Tri Âm Quán - Lục Ngạn - Bắc Giang
Chào bạn đã ghé thăm Tri Âm Quán_Thị Trấn Chũ_Lục Ngạn_Bắc Giang!
Diễn Đàn là nơi giao lưu kết bạn, sưu tầm, lưu trữ, học hỏi và chia sẻ kiến thức.
Để cùng nhau tiến bộ trên con đường hướng thiện.
Chúc bạn sức khỏe và có nhiều thành công mới trong cuộc sống!

Om mani pad me hum
Tri Âm Quán - Lục Ngạn - Bắc Giang
Chào bạn đã ghé thăm Tri Âm Quán_Thị Trấn Chũ_Lục Ngạn_Bắc Giang!
Diễn Đàn là nơi giao lưu kết bạn, sưu tầm, lưu trữ, học hỏi và chia sẻ kiến thức.
Để cùng nhau tiến bộ trên con đường hướng thiện.
Chúc bạn sức khỏe và có nhiều thành công mới trong cuộc sống!

Om mani pad me hum
Tri Âm Quán - Lục Ngạn - Bắc Giang
Bạn có muốn phản ứng với tin nhắn này? Vui lòng đăng ký diễn đàn trong một vài cú nhấp chuột hoặc đăng nhập để tiếp tục.
Tri Âm Quán - Lục Ngạn - Bắc Giang

Mỗi người đều nhận được hai thứ giáo dục: một thứ do người khác truyền cho; một thứ, quan trọng hơn nhiều, do mình tự tạo lấy.
 
Trang ChínhTrang Chính  Thiện ác nghiệp báo  Icon_portal  Latest imagesLatest images  Đăng kýĐăng ký  Đăng NhậpĐăng Nhập  
Chào mừng các bạn đã ghé thăm Tri Âm Quán_Thị Trấn Chũ_Lục Ngạn_Bắc Giang! Chúc các bạn sức khỏe và thành đạt! Tri Âm Quán_Thị Trấn Chũ_Lục Ngạn_Bắc Giang.

 

 Thiện ác nghiệp báo

Go down 
Tác giảThông điệp
Tri Âm Quán
Thành Viên Tích Cực
Thành Viên Tích Cực
Tri Âm Quán


Tổng số bài gửi : 6340
Reputation : 2
Join date : 31/07/2013
Đến từ : Thị Trấn Chũ

Thiện ác nghiệp báo  Empty
Bài gửiTiêu đề: Thiện ác nghiệp báo    Thiện ác nghiệp báo  EmptySun Oct 06, 2013 6:46 pm

Thiện ác nghiệp báo (Phần giới thiệu và mục lục)

CHƯ KINH YẾU TẬP hay THIỆN ÁC NGHIỆP BÁO LUẬN, một tác phẩm của ngài Đạo Thế. Ngài đã tuyển chọn những đoạn Kinh, Luật, Luận, Truyện kí… thiết yếu liên quan đến thiện ác nghiệp báo ba đời rồi thêm lời bình mà thành bộ sách này. Để cho người đọc dễ nắm bắt được nội dung trước khi xem đọc, ban Dịch thuật chọn bốn chữ THIỆN ÁC NGHIỆP BÁO làm đề mục cho dịch phẩm.


Thiện ác nghiệp báo  Thienac1

THIỆN ÁC NGHIỆP BÁO
(CHƯ KINH YẾU TẬP)
Nguyên tác: Pháp Sư Đạo Thế 
Việt dịch: Ban dịch thuật Hán tạng Pháp Âm
Chủ nhiệm: Tỳ kheo Thích Nguyên Chơn
Phó chủ nhiệm (Hiệu đính văn nghĩa): Bồ-tát giới Định Huệ
Biên tu: Tiến sĩ Quảng Âm - Đoàn Ánh Loan

