về, họ không cho về nhà, nói:
- Cha bảo em ra vườn sau nói chuyện.
Thúc Miện ra vườn sau, thấy hai anh đang ngồi ở đó, cũng không đứng dậy. Thúc Miện nói:
- Cha đâu? Có chuyện gì thế?
Bá Tấn nói:
- Cha bảo ngươi ra ngoài vu cáo chị cả gian dâm với hòa thượng, đánh chết người, làm bại hoại gia phong.
- Làm gì có chuyện đó, - Thúc Miện nói, - hãy mời cha đến cho rõ trắng đen.
Hai người anh nào có chịu nghe, cùng lúc ra tay, dùng búa, gậy đánh tới tấp. Thúc Miện chết ngay tức khắc.
Tình máu mủ không còn,
Nói bừa nên chuốc họa.
Nói năng nên thận trọng,
Không nói, chẳng ai thù.
Sau đó chúng mời cha đến và cho người tới nói với Tiền thị rằng:
- Chồng Tiền thị trúng độc, chết ngoài vườn sau, đến mà khâm liệm.
Cha tới, chúng nói:
- Thúc Miện vu cho chị cả gian dâm, giết chết người, không thể tha thứ được, chúng tôi đã đánh chết rồi. Nếu cha che chở cho một đứa đã chết thì ba đứa cùng chết. Chúng tôi đã cho người đi gọi vợ nó, nếu vợ nó nói ra những điều không tốt thì hôm nay chúng tôi cũng kết liễu luôn đời nó.
- Anh em cùng một mẹ đẻ ra, - người cha nói, - sao các người độc ác thế!
Nói xong nước mắt ông giàn giụa. Sau đó thấy Tiền thị tay ôm con nhỏ, dắt theo hai đứa lớn, một đứa lên năm, một đứa lên ba đi tới, hai người bác nói:

- Chồng ngươi ngỗ ngược, cha đã đánh chết rồi, ngươi hãy thu xếp chôn cất chồng. Cha đánh chết đứa con ngỗ ngược cũng chẳng sao.
Về Đầu Trang Go down
https://triamquan.forumvi.com/
Tri Âm Quán
Thành Viên Tích Cực
Thành Viên Tích Cực
Tri Âm Quán


Tổng số bài gửi : 6340
Reputation : 2
Join date : 31/07/2013
Đến từ : Thị Trấn Chũ

Đoán Án Kỳ Quan - Page 5 Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Đoán Án Kỳ Quan   Đoán Án Kỳ Quan - Page 5 EmptySun Apr 27, 2014 7:00 pm

nhiều tác giả
Đoán Án Kỳ Quan
Phạm Tú Châu - Nguyễn Văn Thiệu (Dịch và biên soạn)
Chương 13 (B)
Thấy thế Tiền thị nghĩ: "Những tên tâm phúc của hai người ấy là Lai Phúc, Lai Thọ, Tiến Quý, Văn Đồng vẫn đang đứng ở đây chắc hai người này đã đánh chết chồng mình. Song họ khoác vào cổ cha. Ta là đàn bà, lại một thân một mình thì biết đâu mà kêu oan. Nếu ta không biết thân phận thì sẽ bị họ hãm vào chỗ chết, ba đứa nhỏ cũng không còn đường sống, và mối oán thù như biển cả này cũng không trả được". Đành phải nói với bố chồng rằng:
- Anh ấy nói năng bừa bãi thì tự chuốc lấy cái chết thôi. Cha có đánh chết, con cũng không dám nói gì. Con chỉ mong cha hãy trông nom lấy ba đứa cháu này, bảo toàn lấy chút máu mủ của anh ấy!
Bố chồng đang sợ con dâu không biết thân biết phận sẽ bị họ giết chết. Anh em nó sẽ trừ khử cả ba đứa trẻ này thì chị ấy sẽ tuyệt tự. Thấy con dâu nói thế, nước mắt ông trào ra, nói với Bá Tấn, Trọng Duy rằng:
- Nó đã không nói gì thì chúng mày phải trông nom đến con của nó. Bố chồng lấy ra ba mươi lạng bạc, sai người mua quan tài tang phục. Bá Tấn coi chặt cửa sau, không cho gia nhân tùy tiện ra vào. Trọng Duy đứng chặn lấy cửa vườn chỉ cho hai ba gia nhân và vợ hắn vào để giúp việc khâm liệm.
Tro nguội không bùng lửa,
Chim lồng chẳng thể bay.
Nỗi oan không rửa được.
Đạo trời mù mịt thay.
Ba đứa con trai mới năm tuổi thì sao hiểu nổi sự đời, chỉ có Tiền thị vừa lo khâm liệm vừa khóc lóc, chỉ khóc rằng sao chồng đã vội vã bỏ vợ con mà đi, rằng chị một mình không thể nuôi dạy con cái, không dám hé ra một lời oán hận về chồng chết oan. Khi cùng bọn đàn bà khiêng thi thể chồng, Tiền thị lén lút giấu chiếc búa sắt dùng để giết người đi. Khi hai bên khâm liệm thì người này cứ ngỡ người kia cất đi, không hỏi lại. Xác đưa về nhà Tiền thị thay chiếc áo máu ra giấu cùng với chiếc búa vào một chỗ kín. Khâm liệm xong, quan tài để ngay tại nhà, những người trong thân tộc đều biết rằng Thúc Miện đột tử, trong đó có điều gì bất minh, hai người này giữ kín người ngoài không ai biết được. Họ lại thấy Tiền thị không nói năng gì, mà dù có bất bình cũng không làm sao được. Không còn cách nào khác bố chồng đành phải chia gia tài, và Tiền thị được chia nhiều hơn. Bá Tấn, Trọng Duy biết rõ việc ấy cũng không dám suy bì. Song chúng đuổi hết những gia nhân đi, chỉ để hai người lão bộc ngu đần đi thu tô cho Tiền thị và hai đứa ở ngu xuẩn cho Tiền thị sai vặt trong nhà. Những người thân thích đến chúng đều sai người nghe ngóng xem Tiền thị có nói gì không. Song Tiền thị chỉ nói:
- Tôi là quả phụ, không gặp đàn ông, kể cả người thân tôi cũng không gặp.
Tất cả những người thân thích khi có công việc đến mời, Tiền thị đều từ chối là đang có tang không đi. Đến khi xong tang, phàm là những người chí thân, những việc hiếu hỉ bất đắc dĩ phải đi, thì hai người chị dâu đều sai người đi theo dõi, song Tiền thị cũng chẳng nói gì, vì chị cho rằng có nói ra cũng vô ích, mà có khi còn mang vạ.
Tai điếc như bức vách,
Chẳng hé răng nửa lời.
Đêm phòng the vò võ,
Ngậm ngùi nuốt đắng cay.
Cao thị và Vương thị là những đứa đầy mưu kế, sợ rằng Tiền thị không quên thù chồng đã cấm cửa ni cô ra vào và nhờ mấy mụ mối tâm phúc vờ vịt đến mối manh cho mấy đứa con chị, song lại hỏi vì sao chồng chị lại chết yểu như thế? Tiền thị chỉ nói chồng mình chết vì mắc bệnh cấp tính. Có người lại hỏi:
- Nghe đâu người ta bảo chồng chị chết bất minh có phải không?
- Chồng tôi chết vì ốm đau chứ có gì là bất minh đâu.
Tuyệt nhiên Tiền thị không để lộ ra một ý nào khác. Hai người đàn bà kia lòng dạ vô cùng nham hiểm, sai mấy bà mối giả vờ ngờ nghệch, khơi gợi chuyện phong tình, than vãn Tiền thị phải sống phí hoài tuổi thanh xuân, song Tiền thị không chút lãng quên, chị thẳng thắn từ chối:
- Con còn nhỏ, tôi không nghĩ tới chuyện đi bước nữa.
Hai người ấy lại cố ý sai những người đầy tớ trẻ đẹp mang lễ vật tới thăm hỏi, Tiền thị không mời vào nhà. Tất cả những việc ấy Tiền thị đều đáp lại hết sức chu đáo.
Giữ miệng kín như bình,
Giữ thân như giữ ngọc.
Dù sóng cả gió to
Vẫn không hề lay chuyển.
Những đứa con cũng dần dần trưởng thành, sợ học xa nhà không trông nom được, mà mời thầy về nhà dạy, lại sợ những người anh đặt điều, thôi thì Tiền thị tự dạy con. Vì thương con rất mực, Tiền thị dạy con hết sức nghiêm túc.
Con cũng vì thương me,
Nên chịu khó học hành.
Đọc sách cha để lại,
Nước mắt đỏ máu tươi.
Mấy năm sau thì bố chồng chết. Tiền thị nghĩ thầm, nay họ không còn chỗ để che giấu, thoái thác, ta liều mình minh oan cũng không khó nữa. Song đứa con cả mới hơn mười tuổi, đứa út thì còn bé quá, chưa đủ lông đủ cánh. Trong những đêm trăng Tiền thị thầm kêu lên với chính mình rằng ta phải trả mối thù này. Khi dạy con Tiền thị thường kể cho con nghe những gương trung thần và người có hiếu với cha mẹ. Chị luôn chú ý rèn dũa chúng thành những người có khí tiết, biết hiếu nghĩa, và những đứa con của chị cũng hiểu được điều đó. Hai đứa con lớn đã trưởng thành, định tìm vợ cho chúng, chị cũng giả vờ xin ý kiến của hai chị dâu, hai người ấy sợ rằng nếu tìm những nhà có thế lực sau này họ giúp đỡ nó thì lại thêm rắc rối. Họ bèn tìm cho thằng cả đứa con gái của một bà quả phụ, nó không có bố vợ. Còn đứa thứ hai thì hỏi cho nó đứa con gái của một gã thô tục vừa mới giàu lên, và họ giả vờ nói, mình là một nhà quan nghèo, lấy họ sẽ được nhiều của hồi môn. Sau này muốn leo lên cao e rằng sẽ tốn kém, mà mình thì mẹ góa con côi lo làm sao được. Tiền thị cũng đành phải nghe theo họ.
Chân ta vẫn hãy còn,
Cần gì nhờ người khác.
Chí nếm mật nằm gai,
Quyết trả thù rửa hận.
Những sách vở của Thúc Miện để lại chúng đã đọc được, những lối văn khoa cử chúng chưa được học. Đến khi mười lăm mười sáu tuổi, Tiền thị cho chúng đi học xa nhà. Bá Tấn, Trọng Duy thấy Tiền thị vẫn yên phận ở vậy, lại vẫn đối đãi với các anh các chị hết sức chu đáo. Họ nghĩ rằng Tiền thị đã quên chuyện xưa. Hơn nữa sự việc xảy ra đã lâu, ba đứa cháu còn yếu đuối chẳng hại được ta, cho nên cũng không nghi kỵ và hãm hại chúng. Bởi thế Tiền thị cũng yên tâm cho chúng đi học xa. Sáng chiều vẫn giữ chúng không cho đi đâu, còn mình thì cũng làm việc nhà, đôn đốc chúng học hành. Điều đáng mừng là hai đứa học tập chuyên cần, đứa lớn được xếp thứ nhất trong phủ huyện, được cử lên đạo(1) học.
(1) Đạo: đơn vị hành chính cấp trên của phủ huyện.
 
Ba đứa con, đứa lớn tên là Pháp Tổ, đứa thứ hai là Thằng Tổ, đứa thứ ba là Kế Tổ. Lúc ấy Pháp Tổ đã lên đạo học, Thằng Tổ và Kế Tổ cũng đã biết làm văn. Kế Tổ mười tám tuổi, Tiền thị định tìm vợ cho nó, và mong sao cả ba đứa thành gia thành thất rồi sau đó mình mới đòi đến mạng. Không ngờ mười tám năm đau lòng buốt ruột, chỉ biết một mình chịu đựng không dám thổ lộ cùng ai, kể cả những người thân thích. Ngay nhũng đứa con rứt ruột của mình cũng không cho chúng biết, nếu chúng để lộ ra với bác chúng thì sẽ thành tai họa. Bởi thế Tiền thị không dám hé răng, ngay những lúc quá uất ức, muốn khóc lên cho vơi đi cũng không khóc được. Bởi thế lúc đầu khí uất kết từ trong tì vị không điều hòa được, sau đó biến thành cổ trướng.
Uất khí nghẽn trong ngực,
Định nói phải nuốt vào.
Tích lại thành cố tật,
Chết đi ở suối vàng.
Tài sản tích góp được đều do chị tảo tần hơn mười năm trời, thấy mình không thể sống được, chị dành lại một ít để lo việc chôn cất cho mình và lo việc cưới vợ cho Kế Tổ, còn lại chị chia đều cho ba người. Chị dặn:
- Mẹ còn một chiếc hòm nhỏ, sau khi chôn cất mẹ xong, các con hãy mở ra, đừng cho bất cứ ai biết.
Quả nhiên ba người con vẫn không mở ra xem, mà chỉ một lòng một dạ lo chạy chữa thuốc thang cho mẹ. Song thuốc dù tốt cũng không hiệu nghiệm, năm hết tết đến chị ôm hận từ giã cõi đời.
Đêm bên đèn oán hận
Thù này ngỏ cùng ai.
E rằng nơi chín suối
Vẫn ngậm tủi nuốt cay.
Ba đứa con khóc lóc kêu trời kêu đất, mua quan tài khâm liệm mẹ. Ai ai cũng xót thương cho Tiền thị, mười tám năm trời khổ sở ở vậy nuôi dạy ba đứa con nên người, không ai biết được chị quyết tâm nuôi chí báo thù.
Việc tang ma tạm xong, ba anh em nghĩ: "Mấy hôm trước mẹ dặn còn chiếc hòm nhỏ, chưa biết chừng ở đó còn ít tiền chăng”. Nay việc ma chay đã tạm xong, thôi thì hãy mở xem sao". Thế rồi họ vào nhà, mang hòm thấy rất nặng. Ba người vội mở ra, chỉ thấy trong đó có bộ quần áo bê bết máu, một chiếc búa sắt và một mẩu giấy. Trên mẩu giấy còn bút tích của mẹ: "Vì thẳng tính, cha con đã xúc phạm đến hai bác con. Vào ngày... tháng... năm..., hai bác đã lừa cha con ra vườn sau, dùng búa đánh chết. Lúc ấy có cả những tên tay chân của họ là Lai Phúc, Lai Thọ, Tiến Quý, Văn Đồng. Chiếc áo máu là của cha con mặc lúc bị hành hung, chiếc búa là hung khí giết cha con. Vì các con còn nhỏ, nếu mẹ đứng ra đòi mạng, sợ rằng họ sẽ giết hại, và ngay các con cũng khó mà sống được, bởi thế mẹ phải nén chịu. Nếu các con có chí thì hãy làm đơn cáo giác, trên báo thù cho cha, dưới rửa hận cho mẹ!". Ba người con thấy thế gào lên khóc, nói:
- Cha chúng ta vốn chết bất đắc kỳ tử, há sao chúng ta lại không báo thù cho cha?
- Bây giờ thì chúng ta phải giết chết hai người ấy, - Kế Tổ nói, - bắt họ phải đền mạng.
- Không nên nôn nóng như thế, - Pháp Tổ nói. - Ta là anh cả, ta phải đứng ra cáo giác.
Ngay đêm ấy Pháp Tổ làm đơn đưa tới Phủ án cáo giác.
Lưới trời sao thoát được,
Nỗi oan ắt phạt đền.
Khi cáo giác, quan trên cho rằng việc đã quá lâu không chịu giải quyết. Pháp Tổ cứ ôm chiếc áo máu kêu oan, Phủ án đành phải phê, giao cho Lý hình của bản phủ giải quyết. Quan Lý hình là người Trọng Duy tôn là thầy, Bá Tấn lại đút lót nhiều tiền của, bởi thế Lý hình dọa Pháp Tổ:
- Chuyện tính mạng rất hệ trọng, sao lại chỉ dựa vào mấy câu nói của mẹ để tố cáo bác được? Hơn nữa lại không có giấy khám nghiệm thương tích, nếu mở nắp quan tài cha đã khâm liệm từ lâu thì ngươi sẽ là kẻ bất hiếu, mà án mạng sao mười tám năm nay mẹ ngươi không cáo giác?
- Lời trăng trối của mẹ tôi đã rõ, - Pháp Tổ nói, - hai bác tôi giàu như nước, sợ không báo thù được cho cha tôi, mà còn nguy hiểm đến tính mạng của các con, cho nên mẹ tôi phải nén chịu. Nếu kẻ học trò này lại tiếc thân mình, không dám tố cáo thì kẻ học trò này càng bất hiếu. Mà khám nghiệm không có thương tích thì tôi xin nguyện chết.
Lý hình không dọa nạt được, đành phải tới nhà mở quan tài ra khám nghiệm. Trước khi khám nghiệm Lý hình lại dụ dỗ nhiều lần, song Pháp Tổ khăng khăng không chịu. Hai người này ỷ vào thế Lý hình, nghĩ rằng thi hài đã rữa nát không còn dấu vết, hơn nữa đã đút lót cho những người khám nghiệm tử thi, hẳn là họ sẽ che đậy cho. Ngờ đâu khi mở quan tài, thì lạ thay, đó là một xác chết khô, còn nguyên vẹn. Cởi áo ra khám xét thì xương bả vai trái bị búa đập dập nát, cánh tay bên phải bị búa đập gẫy. Thái dương bị tống tổn thương, hạ bộ bị đá dập. Ngoài ra còn nhiều vết thương trên khắp cơ thể. Những vết bầm tím, vết tròn, vết dài, vết rộng, vết hẹp, đều ghi hết vào biên bản khám nghiệm. Thời ấy, Pháp Tổ kiện hai người bác đã làm chấn động các trường học. Những người cùng học với Pháp Tổ không hiểu sự việc bên trong, còn những người quen biết Thúc Miện đều cho rằng Thúc Miện nói năng bừa bãi mà bị đố kỵ. Hai người ấy đều đổ cho cha, nhưng việc Thúc Miện ngỗ ngược với cha lại không có chứng cứ thực, nên quan cũng không bao che được. Lai Phúc đã chết, Tiến Quý bỏ trốn từ lâu, quan đành phải bắt Lai Thọ, Văn Đồng tới tra khảo. Lúc đầu chúng chối là không biết, sau đó tra khảo chúng đành phải khai là Bá Tấn dùng búa đánh gẫy cánh tay, Trọng Duy tống vào thái dương, Bá Tấn lấy búa đánh vào vai bên trái, Trọng Duy đá vào hạ bộ, chúng con chỉ hùa theo. Bá Tấn và Trọng Duy không sao chối cãi được, viên quan xét xử cũng không bịt được mồm hai tên kia.
Hai mươi năm ôm hận.
Bỗng nay được minh oan.
Phép vua sao cãi được,
Khó thoát khỏi lưới trời.
Bá Tấn, Trọng Duy phải khép vào tội anh giết em. Lai Thọ, Văn Đồng đáng ghép vào tội con ở giết chủ. Song vì tiền bạc của chúng rất thiêng, Bá Tấn đã âm mưu bảo bọn tay chân nhận hết, Trọng Duy được tha, Lai Thọ, Văn Đồng chỉ là kẻ đánh hôi, cuối cùng được giảm tội. Pháp Tổ lại tiếp tục kháng cáo. Hai người kia lại tiếp tục biện bạch, song vẫn bị bác bỏ. Thế mới biết lưới trời lồng lộng, không chóng thì chầy cũng bị báo ứng.
Ân, nghĩa là lẽ trời,
Giết nhau thật bất nhân.
Lần lượt vào nhà ngục,
Đáng đời bọn ác nhân.

Bá Tấn là một tên giàu có, Trọng Duy là một kẻ mưu mô quỷ quyệt khéo chui luồn, nếu như ngày ấy người đàn bà yếu chân mềm tay kia làm cho ra nhẽ, thì chúng sẽ đổ vấy cho cha, và chẳng qua chúng chỉ tung ra ít tiền, cũng chẳng làm gì được chúng. Nếu xuất đầu lộ diện thì Tiền thị không chết vì uất ức thì cũng bị chết vì mệt mỏi. Ba đứa con mồ côi cha mẹ, ai sẽ là người nuôi nấng, dạy bảo? Nếu Tiền thị không nén lòng chịu đựng thì nỗi oan uổng của chồng không rửa được, mà thậm chí còn phải chết oan, ba đứa con không bảo toàn tính mạng. Không ngờ Tiền thị âm thầm kiên trì chịu đựng nuôi chí báo thù, thấy tình thế bất lợi, bèn thuận theo bố chồng đó là một cách làm tùy thời khéo léo nhất. Mười tám năm trời không tỏ ra một chút gì oán hận, ngay đến con cũng không nói cho chúng biết, thì quả là vô cùng mưu trí và đầy nghị lực. So với những người tiết liệt còn hơn một bậc. Còn như Bá Tấn, Trọng Duy, không có tình yêu thương, tàn sát người thân, tuy dùng mọi mưu mô xảo trá để mong thoát tội, rốt cục vẫn vô ích. Tại sao bọn chúng không kìm nén cái tính độc ác như lang sói đi đôi chút? Còn như Thúc Miện nát rượu nói bừa để đến nỗi phải chuốc lấy cái chết, khiến cho vợ con phải sống vất vưởng long đong, âu cũng là một bài học cho những kẻ ngông cuồng. Tiền thị là một người biết nhẫn nhịn và cuối cùng đã báo được mối thù cho chồng. Ba người đàn ông không nhẫn nhịn được cuối cùng đã phải chuốc lấy cái chết. Kinh thư viết: "Việc nhỏ không nhẫn nhịn sẽ làm loạn mưu lớn". Trương Công Nghệ kiên trì chữ nhẫn, không hoàn toàn bị lệ thuộc vào luân lý, quả thực đây cũng là điều quan hệ đến tính mạng con người.
Về Đầu Trang Go down
https://triamquan.forumvi.com/
Tri Âm Quán
Thành Viên Tích Cực
Thành Viên Tích Cực
Tri Âm Quán


Tổng số bài gửi : 6340
Reputation : 2
Join date : 31/07/2013
Đến từ : Thị Trấn Chũ

Đoán Án Kỳ Quan - Page 5 Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Đoán Án Kỳ Quan   Đoán Án Kỳ Quan - Page 5 EmptyMon Apr 28, 2014 2:35 pm

nhiều tác giả
Đoán Án Kỳ Quan
Phạm Tú Châu - Nguyễn Văn Thiệu (Dịch và biên soạn)
Chương 14
Đánh Bọn Ngông Cuồng Báo Ơn Thầy
Anh Nguyện Vào Tù Để Cứu Em
Bốn biển đều là anh em, đó là những điều làm cho lòng ta khuây khỏa. Những đứa trẻ trong cùng một nhà quấn quít bên nhau, chúng là anh em ruột thịt. Song có khi hiềm khích nhau, phần lớn là do cha mẹ yêu đứa này ghét đứa khác rồi dần dần chúng xa nhau. Cũng có khi do chị em dâu va chạm nhau, hàng ngày tỉ tê xúc xiểm chồng, rốt cục những người cùng máu mủ sinh ra chia lìa nhau. Cũng có khi bạn bè li gián, kẻ hầu người hạ xúi bẩy. Thường thì lúc đầu anh em hiềm khích nhau, tiếp đó là tranh giành nhau rồi dần dần kiện nhau, thậm chí thù ghét đâm chém nhau chẳng khác người dưng nước lã. Điều ấy thật là quái lạ. Vốn cùng một cha mẹ sinh ra, song lại như nước với lửa. Lẽ nào anh em không phải là đồng bào, không phải là máu thịt do cha mẹ sinh ra? Cho nên ta thường nói, trong lúc bình thường anh em phải như Tư Mã Ôn Công, đến mãi khi đã già vẫn quan tâm tới cái đói cái rét của anh, thương yêu nhau như thời còn bé. Khi lâm sự phải như anh em Triệu Lễ. Thời kỳ nhà Hán thay thế nhà Tần, mất mùa, đói kém khắp nơi trộm cướp nổi lên như ong, anh Triệu Lễ bị bọn cướp bắt ăn thịt, Triệu Lễ biết được đã tự mình đến chỗ bọn cướp nói: "Anh tôi gầy, tôi thì béo, xin các ông đừng giết anh tôi, tôi xin tình nguyện chết thay". Thấy ông là người nghĩa khí, bọn cướp bèn tha chết cho cả hai anh em. Còn như việc anh em họ Điền chia lìa nhau khiến cây tử kinh cũng buồn thương mà khô héo, thấy ba anh em họ Điền đoàn tụ, cây tử kinh lại tốt tươi trở lại. Ta cho rằng họ chưa phải là đấng mày râu, vì họ không làm chủ được mình mà lại nhờ đến sự cảm động của cây cỏ. Hoặc do thời gian tính tình thay đổi có kẻ trí người ngu, thì người anh phải như Ngưu Hoàng, mặc dù em bắn chết mất con trâu kéo xe, song anh không vì thế mà quở trách, chửi bới em. Nếu là em thì phải như Tôn Trùng Nhi, nghi anh là kẻ không đứng đắn đã lăng nhục anh, song anh không vì thế mà oán hận em. Vương tường với Vương Lãm là anh em cùng cha khác mẹ, Vương Tường là người rất có hiếu và đương nhiên rất thương em. Khi mẹ đầu độc Vương Tường thì Vương Lãm giằng lấy chén thuốc độc định uống, vì thế mẹ đành phải đổ thuốc đi. Khi mẹ sai Vương tường làm những việc khó khăn, Vương Lãm đều nhận làm thay anh. Anh em khác mẹ còn thế, huống hồ là anh em cùng cha mẹ sinh ra. Vương triều chúng ta rất coi trọng hiếu đễ, vào đầu thời Hồng Đức ở Phố Giang có Trịnh Nghĩa Môn là người được triều đình nêu gương về sự hiếu đễ, về sau do lỗi lầm bị giải tới kinh và được tha thứ, sau đó triều đình còn cất nhắc tộc trưởng là Trịnh Liên làm tham chính Phúc Kiến. Tất cả các đời sau, mấy đời đều chung sống với nhau, và đều có những cống hiến xuất sắc. Nay tôi xin nêu ra đây một việc cũng như thế, tuy chưa được triều đình biểu dương, song tình yêu thương của họ đối với nhau cũng thật là nổi bật.
Thời Tuyên Đức, ở huyện Thái Bình, phủ Đài Châu, Triết Giang, có anh em nhà họ Diêu, anh cả là Cư Nhân, em là Lợi Nhân, dáng người xinh đẹp, tính tình hòa nhã, ý chí mạnh mẽ dám làm việc nghĩa. Không những tính cách của họ giống nhau, mà khuôn mặt họ cũng giống nhau như đúc. Khi còn dưới hai mươi tuổi theo học thầy Phương Phương Thành. Gia cảnh thầy nghèo túng, Mã thị vợ thầy chỉ sinh được một người con gái tên là Mã Tuệ Lương. Trong lớp học của thầy có Hồ Hành Cổ là người thông minh, lanh lợi, luôn chăm chỉ học hành; một người là Phú Nhĩ Cốc, tuy lớn tuổi nhưng ỷ thế nhà giàu, học hành lười nhác lại mới cưới vợ, lúc nào cũng quấn lấy nhau, không chịu đến trường; một người nữa là Hạ Học, học hành dốt nát, tính tình lại gian xảo, rất hợp với Phú Nhĩ Cốc. Nhiều lần thầy khuyên nhủ, song chúng chẳng lọt tai. Năm người cùng học một trường nhưng tính khí thì như nước với lửa. Về sau cha mẹ anh em họ Diêu đều qua đời, gia cảnh nghèo túng phải bỏ học, chỉ có Hồ Hành Cổ tới trường. Hạ Học thường bợ đỡ Phú Nhĩ Cốc.
Khi thầy Phương Thành qua đời, học trò rủ nhau đến đưa ma thầy. Hai anh em họ Diêu và Hồ Hành Cổ tới trước, Phú Nhĩ Cốc và Hạ Học tới sau. Thấy con gái thầy đẹp, lại đến tuổi trưởng thành, Phú Nhĩ Cốc lúc nào cũng dán mắt nhìn cô trong nhà tang lễ. Vì nhà đơn người nên cô phải chạy đi chạy lại, khi thì Phú Nhĩ Cốc nhìn thấy đầu, khi thì nhìn thấy đôi chân. Đến khi cô khóc thì tiếng cô như tiếng oanh vàng, khiến cho tai mắt Phú Nhĩ Cốc lúc nào cũng để ý đến cô, lòng hắn cứ rạo rực, hai mắt cứ nhìn vào cô như hai mắt cua. Còn ba người kia không hợp với hắn nên cũng chẳng thèm để ý tới. Chỉ có Hạ Học là nói chuyện với hắn, song hắn cũng chẳng mặn mà.
Cỗ bàn xong mọi người ra về, Hạ Học sánh vai đi cùng hắn, nói:
- Anh Phú! Sao hôm nay anh như người mất hồn thế!
- Tôi có một chuyện riêng cần nói với anh. Tôi đã thích con gái thầy khi còn chưa nuôi tóc, có điều cô còn bé quá, nay xem ra cô cũng tới mười sáu tuổi rồi. Hôm nay trong nhà tang lễ tôi thấy đôi chân cô đi giày trắng, chà chà, trông chẳng khác nào búp măng. Rất may vừa đúng lúc gió thổi tung rèm, quả thực cô như một nàng tiên hút hết cả hồn vía của tôi? Hạ Học, nếu có cách gì khiến cô ấy thuộc về tay tôi thì anh quả là một Cổ áp Nha(1) sống.
(1) Cổ áp Nha: một nhân vật hiệp khách thời Đường (ND).
- Việc ấy có khó gì? Hằng ngày anh cứ đến đó hộ tang mà thưởng thức là được rồi. - Hạ Học nói.
- Hôm nay đã chết mê chết mệt rồi, nếu đi nữa thì e rằng sẽ không về được. Sao anh không nghĩ cách giúp tôi lấy cô làm thiếp?
- Được thôi, - Hạ Học nói, - ta còn đi lại nhà anh luôn, nếu giúp mà không được thì tìm người khác cũng chẳng sao!
- Anh giỏi lắm. - Phú Nhĩ Cốc nói.
- Ngày nào tôi cũng ở nhà anh. Tôi nói câu này anh dừng giận nhé! - Hạ Học nói. - Đêm qua nóng bức như thế sao không lột trần?
Phú Nhĩ Cốc thụi cho Hạ Học một quả nói:
- Đồ chó! Tính khí đàn bà không làm tới là họ không chịu đâu. Chúng ta bức bối, ra ngoài giải, khuây một chút. Chúng ta không tháo ra, cứ tích mãi trong bụng sẽ thành bệnh, rồi lại phải mua thuốc, anh bảo có đúng không?
- Đúng, đúng đấy, chỉ có điều giá lại thêm một cô vợ nữa thì ông anh sẽ dẫn tới tận biên giới phía bắc, suốt ngày đeo kính để che cái mặt mình.
Hai người cứ ngặt nghẽo cười, Hạ Học nói:
- Việc này phải để cho đàn em này nghĩ kế.
Ngày hôm sau Hạ Học đến nhà họ Phương, mượn cớ giúp đỡ việc ma chay. Vợ thầy ra cảm ơn, Hạ Học nói:
- Tiên sinh suốt đời làm một ông đồ gàn, nghèo rớt mồng tơi, khiến cô phải đứng dựng lo ma chay cho tiên sinh, quả là một bậc trượng phu trong nữ giới.
- Đúng thế, - vợ thầy nói, - trước mắt chi dùng còn tạm đủ sau đây còn phải lo việc chôn cất, song trong nhà không còn một đồng một chữ nào. - Điều ấy có gì khó đâu? - Hạ Học nói. - Trong đám học trò, ngoài Hồ Hành Cổ nghèo kiết xác ra, còn hai anh em nhà . họ Diêu cũng đủ ăn đủ tiêu, nhưng họ rất keo kiệt, chỉ có Phú Nhĩ Cốc là sống rộng rãi. Nếu cô nói với anh ấy một tiếng chắc rằng anh ấy sẽ giúp.
- Anh ta và thầy vốn không ưa nhau, sợ anh ta không chịu cho vay?
- Chỉ vì tiên sinh thủ cựu, không phóng khoáng như anh ấy. Phú Nhĩ Cốc rất hay giúp đỡ người, mượn độ mươi lạng anh ấy cũng chỉ coi như cái móng tay thôi. Hiện nay vợ anh ấy đang ốm liệt giường, không ai cai quản gia đình, đang muốn bỏ ra mấy trăm lạng để tìm một người vợ lẽ, anh ấy có phải là người tiếc tiền đâu. Chỉ có điều là cô không chịu nói, chứ nếu cô chịu nhún mình thì con sẽ hết lòng vì cô.
- Nếu có mượn thì cũng chỉ bốn năm lạng cũng tùng tiệm rồi. - Vợ thầy nói.
Hạ Học cáo từ ra về, đến gặp Phú Nhĩ Cốc nói:
- Anh Phú, hôm nay tôi tâng bốc anh, từ một gã keo kiệt trở thành một người đại hào hiệp! Tôi nghĩ là họ mẹ góa con côi có thể ép họ được. Thôi thì chọn một ngày nào đó, đưa tới năm mươi lạng bạc, mấy tấm lụa, chỉ nói là cho vay. Nếu bà ấy cảm ơn thì nói vào một câu là xong. Nếu như bà ấy không nghe thì nói đó là lễ vật, rồi ta sẽ nói vun vào. Như thế có được không?
- Hai mươi lạng thôi! - Phú Nhĩ Cốc nói.
- Không được nói là lễ vật, - Hạ Học nói, - theo ta thì cứ phải đưa năm mươi lạng.
Phú Nhĩ Cốc đành nghe theo, lấy năm mươi lạng bạc, hai tấm lụa, hai tấm the đưa cho Hạ Học. Hạ Học để lại mười lạng, rồi gọi đứa ở mang chiếc quả khem bỏ bạc vào đó đến gặp vợ thầy nói:
- Thưa cô con đã bảo anh ta là một người rất hào hiệp, khi tới đây rất may có một người đem trả bốn mươi lạng bạc. Khi con nhắc tới chuyện này anh ấy bèn đưa luôn, con bảo anh ấy để số tiền lãi lại, anh ấy bảo: "Cứ mang cả đi tôi sợ rằng bằng ấy vẫn chưa đủ”. Con mang ngay tới đây cho cô.
- Tôi chỉ cần bốn năm lạng thôi, số còn lại xin phiền anh hoàn lại cho anh ấy.
- Tiên sinh sống một đời gàn dở, tất cả đều nhờ cô, nay của tự nhiên đến thì cứ lấy mà chi dùng, cô đừng ngại.
Mã thị còn do dự thì Hạ Học đã chào rồi đi một mạch ra cửa. Tuệ Nương nói:
- Mẹ ạ! Anh họ Phú là một người rất keo kiệt, sao lại giúp nhiều như vậy? Dù nhà mình nghèo mẹ cũng nên trả lại anh ta đi.
Đến ngày đưa linh cữu ra đồng, mọi người chung nhau phúng viếng, chỉ có Phú Nhĩ Cốc không chung với ai, tự làm một bài văn tế tới tế, bài văn tế như sau:
Ô hô! Tiên sinh bố vợ của ta,
Nghèo khổ một đời, theo nghề dạy học.
Thức khuya dậy sớm, đọc sách giảng bài. ăn mặc xuềnh xoàng, áo vải khăn thâm.
Đầu bù râu rậm, cần kiệm thật thà.
Không được đỗ cao, bảng vàng mả đá.
Bỗng nhiên lâm bệnh, vội vã ra đi.
Thầy nghĩ đến con, theo học lâu ngày.
Cho tới hôm nay, coi con là rể.
Thương tình cốt nhục, lệ nhỏ đầm dìa.
Tỏ rõ lòng thành, xin dâng lễ bạc,
Lợn đen dê trắng, thay thế bạc tiền, ô hô! Thương thay, thượng hương.
Hạ Học nghe xong nói:
- Hay, hay tuyệt.
- Mình viết không cần phải suy nghĩ gì mà cũng gieo vần đấy chứ. - Phú Nhĩ Cốc nói.
- Chẳng biết thế nào mà lại làm con rể tiên sinh. - Diêu Cư Nhân nói.
- Anh Phú, anh đã có vợ rồi, sao còn lấy con gái thầy làm thiếp? Diêu Lợi Nhân nói.
- Nghiêu gả hai con gái cho Thuấn, một người là vợ cả, một người là vợ lẽ, điều ấy có ngại gì đâu? - Hạ Học nói.
- Nói càn! - Diêu Cư Nhân nói. - Việc ấy lọt tai làm sao được!
Mã thị bên trong nghe thấy, bước ra nói:
- Phú Nhĩ Cốc, tiên sinh vừa mất, anh đừng coi thường con gái tôi như thế! Khi lâm chung tiên sinh đã nhận Hồ Hành Cổ làm con rể, vì đang lúc tang gia bối rối nên tôi chưa nhắc tới, sao anh đến nỗi khinh bạc như thế?
- Không những làm nhục con gái tiên sinh, lại còn cướp vợ của bạn, chẳng lọt tai chút nào. - Diêu Cư Nhân nói.
- Diêu Cư Nhân? Việc gì đến anh. - Phú Nhĩ Cốc nói.
- Anh làm một việc bất nhân, - Diêu Lợi Nhân nói, - thì sao cấm được miệng người ta.
- Tôi đã đưa lễ vật rồi, - Phú Nhĩ Cốc nói, - cớ sao anh bảo tôi cướp vợ.
- Anh nói càn, - Mã thị nói, - Ai nhìn thấy anh đưa lễ vật?
- Điều này có nguyên do của nó, - Hạ Học nói, - hôm trước tôi mang tới bốn mươi lạng bạc, cô nói là mượn anh ấy, song anh ấy bảo đây là sính lễ.
- Các ngươi là đồ súc sinh! - Mã thị nói. - Các ngươi đã bày đặt ra để đánh lừa ta.
Thế rồi bà vào nhà trong lấy bạc và vải đoạn ra vất bừa xuống sân. Phú Nhĩ Cốc nói:
- Bây giờ thì đã muộn rồi, muộn lắm rồi.
Rồi kéo Hạ Học định bỏ đi, song bị Diêu Lợi Nhân lôi lại. Hạ Học gầy yếu, bị Lợi Nhân lôi mạnh, ngã bổ chổng, nói:
- Ở nhà này mà các ngươi còn dám dở cái thói ấy ra ư? Hãy mang ngay cả, anh Hồ sẽ là người làm lễ. Bạc của học trò chúng tao cũng đủ cho cô chi dùng. Mấy hôm nữa chúng tao sẽ công khai hoàn lại.
Hạ Học thấy khó xuôi, nói:
- Anh Phú vốn không phải rồi, song vì sợ rằng ở đây anh không lấy được thiếp nên mới làm như thế!
Thế rồi họ thu nhặt lấy số bạc và vải đoạn của họ lại, kiểm kỹ thấy thiếu mất năm lạng. Hạ Học nói: - Cô đã dứt khoát gả cho anh Hồ thì anh Hồ phải trả năm lạng này, chứ đời nào anh Phú chịu mất không.
Hồ Hành Cổ trong người không có một xu dính túi nên không dám lên tiếng. Thế là Diễu Cư Nhân nói:
- Ta sẽ trả cho anh ấy.
- Thế thì, - Hạ Học nói, - anh hãy trả ngay đi, khỏi phải chịu.
- Chẳng việc gì phải lo, - Diêu Cư Nhân nói, - trong năm ngày ta sẽ trả bằng xong.
- Xin anh nhớ cho nhé. - Hạ Học nói.
- Đã nói là trả đúng hạn. - Diêu Cư Nhân nói.
- Lấy gì để làm tin? - Hạ Học nói.
- Thì viết cho anh tờ cam đoan, - Diêu Lợi Nhân nói, - anh còn ngại gì nữa!
Hạ Học bèn làm người trung gian, viết xong tờ khế ước và cũng không quên ký tên vào đó. Phú Nhĩ cốc nhận tờ giấy ấy, thế rồi mọi người ra về.
Trên đường về Hạ Học trách Phú Nhĩ Cốc:
- Việc này giá cứ tà tà để tôi nói cho, anh cứ khoe tài nữa đi làm hỏng cả việc.
- Tôi nói là được tiên sinh yêu, để người ta biết mình là có tài, hai là cũng phải nói ra sự thực chứ.
- Bây giờ thì hỏng rồi! Hồ Hành Cổ thì không ngại, chỉ có điều anh em họ Diêu thọc gậy bánh xe thôi, nhất định phải cho chúng một trận mới hả giận, phải bẫy chúng vào tròng cho chúng biết tay, lúc ấy tự nhiên Hồ Hành Cổ phải chắp tay lạy mà nhường Tuệ Nương cho anh.
- Có khó gì đâu ngày mai tôi sẽ sai thằng ở tới đòi bạc và bảo nó chửi cho nó mấy câu, tất nhiên nó không chịu được sẽ đuổi tới nhà chửi mắng, lúc ấy ta đóng chặt cửa đánh nó một trận cho bỏ tức.
Quả nhiên ngày hôm sau Phú Nhĩ Cốc sai thằng nhỏ đi đòi bạc, đúng lúc ấy gặp Diêu Cư Nhân. Cư Nhân nói:
- Đã hẹn năm ngày thì đúng năm ngày ngươi tới đây mà lấy.
- Người ta bảo, có tiền thì lấy ngay không để cách đêm. - Thằng nhỏ nói. - Ai bảo anh làm hảo hán.
- Mày là đứa đầy tớ, đừng có nói láo. - Cư Nhân nói.
- Anh bảo ai là đầy tớ, - thằng nhỏ nói, - đồ vô liêm sỉ. Đã nợ người ta còn chửi quàng.
Thấy thế Cư Nhân đùng đùng nổi giận, tát nó một cái nói:
- Đồ tôi tớ cái tát ấy ta gửi cho Phú Nhĩ Cốc đấy. Bảo hắn trong năm ngày đến đây mà lấy.
Thằng nhỏ hậm hực bỏ đi.
Thời ấy anh em Cư Nhân đã xong tang, Cư Nhân lấy Lưu thị được hơn một tháng, còn Lợi Nhân cũng đính hôn với con gái Nhự Hoàn người cùng huyện, vẫn chưa cưới. Lưu thị nghe thấy Cư Nhân cãi nhau với thằng ở nhà Phú Nhĩ Cốc, nói:
- Anh cố gắng lo thu xếp số bạc ấy cho xong đi, em có một ít đồ trang sức, anh cầm lấy đưa trả cho người ta.
- Đúng năm ngày mới trả. Anh sẽ đến tận nhà chửi cho hắn một trận.
Đến tối Lợi Nhân về tới nhà, thấy nói thế cũng khuyên:

- Chị cả muốn trả cho xong việc thì anh trả cho hắn đi, chẳng cần phải gặp cái thằng ngu xuẩn ấy làm gì.
Về Đầu Trang Go down
https://triamquan.forumvi.com/
Tri Âm Quán
Thành Viên Tích Cực
Thành Viên Tích Cực
Tri Âm Quán


Tổng số bài gửi : 6340
Reputation : 2
Join date : 31/07/2013
Đến từ : Thị Trấn Chũ