TỰA
Ngày xưa, lúc Sơ tổ mới sang Trung Hoa, nghe nói Lương Vũ đế là vị vua anh minh, kính tin Phật pháp, giỏi giảng kinh thuyết pháp, viết luận tạo sớ…, Tổ bèn đến gặp. Vừa diện kiến, Vũ đế liền hỏi Sơ tổ rằng: “Trẫm đã xây chùa, tạo tượng, chép kinh, cho phép mọi người xuất gia, lập trai hội lớn. Như vậy có công đức chăng?”. Sơ tổ đáp: “Không có công đức!”. Vũ đế hỏi: “Vì sao không có công đức?”. Tổ đáp: “Bởi các việc làm này chỉ đưa đến phúc quả nhỏ, sanh vào cõi trời người. Như bóng theo hình, tuy có nhưng chẳng thật”. Vũ đế lại hỏi: “Thế nào là công đức chân thật?”. Tổ đáp: “Trí tuệ thanh tịnh, tròn sáng nhiệm mầu, lìa có và không. Công đức như thế, chẳng thể dùng pháp thế gian để mong cầu”.
Sở dĩ Lương Vũ đế bị Sơ tổ trách, vì Đế đã đứng trên cương vị một hoàng đế giỏi, hiểu Phật pháp, làm được rất nhiều việc thiện, chứ không phải ở vị trí một hành giả cầu đạo chân thật mà hỏi câu ấy. Ngữ khí của câu hỏi mang hơi hám tự thị, chấp chặt, cho mình là bậc nhất. Tổ muốn Đế không sống mãi với những việc đã làm, mà phải lìa bỏ, hướng đến chí đạo, nên mới trả lời như thế. Một câu chưa thấm, Đế lại hỏi: “Thánh đế đệ nhất nghĩa là gì?”. Tổ lại thêm một câu: “Rỗng không, không có gì gọi là thánh”. Không công đức, lại không có Thánh, thật đã làm cho Đế mờ mịt. Lâu nay Vũ đế sống với cái có ấy, nào là có công đức, có Thánh vị để chứng, có thánh nghĩa để ngộ, có thánh cảnh để dạo chơi… Tổ muốn Đế vượt qua những quan niệm ấy để đạt đến chỗ rốt ráo, nên trả lời như thế. Đến đây mà Đế vẫn chưa tỏ ngộ, cũng chẳng khởi nghi tình thì Tổ cũng hết thuốc, bèn lên Thiếu Thất ngồi quay mặt vào vách chín năm.
Thật ra, Tổ không xem thường những pháp thiện này, ngài chỉ phá chấp cho Vũ đế. Bởi tự thân pháp thiện không thuộc hữu lậu hay vô lậu, hữu hay vô đều do tâm người hành thiện mà thôi. Như một việc giảng kinh thuyết pháp, Vũ đế thực hiện thì được công đức hữu lậu, nếu Sơ tổ làm thì vô lậu. Như độ tăng, Vũ đế làm thì hữu lậu, Sơ tổ độ thì vô lậu. Tóm lại, khi chưa “Đại tử nhất phiên” thì tất cả những việc làm đều hữu lậu, cho nên cần phải mượn tâm hành hữu lậu để đạt đến vô tâm vô lậu. Hơn nữa, biết Vũ đế ở đời này đã đạt được nền tảng thiện nghiệp vững chắc từ những Phật sự trên, nên Tổ muốn Vũ đế từ nền tảng này mà vượt lên, bước vào cõi chơn không, cho nên mới nói Không.
Nếu nhất tâm vì đạo, vì người thực hiện những việc thiện như: giảng kinh, thuyết pháp, bố thí cúng dường, in ấn kinh điển, xây chùa tạo tượng… sẽ được vô lượng phước báu, cũng là tạo nền tảng để mau đạt đến giải thoát. Bởi nếu tạo ác thì tâm luôn bất an, tâm đã bất an thì mọi sự không thành; hành thiện vì đạo, vì người thì tâm luôn an vui, tâm đã an vui thì làm việc gì cũng dễ thành tựu, cho đến tu đạo xuất thế cũng vậy. Nếu Bồ-tát không hoàn thành những pháp thiện: bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định, trí tuệ thì nhất định không thể đạt đến quả Phật. Nếu phàm phu không thực hiện các điều thiện: không sát sanh, không trộm cắp, không tà dâm, không nói dối, không uống rượu, hoặc không thật tu mười điều thiện thì không thể có được an lạc đời này và đời sau.