Đoán Án Kỳ Quan - Page 5 Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Đoán Án Kỳ Quan   Đoán Án Kỳ Quan - Page 5 EmptyMon Apr 28, 2014 2:58 pm

nhiều tác giả
Đoán Án Kỳ Quan
Phạm Tú Châu - Nguyễn Văn Thiệu (Dịch và biên soạn)
Chương 14 (B)
Sáng sớm hôm sau chị dâu đưa đồ trang sức cho Lợi Nhân đi đổi bạc. Hôm ấy đứa ở nhà Phú Nhĩ Cốc lại tới chửi, khích cho Cư Nhân nổi khùng rồi đuổi đánh nó. Thằng ở ấy vừa chạy vừa chửi, Cư Nhân dừng lại thì nó cũng đứng lại chửi, khích cho Cư Nhân nổi giận rồi cứ đuổi theo nó. Lợi Nhân đi đổi bạc về, nghe thấy anh đã đuổi theo thằng ở đến nhà họ Phú, bèn chạy theo, không ngờ Phú Nhĩ Cốc đã định kế sẵn.
Tối hôm trước thằng nhỏ trở về, nó nói Cư Nhân đã chửi Phú Nhĩ Cốc, rồi tát nó và bảo tao gửi mày cái tát ấy cho Phú Nhĩ Cốc. Nhĩ Cốc bèn bàn với Hạ Học, rồi đi tìm một gã thầy kiện tên là Trương La tới bàn bạc. Phú Nhĩ Cốc nói:
- Ta là vua ở cái thôn này thế mà hai lần bị nó làm nhục, không còn mặt mũi nào cả, nhất định phải cho nó một trận mới được.
- Việc đã đến nước này, - Trương La nói, - phải nghĩ kế chơi cho nó một vố.
Đang bàn soạn thì thằng ở mang trà tới, nó ốm đã lâu ngày, rất yếu ớt, làm rơi chén trà. Hạ Học cầm chiếc thước cốc vào đầu chẳng may nó ngất xỉu. Phú Nhĩ Cốc hốt hoảng nói:
- Nó ốm sắp chết rồi, tại sao anh đánh nó?
- Thằng ở này sắp chết đến nơi rồi, thôi thì nó đã chết thì ngày mai cứ đổ vấy cho nhà họ Diêu. Anh có nhiều tiền thì hai thằng ấy không thoát chết được đâu.
- Có lý, có lý đấy! - Trương La luôn mồm nói.
Thấy thế Phú Nhĩ Cốc bèn đấm đá thêm mấy cái, đứa ở tắt thở. Đứa ở này là con một người trong họ, cha là Phú Tài biết được bèn tới khóc toáng lên. Hạ Học nói:
- Con anh đã ốm đến mức như thế, nay cũng đến cái số nó chết. Vừa lúc nó mang trà tới, đã đánh đổ vào người ông, tức lên ông đánh nó một cái, không ngờ nó chết. Chủ nhà đánh chết con ở là chuyện thường.
- Dù có đánh đổ trà cũng không được đánh chết người. - Phú Tài nói.
- Dứt khoát phải tìm một người đền mạng, việc xong ta sẽ viết đơn cho. - Trương La nói.
- Ta nuôi nó lớn, - Phú Nhĩ Cốc nói, - thì ta đánh chết nó cũng chẳng ngại gì. Nếu ngươi nói bừa thì ngay cả ngươi ta cũng đánh chết.
Phú Tài im bặt không dám hé môi. Hai vợ chồng đành nuốt nước mắt khóc thầm.
Ba đứa bàn bạc xong, chỉ chờ ngày hôm sau lừa anh em họ Diêu tới, nhất định sẽ mắc tròng. Không ngờ Cư Nhân tới trước, quát ầm lên:
- Phú Nhĩ Cốc! Tại sao ngươi sai người đến chửi ta?
- Tại sao ngươi đánh đứa ở của ta? - Phú Nhĩ Cốc nói.
Đang cãi nhau thì Lợi Nhân chạy tới, nói:
- Thôi đừng cãi nhau nữa, bạc đây.
Phú Nhĩ Cốc đã tính toán trước liền vơ ngay lấy Cư Nhân đánh. Cư Nhân cũng chẳng chịu lép. Lợi Nhân vội vàng khuyên can, song làm sao mà can ngăn họ được. Trương La cũng vờ chạy ra can, bọn chúng vào hùa đánh lừa anh em họ Diêu.
Thằng ở nấp đâu đó mang xác chết ra, đẩy vào người Diêu Cư Nhân, nói:
- Nguy rồi, nó đánh chết cháu ông chủ rồi.
Mọi người kinh ngạc, thấy một xác chết đầu vỡ toác, nằm sóng soài dưới đất. Phú Nhĩ Cốc nói:
- Được, mày sẽ biết tay! Anh em mày đánh chết người nhà tao.
- Tôi không hề chạm tay vào nó, sao anh lại đổ vấy cho tôi - Cư Nhân nói.
- Không phải tự nhiên nó chết được. - Phú Nhĩ Cốc nói.
- Có trời chứng giám. - Lợi Nhân nói.
- Trời với đất quái gì, - Trương La nói, - phải kiện lên quan.
Thấy thế bất lợi, anh em họ Diêu bỏ chạy. Phú Nhĩ Cốc bắt trói lại, gọi hàng xóm tới giải lên huyện. Thật là:
Đường bằng bỗng gập ghềnh,
Nước nông dâng sóng cả.
Mưu mẹo ngàn trượng sâu,
Hai rồng phải sa lưới.
Quan tri huyện họ Võ, là một người trong sạch liêm khiết: ông đang làm việc trong công đường thì mọi người vào quỳ trước cửa nói:
- Làng chúng con có vụ án mạng lên bẩm quan lớn.
Quan cho họ vào hỏi. Phú Nhĩ Cốc nói:
- Con là khổ chủ, tên Diêu Cư Nhân nợ con năm lạng bạc, con cho đứa ở đến đòi, hai anh em hắn đuổi tới tận nhà đánh nó chết, hàng xóm láng giềng đều biết.
- Tại sao ngươi lại đánh chết đứa ở nhà anh ta? - Quan huyện hỏi Diêu Cư Nhân.
- Thưa ngài, - Diêu Cư Nhân nói, - con và Phú Nhĩ Cốc cùng học thầy Phương Phương Thành. Khi thầy mất, vợ thầy mượn anh ấy năm lạng bạc, anh ấy đến thúc bách đòi nợ. Vợ thầy chưa trả được, con nhận trả giúp. Thế rồi hằng ngày Phú Nhĩ Cốc sai đứa ở đến chửi bới. Con mang bạc đến trả anh ta, con có cãi nhau với Phú Nhĩ Cốc, chứ quả thực con không đánh đứa ở.
- Bẩm ngài, - Phú Nhĩ Cốc nói, - chính mắt con trông thấy Cư Nhân đánh chết.
Tri huyện gọi người hàng xóm vào hỏi. Người hàng xóm là Trúc Anh đã được Phú Nhĩ Cốc cho tiền, quỳ xuống nói:
- Con xin cúi đầu lạy quan lớn.
- Ngươi khai đi?
- Con ở trước nhà Phú Nhĩ Cốc, - Trúc Anh nói, - con thấy thằng ở vừa khóc vừa chạy. Anh em Diêu Cư Nhân đuổi theo vào tận nhà, thấy họ cãi nhau một lúc lâu, rồi lại nghe thấy nói đánh chết đứa ở.
- Đứa bé bị đuổi là đứa bị đánh chết à? - Quan huyện hỏi.
- Thưa ngài đúng ạ. - Trúc Anh nói.
- Thế thì Diêu Cư Nhân đánh chết rồi. - Quan huyện nói.
Quan huyện lập tức giam hai anh em họ Diêu vào nhà giam, ngày hôm sau khám nghiệm tử thi.
Phú Nhĩ Cốc về nhà rất buồn. Trương La thấy vậy nói:
- Việc đã thành rồi phải can đảm lên một chút.
Nhĩ Cốc không biết rằng, tuy đã vu cho anh em họ Diêu, song Trương La đang muốn đưa Phú Nhĩ Cốc vào tròng. Ngay hôm trước hắn đã ngấm ngầm bảo Phú Tài giấu cái thước mà Hạ Học dùng để đánh chết con mình. Nay đường La lại xui Nhĩ Cốc mua chuộc kẻ khám nghiệm tử thi. Hắn nói:
- Phải can đảm lên. Việc này còn chỗ sơ hở, nếu ngày mai khám nghiệm thấy vết thương đã hai ba ngày, phát hiện ra họ báo cho quan huyện thì làm thế nào? Chả nhẽ anh lại tự nhận mình là đã đánh chết đứa ở, rồi đổ tội cho người khác ư? Việc này phải đút tiền cho người khám nghiệm mới được.
- Thế thì việc này ta phải đánh liều bỏ tiền ra. - Phú Nhĩ Cốc nói.
- Muốn thắng kiện, - Hạ Học nói, - phải không tiếc tiền.
Bị họ xúi bẩy, Phú Nhĩ Cốc đành phải nghe theo. Muốn người khám nghiệm tử thi báo thương tích lơ mơ thì cũng phải mất hơn trăm lạng. Nếu Phú tài xuất đầu lộ diện định đưa đơn kiện thì cũng phải cho nó mười lạng. Trương La bảo Nhĩ Cốc phải như thế. Đến nay Nhĩ Cốc nghĩ lại rất hối hận.
Hai anh em Diêu Cư Nhân bị giam vào nhà giam, bàn nhau, Cư Nhân nói:
- Xem ra tình thế khó xuôi, chúng có chứng cứ vu vạ cho mình. Thôi thì cũng là tại anh, nếu họ nhất định bức cung thì mình anh chịu. Còn em phải thoát ra, đừng rơi vào bẫy của nó.
- Anh ạ! - Lợi Nhân nói. - Anh mới cưới chị, chưa có con nối dõi, nếu anh bị tù thì chị sẽ bơ vơ. Thôi thì để em nhận cho, anh còn có thể ở ngoài xoay xở.
Cơm sáng xong, tri huyện ra lệnh đi khám nghiệm tử thi, bọn khám nghiệm đã nhận tiền hối lộ, khám nghiệm xong báo rằng: "Trên trán có vết thương do thước đập vào, trên người có vết thương do tay đấm và chân đá". Tri huyện không trực tiếp xem thi thể, rồi ghi ngay vào biên bản khám nghiệm đưa về huyện đường. Gọi đương sự ra thẩm vấn. Hai người giống nhau như đúc quan huyện không phân biệt được đâu là Cư Nhân, đâu là Lợi Nhân, bèn bắt kẹp cả hai người. Cư Nhân nói:
- Thưa ngài, quả thật con có đuổi và chửi đứa ở, song thực tình con không đánh, mà ngay đứa bị con đuổi cũng không phải là đứa này.
Tri huyện lại gọi Trúc Anh tới hỏi:
- Đứa chết có phải là con  của Phú Nhĩ Cốc không?
- Thưa ngài đúng ạ. Đứa ở này chính là con Phú Tài.
Tri huyện nói:
- Như thế là đúng rồi.
Quan huyện khép luôn tội cho họ. Vì Phú Nhĩ Cốc đã đút lót nên anh em họ Diêu khó mà thoát tội, Cư Nhân bèn nhận là mình đánh chết. Lợi Nhân nói:
- Lúc ấy anh con đang giằng co với Phú Nhĩ Cốc thì đánh làm sao được? Chính con lỡ tay đánh chết.
- Chính con bảo em con đánh nó. - Cư Nhân nói.
- Quả thực con đánh chết, - Lợi Nhân nói, - thì sao lại hại anh con. Con xin chịu tội.
- Diêu Lợi Nhân nói đúng. - Quan huyện nói xong lại gọi Phú Nhĩ Cốc nói:
- Các ngươi là bạn học, cái chết này là do lỡ tay, không thể xử tội chết được.
- Thưa ngài, - Phú Nhĩ Cốc nói, - đánh chết là sự thực, xin ngài xét xử công minh.
Quan huyện không nghe.
Khi ấy Hồ Hành Cổ đã đính hôn với con gái Phương Phương Thành thấy Diêu Cư Nhân như thế đã vận động bạn học kêu oan cho anh. Tri huyện cho rằng, vì anh đánh nhau với Phú Nhĩ Cốc, Lợi Nhân vào cứu, dẫn đến ngộ sát. Trương La và Hạ Học lại nói Nhĩ Cốc đang ở thế cưỡi hổ, xúi bẩy Phú Nhĩ Cốc dùng tiền giết chết anh em họ Diêu, làm đơn đệ lên đạo. Quan đạo bác lại rằng: "Theo lời khai là đuổi, vậy là do cố ý đánh, bởi thế trong giấy khám nghiệm ghi có nhiều vết thương, há rằng đây là do ngẫu nhiên sao? Không thể để cho đồng tiền có thế lực khiến cho dân chúng oán hận". Họ lại đệ đơn tới hình sảnh quan hình sảnh là một cử nhân không có bản lĩnh, thấy cấp trên bác bỏ, ông ta lại cho cùm kẹp đánh đập, cho rằng vì đánh nhau mà giết chết người, khép vào tội treo cổ, chờ đến mùa thu sẽ hành quyết, và lệnh bắt Diêu Cư Nhân. Diêu Cư Nhân thưa:
- Con mải đánh nhau với Phú Nhĩ Cốc, có gọi em giúp đỡ đâu? Con đáng đền mạng, việc này không liên quan gì đến em con.
Lần thẩm vấn nào Cư Nhân cũng khai như thế. Cấp trên thấy anh là người nghĩa khí nên chỉ bắt một người đền mạng mà không tìm hiểu kỹ.
Cư Nhân được ra khỏi nhà giam, đành bỏ học để cày cấy kiếm tiền cung cấp cho em. Lưu thị luôn luôn trách móc chồng:
- Cha mẹ giao em cho anh, không những anh không chăm sóc em mà trái lại anh còn gây chuyện, đến nỗi em phải đền mạng.
- Khi ở trong nhà giam, - Cư Nhân nói, - anh em đã bàn nhau, Lợi Nhân nói, anh mới cưới vợ, sợ rằng anh mất đi thì lỡ cả cuộc đời của chị ấy. Và còn nói anh ở ngoài đi làm còn có thể giúp đỡ gia đình, cho nên chú ấy đã nhận thay anh. Quả thực anh cũng không yên lòng. Nay thì quan trên đã xử rồi, dù có muốn thay đổi cũng không được nữa.
- Anh sợ làm lỡ cuộc đời em ư, - Lưu thị nói, - hiện chú cũng đã khuyên nhà họ Nhự gả thím ấy cho người khác, nhưng thím ấy không nghe. Vậy chẳng phải đã làm lỡ dở cuộc đời của thím ấy ư?
Cư Nhân ở ngoài chạy ngược chạy xuôi kiếm tiền cung cấp cho em, cuộc sống gia đình tạm ổn, Cư Nhân cũng yên tâm đôi chút. Song Phú Nhĩ Cốc, thì từ khi đi kiện tới nay luôn bị Trương La lừa gạt, gia cảnh ngày càng điêu đứng.
Ngày qua tháng lại, sự việc xảy ra đã được ba năm. Đúng vào dịp triều đình lệnh cho các quan xem xét lại hình phạt. Khi ấy Lưu thị đã sinh được đứa con trai vừa tròn một năm. Nhự thị không chịu đi lấy chồng, nhà lại nghèo, Lưu thị đón về chia nhà cửa và gia sản cho Nhự thị. Được tin triều đình sắp xem xét lại các hình phạt, Lưu thị nói: - Việc này tuy là bị vu khống, khi xét lại hình phạt người ta có phát hiện ra không. Thôi anh hãy dùng ít tiền, mời người giải chú ấy về nhà. Hai anh em anh giống nhau, anh sẽ thay cho chú ấy, để cho chú thím ấy sống với nhau. Em và anh đã có con trai, không tuyệt tự rồi.
Cư Nhân cứ khen vợ nghĩ thế rất đúng. Quả nhiên mời được người áp giải tới nhà, mua chuộc họ, và nói là muốn hoãn lại hai ngày, chờ cho vợ chồng Lợi Nhân sống với nhau. Được tiền, người áp giải bằng lòng ngay. Song Lợi Nhân không muốn sống với vợ. Cư Nhân nói:
- Em ạ! Vợ em không chịu đi lấy người khác, em không sống với vợ chẳng hóa ra em phụ lòng tốt của thím ấy sao? Nếu được một đứa con trai hay một đứa con gái thì em cũng không đến nỗi tuyệt tự.
Khuyên giải mãi Lợi Nhân mới nghe theo.
Đến hôm giải đi Cư Nhân đeo gông, lên đường dặn em rằng:
- Anh thay em đi trước, em cứ tà tà rồi đi sau.
Thật là:
Sáng tiễn anh ra cửa,
Rừng thông rụng đầy hoa.
Anh em tình sâu nặng,
Nước mắt chảy chan hòa.
Người giải quyết cũng không sao làm rõ ra được, tới xem xét lại hình phạt cũng chỉ dựa vào những thư lại, song cũng phải tra hỏi một chút. Pháp đường gọi đến tên mình, Cư Nhân ở dưới rất lo lắng, song quan cũng chỉ hỏi qua loa vài câu cho xong chuyện. Lúc ấy Lợi Nhân cũng tới nha môn, chỉ lo anh bị xử tội. Cư Nhân ra trông thấy em nói rằng:
- Em cứ về trước đi, anh và người áp giải sẽ về nhà ngay.
Không ngờ Cư Nhân và Lưu thị đã bàn soạn trước, Cư Nhân không trở về nữa mà bảo với người áp giải đưa mình vào nhà giam. sau đó người áp giải gửi thư tới nhà báo tin. Lợi Nhân khóc rống lên muốn tới bẩm việc này với quan để tù thay anh. Người áp giải nói:
- Nếu làm thế thì anh giết chúng tôi. Quan sẽ đánh chết chúng tôi ngay. Anh hãy chờ khoảng một tháng nữa, quan sát viện tới, nhất định sẽ thẩm vấn lại, lúc ấy anh tới, như thế tiện hơn.
Lợi Nhân đành phải ở ngoài, đối đãi với anh và chị dâu chẳng khác nào cha mẹ, song vẫn không sao tù thay cho anh được.
Rốt cục lẽ trời cũng sáng tỏ. Việc ấy xảy ra âu cũng chỉ là vận hạn của anh em nhà họ Diêu mà thôi. Một hôm Trương La đến nhà Phú Nhĩ Cốc mượn tiền. Phú Nhĩ Cốc nói:
- Mấy năm nay quả thực tôi rất khó khăn, không còn tiền nữa để cho anh vay.
- Thế anh bắt Lợi Nhân vào tù không phải mất tiền ư. - Trương La nói.
Thấy Trương La giở giọng, Phú Nhĩ Cốc nói:
- Ta uống rượu đã rồi hãy nói tới chuyện này.
Trong lúc hâm rượu không cẩn thận Phú Nhĩ Cốc để cho tàn than bay vào rượu, nhìn kỹ ra thì thấy trong rượu có những hạt nhỏ li ti màu đen. Trương La lấy móng tay khều ra. Phú Nhĩ Cốc thấy Trương La đến lừa, trong lòng buồn bã không . uống rượu. Trương La sinh nghi, không ngờ khi về tới nhà, vì ăn nhiều đã đi tả, bị một trận thập tử nhất sinh. Lúc ấy Trương La mới biết đích xác là Phú Nhĩ Cốc bỏ thuốc độc, muốn tố giác chuyện này, song đang định mượn tiền Nhĩ Cốc, bởi thế Trương La đành ngậm miệng. Tới hai tháng vẫn không mượn được tiền của Phú Nhĩ Cốc.
Rất may năm ấy nhà nước mở khoa thi, Hồ Hành Cổ thi đỗ. Hành Cổ nói với vợ:
- Anh với em lấy được nhau đó là nhờ anh em nhà họ Diêu, vì mình mà anh ấy bị hại.
Sau khi thi đỗ vợ chồng Hồ Hành Cổ đến cám ơn và hứa sẽ chu cấp cho anh em họ Diêu. Việc này không cần phải kể. Một hôm Hồ Hành Cổ tới nhà một người thân ăn cỗ, Trương La cũng có mặt trong bữa cổ ấy. Trong lúc chuyện trò, nói tới nỗi oan của Diêu Lợi Nhân, Trương La chắp tay nói:
- Việc này quả là oan uổng, nếu tiên sinh muốn cứu anh ấy chỉ cần hỏi Phú Tài là được ngay.
Hồ Hành Cổ im lặng không nói. Hôm sau đến nhờ Trương La mách nước. Trương La biết rằng khi mình say đã lỡ lời, song Hồ Hành Cổ đã đến tận nhà hỏi mình, hơn nữa đang căm Phú Nhĩ Cốc bỏ thuốc độc hại mình, bèn đem chuyện xảy ra trước đây nói với Hồ Hành Cổ. Hành Cổ nói:
- Thế thì tiên sinh có trông thấy không?
- Chính tôi tận mắt trông thấy mà. - Trương La nói.
- Vậy có gì làm chứng?
- Còn cái thước là tang vật hành hung và tiền bạc Phú Nhĩ Cốc đút lót hiện đang ở chỗ Phú Tài.
Nghe xong Hồ Hành Cổ chào từ biệt, đến ngay chỗ Diêu Lợi Nhân bàn bạc.
Vừa đúng lúc án sát viện tới, Hành Cổ bảo Lợi Nhân tới cáo giác Phú Nhĩ Cốc giết người rồi vu cáo hãm hại người khác. Hồ Hành Cổ là môn sính, cũng trực tiếp đến nói, án sát viện phê. "Nếu là bị vu oan, song e rằng khó mà lật lại án đã tuyên", rồi lệnh cho quan hai phủ Đài, Ninh thẩm vấn lại vụ án. Rất may quan phủ Ninh Ba là thầy học của Hồ Hành Cổ, lại trực tiếp giải quyết việc này. Hồ Hành Cổ gửi cho ông một bức thư kể rõ việc anh em họ Diêu vì làm việc nghĩa mà bị thù hằn. Phú Nhĩ Cốc kết bè kết đảng, vu cho họ giết người. Tri phủ Ninh Đài theo bản cáo trạng gọi tất cả những bị can tới. Tri phủ Ninh Đài hỏi Phú Tài:
- Ngươi là đứa ở tại sao lại thông đồng với Phú Nhĩ Cốc hãm hại người?
- Bẩm quan, - Phú Tài nói, - con không hề kiện Diêu Lợi Nhân.
- Quả thực Diêu Lợi Nhân đánh chết người phải không? - Tri phủ hỏi.
Đang lúc Phú Tài không dám nói, Tri phủ quát:
- Hãy kẹp nó cho ta!
Phú Tài sợ quá đành phải khai:
- Thưa ngài không phải ạ, Hạ Học đã lấy thước đánh con con ngất xỉu. Sau đó Phú Nhĩ Cốc đấm đá tiếp khiến nó chết, chính Trương La cũng trông thấy.
- Thế tại sao ngươi không cáo giác?
- Vì là chủ của con, nên con không dám cáo giác.
Sau đó quan gọi Trương La hỏi, Trương La đành phải khai thật. Tri phủ sai người đi truy tìm thước và bạc đút lót cho Phú Tài. Không cần phải khám nghiệm tử thi. Hạ Học và Phú Nhĩ Cốc định chối cãi, nhưng Trương La đã khai tất cả sự thật nên không dám nói quanh.
Tri phủ lệnh đánh mỗi đứa bốn mươi gậy, Phú Nhĩ Cốc vô cớ đánh chết đứa ở vu cáo tội giết chết người cho người khác nay bị ghép vào tội đày đi nơi xa. Hạ Học bàn kế giết người cùng với Trương La, cưỡng bức người khác làm chứng để hại người đều khép vào tội bị đi đày. Diêu Lợi Nhân vô tội được tha. Những người xử kiện sai trước đây đều bị phạt nặng.
Cư Nhân trở về, vợ chồng anh em đoàn tụ, cả nhà hết sức vui mừng. Mọi người lại biết Lợi Nhân nhận tội thay cho Cư Nhân, Cư Nhân vào tù thay cho Lợi Nhân, quả thật hiếm có anh em nào được như thế. Hạ Học, Phú Nhĩ Cốc âm mưu hãm hại người cuối cùng khó thoát được lưới trời. Trương La xảo quyệt cũng phải sa lưới pháp luật. Tuy có ba năm song Lợi Nhân đã chịu biết bao đau khổ nhưng cuối cùng lưu lại tiếng tốt cho đời, còn Hồ Hành Cổ đã làm đơn kêu oan cho bạn, tuy là lẽ trời sáng tỏ song cũng thấy Hồ Hành Cổ là người có nghĩa. Đúng là:
Gặp nạn nêu gương sáng.
Lâu ngày tỏ lẽ trời.
Gian manh thật đáng kiếp,