Ngày nay, trong thời Mạt pháp, xã hội lại cực kì loạn động, bất an. Khắp nơi, nào là chiến tranh, thiên tai, dịch bệnh, đói nghèo, tất cả đều nguy hại đến thân. Trong Phật pháp, thân người rất quí, là kết quả của việc giữ gìn năm giới, mười giới, là chỗ nương để tu tập giải thoát. Nhưng hiện nay, thế gian này không quí mạng người, xem nhẹ hiếu nghĩa, chỉ cần một lời cải cọ, một va chạm nhỏ, một chút lợi trước mắt, một sự ham muốn nhất thời cũng đều có thể gây ra nghiệp ác. Vì sao? Vì tất cả không hiểu, không tin nhân quả nhiều đời, đã không tin không hiểu nhân quả nhiều đời thì không thích việc thiện sợ điều ác, không thích thiện sợ ác thì không việc ác nào mà không làm, không việc thiện nào mà không chối bỏ. Trong gia đình có người bất thiện thì gia đình không an vui hạnh phúc, trong xóm thôn có người bất thiện thì xóm thôn ấy bất an, trong một quốc gia có nhiều người bất thiện thì quốc gia ấy sẽ không thái bình, thịnh vượng. Như vậy phải từ con người mà xây dựng nền tảng chí thiện cho xã hội, cho quốc gia. Hễ con người thuần thiện thì gia đình cho đến quốc gia, rộng hơn là thế giới sẽ tốt đẹp.
Nếu chúng ta, mỗi mỗi người thực hiện pháp thiện hữu lậu, tức luôn luôn tác ý thiện, nói lời thiện, làm việc thiện. Cứ như thế, không gián đoạn, thì đến một lúc nào đó, thiện này sẽ trở thành tập tánh, giống như đói ăn khát uống vậy. Bấy giờ tâm không nghĩ thiện mà thân vẫn làm thiện, miệng vẫn nói lời thiện. Mọi việc làm và lời nói đều hợp với thiện, đều vì lợi ích của tất cả mọi người. Như thế há chẳng trở thành bậc Hiền thánh sao?
Những gì mà Phật giáo cho là thiện, cho là bất thiện? Hành thiện như thế nào đúng pháp? Hành thiện thì đời này, đời sau được những gì, gây ác thì đời này, đời sau chuốc hoạ gì?CHƯ KINH YẾU TẬP sẽ giải đáp cho chúng ta thấu đáo vấn đề này.
CHƯ KINH YẾU TẬP hay THIỆN ÁC NGHIỆP BÁO LUẬN, một tác phẩm của ngài Đạo Thế. Ngài đã tuyển chọn những đoạn Kinh, Luật, Luận, Truyện kí… thiết yếu liên quan đến thiện ác nghiệp báo ba đời rồi thêm lời bình mà thành bộ sách này. Để cho người đọc dễ nắm bắt được nội dung trước khi xem đọc, ban Dịch thuật chọn bốn chữ THIỆN ÁC NGHIỆP BÁO làm đề mục cho dịch phẩm.
Tạm cho đây là một dịch phẩm lớn, chứa đựng nhiều thể loại: văn tựa, luận nghị, thi kệ, tán tụng, truyện kí… với sự tham gia của nhiều thành viên ban dịch thuật, nên về mặt nhất quán ngôn từ, nhất quán cách hành văn, giọng văn, chất văn hẳn không được hoàn toàn như ý, dù đã mời nhiều người và nhiều lần xem đọc trước khi cho in ấn lưu hành. Kính xin người đọc hoan hỉ chỉ chánh cho.
Chúng tôi cũng xin cảm niệm công đức của Đài Trung liên xã, đạo tràng Niệm Phật Tùy Duyên, nhóm bảo trợ dịch thuật Pháp Loa, Phật tử Thiện Ân, Phật tử Phương Tú và nhất là cố Phật tử Hoàng Mạnh Hùng pháp danh Thiện Chí đã trợ duyên dịch thuật, in ấn lưu truyền tác phẩm này.
Xin hồi hướng công đức này đến tất cả chúng sanh, giúp hiện đời tịnh hoá thân tâm, hành thiện an vui, lâm chung tuỳ ý sanh về quốc độ hữu duyên giáo hoá hữu tình đồng thành Phật đạo.
Từ Nghiêm ngày 19 tháng 3 năm Kỉ Sửu (13/04/2009)
Nguyên Chơn kính ghi