Đã phải sa lưới trời.
Về Đầu Trang Go down
https://triamquan.forumvi.com/
Tri Âm Quán
Thành Viên Tích Cực
Thành Viên Tích Cực
Tri Âm Quán


Tổng số bài gửi : 6340
Reputation : 2
Join date : 31/07/2013
Đến từ : Thị Trấn Chũ

Đoán Án Kỳ Quan - Page 5 Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Đoán Án Kỳ Quan   Đoán Án Kỳ Quan - Page 5 EmptyMon Apr 28, 2014 5:25 pm

nhiều tác giả
Đoán Án Kỳ Quan
Phạm Tú Châu - Nguyễn Văn Thiệu (Dịch và biên soạn)
Chương 15
Giấu Đầu Lâu, Cướp Không Người Đẹp
Mở Quan Tài, Chàng Rể Thoát Nguy
Đọc sách Thánh hiền để làm gì? Khi chưa làm quan phải có tấm lòng kinh bang tế thế, ăn lộc của vua thì phải trung với vua. Khi làm quan càng phải ra tay cứu nhân độ thế. Nếu như trông coi việc chăm sóc dân thì phải làm lợi cho dân, diệt trừ tai họa, chăm lo đến cuộc sống của dân, không chỉ ngồi làm mà ăn hại cơm trời. Trông coi việc tiền thóc thì phải chống gian lận, thu đủ cho nhà nước, không được vơ vét của dân. Trông coi về hình phạt thì không được để cho người đời chịu oan sai, phải tìm con đường sống cho dân chứ không được hồ đồ như bọn người vô học. Như thế mới không uổng công đèn sách, không uổng công làm quan. Nếu như được đội mũ the, hoặc làm thư lại quản việc văn thư, thì cũng phải làm đơn từ chính xác, kiếm chút tiền giấy bút, nhận chút lễ vật, như vậy cũng không uổng công học hành. Song, phần lớn những người làm quan không toàn thiện toàn mỹ, có người có tài làm quan song không trong sạch, có người cực kỳ liêm khiết song không tránh khỏi quá uy nghiêm, đó cũng là trong cái tốt có cái không tốt vậy.
Nhưng quan lại nổi tiếng trong triều rất đông, song người sáng suốt quyết đoán có được mấy người. Thời ấy Hoàng Phất tham chính Tứ Xuyên, bỗng một hôm thấy một cơn lốc nổi lên bên chân ngựa, rồi ào ào di chuyển về phía trước. Ông bỗng sinh nghi, sai người đuổi theo, đuổi mãi tới chùa Tây Biên châu Sùng Khánh, gió xoáy tới một chiếc hồ thì dừng lại. Hoàng tham chính vào chùa, thấy có mấy nhà sư ra đón tiếp, trong đó có hai người dáng vẻ hung ác. Ông bèn lệnh lấy dấm rửa sạch hai thái dương của những người này, thì thấy dấu vết của chiếc khăn lưới trùm mặt. Sai người tra khảo thì chúng khai là ngày nào chúng cũng đi cướp của, giết người rồi vứt xác xuống hồ, cho người xuống vớt quả thực đã vớt được xác người. Lại có một vị tên là Lỗ Mục, trong lúc đi tuần tra thấy một con rắn cứ bò theo kiệu của ông, sau đó chui xuống ao. Ngài Lỗ bèn cho tát cạn ao, thì thấy một xác người buộc vào một thớt cối đá dìm xuống đáy aoNgài đã lệnh cho người mang chiếc thớt cối ấy đến đọ với những chiếc cối ở các nhà lân cận, sau đó bắt được kẻ giết người. Lại còn một vị tên là Quách Tử Chương làm thôi quan (chức quan trông coi việc hình phạt tại phủ), thấy một con khỉ bám vào đòn kiệu của mình, ông đem con khỉ ấy giấu trong nha môn, rồi vờ nới rằng trong nha môn có một chiếc ghế biết nói, có thể đoán được họa phúc của từng người để lừa mọi người đến nha môn xem. Con khỉ gù bỗng chạy ra kéo lấy một người, thì đó chính là kẻ đã âm mưu giết chết một người ăn mày tên là Hồ Tôn. Đó là một số người làm quan đã minh oan cho người đã chết, song lại có những vị quan không những minh oan cho người đã chết mà còn minh oan cho người sống thoát tội.
Trong triều của chúng ta có một vị quan tên là Thạch Phác, làm quan tới chức tư mã, ông đã có công dẹp quân Miêu ở Quý Châu. Khi ông còn làm chức quan bố chính, trong các bữa tiệc thường có các vị phu nhân của các quan đồng liêu tới dự. Người ta đều quần là áo lượt, trang sức đeo đầy người, còn phu nhân của ông chỉ quần nâu áo vải, bà có vẻ không vui. Khi về Thạch bố chính hỏi:
- Hôm nay tôi dự tiệc, bà ngồi ở vị thứ mấy.
- Tôi được ngồi ở vị thứ nhất.
- Chỉ vì tôi không tham ô cho nên bà được xếp vào vị thứ ấy. Nếu tôi đòi tiền thì e rằng vị thứ nhất ấy bà chẳng được ngồi.
Quả thật ông là người thanh liêm, ai ngờ ông cũng là người giải quyết công việc sáng suốt.
Chuyện kể rằng, ở huyện Hiệp Giang, phủ Lâm Giang, Giang Tây, có một người tên là Bách Mậu, hiệu Thanh Giang, làm thư lại của bản huyện. Ông là một người luôn luôn làm đúng với bổn phận của mình, không bao giờ lợi dụng công việc để lộng hành, che mắt quan trên, làm những điều xấu xa, chỉ kiếm chút tiền theo phận sự để sống, chỉ lấy tiền công sao chép và đi đưa giấy tờ tốt ra thì uống vài ba chén rượu là xong. Mọi người bàn về việc công, còn ông chỉ thích rượu, chẳng biết trong công đường có bao nhiêu người, cũng chẳng biết kẻ nào là ác độc. Khi ở nhà thì cơm có thể thiếu nhưng rượu thì không sao thiếu được. Uống rượu say là nghêu ngao hát, hết kêu người này lại gọi người kia. Khi ngủ thì nằm vật nằm vạ chẳng quản đầu giường hay cuối giường, lúc tỉnh dậy bạ đâu ngồi đấy, chẳng quản gì đến bàn ghế hay nền đất, đến năm bốn mươi tuổi thì nghiện rượu. Ngay như khi gặp quan cũng phải uống một chén, nói là để thêm can đảm. Người ta mời uống rượu thì uống đến mềm môi, đi ngật ngà ngật ngưỡng, mười lần thì chín lần phải dìu về, có khi còn nôn thốc nôn tháo. Nhiều cũng say, mà ít cũng say, không say cũng muốn uống, mà say rồi cũng muốn uống. Người ta thường gọi ông ta là gã nát rượu. Ông lấy một người vợ họ Lam, tuy không uống rượu nhưng cũng không kém cạnh. Chưa đến chính ngọ thì bà ta chưa chải đầu, có khi còn chờ đến ngày mai mới chải một thể. Mặt trời chưa lên cao thì chưa dậy, có khi mặt trời đứng bóng mới dậy. Giày cũng thường xỏ trái, quần áo lúc nào cũng nhơ nhớp cáu bẩn. Một lạng gai xe tới hai mươi ngày, một tấm vải dệt tới hơn một tháng. Cũng mừng là hai người chẳng chê nhau, họ sinh được một mụn con gái, đặt tên là Ái Thư, là người rất xinh đẹp và hay làm dáng:
Lông mày nàng như dãy núi sau mưa
Thân mảnh mai như gió đưa nhành liễu
Trán nàng sáng như hoa mai trên tuyết
Má nàng hồng như đào nở trong sương.
Nàng thuộc loại đẹp nhất nhì trong vùng. Chỉ có điều vì cha mẹ mà chịu liên lụy, ai cũng bảo rằng đó là con của gã nát rượu, chẳng có người nào nhòm ngó tới. Năm tháng cứ dần trôi thoắt cái nàng đã mười tám tuổi, lúc nào nàng cũng giận hương oán phấn, khóc nguyệt thương hoa.
Có người anh họ tên Từ Minh, là một tài chủ mới phất lên, tuổi chừng hai sáu hai bảy, người trông cũng được, song rất hiếu sắc, tất cả những con hầu người hạ không kể đẹp, xấu hắn đều không buông tha. Khi còn nhỏ, thấy em họ xinh xắn hắn đã mê tít. Vì định kiện hai chủ nợ tô nên hắn muốn Bách Thanh Giang viết đơn kiện giúp, đến nhà hắn hỏi:
- Cậu có nhà không?
Khi ấy Bách Thanh Giang đã đến nha môn, Lam thị vẫn chưa dậy, ái Thư thấy thế bước ra đáp:
- Không có nhà ạ!
Lam thị đang trên lầu, nghe thấy tiếng Từ Minh, nói vọng xuống lấy lòng:
- Ái Thư mời anh vào nhà đi con, mẹ xuống ngay đây!
Ái Thư mời Từ Minh vào nhà rồi đi pha trà.
Lam thị dậy vẫn cứ ngồi trên giường bó chân, mặc quần áo, rồi lại tới soi gương chải đầu. Dưới này Ái Thư đã mang trà tới. Từ Minh đặt chén trà lên bàn, hai tay chống lên đầu gối, ngây người ra nhìn Ái Thư, nói:
- Em Ái, anh nhớ hình như năm nay em đã mười tám tuổi rồi?
- Vâng ạ! - Ái Thư nói.
- Em vẫn chưa cho anh uống trà đấy! - Từ Minh nói. - Chị em mười tám tuổi đã có con rồi.
- Anh có hai con rồi ư? - Ái Thư nói.
- Lại còn một đứa đang trong bụng chị nữa đấy. - Từ Minh nói. - Như thế là ba đứa cả thảy.
- Chị ấy có đẹp không? - Ái Thư nói.
Từ Minh cố ý ghé sát đầu vào Ái Thư nói:
- Xấu lắm, không bằng cái móng tay của em đâu, sau này anh còn phải lấy hai người vợ kế nữa.
Đang nói thì Lam thị xuống lầu, hỏi:
- Có phải đến về việc kiện cáo không?
- Cháu uống trà rồi đi ngay đây ạ! - Từ Minh nói.
- Ngày mai tôi bảo cậu đến gặp cháu. - Lam thị nói.
- Không cần đâu ạ! Ngày mai cháu đến.
Quả nhiên ngày hôm sau Từ Minh đến, vào nhà thấy Ái Thư ngồi một mình như đang nghĩ ngợi điều gì. Hắn nhè nhẹ đặt tay lên vai cô nói:
- Cậu có nhà không?
Ái Thư giật mình đứng dậy nói:
- Bố em đi rồi, hôm qua em đã bảo bố em chờ anh, chắc ông uống say lại quên rồi.
- Cô vẫn chưa dậy ư? - Từ Minh hỏi:
- Chưa dậy, - Ái Thư nói, - em đi gọi nhé.
- Đừng đánh thức cô dậy nữa. - Từ Minh nói.
Thế rồi anh ta kéo Ái Thư ngồi xuống.
- Sao lại thế này! - Ái Thư nói.
- Anh em ngại gì. - Rồi lại kéo tay cô nói. - Đôi tay em như búp măng, không đeo xuyến đeo nhẫn gì ư?
- Nhà em nghèo lấy đâu ra những thứ ấy.
- Anh sẽ làm mối cho em một người để em được đeo vàng đeo bạc. Lúc đó em phải tạ ơn anh thế nào đây?
Họ ngượng ngùng sán vào nhau hồi lâu, rồi Từ Minh giật lấy chiếc túi hương liệu trên người ái Thư nói:
- Tạ ơn anh nhé!
Rồi hắn đứng dậy ra về và còn nói:
- Ngày mai anh lại đến.
Ái Thư bị hắn bám riết, cũng thấy rung động. Hằng ngày Bách Thanh Giang vẫn đến nha môn tìm rượu uống. Lam thị không muốn dậy sớm, còn Từ Minh vào kiếm cớ nhờ việc kiện cáo ngày nào cũng lân la tới, như vào chỗ không người.
Hôm sau hắn đến mang một chiếc trâm vàng và hai chiếc nhẫn vàng, nói:
- Anh trả em chiếc túi hương liệu hôm qua.
- Cái gì đấy? - Ái Thư hỏi. - Anh nói đi.
Ái Thư thích quá, cầm lấy ngay. Từ Minh nói:
- Em ạ! Anh có chuyện muốn nói với em. Cậu là người nát rượu, không biết để ý đến việc chồng con của em, khiến em lỡ cả tuổi xuân. Còn chị thì em cũng biết rồi đấy, đã xấu lại ốm đau. Nhà anh thiếu một người đảm đang như em. Chúng mình là anh em, thì còn chờ đợi gì nữa.
- Việc này còn tùy cha mẹ. Chỉ cốt nhất là em bằng lòng, thì sợ gì cha mẹ không bằng lòng.
Thế rồi Từ Minh bế Ái Thư ngồi vào lòng, cúi sát vào mặt Ái Thư nói:
- Em yêu, hình như con người, tính cách và việc nhà đều xứng đáng với em. Nếu như cậu cứ nát rượu như thế sẽ chẳng tìm ra người tốt đâu.
- Anh em không thể lấy nhau được. - Ái Thư nói.
- Rất nhiều, rất nhiều. - Từ Minh nói. - Công khai lấy nhau rất nhiều, mà ngấm ngầm lấy nhau cũng rất nhiều.
- Đừng có nói càn. - Ái Thư cười nói rồi đẩy Từ Minh ra, đứng dậy. Lúc ấy đã thấy Lam thị tỉnh giấc, gọi lấy nước rửa mặt. Từ Minh bỏ đi. Từ đó họ thường đi lại với nhau, quyến luyến chẳng muốn rời nhau. Ngọn lửa tình duyên bùng cháy.
Một hôm nhân lúc vắng người, Từ Minh ôm chầm lấy Ái Thư nói:
- Anh không chờ được nữa rồi.
- Không được! - Ái Thư nói. - Nếu ta cứ làm bừa thì làm sao mà lấy chồng được.
- Lấy anh. - Từ Minh nói.
- Chưa bàn bạc xong.
- Chúng ta đã bàn với nhau rồi. - Từ Minh nói.
Ái Thư khăng khăng không chịu, Từ Minh bèn quỳ xuống, nói:
- Em yêu! Ngay từ hồi còn bé anh đã yêu em và đến nay anh vẫn yêu em, hãy thương anh, em hãy thương anh đi.
- Anh đang làm phiền em, mẹ em mà nghe thấy thì chết.
- Anh đang muốn cho bà nghe thấy, nghe thấy còn tốt hơn nhờ người làm mối. Việc đã rồi, sợ gì bà không bằng lòng?
Ái Thư ráng sức đẩy ra, song không sao đẩy được khi thấy Từ Minh khẩn thiết cầu xin. Vừa mới lơi tay đã bị Từ Minh đè xuống đặt lên ghế. Ái Thư sợ mẹ biết, cứ gỡ tay hắn ra, không cho Từ Minh giở trò quỷ quái, nói:
- Anh hãy tha cho em, chờ sau này hãy hay.
- Trước hay sau thì cũng thế, - Từ Minh nói, - càng sớm càng tuyệt vời.
- Thế thì ngượng chết, còn mặt mũi gì nữa.
Ái Thư tuy nói thế nhưng vẫn nghe theo. Sớm một chút, Ái Thư hoảng sợ, muốn chạy ra lại sợ người khác biết được không dám lên tiếng. Từ Minh nói:
- Vì em không chịu khiến anh vội vã. Bây giờ cứ để anh tự nhiên sẽ không đau đâu.
Ái Thư đành để cho Từ Minh thử một lần nữa. Thân liễu nhẹ bay, đôi mắt lim dim, miệng rên khe khẽ, tình sao kể xiết. Từ Minh cũng chỉ muốn làm qua như thế, chứ không định tận hưởng hết thú vui. Ái Thư cảm thấy vô cùng phiền não, một màu hồng tươi loang trên áo.
Oanh vàng dậu trên cao.
Lung lay cánh hồng rụng.
Đáng tiếc xuân dang dở,
Mà hoa đã phai tàn.
Phàm là con người ta chỉ trong chốc lát mà mắc phải sai lầm, một phút không kiên định thì cái ý niệm giữa gái trinh và dâm phụ chính là ở chỗ then chốt này đây. Nếu lỡ bước thì sau này càng cứu vãn càng sai, và hẳn sẽ càng gây thêm rắc rối. Từ đó trước lạ sau quen, hai người dần dần cứ dấn sâu vào cõi thú vui lúc cao hứng lên, bất giác bật ra đôi ba tiếng cười và không sao giữ kín được. Lam thị đã thấy nghi, một hôm nghe thấy tiếng chiếc ghế tre kêu cót két, vội vàng tới cửa lầu nhìn thì thấy Ái Thư ngồi trên ghế, Từ Minh đứng đó đặt hai đùi Ái Thư gác lên vai, hai tay Ái Thư ôm chầm lấy cổ Từ Minh, dưới thì động đậy, trên thì hôn hít.
Lam thị bèn chạy xuống, hai người thấy động vội buông nhau ra. Lam thị đã đến ngay trước mặt, định đánh Ái Thư thì Từ Minh nói:
- Cô đừng làm ầm lên, nếu chuyện vỡ lở thì cô cũng chẳng ra gì. Chúng con đã hứa hẹn với nhau, con sẽ cưới Ái Thư về làm thiếp. Song có điều rất khó nói, nay cô đã biết thì mong cô hãy thu xếp việc này. Con gái mười tám mười chín tuổi mà vẫn còn giữ ở nhà, như thế là không nên.
Ái Thư là con một, Lam thị không nỡ làm nó rầy rà, hàng ngày lại rất xu phụng Từ Minh, bỗng chốc nỗi bực tức tiêu tan, chỉ nói vài câu cho qua chuyện:
- Chúng mày đừng làm như thế, làm thế thì ta còn mặt mũi nào nữa? Ông say mà biết được thì làm thế nào?
Rồi bà ta cứ thở dài thườn thượt. Từ Minh khe khẽ nói:
- Cháu hoàn toàn nhờ cô che chở và sắp đặt cho.
Hôm ấy Ái Thư cứ phải lẩn trốn không dám gặp mặt mẹ.
Ngày hôm sau Từ Minh mang tới vài chục lạng đồ trang sức đưa cho Lam thị, mong bà che giấu cho. Lam thị không nhận, Từ Minh cứ van nài mãi bà mới nhận, rồi nói:
- Khi ông say không có rượu thì ông ấy rất cố chấp nói chưa chắc ông đã nghe. Mà khi đã rượu vào, say càng khó nói. Ông ấy đã cân nhắc đi cân nhắc lại không biết bao nhiêu lần, cuối cùng đã quyết gả cho lão Đại. Nếu nói làm vợ lẽ cháu thì ông ấy sợ người ta chê cười và nhất định không chịu gả. Có điều bây giờ chúng mày đã để xảy ra việc này thì ta vẫn cứ để cho chúng mày ngấm ngầm đi lại với nhau.
Ba người thỏa thuận để che mắt Bách Thanh Giang. Cháu cô cháu cậu xưa nay đi lại với nhau, chẳng ai để ý tới làm gì, Vì thế hai đứa cứ tự nhiên lên lầu hành sự, Lam thị ở dưới trông chừng.
Ngày qua tháng lại đã được hơn nửa năm. Lam thị biết con mình đã hư hỏng, sợ rằng lời ra tiếng vào sẽ khiến cho các bà mối kiếm cớ thoái thác. Song Bách Thanh Giang chẳng hay biết gì, nói:
- Trai to dạm vợ, gái lớn gả chồng, cớ sao bà cứ để nó ở nhà hầu hạ bà?
Nhân cơ hội ấy Lam thị mới nói vào:
- Cháu đằng ngoại nhà họ Từ muốn cưới nó làm vợ.
Nào ngờ Bách Thanh Giang say rượu hất tung chiếc bàn nói:
- Con gái ta mà lại gả làm vợ lẽ cho nó à? Anh em con cô con cậu còn rất gần, về luật, nếu đã lấy nhau cũng phải bỏ.
Lam thị và Ái Thư cứ âm thầm kêu khổ. Lại có một người thư ký của huyện này tên là Giản Thắng, vợ mới chết, không cha mẹ, không con cái, cuộc sống cũng tạm ổn. Vì tới tìm Bách Thanh Giang, thấy con gái ông nên mượn người tới hỏi. Bách Thanh Giang cho rằng anh ta sống một thân một mình, mà lại biết giữ gìn bổn phận, bởi thế gả cho anh. Hai mẹ con Ái Thư không sao ngăn nổi, nên đành phải để nhà trai dẫn lễ, chọn ngày mồng chín tháng Ba thì cưới. Từ Minh biết tin cũng chẳng làm sao được.
Một hôm Từ Minh đến thăm Ái Thư, cô bèn kéo Minh ra khu vườn nhỏ sau nhà, hai người ngồi trên chiếc giường Hồ, Ái Thư gục đầu vào lòng Từ Minh, nói:
- Anh hại em, anh phụ lòng em, lúc ấy em không nghe, anh cứ nài nẫng đòi, hứa sẽ cưới em về, sao bây giờ anh không nói đi? Bây giờ em đã thất thân với anh thì làm sao còn đến nhà người ta được?
- Chỉ vì cha em không chịu gả. - Từ Minh nói. - Người mà em lấy lại chính là Giản Thắng ở lối cửa sau nhà anh. Anh ta là người tham lam độc ác, có người vợ đẹp như hoa nhưng bắt khoan bắt nhặt đủ điều, không ngày nào là không đánh chửi nhau, sau vợ phải bỏ mạng. Nay anh ta lại cưới em làm vợ kế.
- Cha em nói kinh tế nhà anh ta cũng khá. - Ái Thư nói.
- Bố em cũng làm thư ký, - Từ Minh nói, - chỉ nghe thấy bố em cạo giấy chứ có thấy bố em đếm tiền đâu.
Thấy Từ Minh nói thế Ái Thư buồn vô hạn, nói:
- Vừa nãy anh nói, nhà anh có cửa sau, nếu như cưới xong em sẽ sang nhà anh.
- Nếu mất người, - Từ Minh nói, - Giản Thắng sẽ tới nhà em đòi người, thì e rằng sẽ liên lụy đến cha mẹ em.
- Nếu như về nhà anh ta, - Ái Thư nói, - em nói là đã mất trinh, anh ta làm to chuyện, đưa lên quan thì anh bảo là anh cưỡng dâm.
- Chúng ta quan hệ với nhau hàng nửa năm trời, - Từ Minh nói, - em bảo cưỡng dâm thì lọt tai sao được. Em cứ yên tâm, nhất định anh sẽ tìm ra kế sách an toàn cả đôi đằng.
Hoa dương lay động rơi trên áo,
Gió xuân sao nỡ thổi bay đi.
Bao giờ giải đến nha môn nhỉ?
Để khách hồng quần thoát lưới vây.
- Anh phải mau mau nghĩ kế. - Ái Thư nói. - Nếu sự việc xảy ra anh cũng chẳng phủi tay được đâu.
Từ Minh vừa nói vừa đùa giỡn, bị Ái Thư đẩy ra nói:

- Còn lòng dạ đâu mà vui với thú, năm hôm nữa là em về nhà người ta rồi, anh phải nghĩ cách ngay rồi sáng mai sang nói với em.
Về Đầu Trang Go down
https://triamquan.forumvi.com/
Tri Âm Quán
Thành Viên Tích Cực
Thành Viên Tích Cực
Tri Âm Quán


Tổng số bài gửi : 6340
Reputation : 2
Join date : 31/07/2013
Đến từ : Thị Trấn Chũ

Đoán Án Kỳ Quan - Page 5 Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Đoán Án Kỳ Quan   Đoán Án Kỳ Quan - Page 5 EmptyMon Apr 28, 2014 6:08 pm

nhiều tác giả
Đoán Án Kỳ Quan
Phạm Tú Châu - Nguyễn Văn Thiệu (Dịch và biên soạn)
Chương 15 (B)
Quả nhiên Từ Minh ra về, chẳng còn lòng dạ đâu mà ăn uống nữa. Trong thư phòng nhỏ ở vườn sau, anh ta hết đứng lại ngồi, muốn tìm ra một kế nào đó. Bỗng thấy người vú nuôi tên là Vương Tĩnh Nương bế đứa con nhỏ của mình vào vườn chơi và bón cơm cho nó. Chị vú nuôi mặt mũi tuy xấu nhưng thân hình thon thả, không khác Ái Thư là mấy. Chị có đôi chân nhỏ nhắn, xinh đẹp. Từ Minh trông thấy chị vú nuôi nghĩ: "Con nhỏ này, hàng ngày ta cứ tìm mày, sao hôm nay mày lại lân la đến đây. Ta đã để ý đến cả bọn gia nhân, a hoàn rồi, hôm nay mày lại dẫn xác đến thăm ta, lại còn đến khiêu khích cả vợ ta, ta dùng nó chăng?".
Kế đã định, Từ Minh tới ngay nhà Ái ThưHai người rất vui ôn lại những chuyện đã qua rồi trở về. Đến ngày cưới, Từ Minh tới tiễn Ái Thư lên kiệu hoa.
Giản Thắng vì lấy vợ kế nên cũng không mời thân thích quyến thuộc. Đến tối, kể ra việc ấy thì cả hai người đều thông thuộc chỉ có điều Ái Thư sợ rằng Giản Thắng phát hiện ra mình đã ăn trái cấm, nên cố làm ra vẻ ta đây, Giản Thắng sán đến, mặt đỏ bừng, đầu nghển cao ngấm nguẩy tránh mặt đi, cứ ngồi lì bên ngọn đèn không muốn đi ngủ. Giản Thắng giục mấy lần, cô nói:
- Anh cứ ngủ trước đi.
Vào trống canh hai Giản Thắng trằn trọc trên giường thò đầu nhìn ra, vẫn không thấy động tĩnh gì. Lát sau lại nhìn ra, Ái Thư vẫn để nguyên quần áo như thế ngồi tựa vào bàn. Giản Thắng nói:
- Cô Ái! Đêm đã khuya rồi cô cũng mệt, hãy đi ngủ thôi.
Song Ái Thư vẫn không chịu ngủ. Giản Thắng bèn bế cô vào giường, nói:
- Đừng ngại. Người khác thì không biết nương nhẹ, song anh thì đã biết rồi, lẽ nào anh không biết chừng mực!
Thế rồi Giản Thắng cởi áo cho cô, sờ sờ nắn nắn, lại một canh nữa trôi qua. Giản Thắng đã cởi được giây lưng, và cởi được bảy tám chiếc cúc, song cô cứ giữ chằng chằng không cho cởi. Sốt ruột Giản Thắng hứng tình lên tới cao độ, dứt tung cả dải áo Ái Thư. Cô nói:
- Hành kinh.
- Sao không nói với tôi từ sớm để tôi phải phí công. Thế rồi anh ta chỉ ôm lấy cô, đùa giỡn khan một lúc rồi đi ngủ.
Đến ngày thứ ba là ngày lại mặt, chàng rể mới đến chào bố mẹ vợ. Trong nhà có một thằng nhỏ tên là Phát Tài. Ái Thư nói:
- Hôm nay làm chàng rể mới phải mang nó đi hầu, cho đàng hoàng chứ.
- Nhà không có ai cơm nước hầu hạ em. - Giản Thắng nói.
- Không ngại, một vợ một chồng chẳng phải lo gì. Hôm nay em tự làm lấy.
Thấy thế Giản Thắng rất vui.
Đi ra khỏi nhà một lúc lâu thì thấy có một gia nhân gánh hai chiếc quả đựng lễ tới, theo sau là một người đàn bà. Ái Thư cũng không quen biết. Thấy nói là nhà họ Từ sai người mang lễ tới mừng. Ái Thư hớn hở vội mang rượu và thức nhắm ra tiếp đãi. Người vú nuôi ấy nói:
- Thưa cô! Tôi cũng gần đây thôi, tôi sẽ tới chơi luôn, cô đừng bày vẽ làm gì.
Ái Thư bèn kéo cô lại ngồi cùng, tự rót rượu mời cô. Gia nhân đứng bên ngoài chính là Từ Báo, một kẻ hết sức ngang ngượcÁi Thư cũng rót rượu cho hắn uống. Uống được một lát thì cô vú nuôi lấy lễ vật ra, rồi lại được Ái Thư hết lòng mời mọc, nên người vú nuôi ăn uống thoải mái, chẳng mấy chốc đã say mê man chẳng biết trời đất gì cả. Từ Báo vội vàng chạy vào nói:
- Để ta làm việc này.
Hắn cởi quần áo của người vú nuôi ra và bảo Ái Thư cởi ngay quần áo của mình mặc vào cho cô ta. Mọi việc xong xuôi người vú nuôi vẫn cứ say mê mệt, gáy gỗ khò khò, mặc cho hai người vần đi vần lại. Sợ để lại dấu vết sẽ bị phát hiện. Từ Báo bảo Ái Thư thu dọn hết những đồ ăn thức uống trên bàn, những lễ vật mang tới và tất cả quần áo cũ của vú nuôi bỏ vào trong quả. Sau đó hắn cắt đầu người vú nuôi bỏ nốt vào chiếc quả. Ái Thư đóng giả người vú nuôi, vội vàng ra khỏi cửa.
Gió mưa tầm tã máu còn loang,
Đỏ tươi chiếc lá đã bay sang.
Kỷ Tín mưu thành lừa được Sở
Thị phi, phân biệt, mắt tinh đời.
Từ Minh mở cửa sau đón Ái Thư, hỏi:
- Có ai biết không?
- Không!
- Không sợ sao?
- Sợ đến chết người đi được, cho tới bây giờ vẫn còn run.
Vào tới vườn sau, Từ Minh hậu thưởng Từ Báo. Từ Minh sai người mua quan tài bỏ chiếc đầu người vú nuôi vào rồi thuê người mang đi chôn. Chỉ vì hằng ngày người vú nuôi thường đi hết nhà này đến nhà khác chơi bời, sợ người ta không thấy sẽ sinh nghi, hơn nữa khi chồng cô ta tới thăm mộ bèn nói đổ đi rằng cô đã mắc bệnh tim rồi chết. Sau đó Từ Minh thuê một chiếc kiệu, đến ngay nhà họ Bách. Giản Thắng đang định ra về thì Từ Minh nói:
- Chú Giản! Trước đây là hàng xóm láng giềng, nhưng nay đã là người thân, sao không để tôi mời thêm một chén!
Thế rồi Từ Minh kéo Giản Thắng lại uống rượu mãi. Sau đó nói:
- Thôi thôi, tối còn có việc, ép uống say quá chú lại trách tôi mà ngay cả em tôi nó cũng trách.
Mọi người cười ồ lên rồi tiễn nhau ra về.
Giản Thắng cùng với đứa ở về nhà. Trên đường về, nghĩ: "Uống say rồi, có lẽ hôm nay vẫn còn hành kinh", cứ thế ngật ngưỡng đi. Tới nhà Giản Thắng gọi:
- Cô Ái! Tôi đã về đây! Mẹ dặn cô cứ yên tâm, đừng nghĩ ngợi gì.
Vừa vào đến nhà thì thấy một xác chết không đầu. Giản Thắng giật mình kêu toáng lên.
- Ai... đây.
Gọi cô Ái chẳng thấy thưa, tìm cũng không thấy đâu, nhìn kỹ thì thấy đúng quần áo Ái Thư mặc. Giản Thắng mới sống với cô vài ba ngày nên cũng không nhận ra, bèn gào lên khóc.
- Ối Ái Thư ơi! Rồi nói. - Kẻ cướp ác độc nào đã giết chết vợ tôi, một người đẹp như hoa cúc.
Giản Thắng gào lên kêu trời kêu đất. Những người láng giềng hỏi thì Phát Tài nói:
- Không biết kẻ nào đã giết chết bà chủ nhà tôi rồi.
Mọi người bước vào, thấy Giản Thắng cứ nhìn cái xác không đầu khóc. Họ hỏi: - Đây có phải là vợ anh không?
- Sao lại không, áo mặc thì hoàn toàn là áo vợ tôi, chỉ có điều không có đầu.
- Thật là kỳ lạ. - Mọi người nói.
Thế rồi họ bảo nhau đi tìm, song vẫn không thấy đầu đâu.
Mọi người nói:
- Việc này phải cho người đến báo cho nhà họ Bách.
Giản Thắng bèn sai Phát Tài đi báo.
Bách Thanh Giang uống rượu say, Lam thị cũng đã ngủ. Thấy tiếng gõ cửa, Lam thị hỏi, nghe đó là Phát Tài. Nghe tin dữ, Lam thị òa lên khóc, gọi Bách Thanh Giang dậy. Thanh Giang nói:
- Con gái lớn thì phải gả chồng. Bây giờ ở đó nó đang vui thú với nhau, bà còn khóc lóc cái nỗi gì?
- Ông say ơi! Con gái ông chết rồi!
- Nó sao mà chết? Ta không tin.
- Có người đến báo.
Lúc ấy Bách Thanh Giang mới lập cập ngồi dậy, nói:
- Có việc ấy ư? Thế thì đi ngay thôi.
Thanh Giang chẳng kịp khăn mũ, khóa trái cửa rồi kéo Lam thị đến ngay nhà Giản Thắng. Cũng chỉ nhận thấy quần áo ấy là của con mình, rồi khóc rống lên. Hỏi Giản Thắng đòi đầu. Giản Thắng nói:
- Tôi vừa ở nhà ông về, tôi cũng không biết.
- Lẽ nào nhà anh không có ai ở nhà? Thanh Giang hỏi.
- Quả thực không có ai ở nhà.
- Ta gả cho ngươi một người nguyên vẹn, - Lam thị nói,
- thì ngươi cũng phải trả lại một người nguyên vẹn cho ta. Ta hỏi ngươi tại sao bỗng dưng vô cớ lại xảy ra như thế?
Giản Thắng hỏi những người láng giềng:
- Các ông các bà có thấy ai vào nhà tôi không?
- Chúng tôi đều đi làm cả nên không biết ai vào.
Thấy không có ai biết được đầu mối, mọi người nói:
- Vậy thì chỉ có bọn cướp thôi... mà cũng kỳ lạ thật, nó chỉ lấy đầu mà chẳng lấy của cải gì cả! Kỳ quái thật!
Đoán già đoán non mãi mà không ra, qua một đêm, tới sáng hôm sau họ mới kéo nhau lên báo huyện. Tri huyện Nữu lấy khẩu cung hai nhà, một bên là gả chồng cho con nên không còn liên quan, một bên thì chồng ở nhà bố vợ vừa về, trộm cướp lại không lấy của, kẻ gian cũng không còn tông tích. Tri huyện vội vàng mời Mông Tứ Nha tới bàn bạc. Tứ Nha nói:
- Chờ kẻ hậu sinh này đi khám nghiệm sẽ rõ.
Tri huyện bèn ủy quyền cho Tứ Nha tới đó xem. Trước hết ông gọi lý trưởng lại nói rằng, ở địa phương xảy ra án mạng sao không báo cho nha môn biết. Thế rồi ông đánh lý trưởng mười tay thước để thị uy. Sau đó hỏi:
- Vụ án này rất kỳ lạ, song chúng phải đền mạng chứ không thoát được. Theo ta, nếu không có duyên cớ gì thì kẻ nào dám làm thế. Nhất định là cô dâu mới làm bộ làm tịch không chiều theo chồng, lại động tới Giản Thắng một gã say nên có thể anh ta giết đi. Hoặc cũng có thể vợ chồng Bách Mậu dung túng cho con gái gian dâm, nay thì gian phu đã nổi máu ghen mà giết đi. Tại sao chức trách địa phương lại không biết. Cũng có thể xóm giềng thấy anh ta sắm sửa đầy đủ để cưới vợ mà rủ nhau giết người cướp của. Bây giờ ta hãy đưa lý trưởng tới nha môn, giam vào ngục, ngày mai cùng xét hỏi với hai nhà kia.
Bách Mậu và Giản Thắng nhờ hai người hàng xóm đến nói giùm, quan xét xử nói:
- Nếu luận tội thì cả hai đều là trọng phạm, song đã đến đây nghe ta phân giải thì ta cho rằng hai vợ chồng Bách Mậu có nhẹ tay hơn, song phải có người bảo lãnh.
Mấy người láng giềng và lý trưởng cũng lo đút lót cho quan để được tha về.
Ngày hôm sau giải lên công đường, quan huyện nói:
- Ta nghĩ rằng vợ chồng Bách Mậu không có liên quan đến việc này, còn hai người hàng xóm chẳng lẽ bỗng dưng lại giết chết người. Vậy việc này chỉ do Giản Thắng mà thôi.
Nói xong quan sai ngươi kẹp Giản Thắng. Giản Thắng không chịu được đành phải khai bừa.
- Bẩm quan, do con say mà giết vợ.
- Vậy đầu ngươi vất đâu?
- Con vứt xuống sông, không biết chỗ nào.
Quan huyện đánh hai mươi gậy, giam vào ngục. Viết cáo trạng trình lên quan trên như sau:
"Giản Thắng mới cưới vợ được ba ngày, chẳng có thù oán gì, chỉ vì say rượu mà giết vợ, rồi vứt đầu đi, thật là thê thảm. Theo luật, vô cớ mà giết vợ phải đền mạng. Hai tên láng giềng là Bính và Khôi trông thấy mà không cứu cũng phải đánh để trừng phạt".
Kết tội xong rồi cho giải những người này lên quan trên. Thạch Chính Sử giải quyết việc này, ông bác lại:
"Giản Thắng mới lấy vợ được ba ngày, sự yêu hay ghét chưa sâu sắc. Lại khai là say rượu mà giết. Làm gì say đến mức điên loạn mà giết người được? Đầu không tìm thấy, và ngay cả người làm chứng cũng không có, nên khó mà kết án được. Vậy kính mong quan hình sảnh giải quyết".
Quan hình sảnh họ Phù nói:
- Bọn hiếu liêm này thật nhiễu sự, hắn đã khai đầu vứt xuống sông thì tìm làm sao được. Mà hắn giết người ngay tại nhà thì ai mà trông thấy.
Gọi Giản Thắng lại xét hỏi. Thắng vẫn khai như thế. Quan nói: - Giết người là do Giản Thắng khai ra, không có ai qua lại thì đổ bừa cho Bính Khôi, Vinh Hiển trông thấy, coi đó là chứng cớ hắn giết vậy. Tuy vứt đầu xuống sông, thì dòng sông mênh mang biết đâu là chứng tích. Đấy chẳng phải là chỗ hắn thoái thác sao!
Thề rồi lại giải lên trên. Thạch Liêm Sử lại không vừa lòng nói:
- Xử kiện không mắc oan sai mới tốt, nếu xử oan thì người sống ôm hận mà mối thù của người chết cũng không tan. Rốt cục cả người sống và người chết đều thù oán. Việc này ta phải đích thân xét xử, nay tạm giam phạm nhân vào ngục.
Thế rồi ông tắm gội sạch sẽ, đến miếu Thành Hoàng thắp hương khấn rằng:
"Thần nắm pháp luật của một tỉnh, thần nhờ ơn thánh thượng hưởng lộc một vùng, minh oan rửa hận. Âm dương tuy u minh cách trở, song tấm lòng không phân biệt u minh. Nếu Bách thị mắc oan, Giản Thắng ôm hận ấy là tội của thần, mà đó cũng là nỗi xấu hổ của Thành Hoàng. Hãy hiển linh để làm rõ sự vu oan này".
Thạch Liêm Sử đốt tờ sớ gửi xuống cho thành hoàng. Đến đêm ngồi trong công đường, Thạch Liêm Sử mơ thấy chữ "mạch". Khi tỉnh dậy ông nghĩ: "Chữ mạch có hai chữ nhân (là người), chắc rằng hai người chết". Ông cứ trăn trở suy nghĩ mãi mà không ra. Tự nhiên ông nẩy ra một kế, tỏ rõ nỗi thương xót để xét xử vụ án này.
Người ta đồn nhau rằng Thạch Liêm Sử sẽ trực tiếp xét xử lại vụ án, không ngờ mãi đến canh hai ông mới lên công đường. Những người đi xem xử kiện chờ lâu quá đều bỏ về hết. Thạch Liêm Sử lần lượt hỏi từng người một, Giản Thắng nói:
- Quả thực oan con quá! Hôm ấy con uống rượu ở nhà bố vợ, con hoàn toàn không giết người.
Ông lại gọi Phát Tài tới dọa nạt, song nó vẫn nói như thế. Thạch Liêm Sử bèn gọi hai sai nha tới dặn kín rằng: "Xem bên ngoài có người nào thì bắt đưa vào đây". Sai nha ra ngoài thấy một thằng nhỏ bèn lôi ngay vào. Quan hỏi:
- Người là người nhà ai mà tới đây nhòm ngó?
Thằng nhỏ run sợ một lúc lâu vẫn không cất nên lời, mãi sau nó mới nói:
- Người nhà họ Từ.
- Vậy chủ ngươi tên là gì?
- Thưa ngài tên là Từ Minh.
Thạch Liêm Sử viết hai chữ Từ Minh lên giấy thì quả là có chữ nhân đứng kép và chữ tịch.ông nghi ngay, hỏi:
- Gia chủ ngươi có ai là người thân thích?
- Ông ấy là cháu ngoại ông già Bách.
Thạch Liêm Sử nghĩ: "Chẳng phải hắn đã gian dâm với con gái của Bách Mậu sao, trách nào cô ta đi lấy chồng hắn đã giết cô"
Thế rồi ông tha thằng nhỏ này. Đến hôm khác sẽ xét xử tiếp. Người đứng bên ngoài cười ồ lên, nói:
- Ngài Thạch giỏi, mà cũng chẳng tìm ra được đầu mối.
Cách đó một hôm ông lại gọi hai sai nha tới dặn:
- Các ngươi bí mật tới thăm dò hai nhà hàng xóm ở sát vách nhà họ Từ, và bí mật bắt đưa họ về đây.
Quả nhiên hai người đi thăm dò việc cưới xin, đến trước cửa nhà họ Từ, hỏi Tạ Đông Sơn người làm nghề bán giày ở bên trái nhà họ Từ và một người tên là Cao Đông Pha làm nghề chếp khăn. Họ lừa hai người này ra cửa rồi nói:
- Ngài Thạch mời ông.
Hai người ra sức giãy giụa, nhưng sai nha nào có buông ra. Tới công đường Thạch Liêm Sử khẽ gọi Tạ Đông Sơn vào hỏi:
- Việc ngày mười một tháng Ba của nhà Từ Minh ngươi có biết không?
- Thưa ngài con không biết.
- Thế ngày hôm ấy nhà Từ Minh làm gì?
- Thưa ngài chẳng làm gì ạ!
- Ngươi hãy nghĩ kỹ đi.
- Thưa ngài, - lát sau Tạ Đông Sơn nói, - ngày mười một tháng Ba nhà ông ấy chết người vú nuôi.
- Thế ai là người khâm liệm và đưa đi chôn?
- Lô Lân, người khám nghiệm tử thi. Thạch Liêm Sử lập tức sai người gọi nhân viên khám nghiệm tử thi Lô Lân tới ngay công đường, chờ khám nghiệm thi thể Bách thị.
Thạch Liêm Sử gọi Lô Lân vào hỏi:
- Ngươi chôn thi thể người vú nuôi nhà họ Từ ở đâu?
Tại nghĩa địa ngoại thành.
- Thế ngươi nhập liệm à?
- Thưa ngài không phải con, con chỉ khiêng đi thôi.
- Có thấy gì lạ không?
- Thấy nhẹ.
Thạch Liêm Sử bèn lên ngay kiệu, đem theo người khám nghiệm tới nghĩa địa, bảo Lô Lân đi xác nhận ngôi mộ ấy. Sau đó Thạch Liêm Sử hỏi lại:
- Có đúng là nhẹ không?
- Thưa ngài đúng thế ạ!
- Hãy đào ngay lên. - Thạch Liêm nói.
Quả là khi đào lên chỉ thấy một chiếc đầu lâu lăn lông lốc. Thạch Liêm Sử ra lệnh bắt ngay Từ Minh tới. Một mặt sai người gọi Bách Mậu đến nhận chiếc quan tài đầu lâu. Vợ chồng Bách Mậu nhìn thấy chiếc quan tài òa lên khóc. Giản Thắng cũng khóc. Ai ngờ lẽ trời sáng tỏ, âm hồn người vú nuôi không tan, bởi thế chiếc đầu vẫn còn tươi nguyên như cũ. Vợ chồng Bách Mậu khóc hồi lâu rồi lau nước mắt nhìn nói:
- Đây không phải đầu con gái con.
- Thật là kỳ quái, - Thạch Liêm Sử nói, - không đào nhầm quan tài đấy chứ?
Ông gọi Lô Lân lại hỏi, Lô Lân nói:
- Thưa ngài con nhận đúng chiếc mộ ấy.
- Chờ Từ Minh tới sẽ rõ. - Thạch Liêm Sử nói.
Khi hai sai nha đến thì đúng là Từ Minh đang giấu Ái Thư tại thư phòng. Họ cứ cười nói với nhau rằng Giản Thắng vô tội mà chịu khổ và ngay cả cha cô cũng khóc. Chợt nghe thấy thằng nhỏ vào nói là ngài Thạch cho người tới bắt. Từ Minh nghĩ: "Chắc là lại do thằng nhỏ đi nghe ngóng tin tức mà ra đây. Có bảo ta đút lót cũng vô tang chứng".
Ái Thư nói:
- Có chắc chắn là vô tang chứng không?
Từ Minh cười đáp, mưu mẹo của ta như thần thánh, có trời mà biết được. Vậy ngài biết sao được? Thế rồi Từ Minh đường hoàng bước ra. Không ngờ hai người sai nha không giải hắn về án sát ti mà lại dẫn ra nghĩa địa. Bách Mậu, Giản Thắng đang đứng trước chiếc quan tài đã bật nắp. Từ Minh giật mình nghĩ: "Sao lại xảy ra chuyện này?". Người ta giải Từ Minh đến trước mặt Thạch Liêm Sử. Ông nói:
- Ngươi là thằng chó chết, ngươi hãy khai mau hai mạng người này.
- Vào tháng Ba, - Từ Minh nói, - ngươi vú nuôi nhà con ốm chết, là người còn nguyên vẹn chứ làm sao chỉ có đầu không. Đây là người nhà khác.
- Đây là cỗ quan tài bằng gỗ tùng có ba mảnh ghép, - Lô Lâm nói, - đúng là khiêng từ nhà anh ra. Hôm ấy tôi bảo anh đánh dấu vào, anh bảo không cần, tôi sợ người nhà họ đến tìm sẽ gặp khó khăn, nên tôi đã vạch ba chữ "Vương Tĩnh Nương" trên quan tài, rất may gió mưa như thế mà vết chữ vẫn còn.
Thạch Liêm Sử cho giải về nha môn. Tới nơi ông cho người kẹp Từ Minh. Không chịu nổi Từ Minh đành phải khai. Vì muốn gian dâm với người vú nuôi, nhưng người ấy không chịu, bởi thế căm giận mà giết đi. Thạch Liêm Sử nói:
- Vậy thì xác người ấy đâu?
- Con sai gia nhân là Từ Báo mang đi chôn. Từ Báo luôn luôn thấy Vương Tĩnh Nương hiện hồn về, sợ hãi quá rồi đổ bệnh chết. Hiện nay không biết chôn ở đâu.
Thạch Liêm Sử nghĩ. "Nếu đã chôn sao không chôn toàn thây? Tại sao cắt đầu rời ra, chôn đầu một nơi mình chôn một nơi. Nhất định đây là người nhà Giản Thắng. Phải tiếp tục kẹp, bắt khai ra Bách thị ở đâu, chưa biết chừng hắn giết cả hai nhân mạng". Bị kẹp tiếp, Từ Minh buộc phải khai:
- Con vốn thông dâm với Bách thị, con muốn lấy cô làm vợ nhưng Bách Mậu không gả mà lại gả cho Giản Thắng. Sợ bị lộ, nhân lúc cô về nhà chồng con vờ cho vú nuôi đến mừng và sai đứa ở là Từ Báo giết chết Vương Tĩnh Nương rồi mặc quần áo của Bách thị cho Tĩnh Nương, sau đó đón Bách thị về nhà. Vì sợ mặt Tĩnh Nương không giống Bách thị nên đã cắt đầu mang về. Lại sợ người nhà Vương thị, nên cho đầu vào quan tài khâm liệm rồi mang đi chôn để che giấu. Hiện Bách thị đang ở tại thư phòng nhà con.
Thạch Liêm Sử sai người đi bắt Bách thị về hỏi cung. Bách thị khai khớp với lời khai của Từ Minh. Thạch Liêm Sử cầm bút phán quyết:
"Từ Minh là tên gian ngoan quỷ quái, ác độc như rắn rết. Đã gian dâm với Bách thị và dùng mưu kế xảo quyệt giết người cướp vợ Kỷ Tín lừa Sở mà người vô tội bị giết, Phùng Đình vu oan giá họa khiến người vô tội chịu oan. Luật tuy khoan dung song việc giết người là rất hệ trọng. Nay quyết: Từ Minh phải bỏ ra bốn mươi lạng bạc để bồi thường lễ cưới cho Giản Thắng. Bách Mậu lơ là không ngăn ngừa, Lam thị đồng tình với việc bán dâm đều phải đánh bằng gậy. Bách thị tuy không can dự vào mưu chước của Từ Minh, song phản bội chồng trốn đi, thì đáng phải bán cho nhà quan. Từ Báo nghe nói đã chết cho nên không truy cứu. Những người khác tha cho về".
Tuyên án xong, nọc Từ Minh đánh bốn mươi gậy. Sau đó ông nói:
- Bách thị! Hôm ấy ngươi biết người ta giết người tại nhà mà không ngăn trở, vốn phải ghép ngươi vào tội mưu sát mới đúng. Song ngươi là đàn bà, không hiểu pháp luật, tội ấy đều khép cho Từ Minh. Song chưa chồng mà đã thông dâm, khi lấy chồng thì phản bội chồng bỏ trốn, quả thực vô cùng độc ác. Đánh hai mươi lăm gậy.
- Bách Mậu đáng đánh bởi ngươi là chủ nhà bất chính, còn có thể là do ngươi không biết được sự thực, đã kết tội song ta miễn đánh.
Lam thị buông thả cho con gái gian dâm với Từ Minh, gây thành mầm họa, đánh mười lăm gậy. Từ Báo gây nên án mạng song đã chết vào ngày mười chín tháng Năm, không truy cứu. Lô Lân khiêng xác đi vốn không biết rõ. Hai nhà láng giềng Bính và Khôi không biết sự việc ấy, không đến cứu, song cũng chịu liên lụy nhiều cũng không đáng khép tội. E rằng trong đó vẫn chưa điều tra hết sự thực, vậy dám mong phủ Lâm Giang xem xét kỹ. Phủ Lâm Giang xét thấy Thạch Liêm Sử đã phán xét kỹ và lập bản án gửi lên phủ, quan phủ hết sức khen ngợi rằng: "Đại nhân đã sáng suốt, phán xử rõ ràng".
Sau đó Từ Minh bị giải tới tư giải viện, cấp trên cho rằng việc làm của Từ Minh quả là độc ác, song chưa đến nỗi hành quyết sau đó phải đi đày rồi chết trên đường đi. Cả tỉnh Giang Tây đều khen Thạch Liêm Sử là người sáng suốt.