 
***
http://www.dichthuatphapam.net/site/dich-thuat/kinh/40-thien-ac-nghiep-bao-phan-gioi-thieu-va-muc-luc.html

_________________________________
Tri Âm Quán_Thị Trấn Chũ_Lục Ngạn_Bắc Giang
http://quoccuonglucngan.blogspot.com/
Về Đầu Trang Go down
https://triamquan.forumvi.com/
Tri Âm Quán
Thành Viên Tích Cực
Thành Viên Tích Cực
Tri Âm Quán


Tổng số bài gửi : 6340
Reputation : 2
Join date : 31/07/2013
Đến từ : Thị Trấn Chũ

Thiện ác nghiệp báo  Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Thiện ác nghiệp báo    Thiện ác nghiệp báo  EmptySun Oct 06, 2013 6:54 pm

GIỚI THIỆU CHƯ KINH YẾU TẬP
(Thiện Ác Nghiệp Báo Luận)
Chư Kinh Yếu Tập còn có nhan đề Thiện Ác Nghiệp Báo Luận, 20 quyển do sa môn Đạo Thế ở chùa Tây Minh biên tập vào niên hiệu Hiển Khánh đời Đường (656 – 660) được thâu nhập vào Đại Chính Tạng quyển 54.
Đạo Thế tự Huyền Uẩn, họ Hàn, nguyên quán Y Khuyết (nay là Tây Nam, huyện Y Xuyên, tỉnh Hà Nam) nhân vì ông nội làm quan nên gia đình dời về Trường An. Năm 12 tuổi, Sư xuất gia ở chùa Thanh Long chuyên nghiên cứu Luật bộ, sưu tầm kinh sách. Vào khoảng niên hiệu Hiển Khánh (656 – 661), Sư nhận chiếu tham dự dịch trường của Tam Tạng pháp sư Huyền Trang. Về sau, Sư vào chùa Tây Minh cùng ngài Đạo Tuyên xiển dương Luật tông. Ngài trứ tác 11 bộ sách, tổng cộng 154 quyển, trong số đó các sách đã bị thất truyền gồm có: Đại Tiểu Thừa Thiền Môn Quán (10 quyển), Thụ Giới Nghi Thức (4 quyển), Lễ Phật Nghi Thức (2 quyển), Đại Thừa Lược Chỉ Quán (1 quyển), Biện Ngụy Hiển Chân Luận (1 quyển), Kính Phúc Luận (3 quyển), Tứ Phần Luật Ni Sao (5 quyển), Kim Cang Bát-nhã Tập Chú (3 quyển). Hiện còn Chư Kinh Yếu Tập  (20 quyển), Tỳ-ni Thảo Yếu (6 quyển) và Pháp Uyển Châu Lâm (100 quyển).
Chư Kinh Yếu Tập là một tác phẩm trích lục trong kinh sách Phật những điều liên quan đến giáo pháp, tu hành, nghi quỹ và luận thuật các việc liên quan đến thiện ác nghiệp báo rồi chia thành các thiên. Toàn thư được chia làm 30 bộ loại: Kính Tam Bảo (17 mục), Kính Pháp (7 mục), Nhiếp Niệm (4 mục), Nhập Đạo (4 mục), Bái Tán (3 mục), Hương Đăng (4 mục), Thụ Thỉnh (8 mục), Thụ Trai (2 mục), Phá Trai (2 mục), Giàu Sang (2 mục), Nghèo Hèn (2 mục), Khích Lệ (7 mục), Báo Ân (3 mục), Phóng Sinh (4 mục), Làm Phúc (6 mục), Chọn Bạn (5 mục), Nghĩ Kỹ (5 mục), Lục Độ (20  mục), Nghiệp Nhân (5 mục), Tham Dục (3 mục), Tứ Sinh (6 mục), Thụ Báo (9 mục), Thập Ác (10 mục), Dối Gạt (6 mục), Biếng Nhác (3 mục), Rượu Thịt (3 mục), Xem Tướng (3 mục), Địa Ngục (8 mục), Tống Chung (9 mục), Linh Tinh (13 mục). Tổng cộng 185 mục.
Đặc điểm của Chư Kinh Yếu Tập là tính lý luận, là tính thuật tác.
Về tính lý luận, trong sách này trích lục nguyên văn Kinh, Luật, Luận Phật giáo liên quan đến ý nghĩa, nội dung, yêu cầu, phương pháp tu hành của người tại gia và xuất gia. Tuy nhiên, trong đó chẳng thiếu ví dụ, ngụ ngôn và truyện tích, nhưng chúng đều được xiển thuật theo lý luận của giáo pháp, giáo quy, đồng thời chẳng tự thành hệ thống cũng chẳng chiếm địa vị chủ đạo. Lý luận được đề cập đến rất rộng rãi, có hàm nghĩa kính trọng Phật, Pháp, Tăng; quy tắc nhiễu tháp, nhập tự; phương pháp nhiếp niệm, kiềm chế dục vọng; công đức đốt hương, cúng Phật, thụ trai, phóng sinh; ba đường ác của nghiệp thân phạm thập ác; nghiệp nhân giàu sang, nghèo hèn; yếu chỉ của lục độ Đại thừa; bốn loài (noãn sinh, thai sinh, thấp sinh, hóa sinh) của hữu tình chúng sinh; nguyên lý và chủng loại của nghiệp báo; nhiếp ý của địa ngục, sinh hoạt thức ngủ ăn uống của người xuất gia.
Về tính thuật tác, Chư Kinh Yếu Tập tuy lấy việc trích lục kinh văn làm chủ thể nhưng có nhiều chỗ trong nội dung là do tác giả trứ thuật, có tư tưởng lý giải của tác giả trong đó. Trong tác phẩm này, trừ bộ loại Thập Ác ra, 29 bộ loại kia mở đầu đều có phần dẫn nhập do soạn giả viết để lược thuật đại ý của một bộ hoặc một thiên, có tác dụng nêu lên cương lĩnh. Lại nữa ngoài phần dẫn nhập, y cứ vào nội dung của kinh văn biên định trong các mục cũng có phần do tác giả trứ tác. Các phần này mở đầu có hai chữ “thuật viết” đặt ở đầu của nguyên văn được trích lục.
Nguồn gốc tư liệu của Chư Kinh Yếu Tập trích lục từ Kinh, Luật, Luận Hán dịch. Do vì tác giả nghiêng nặng về trình bày giáo lý cho nên chỉ chọn lấy phần nhiều là luận như: luận Đại Trí Độ, luận Thập Trụ Tỳ-bà-sa, luận Đại Trang Nghiêm, luận Du-già-sư-địa, luận Kim Cang Cương, luận Thành Thật, luận Câu-xá, luận Địa Trì, luận Thi Thiết, luận Giải Thoát Đạo, luận Tân Bà-sa v.v… Về Luật thì có trích dẫn luật Tứ Phần, luật Thập Tụng, luật Ma-ha Tăng-kì, kinh Phạm Võng, kinh Bồ-tát Thiện Giới, kinh Ưu-bà-tắc Giới v.v… Về kinh thì các kinh Phật trích lục như kinh A-hàm, kinh Hoa Nghiêm, kinh Pháp Hoa, kinh Đại Tập, kinh Phổ Diệu, kinh Hiền Ngu, kinh Tạp Bảo Tạng, kinh Vị Tằng Hữu v.v…, ngoài ra còn có các kinh chưa thấy ghi trong kinh lục như: kinh Xá-lợi-phất Xử Thai, kinh Đại Thừa Liên Hoa Tạng, kinh Nhật Vân.
Ngoài Kinh, Luật, Luận, Chư Kinh Yếu Tập còn trích lục Tây Quốc Hành Truyện của Vương Huyền Sách đời Đường, Cao Tăng Truyện của Huệ Kiểu đời Lương, Tây Vực Kỳ-hoàn Tự Đồ của Đạo Tuyên đời Đường, Thượng Thư của Nho gia (trong phần Thuật viết) có dẫn Lễ Ký, Tả Truyện, Hoài Nam Tử.
Lúc Đại sư Ấn Quang (1862-1940) còn tại thế, Ngài thường khuyên các đệ tử chú trọng đến tội phước nhân quả, nên Ngài giới thiệu Pháp Uyển Châu Lâm  của ngài Đạo Thế cho mọi người, như trong thư đáp Đặng Tân An, Đại sư viết: “ Đến như lúc xử sự bình thường hoặc sợ làm tội không hay, giảm phúc không biết, nên đọc bộ Pháp Uyển Châu Lâm tất sẽ nắm được khuôn phép để giữ gìn, tâm niệm không dám buông lung nữa” (Ấn Quang Văn Sao). Nhưng bộ Pháp Uyển Châu Lâm dày đến 100 quyển, thiết nghĩ không tiện cho người hiện nay thời giờ eo hẹp duyệt đọc, cho nên Ban Dịch Thuật chọn tác phẩm Chư Kinh Yếu Tập (tức Thiện Ác Nghiệp Báo Luận)  20 quyển có cùng một nội dung và cũng cùng một soạn giả phiên dịch ra tiếng Việt có phụ thêm phần cước chú để cống hiến cho bạn đọc xa gần.
Nguyện tập sách này được nhiều người thấy nghe rồi vâng làm theo lời Phật dạy, hiện đời thân tâm an lạc, sống trong thế giới hòa bình hạnh phúc, sau khi bỏ báo thân này sinh về cõi Phật thanh tịnh.
Tu viện Huệ Quang, ngày 15 tháng 3 năm Kỉ Sửu (9/4/2009)
Định Huệ kính ghi