Qua vụ án này ta thấy Thạch Liêm Sử vẫn chưa nghiên cứu giải quyết tới cùng. Vương Tĩnh Nương chết oan chưa được minh oan; Giản Thắng vẫn phải đền mạng, nỗi oan ấy chưa rửa được. Từ Minh hoan lạc với vợ người, há chẳng đáng cho pháp luật trừng trị sao? Còn như Bách Mậu là kẻ nát rượu, Lam thị là kẻ lười nhác, rốt cục làm cho gia phong bại hoại. Từ Minh hiếu sắc, không bảo toàn được tính mệnh; Ái Thư thất thân đến nỗi chịu nhục nhã, tất cả đều là những kẻ xấu xa. Điều ấy khiến cho người đời lấy làm bài học cảnh giác. Chỉ có Giản Thắng bỗng dưng bị tai họa, tuy bị liên lụy nhưng anh không có tội.
Về Đầu Trang Go down
https://triamquan.forumvi.com/
Tri Âm Quán
Thành Viên Tích Cực
Thành Viên Tích Cực
Tri Âm Quán


Tổng số bài gửi : 6340
Reputation : 2
Join date : 31/07/2013
Đến từ : Thị Trấn Chũ

Đoán Án Kỳ Quan - Page 5 Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Đoán Án Kỳ Quan   Đoán Án Kỳ Quan - Page 5 EmptyTue Apr 29, 2014 3:26 pm

nhiều tác giả
Đoán Án Kỳ Quan
Phạm Tú Châu - Nguyễn Văn Thiệu (Dịch và biên soạn)
Chương 16
Diệu Trí Tham Dâm Nên Bị Giết
Từ Hành Tham Của Bị Báo Thù
Rượu chè trai gái là mầm tai họa.
Tham lam tức tối dễ dẫn đến sai lầm.
Quanh đi quẩn lại đến bao giờ mới hết,
Kiệt bị chết vì đắm say Muội Hỷ.
Trụ bị diệt vong vì rượu thịt tựa núi sông
Hồi Lạc làm Tùy diệt vong bị thế gian chê cười
Cương Phục tầm thường bị Mãng phơi thây.
Bánh xe nghiêng đổ đã nhiều song không lấy đó làm bài học.
Trên đời có bốn thứ làm người ta liên lụy, đó là rượu chè, sắc đẹp, của cải và tức giận. Trong bốn thứ đó thì chỉ một cái cũng đủ làm cho người ta phải điêu đứng, huống hồ cái nọ còn sinh ra cái kia. Bởi thế xưa kia Lý Bạch vì say mà quyên thân ở Thái Thạch, ấy là tai họa của rượu. Tuân Sảnh yêu thiếp đến nỗi tình cảm bị tổn thương mà người cũng chết, đấy là tai họa về sắc đẹp. Mộ Dung Ngạn vơ vét cho đầy túi mà keo kiệt, khiến quân lính không có sức mạnh, ấy là tai họa về của cải. Hạ Bạt Nhạc hám danh, thích tranh giành rồi bị giết, ấy là tai họa của hám danh. Còn có người uống rượu nổi nóng rồi bị tai họa, đó là Quán Phu. Ông ta uống rượu chửi những người cùng ngồi, xúc phạm Điền Phần, rồi bị Điền Phần hãm hại. Vì sắc đẹp mà nổi giận rồi bị tai họa, đó là Kiều Tri Chi. Ông ta tranh đoạt Yểu Nương với Võ Tam Tư, sau bị Võ Tam Tư gièm pha rồi bị giết hại. Vì của cải sinh ra tức giận mà bị tai họa, đó là Thạch Sùng. Ông ta giàu có mà kiêu căng, thi giàu với Vương Khải, cuối cùng vì tiền của mà lụy đến thân. Ham mê tửu sắc mà bị tai họa đó là Trần Hậu Chủ. Ông ta sủng ái Trương Lệ Hoa. Khổng Quý Tân, mê đắm rượu chè, bỏ bê việc triều chính, bị nhà Tùy tiêu diệt. Trọng sắc ham của cải bị tai họa, đó là Đường Trang Tông. Ông ta sủng ái Lưu Hậu, vì tham lam không chịu thưởng quân sĩ, quân sĩ làm phản, đến nỗi phải bại vong. Bốn điều ấy vô cùng xấu xa. Song những tai hại được đồn đại ấy đáng để người đời lấy đó mà răn mình.
 
Truyện kể rằng ở Quý Châu có một người tên là Đô Vân Phủ, làm quản hạt Ma Cáp Châu, vùng Man Di. Ngoài châu có chùa Trấn Quốc, trong chùa có hai phòng hòa thượng: phòng phía đông là chủ tăng Ngộ Định. Người này chuyên coi giữ hoa lợi ruộng vườn, ăn chay đọc kinh, đóng cửa không ra ngoài, không quan tâm đến việc ngoài đời. Phòng bên tây có một vị sư già là Ngộ Thông, trạc ngoài bảy mươi, thường ốm đau nằm liệt giường. Ông có một người đồ đệ là Diệu Trí, tuổi trạc bốn mươi, tính khí hung ác, chẳng biết sợ là gì. Ngộ Thông có một đồ đệ tên là Pháp Minh ngót ba mươi tuổi, người giảo hoạt và một huyền tôn là Viên Tĩnh chừng mười tám mười chín tuổi, xinh đẹp như con gái. Ngộ Thông giỏi làm ăn tính toán, điền sản có tới hàng ngàn lượng vàng, và có trong tay tới sáu bảy trăm lạng bạc. Vì giàu có mà Ngộ Thông sinh ra kiêu ngạo, không học điều hay lẽ phải, mặc dù có một đồ đệ tốt nhưng ông ta vẫn chưa thỏa mãn, vẫn muốn đi tìm đàn bà.
Ở đó cũng có một gã anh hùng nhất khoảnh tên là Điền Cầm, tự Hữu Hoạch, là kẻ vô cùng giảo hoạt, kinh tế tương đối khá giả, làm viên nha lại về lễ tiết, thường hay la cà tới chùa. Vì hắn rất thích mùi vị đàn ông nên Ngộ Thông bèn nhường Viên Tĩnh cho hắn. Chùa được xây dựng quanh co ngoắt ngoéo, phòng thất thâm u còn hơn cả chốn thần tiên.
Thời tráng niên Ngộ Thông sống với ni cô tên là Thu ở am Bồ Đề, tuổi cũng xấp xỉ nhau. Diệu Trí tay cũng nhúng chàm. Thời ấy có một đồ đệ của Thu ni cô là Tịnh Phạn, trạc tuổi Diệu Trí, bị Thu ni cô ghen nên coi giữ rất chặt, hai người có tình ý với nhau nhưng không được gặp nhau, may mà Thu ni già ốm nặng rồi chết, Tịnh Phạn được nối gót, thường qua lại với Diệu Trí. Pháp Minh lại có thêm một đồ đệ là Hồng Như Hải, hai bên cũng đi lại với nhau từ lâu.
Hai gã đầu trọc có voi lại đòi tiên, chúng thường chê hai ni cô này tuổi sàn sàn nhau, và cũng chẳng đẹp gì cho lắm, đầu lại trọc lốc nên chẳng hứng thú gì, chúng muốn tìm một người đàn bà khác. Thầy trò bàn mưu, nhờ đạo nhân Đỗ Hữu Danh lấy vợ một tên cướp đã bị bán cho nhà quan tên là Nữu A Kim đưa về giấu trong chùa, rồi thay nhau hành dâm. Đỗ Hữu Danh không khoái lắm, Diệu Trí cho thêm Đỗ Hữu Danh mấy lạng bạc để hắn đi tìm người khác.
Đỗ Hữu Danh dùng số bạc ấy ăn nhậu và chơi gái hết sạch, rồi hắn lại lẻn vào phòng tìm A Kim, nói:
- Con đĩ trốn ở đâu rồi? Tại sao bỏ ta đi tìm hòa thượng?
Diệu Trí định đánh hắn, Pháp Minh chạy ra can ngăn. Đỗ Hữu Danh nói:
- Nếu sư phụ không có Hữu Danh thì chắc rằng cũng không được Nữu A Kim. Thôi thì bốn chúng ta cùng chung một giường vậy.
- Thôi cũng được. - Pháp Minh nói.
Thế rồi họ mang rượu ra chuốc Hữu Danh. Hữu Danh nói:
- Rượu! Rượu. Các ông đều là bạn tốt của ta.
Hữu Danh cứ uống tì tì, vừa uống vừa nói:
- Sư phụ, không phải tôi động đến sư phụ mà là do rượu đấy. Cho nên tôi muốn chơi cô ta.
Hữu Danh cứ khề khà uống mãi cho tới canh hai canh ba. Chuốc cho hắn say mèm, Diệu Trí mới đi hành lạc. Như thế mới trút hết nỗi tức giận của mình trong suốt một ngày. Cuối cùng, sau khi đã cho Hữu Danh say lúy túy, hắn dùng một chiếc thùng để kết liễu cuộc đời Hữu Danh.
Ba chén cả gan gây hiềm khích,
Khướt say rơi vào cõi âm u.
Rượu chè buông thả còn chứng cớ,
Đáng chê kẻ nát rượu lưu linh.
Trong chùa không có ai thân thích, chùa lại vắng vẻ không ai lui tới, hai hôm sau chúng khiêng Hữu Danh ra sau chùa đốt xác. Từ đó hai gã này yên tâm hành lạc. Ngay cả hai ni cô vì bọn chúng không tới, nên cũng thường tới đấy thăm, song họ chỉ tiếp bên ngoài mà không mời vào phòng nên cũng không biết ở đó có Nữu A Kim.
Một người hầu hạ hai người, người trước vào thì người sau chờ. "Phật quá khứ" ra sức tận hưởng hứng thú. "Phật vị lai" mắt thấy tai nghe, không khỏi đỏ mắt thèm thuồng. Hằng ngày chúng cứ thay nhau hành sự. Chỉ có điều Diệu Trí tuy tuổi có cao hơn một chút nhưng lại giỏi gợi tình. Pháp Minh tuy ít tuổi nhưng người thanh tú, mà ngón nghề cũng bình thường. Hơn nữa hằng ngày Diệu Trí lại hành lạc đầu tiên, lát sau lửa dục Pháp Minh bùng lên, nhưng khi lâm chiến không dai sức, nên Nữu A Kim không thích Pháp Minh. Biết được điều ấy Pháp Minh nói:
Cóc ngóe ba chân tìm đâu cho thấy,
Đàn bà hai chân thiên hạ ê chề.
Pháp Minh bị muối mặt, nên khi đi cúng lễ đã nghĩ cách gạ gẫm.
Một hôm đọc kinh cho một nhà trong thành, nhìn qua rèm thấy mấy người, trong đó có một người rất xinh đẹp, Pháp Minh cứ mắt la mày liếc nhìn trộm. Người đàn bà ấy cáu lên, cố ý liếc mắt đưa tình như có tình ý với gã. Đang cúi đầu đọc kinh, người ấy cứ kéo lấy tay áo hắn, rồi gói một cục than len lén bỏ vào ống tay áo mà Pháp Minh không hề hay biết. Gã ngừng đọc kinh, nhìn xoáy vào hai chiếc bánh dầy nóng hôi hổi trên ngực người ấy mà thèm thuồng thích thú. Tuy nhiên lẩm nhẩm ngồi đọc kinh, nhưng trong bụng gã luôn luôn nghĩ kế để gần cô. Một lát sau mọi người kêu lên:
- Không biết vải ở đâu cháy mà khét thế.
Mọi người nhìn nhau nhưng không biết là cháy ở đâu. Lát sau thấy tay áo Pháp Minh bốc khói, nhìn vào thấy trong ống tay áo có một hòn than, làm cháy thủng mấy chiếc áo mới tinh Pháp Minh đang mặc. Hắn vội kêu lên là: "Vừa rồi cắt bấc nến bị tàn than rơi vào", rồi vội vàng múc nước dội, nhưng mấy chiếc áo đã rách nát như xơ mướp.
Khó cấm ánh mắt thèm thuồng,
Đến nỗi cà sa bốc lửa.
Lũ đàn bà con gái nhìn nhau ôm bụng cười, mặt gã đỏ như gấc chín, bỏ dở đọc kinh về thẳng.
Thế mà máu dê vẫn không chừa. Hắn tức khí cố tìm cho được một người đàn bà. Rất may Pháp Minh gặp một người quả phụ họ Giả, vốn ở một gian nhà trong chùa, do đi lấy tiền thuê nhà mà trông thấy. Chị ta tuổi chừng hai hai, hai ba, cũng có nhan sắc. Giả thị cũng mặt dày mày dạn, đòi sửa chữa, giảm tiền thuê nhà. Pháp Minh cũng tỏ rõ cảm tình, ứng tiền cho chị sửa nhà, rồi thu về sau. Tiền thuê nhà cũng giảm đi chút ít. Dùng ơn huệ riêng để làm thân với chị. Khi chồng ốm chị ta cũng cho sờ mó. Nhưng khi chồng chị ta chết, Pháp Minh đến đọc kinh, tiền phí tổn lễ lạt đều cho chịu, chờ cơ hội sẽ kiếm chác. Những nhà hàng xóm đều là khách thuê nhà, họ cho rằng Pháp Minh là loại sư hổ mang, độc ác chẳng khác gì mụ dạ xoa, cho nên không ai dám động đến hắn. Hơn nữa người thuê nhà lại ở gần vườn chùa nên rất thuận tiện. Chồng chị chết chưa đủ trăm ngày, đêm nào cũng thế hắn trốn sư phụ một mình đến nhà Giả thị tới canh năm mới bỏ đi. Song hắn vẫn nghĩ thầm: "Tuy ta chiếm được thị nhưng vẫn như một thằng ăn trộm, không được thả cửa hành lạc, chẳng thà ta đưa quách cô ta về chùa dùng cho thoải mái, không cần tới con mẹ A Kim nữa, mình ta độc chiếm cô ta".
Quả phụ họ Giả không còn mẹ đẻ, vờ nói với mọi người rằng có một cô gái góa chồng, muốn Giả thị đến ở với cô, thế là Giả thị bán hết đồ đạc, rồi vào một buổi chiều cô ả ra đi. Song cô quay ngoắt vào lối cửa sau chùa, tới nhà phía tây. Vào một ngôi nhà nhỏ, xuyên qua Phật đường, rồi qua một dãy phòng bên. Đây là phòng của Ngộ Thông và Viên Tĩnh. Rẽ qua một lối đi nhỏ thấy một giải tường bao và qua một chiếc cửa nhỏ, thì đây là phòng của Diệu Trí và Pháp Minh. Hai bên là tăng . phòng, ba gian giữa là nơi ngồi nghỉ ngơi, song cửa sơn màu đỏ buông rèm the, phía trước đặt rất nhiều chậu cảnh. Đây là nơi uống rượu cực kỳ thanh nhã. Rẽ sang phòng bên là chiếc cửa quét vôi vào bên trong là chiếc cửa màu tối, đi vào một hành lang. Ngoặt tới là ba gian nhà sâu hun hút, một phòng là của A Kim, một phòng dành cho Giả thị. Hai người gặp nhau, họ đều ngỡ ngàng. Diệu Trí nói:
- Người cùng một nhà cả, có gì phải nghi ngại.
Bốn người cùng ngồi quân quần bên nhau, bọn chúng rất mừng vì hai người đàn bà này đều mặt dày mày dạn. Chúng vui vẻ ăn uống với nhau, sau đó bốn đứa cùng nằm chung một giường. Quả là:
"Ong dạo chơi vườn đào, bướm nhởn nhơ suối mận. Chấp chới cánh bay, sà xuống hoa tươi, chui vào nhụy ngát. Mềm mại non tơ, khi đón ong vàng, khi vờn bướm trắng. Cành hoa run rẩy sương mai thấm đẫm chưa tan. Cuộc chiến say mèm, người mệt lử, vườn hoa dốc kiệt hai bầu. Hứng tận ngủ khì, hồ nước xanh trong, bầy uyên ương nằm bừa trên bãi cỏ. Quả là kể chi ô uế cửa thiền, chỉ cốt xuân tình tràn trề nơi cõi Phật".
Cả hai vô cùng khoái lạc!
Bỗng một hôm Viên Tĩnh tất tưởi đi tới, mặt tái nhợt. Diệu Trí hỏi vì sao, Viên Tĩnh đáp:
- Khó nói lắm. Lâu nay tôi ở nhà Điền Hữu Hoạch, hai bên đối với nhau hết sức thân thiết. Vợ Điền là Hoài thị, thiếp là Nhạc thị, họ đều gọi tôi là tiểu sư phụ. Nhà Điền có hai đứa hầu, một đứa tên là Giang Hoa mười tám tuổi, đứa nữa là Dã Đường mười ba tuổi. Chúng thường tới thư phòng pha trà tiếp nước. Giang Hoa là đứa cực kỳ xinh đẹp, nó thường nói: "Tiểu sư phụ xinh đẹp như thế, em rất yêu sư phụ”. Thế rồi nó lấy túi hương liệu của người thiếp Điền Hữu Hoạch đưa cho tôi, và đưa cả giày cho tôi, buộc tôi phải yêu nó. Trong giây lát tôi không kềm chế nổi bèn quan hệ với nó. Một lần tôi nghỉ ở đó, Điền Hữu Hoạch tiếp rượu tôi mãi tới tận canh một canh hai mới bỏ đi, sau đó Giang Hoa lại ra tiếp rượu tôi, cô ta nói thiếp của Điền Hữu Hoạch mê tôi đẹp trai, muốn gặp tôi.
Khi tôi đi, tự nhiên nó ôm chầm lấy tôi, nói: "Anh yêu của em, chẳng phải bà ấy yêu anh mà ngay em cũng mê anh. Hôm trước anh nằm với bà ấy trong phòng, khiến em uất đến tận cổ! Bà ta đã cướp của em thì hôm nay anh phải đền em". Tôi thấy bà ta đẹp hơn Giang Hoa, bất giác tôi bước vào phòng bà ấy rồi không sao ra được. Tôi đành ở ngay trong đó, quấn lấy bà ấy, suốt cả đêm vất vả. Sáng hôm sau ra muộn, đụng đầu ngay với Dã Đường, luống cuống tôi đánh rơi chiếc trâm cài đầu không ngờ Dã Đường nhặt được đưa cho Hoài thị. Tối qua Hoài thị ghen với Nhạc thị, nên Hoài thị lôi ra nhiếc móc: "Đồ vô liêm sỉ, mày có gã hòa thượng trẻ ấy chưa đủ hay sao còn tranh giành với tao", Giang thị bèn tới nói với tôi: "Nếu Hoài thị đến đôi chối thì cãi làm sao được".
Diệu Trí nói:
- Việc ấy chẳng ngại gì, kẻ ăn chả người ăn nem, thế là huề.
- Không nên nói thế, - Pháp Minh nói, - chúng ta là hòa thượng, có cái hay là chỉ sợ không chơi được thôi, mà chơi rồi thì khi ra cửa quan cũng không thể nói là cưỡng dâm được, và tự nhiên người ta cũng che giấu đi cho. Điền Hữu Hoạch là một gã thủ đoạn, song vì thể diện, hắn cũng không dám thừa nhận việc này. Chỉ có điều từ nay về sau ngươi đừng sa vào đó nữa.
- Đương nhiên là như thế, - Viên Tĩnh nói, - nếu con Giang Hoa muốn trốn theo ta thì ta dứt khoát đón nó ngay, nhất định Hữu Hoạch không dám tới tìm.
- Như thế sao được. - Pháp Minh nói.
Quả nhiên Điền Hữu Hoạch nói là Dã Đường đặt điều, rồi đánh cho Dã Đường một trận. Sau đó Viên Tĩnh không lui tới đó nữa. Song Hữu Hoạch biết đó là sự thực, hắn tạm gác lại, tìm dịp khác để trả miếng.
Từ Châu Đồng người huyện Tung Minh, xuất thân từ giám sinh được về nhậm chức châu Di Trực. Ông ta là người hết sức tham lam độc ác, có một đứa con trai tên là Từ Hành, tự Năng Trường, tuổi xấp xỉ đôi mươi, vợ là Châu thị cực kỳ xinh đẹp. Vì ân ái quá mức nên mắc bệnh suy nhược. Thầy thuốc nói, phải cách ly một thời gian mới có thể khỏi được. Điền Hữu Hoạch nói rằng phải gửi vào chùa. Từ Châu Đồng nói:
- Ta mới nhậm chức, làm thế sao được.
- Tạm trú mấy ngày, - Điền Hữu Hoạch nói, - thì có gì mà ngại.
Thế rồi đưa Từ công tử tới tạm trú ở một gian nhà nhỏ phía tây, và cử hai người tới chăm sóc.
Thỉnh thoảng Điền Hữu Hoạch mang thức ăn tới thăm. Khi thân thiết với Hữu Hoạch, Viên Tĩnh đã nói với hắn những hành tung trong chùa. Thế rồi Điền Hữu Hoạch đem chuyện nói với Từ công tử:
- Thưa công tử, thế công tử đã từng vào bên trong dạo chơi chưa? Trong đó là một phòng đẹp tuyệt vời.
- Tại sao không cho ta mượn?
- Mượn làm sao được!
Điền Hữu Hoạch bén ghé sát vào tai công tử nói một hồi.
Từ Công tử cười nói:
- Có chuyện đó ư?
Thế rồi hai người chia tay nhau.
Điền Hữu Hoạch cố ý lẻn vào phòng Viên Tĩnh, ôm chầm lấy Viên Tĩnh hôn liền mấy cái nói:
- Khỉ ạ, bỏ ta rồi à? Lâu nay không tới thăm ta, hay là ta đã làm anh giận. Không biết anh ghen hay đã có của lạ Từ công tử mà quên ta.
Hai người ôm chầm lấy nhau cười. Diệu Trí sợ Điền Hữu Hoạch tới tìm Viên Tĩnh có việc, vội chạy tới thì thấy hai người đang ôm nhau cười. Điền Hữu Hoạch vội gọi:
- Diệu Công, anh lại đây! Anh đừng trách tôi. Chúng tôi xưa nay rất thân nhau, có điều anh ấy bị trách móc, nên không chịu đến thăm tôi, hôm nay tôi có ý mang lễ đến nhận lỗi.
Thế rồi Hữu Hoạch lấy ra ba lạng bạc nói:
- Diệu Công, hãy bảo người giúp tôi làm bữa nhắm để mời anh ấy.
- Việc gì phải bắt ông Điền bỏ tiền ra và cũng không bắt phạt Viên Tĩnh. ông đã đến đây thì nhà chùa sẽ thết đãi ông.
Mọi người đều vui vẻ cười, nhắc tới Từ công tử. Điền Hữu Hoạch nói:
- Đây là một kẻ bạc tình, - rồi xoa xoa tay nói tiếp, - Từ Châu Đồng là một người độc ác hung bạo, vô phúc người nào bị kiện lên phủ thì mới thấy rõ bộ mặt của ông ta. Bởi thế phải đối đãi với con ông ta thật tử tế.
Lát sau thức nhắm được dọn ra, bốn người chơi trò phạt rượu ăn uống cười đùa với nhau hết sức vui vẻ. Họ kéo tai Diệu Trí đổ rượu, rồi đè cả Pháp Minh dốc rượu vào mũi, ăn uống, trêu chọc nhau hết sức thoải mái.
Rượu tăm rót tràn chén,
Xuân sắc má ửng hồng. Quen nhau càng thêm lụy,
Có người mắc hiểm nguy.
Quả là thanh nhã tuyệt vời. Một chậu xương bồ đặt trên một chiếc đôn nhỏ, cạnh đó là một chiếc khánh vàng nhỏ. Từ công tử gõ nhẹ, chiếc khánh vàng kêu lanh canh mấy tiếng, bỗng nghe thấy cánh cửa kẹt mở. Hai người đàn bà cười hi hí bước ra, nói:
- Anh đầu trọc nào tới đấy?
Rồi hai người đàn bà bước ra giữa nhà, không ngờ Từ công tử đứng né vào chặn lấy cửa rồi nói:
- Thích chơi hòa thượng, bây giờ hãy thử chơi ta đi.
Từ công tử ngước mắt nhìn thì thấy: "Một người vú to ngực mẩy, một người đầu nhọn mình thon. Một người béo cùn béo cụt trông như bị thịt, một người gầy nhỏm gầy nhom chẳng khác cò rui. Một người lông mày tô đậm, mặt bự phấn son, dáng vẻ phong tình; một người bím tóc để xõa ngang vai, dáng trông yểu điệu. Là cỏ bồng trong bãi hoang vu, là ma vương trong đàn quỷ đói".
Hai người này cứ đòi vào song không sao vào được. Từ công tử vênh mặt đứng nhìn.
Lúc ấy chú tiểu đồng bưng trà tới, không thấy Từ công tử, bèn đến chỗ Điền Hữu Hoạch hỏi:
- Từ công tử đâu rồi?
Điền Hữu Hoạch giả vờ say, trừng mắt nói:
- Chắc Từ công tử lên điện thờ dạo chơi cho khuây khỏa.
- Rồi lại giục Pháp Minh:
- Anh nên đưa Từ công tử đi vãng cảnh chùa.
Pháp Minh trở ra thì thấy tiểu đồng cuống quít vội vàng nói:
- Từ công tử đang ở trong hiên.
- Thì hãy cứ để cho công tử vui lòng làm việc công đức.
Diệu Trí nghe thấy rất lo lắng, chạy xộc vào, thấy công tử đang chặn ngang cửa, A Kim và Giả thị đang đứng trơ ra đó, sững sờ kinh sợ. Từ công tử nói :
- Hòa thượng ghê thật, đã làm một việc tuyệt vời. Ta ở đây hãy bảo họ tiếp ta một chút sao lại chỉ lạc thú một mình. Hãy gọi người trói gã đầu trọc lại cho ta.
Bất chợt, Diệu Trí không biết làm thế nào, vội vàng cúi đầu cầu xin:
- Xin công tử che chở.
Cửa thiền tầng tầng khóa,
Giấu kín sắc khuynh thành.
Gió đông nhòm khe hở,
Tin xuân tiết lộ ra.
Từ công tử lắc đầu đòi phải xử.
Điền Hữu Hoạch giả vờ say, ngật ngưỡng xông vào, nói:
- Lạ thật! Tôi qua lại đây đã lâu mà không biết nhỉ?
Nhìn thấy hai người đàn bà, hắn nói:
- Ở đâu mà nảy nòi ra hai con đĩ này? Hay là lũ gái điếm công tử rủ vào đây? Công tử đừng làm ô uế Phật đường.
- Phật đường đã bị ô uế từ lâu, hôm nay ta phải làm cho nó trong sạch lại.
Điền Hữu Hoạch bèn kéo Diệu Trí lại nói:
- Công tử rất thoải mái phóng khoáng.
Diệu Trí khấu đầu van lạy.
Từ công tử nói với Điền Hữu Hoạch:
- Hai gã đầu trọc, không biết chúng bắt hai con này ở đâu về gian dâm. Tôi ngẫu nhiên vào đây trông thấy. Nhất định phải giải chúng lên quan trị tội rồi hủy ngôi chùa này.
Điền Hữu Hoạch vội vàng chắp tay lạy như tế sao, nói:
- Thưa công tử, hòa thượng công tử không nể đã đành, nhưng cũng nên nể mặt Phật, hơn nữa xin công tử nể mặt thằng tôi một chút, tha cho họ.
- Khó mà tha được.
- Tôi xin quỳ lạy công tử, xin công tử tha cho họ, họ sẽ biếu công tử năm mươi lạng bạc xơi quà.
- Ta có cần tiền của chúng đâu, ta chỉ cần trừ diệt lũ đầu trọc này.
- Tôi van lạy công tử, xin công tử tha thứ cho họ.
Thế rồi hắn giả vờ liêu xiêu như sắp ngã. Diệu Trí nói:
- Xin công tử nhận lễ cho họ.
- Ta nể ông Điền, các ngươi phải đưa cho ta một ngàn lạng.
- Lấy đâu ra! Lấy đâu ra nhiều thế! - Điền Hữu Hoạch nói. - Có mấy hòa thượng và hai mụ đàn bà, thôi thì xin tạ công tử một trăm lạng.
- Sinh mạng của những kẻ ở chùa này, - Từ công tử nói, nằm trong tay ta sao chỉ có một trăm lạng. Ta sẽ báo cho lý trưởng và đinh tráng tới bắt.
Nói xong công tử quay ngoắt đi. Diệu Trí liều mạng kéo lại Điền Hữu Hoạch nói:
- Thưa công tử, quả thực không lấy đâu ra, thôi thì biếu công tử hai trăm lạng vậy.
Song công tử đâu có nghe, nâng lên gạt xuống, co kéo mãi mới ngã giá là năm trăm lạng. Họ cứ van nài kêu khó khăn, rồi đưa trước hai trăm lạng. Điền Hữu Hoạch tỏ vẻ khó khăn, rồi nhận cho công tử.
Lừa gái đẹp về tay vui thú,
Ngỡ đâu tiền bạc nộp dâng người
Điền Hữu Hoạch nói:
- Hòa thượng, tôi e rằng có thể sinh chuyện, vậy sáng mai hãy thanh toán xong đi.
Không ngờ đến tối, Diệu Trí thở dài thườn thượt, cuối cùng Pháp Minh khôn khéo hơn chút ít, nói:
- Sư phụ, chúng ta giấu quách họ đi, mất tang chứng thì sợ gì hắn nữa. Hắn là con quan đương nhiệm, lại tạm trú trong chùa, ta làm gì được hắn.
- Đúng đấy! - Diệu Trí nói.
Rồi vội vàng vào trong từ biệt hai người. Và ngay đêm ấy, hai người đàn bà mặc áo đen, khăn trùm kín đầu, không dám ra lối cửa trước. Sợ Từ công tử để ý theo dõi nên họ bắc thang trèo qua tường. Pháp Minh cầm đèn lồng đi trước một đoạn khá xa, Diệu Trí đi sau dẫn họ tới am Bồ Đề. Gõ cửa, Tịnh Phạn mở cửa bước ra, thấy Pháp Minh nói:
- Ngọn gió nào đưa hòa thượng tới đây?
- Chúng tôi gửi thầy hai sư phụ.
Họ vào trong am, Tịnh Phạn nhìn thấy nói:
- Tôi thấy hai sư phụ này rất lạ, mà hai sư phụ này cũng không biết tôi. Am này rất nhỏ, nhiều người qua lại, ở đây không được.

Diệu Trí van nài mãi, hứa sẽ nộp ba đồng một ngày, đưa trước mười lạng bạc. Về sau Diệu Trí lâm sự, Tịnh Phạn thấy ở am quá lâu lại chẳng hy vọng gì về tiền nong nên Tịnh Phạn cứ càu nhàu. Hai người đàn bà này không yên tâm đành phải đi tìm khách hàng khác.
Về Đầu Trang Go down
https://triamquan.forumvi.com/
Tri Âm Quán
Thành Viên Tích Cực
Thành Viên Tích Cực
Tri Âm Quán


Tổng số bài gửi : 6340
Reputation : 2
Join date : 31/07/2013
Đến từ : Thị Trấn Chũ

Đoán Án Kỳ Quan - Page 5 Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Đoán Án Kỳ Quan   Đoán Án Kỳ Quan - Page 5 EmptyTue Apr 29, 2014 3:57 pm

nhiều tác giả
Đoán Án Kỳ Quan
Phạm Tú Châu - Nguyễn Văn Thiệu (Dịch và biên soạn)
Chương 16 (B)
Diệu Trí Tham Dâm Nên Bị Giết
Từ Hành Tham Của Bị Báo Thù
Hai thầy trò diệu Trí thấy yên tâm, sáng sớm hôm sau Điền Hữu Hoạch tới đòi đủ năm trăm lạng bạc. Hai hòa thượng này cứ đùn đẩy nhau, cuối cùng Diệu Trí nói:
- Tiền tài của hòa thượng là do thập phương tiến cúng, dù có cũng khó mà bỏ ra tiêu, làm sao mà đòi chúng tôi được? Bây giờ chúng tôi chỉ có hai mạng cùng quẫn mà thôi. Nay con quan đương nhậm ỷ thế cha lừa dối người được chăng?
Điền Hữu Hoạch khích vào một câu:
- Hôm qua công tử đã nắm đằng chuôi rồi, bởi thế tôi đã thay mặt hòa thượng hứa với công tử. Nếu muốn lấp liếm thì phải chuyển cái tổ ấy đi.
- Chúng ta vốn chẳng có gì cả.
- Nếu giấu đi rồi thì có thể lấp liếm được, nhưng ngài Từ Châu Đồng còn làm quan ở đây thì e sẽ có hậu họa.
- Chẳng sợ, - Diệu Trí nói, - tôi còn phải kiện hắn là đằng khác.
- Này kiện thì tôi phải là người làm chứng. - Điền Hữu Hoạch nói. - Không lo, tôi sẽ tống khứ nó đi, nhưng hòa thượng phải tạ ơn tôi đấy.
Thế rồi Điền Hữu Hoạch gặp công tử nói:
- Tối qua bọn hòa thượng trở tay không kịp, cầu xin công tử nhân nhượng.
- Tối qua, - Từ công tử nói, - vì ông nói nên tôi mới tha cho chúng, nếu đưa lên cửa quan e rằng chúng sẽ toi mạng, còn nhân với nhượng gì nữa.
Điền Hữu Hoạch kéo ghế ngồi sát vào Từ công tử nói:
- Tang chứng mất rồi, không biết chúng giấu ở đâu, bây giờ còn nói vào đâu được. Công tử hãy về bàn ngay việc này.
- Tất cả việc này đều do ông đánh lừa tôi. - Công tử giả vờ nói. - ông hòa hoãn với tôi để cho bọn hòa thượng trở mặt.
- Công tử ạ! Điền Hữu Hoạch nói. - Khi cần buông thì phải buông.
- Ông lừa dối tôi! Ông đã lừa dối tôi!
Thế rồi công tử đứng dậy bỏ đi.
Điền Hữu Hoạch nói với Diệu Trí:
- Nay hắn đã bỏ đi, thì nhất định hắn sẽ nói với ngài Từ Châu Đồng, chúng ta phải thu xếp việc này ngay mới dược.
- Đối với hòa thượng chúng tôi, - Diệu Trí nói, - giữa tiền tài và tính mệnh thì tính mệnh có là cái quái gì đâu, hai trăm lạng cũng là quá nhiều rồi. Nếu hắn được đưa lên cửa quan ông cứ làm chứng bừa cho tôi thì nhất định hai trăm ấy phải trả lại tôi.
- Được được - Điền Hữu Hoạch nói.
Từ công tử bỏ về. Quả nhiên nói chuyện ấy với Từ Châu Đồng, Từ Châu Đồng nói:
- Sao không sai người về báo ngay cho ta. Có thể được tới ngàn lạng chứ chẳng vừa, nay thì đã buông ra mất rồi.
- Hôm qua, - Từ công tử nói, - nó đã đưa cho con hai trăm lạng, còn ba trăm lạng nó bảo hôm nay đưa nốt nhưng bây giờ thì nó lật mặt.
Từ Châu Đồng giậm chân nói:
- Con khờ dại quá! Khờ dại quá! Nhưng không ngại, đã có ta.
Thế rồi Từ Châu Đồng gói một lạng bạc gọi một người sai nha tới, đưa cho Diệu Trí và nói rằng: "Quan lớn nói là công tử ở đây đã làm phiền các vị, quan lớn tỏ lời cám ơn, đây là số tiền công ít ỏi mong các vị nhận cho. Công tử uống nước suối chỗ các vị rất tốt, vậy phiền các vị lấy cho hai bình".
Thấy thế hai hòa thượng rất đắc ý, nói:
- Thôi chúng tôi không nhận tiền của quan lớn đâu. Còn như cần nước thì tôi bảo Viên Tĩnh lấy cho hai thùng.
Sai nha trở về. Từ Châu Đồng chỉ mong sai nha về là nổi giận. ông ta đổ ngay nước đi và nói đây không phải là nước suối và bắt phải đi đổi nước khác. Sai nha đổ nước và lại mang hai bình đi. Từ Châu Đồng càng nhìn càng giận dữ.
Điền Hữu Hoạch vốn muốn trả thù bọn hòa thượng, và Hữu Hoạch cũng đang muốn đòi hòa thượng phải trả ơn mình ít ra là trăm lạng. Thấy sự việc xảy ra như thế Hữu Hoạch cố ý nói khích với Từ Châu Đồng rằng:
- Chúng còn bảo đưa lên quan kiện công tử.
Từ Châu Đồng như lửa đổ thêm dầu, phải kiếm cớ để thanh toán bọn này.
Đúng lúc ấy bản châu mới bắt được toán cướp Dương Long. Từ Châu Đồng bảo bọn ngục tốt mớm lời cho bọn này khai ra sào huyệt thì Từ Châu Đồng sẽ tha cùm kẹp. Quả nhiên Dương Long đổ riệt cho bọn sư chùa này. Thế là Từ Châu Đồng ra lệnh cho sai nha đi bắt ngay Diệu Trí và Pháp Minh. Trước hết hai người này phải nộp tiền lệ phí cho sai nha. Hai hòa thượng tới công đường, Từ Châu Đồng chẳng cần hỏi han gì, bèn sai người cùm kẹp tra tấn bắt phải nhận tội. Hai người thà chết không khai, thế là tống ngay vào nhà giam.
Điền Hữu Hoạch nói:
- Trong chùa còn có Viên Tĩnh, là người coi giữ tài sản, cũng phải bắt ngay.
Từ Châu Đồng cho người bắt Viên Tĩnh và đưa ra kẹp ngay, rồi sai Điền Hữu Hoạch nói với Viên Tĩnh phải đưa một ngàn lạng bạc. Viên Tĩnh đành phải bán hết ruộng vườn, gom mãi mới được năm trăm lạng. Nhờ Điền Hữu Hoạch mang đi. Nhân cơ hội ấy Điền Hữu Hoạch được Viên Tĩnh chuyển cho mười mẫu đất.
Không ngờ Từ Châu Đồng lòng tham vô đáy, lại cho bắt Viên Tĩnh tới cùm kẹp. Diệu Trí là một sư hổ mang, tức uất đến cổ gào lên chửi:
- Ta bắt trộm đàn bà, việc ấy đáng phải tội, song còn ngươi lừa của ta năm trăm lạng bạc ngươi vẫn chưa vừa ý ư? Cướp không bằng ấy tiền thì con trai ngươi sẽ là kẻ cướp, con gái ngươi sẽ là đồ đĩ.
Châu Đồng chẳng còn mặt mũi nào, hắn nổi giận lôi đình, nói:
- Thằng trọc điêu oa này, mày là kẻ cướp còn trách ta thi hành luật pháp sai, làm ô nhục cả ta.
Thế rồi Từ Châu Đồng lôi họ ra đánh mỗi người bốn mươi gậy lại bàn với con rằng không thể để cho bọn ác tăng này sống, rồi làm tờ trình ghép họ vào tội chết đệ lên cấp trên. Thương thay lũ ác tăng bị bọn ngục tốt bỏ vào quan tài rồi đắp lên mặt tập giấy sũng nước. Bọn ngục tốt nói:
- Chẳng có liên quan gì đến chúng tôi, oan có đầu, nợ có chủ, ngươi đi mà tìm ngài Từ Châu Đồng.
Chỉ ít phút sau không thở được rồi chết. Khác hẳn với Hữu Doanh, vì say mà chết.
Nốc rượu cuồng dâm cười tít mắt,
Lược gương son phấn hại cà sa.
Giờ đây người đẹp đi đâu nhĩ
Tì bà réo rắt gẩy ai nghe.
Trong chùa Ngộ Thông tuổi cao sức yếu nghĩ rằng mình chịu khổ hạnh để giành lấy y bát(1) nay bỗng mất hết, cuối cùng do uất ức mà chết. Viên Tĩnh bị khép vào tội oa trữ, buộc phải tự treo cổ - nguyên nhân chỉ vì gian dâm với người thiếp của Điền Hữu Hoạch mà nhen lên ngọn lửa hận thù, còn Diệu Trí và Pháp Minh vì gian díu với đàn bà nên gây ra mầm tai họa, bởi thế tự dưng biến Phật đường đến mức tan nát như thế.
(1) Y bát: áo cà sa và bát trong Phật giáo do sư phụ truyền cho (ND).
 
Từ Châu Đồng vì quá tham lam tàn khốc nên đã bị đuổi về, mấy kẻ tâm phúc của hắn trong nha môn cũng bị khép tội. Điền Hữu Hoạch nhúng tay vào vụ này cũng bị bỏ tù. Nhân dân trong vùng định cướp hành lý của Từ Châu Đồng. Mặc dù lão ta đã bí mật sai nha lệ vận chuyển đi trước, song cũng bị người ta cướp mất rất nhiều. Từ Châu Đồng giả vờ đi chào từ biệt quan trên, song hắn trốn ngay xuống thuyền, nhưng đã thấy bốn hòa thượng đang đứng trên thuyền, một người già không biết là ai, còn ba người kia na ná như Diệu Trí, Pháp Minh và Viên Tĩnh. Từ Châu Đồng vội vã bước vào khoang. Mấy ngày liền Từ Châu Đồng ngơ ngác sợ hãi, hễ nhắm mắt là thấy bốn hòa thượng kia. Rồi cứ luôn mồm nói một mình rằng: "Tội của họ không đến nỗi chết, họ chỉ tức giận vì công tử đã tống tiền họ thôi. Song cha con ta đã lấy tiền của họ, tại sao còn giết chết họ? Thật là vô đạo đức". Bệnh tình Từ Châu Đồng càng ngày càng trầm trọng. Về tới nhà ông ta lập đàn cúng bái để giản oan, nhưng cầu sao được, cuối cùng hắn đã chết. Trước lúc lâm chung Từ Châu Đồng dặn con rằng: “Việc sai trái đừng làm, tiền phi pháp chớ tham".
Cười kẻ mưu sinh làm trâu ngựa,
Lòng tham vô đáy túi đầy vàng.
Hay đâu vàng hết người cũng chết,
Để lại ô danh chốn thế gian.
Từ công tử mừng thầm, của vẫn còn thì sau này Từ công tử sẽ lo liệu ma chay cho cha thật linh đình, song gã lại cũng luôn luôn hối hận rằng mình đã lấy không của Diệu Trí hai trăm lạng bạc, mình sẽ nói với cha thế nào đây, và cũng vì thế đã gây ra biết bao chuyện, và cũng dần dần nhận ra sai lầm. Trước đây hắn lấy Châu thị hiền dịu xinh đẹp, vợ chồng sống với nhau rất hòa thuận. Giờ đây tính khí anh ta thay đổi, cứ động một tí là chửi nhau. Nhà vốn có hai gia nhân, nay người quản trang trại và ruộng đất vắng nhà nên chỉ còn lại một người giúp việc là Từ Phúc trạc ba tư ba lăm tuổi, một đứa hầu gái tên là Thúy Vũ mười lăm tuổi, một thằng nhỏ tên là Uyển Nhi mười ba tuổi. Từ Hành là kẻ công bất thành danh bất toại, hàng ngày hắn di lang thang chơi bời thành kẻ du đãng, la cà nơi đường hoa ngõ liễu, Châu thị ở nhà cam phận sống lặng lẽ cô đơn. Hắn lại nghĩ mình đi chơi gái thì chắc vợ cũng sẽ rước trai về nhà. Hắn còn đưa cả Thúy Vũ vào phòng ngủ với nó hàng nửa tháng trời, không hề lai vãng tới phòng Châu thị. Vì hắn không đến nỗi hung bạo, nên hắn tới hay không Châu thị cũng cứ mặc hắn, chẳng nói năng gì. Song ngược lại, Từ Hành vẫn nghi ngờ vợ, hắn thường rắc tro ngoài cửa phòng Châu thị, hoặc dán giấy niêm phong vào cánh cửa để đánh dấu. Châu thị biết nhưng chỉ cười mai mỉa khinh bỉ. Song cũng rất lạ, giấy dán trên cửa thường bị chuột cắn nát, tro rắc trước cửa cũng bị mèo chó cào bới lung tung. Thế là hắn chửi bới om sòm. Châu thị là người biết giữ bổn phận, nín nhịn chịu đựng, không hề to tiếng với hắn nửa lời. Song hắn lại cho rằng vì có tình ý riêng nên Châu thị không dám cãi và càng ngờ vực.
Một hôm hắn vừa về đến nhà thấy một hòa thượng trẻ đi vào, Từ Hành vội vàng đuổi theo đến chỗ rẽ thì hòa thượng mất hút. Gã xông thẳng vào buồng Châu thị thì thấy Châu thị đang ngồi một mình thêu khăn. Châu thị ngẩng đầu lên thấy Từ Hành trợn trừng mắt hằm bằm nhìn mình. Không biết vì sao Châu thị tỏ ra lo lắng hoảng hốt. Từ Hành chạy xộc vào phòng lật chăn chiếu lên, nhìn xuống gầm giường, lấy gậy khua lên trần nhà, rồi lại nhảy lên xem. Sau đó hắn mở cả hai chiếc tủ ra tìm, rồi lục soát khắp mọi nơi. Châu thị cứ ngẫm nghĩ cười khinh bỉ. Thế mà hắn vẫn nói: "Ngươi giấu tài thật, giấu tài thật!" Sau đó hắn lại ra ngoài tìm kiếm khắp mọi nơi. Gọi Thúy Vũ lại hỏi, Thúy Vũ cũng nói là không thấy. Tra khảo Uyển Nhi, Uyển Nhi cũng nói không có. Từ đó hắn không hề lui tới phòng Châu thị nữa. Tối nào hắn cũng tự mình khóa hết lần cửa này đến lần cửa khác rồi đánh dấu cẩn thận.
Thấy thế Châu thị rất buồn, nghĩ mình bỗng dưng vô cớ bị chồng nghi ngờ, thà chết quách đi cho xong. Song vợ Từ Phúc là Hòa thị nói với chị rằng:
- Nếu như bà chết đi thì làm sao rửa được nỗi oan. Cố gắng chịu được một thời gian ngắn, nhất định sự việc sẽ sáng tỏ. Lúc đó ông nhà bình tâm lại thì sẽ sống yên ổn hòa thuận. Người xưa nói: chết trong không bằng sống đục. Hãy bình tâm lại.
Ngày buồn mù mịt tựa đêm đen,
Nước mắt đầm đìa rửa nỗi oan.
Nỗi đau biết ngỏ cùng ai nhỉ,
Chỉ thêu tơ rối chẳng thành hàng.
Thư phòng của Từ công tử với phòng ngủ của Châu thị chỉ cách nhau một bức tường. Hôm ấy trời đã tối, Từ công tử lững thững dạo chơi ngoài vườn hoa. Chợt thấy một bóng người, nhìn kỹ thì đó là hòa thượng trẻ tuổi, đẹp trai ngồi trên tường, tươi cười nhìn vào phòng ngủ Châu thị. Từ công tử tức giận, nhặt một hòn gạch ném hòa thượng. Hòn gạch vướng vào cành cây rơi xuống đất. Hòa thượng vội nhảy xuống, Từ công tử đùng đùng nổi giận.
Sau tường hoa lay động,
Dưới trăng thoắt bóng người.
Nghĩ rằng nơi màn trướng, Hai sao nhấp nháy soi.
Từ Hành nghĩ: "Được, được! Hôm nay bắt quả tang ta sẽ giết chúng chứ không tha”. Thế rồi Từ vào thư phòng lấy thanh kiếm mài sắc, xông vào phòng. Hắn lại nghĩ: "Đừng vội, hãy lắng nghe xem sao". Thấy trong phòng có tiếng động, hắn nghĩ: "Con dâm phụ với thằng trọc đầu đang thích thú lắm đây". Hắn lấy chân đạp tung cửa phòng. Châu thị giật mình tỉnh giấc hỏi ai đấy. Từ công tử vung kiếm chém lia lịa. Châu thị không phòng bị thì làm sao mà chống đỡ được. Thương thay người đàn bà xinh đẹp vô tội, bị lưỡi kiếm oan nghiệt giết chết.
Tấm thân son phấn oan khó gỡ,
Má đào máu đỏ sắc hồng pha.
Chiếc đèn trên bàn khi mờ khi tỏ. Từ công tử cầm đèn soi, chỉ thấy trên giương có một mình Châu thị, cuộn tròn trong chiếc chăn, mấy nhát kiếm chặt đúng vào người, Châu thị đã tắt thở. Từ công tử tin rằng tên trọc đầu nhất định không thể trốn thoát, lại nghe thấy có tiếng động dưới gầm giường, hắn nghĩ: "Thằng trọc đang dưới đây". Hắn cúi xuống đâm bừa vào gầm giường thì thấy con chó liều mạng nhảy chồm qua mặt.
Từ công tử giật thót mình, nghĩ: "Vừa rồi đúng là mình nghe thấy tiếng động của con chó. Mình lú lẫn cứ tưởng là gã hòa thượng. Giờ thì quả là không có hắn thật rồi". Hắn ngồi chết lặng đi, nghĩ: "Việc này nên giải quyết thế nào, giờ thì chẳng kể gì đến tiếng xấu hay sinh mạng nữa". Hắn xách kiếm đi ra nhà ngoài gọi:
- Từ Phúc! Từ Phúc!
Hòa thị đáp: - Hôm qua ông sai Từ Phúc xuống trang trại, nay chưa về.
Từ công tứ nghĩ: "Thế phải giải quyết sao đây?”. Hắn lại vội vã chạy đến chỗ Uyển Nhi, gọi đến tám chín lần mới thấy nó thưa rồi lại im bặt. Từ công tử sốt ruột, chờ một lát mới thấy nó ngái ngủ bước ra, hắn rút luôn kiếm chém một nhát, Uyển Nhi chết. Một lúc chém chết hai người, chân tay Từ Hành bủn rủn, hắn nghĩ một hồi rồi cắt luôn hai chiếc đầu.
Đến khi trời sáng, Hòa thị và Thúy Vũ ngủ dậy, thấy xác Uyển Nhi nằm vật dưới đất, trên chiếc bàn trong phòng để hai chiếc đầu, công tử đang ngồi đó, tay lăm lăm chiếc kiếm, trên giường, Châu thị máu chảy đầm đìa. Hòa thị nghĩ thầm: "Đây là do chồng Châu thị gây ra, nếu không thì là Uyển Nhi". Sáng hôm ấy Từ công tử ăn cơm sáng bình thường rồi xách hai chiếc đầu đi. Hai người khóc lóc than vãn, kêu rằng Châu thị chết oan.
Công tử xách hai chiếc đầu lên huyện, khiến cả thành náo động, nói rằng Từ công tử đã giết chết gian phu dâm phụ, cũng có người kéo đến nhà xem, cũng có một số người kéo nhau lên huyện xem, họ bảo rằng công tử là người có khí phách đàn ông. Ngay nhà họ Châu có hai ba vị tú tài cũng xấu hổ không dám ló mặt ra, chỉ sai người đi nghe ngóng tin tức mà thôi.
Lát sau quan huyện lên công đường xét xử vụ án. Quan huyện họ Nhiêu, người Quý Châu, được triều đình tiến cử. Là viên quan có tài năng, nên khi xét xử một vụ án ông rất bình tĩnh và thận trọng. Công tử xách hai chiếc đầu tới công đường đưa đơn kiện, nói:
- Con là Từ Hành, con của Từ Châu Đồng, vợ con là Châu thị đã gian dâm với đứa ở là Uyển Nhi, con đã giết chết và mang đầu tới trình quan. Ngài Nhiêu bước ra khỏi chỗ ngồi, nói:
- Quả là một người đàn ông dũng khí. Đây là việc làm của một người trọng danh dự.
Thế rồi ông xem qua hai chiếc đầu, đó là đầu một người đàn bà xinh đẹp và đầu một thằng nhỏ tóc mới chấm ngang. mày. Ngài quan huyện hỏi:
- Thằng nhỏ này bao nhiêu tuổi?
- Nó mười bốn tuổi, Từ Hành nói.
Ngài nhắc cái giải buộc, kéo nghiêng chiếc đầu xem. Rồi ngài lên ngay kiệu lại nhà Từ công tử điều tra sự thực. Người theo sau xem đông nghịt.
Ngài quan huyện xuống kiệu, nói:
- Thi thể ở đâu?
- Thi thể trong phòng. - Từ công tử nói.
Ngài bước vào phòng, thấy thi thể mất đầu đang nằm trên giường, trên người bị mấy nhát kiếm, người bị chém còn cuộn trong chăn. Xem xong ngài nói:
- Thằng nhỏ ở đâu?
- Ở trong bếp. - Từ đáp.
Ông tới bếp xem thì thấy xác thằng nhỏ đang nằm trên nền đất, mình bị chém một nhát kiếm. Nó vẫn còn mặc quần áo. Quan huyện lấy chiếc quần của nó xem. Thế rồi ông gọi người khóa tay công tử, đồng thời giải cả Hòa thị và Thúy Vũ lên huyện tra hỏi:
- Từ Hành, mày là thằng khốn kiếp! Xưa nay bắt gian dâm là phải trai trên gái dưới. Song đây thì một người ở trên giường, một người ở dưới bếp thì khó mà bảo là họ gian dâm được. Hơn nữa thằng nhỏ còn là một đứa trẻ con sao ngươi lại vu cho nó. Đây đúng là vợ chồng bất hòa, ngươi giết vợ rồi lại giết bừa một thằng nhỏ để giải thoát. Ngươi lừa dối ai chứ không lừa được ta đâu.
Thế rồi ông sai người kẹp Từ Hành.
Từ Hành nói:
- Quả thực con thấy một hòa thượng trèo tường vào phòng vợ con khiến con tức giận rồi giết thị.
- Vậy thì thằng nhỏ đã bị ngươi giết oan. Ngươi bảo có một hòa thượng thường lai vãng đến nhà, vậy hòa thượng ấy tên gì?
Từ Hành không sao trả lời được. Ngài quan huyện sai người đưa gã ra ngoài hiên. Gọi Hòa thị tới hỏi:
- Thường ngày Châu thị có gian dâm với ai không?
- Thưa ngài, hằng ngày Châu thị vẫn chỉ ở một mình trong phòng, không gian dâm với ai. Con chỉ thấy công tử đi chơi gái, suốt ngày không ở nhà, rồi nghi ngờ vợ ở nhà gian dâm, ngày nào họ cũng cãi nhau. Tối qua Uyển Nhi không vào phòng Châu thị. Không biết vì sao công tử giết Châu thị lại giết luôn cả Uyển Nhi.
Sau đó ngài hỏi Thúy Vũ, Thúy Vũ cũng khai như Hòa thị Quan huyện nói:
- Từ Hành, ngươi giải thích thế nào đây?
Từ Hành đành phải khai rằng, vì nghi ngờ vợ gian dâm nên đã giết vợ, lại sợ phải đền mạng nên giết luôn cả đứa ở để thoát tội.
Quan huyện đùng đùng nổi giận nói:
- Đã giết người lại còn làm ô nhục thanh danh người ta, ngươi quả là độc ác đến cùng cực. Hãy mang hắn ra đánh bốn mươi gậy.
Lúc ấy mấy vị tú tài mới tới, nói:
- Cầu mong quan lớn theo pháp luật bắt hắn phải đền mạng để giải nỗi oan cho người đã chết.
- Phải đền mạng là đúng rồi, không cần phải nói.
Thế rồi ngài luận tội:
"Chồng Châu thị là một kẻ ngang ngược và độc ác, đã điềm nhiên tự thú không chút oán hận đó là điều tốt. Song Từ Hành vì nghi ngờ mà giết vợ, sau lại vu cho đứa ở gian dâm, quả là kẻ gian ngoan quỷ quyệt. Theo luật, vô cớ giết vợ phải khép vào tội treo cổ!".
Từ Hành vô cớ giết người ở, nhẹ thì cũng bỏ tù, song theo luật vô cớ giết vợ thì chờ đến mùa thu sẽ hành quyết. Giải tới viện chờ hình sảnh bản phủ phúc thẩm.
Từ Hành dùng tiền đút lót để chạy tội. Song tội ác đó là sự thực, ai cũng căm giận thì thoát chết sao được. Quan hình sảnh nói:
- Từ Hành vô cớ giết hại hai mạng người, dù có treo cổ cũng chưa đủ tạ oan cho hai người. Tội ấy là sự thực, không thể chối cãi được Nhiều lần bị giải đi xét xử, rồi Từ Hành bị chết trong nhà tù.
Nỗi gan phải trả sao thoát được,
Hồn về cát bụi cũng chẳng tha.
Hai gã trọc đầu ô nhục ấy,
Đầu lâu phải xơ xác trong tù.

Người đáng thương nhất trong chuyện này là Châu thị, vì bị nghi ngờ mà chết. Thứ hai là Đỗ Hữu Danh, vì say mà chết. Ngoài ra Diệu Trí, tuy chết vô tội, song thực ra là đền mạng cho Đỗ Hữu Danh. Cha con Từ Hành cũng chết để đền mạng cho Diệu Trí, Pháp Minh. Pháp Minh bị tử hình, Viên Tĩnh bị treo cổ cũng là không tuân theo luật của người tu hành, gian dâm với đàn bà mà bị quả báo. Điền Hữu Hoạch tham dâm để lại tiếng xấu ở đời, lừa dối người mà đắc tội, ấy cũng là bài học cho những kẻ tham lam độc ác. Tóm lại, rượu chè, trai gái, tiền của và sự giận dữ nhất định sẽ dẫn đến tai họa. Ta nhắc tới chuyện này cốt mong ngươi đời phải tỉnh ngộ.
Về Đầu Trang Go down
https://triamquan.forumvi.com/
Sponsored content





Đoán Án Kỳ Quan - Page 5 Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Đoán Án Kỳ Quan   Đoán Án Kỳ Quan - Page 5 Empty

Về Đầu Trang Go down
 
Đoán Án Kỳ Quan
Về Đầu Trang 
Trang 5 trong tổng số 6 trangChuyển đến trang : Previous  1, 2, 3, 4, 5, 6  Next
 Similar topics
-
» Văn khấn lễ động thổ
» Sốt ở giai đoạn đầu của HIV
» Sùi mào gà giai đoạn đầu ở con gái
» Thủ đoạn chính trị
» Chẩn đoán thoát vị đĩa đệm lâm sàng

Permissions in this forum:Bạn không có quyền trả lời bài viết
Tri Âm Quán - Lục Ngạn - Bắc Giang :: Các Đạo Khác :: Gương Xưa Tích Cũ-
Chuyển đến