***

_________________________________
Tri Âm Quán_Thị Trấn Chũ_Lục Ngạn_Bắc Giang
http://quoccuonglucngan.blogspot.com/
Về Đầu Trang Go down
https://triamquan.forumvi.com/
Tri Âm Quán
Thành Viên Tích Cực
Thành Viên Tích Cực
Tri Âm Quán


Tổng số bài gửi : 6340
Reputation : 2
Join date : 31/07/2013
Đến từ : Thị Trấn Chũ

Thiện ác nghiệp báo  Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Thiện ác nghiệp báo    Thiện ác nghiệp báo  EmptySun Oct 06, 2013 7:02 pm

GIÁ TRỊ CỦA THIỆN ÁC NGHIỆP BÁO (CHƯ KINH YẾU TẬP)
Chúng tôi có được nhân duyên rất lớn và may mắn được làm việc với ban Dịch thuật Hán tạng Pháp Âm. Nói may mắn, vì lâu nay có được mấy cơ hội Phật giáo Việt Nam thành lập và duy trì được dịch trường Hán tạng qui củ, chuyên nghiệp, có đào tạo, thi tuyển? Tôi càng may mắn hơn khi được đọc qua bản dịch quyển Thiện ác nghiệp báo (tên gọi khác của Chư kinh yếu tập do pháp sư Đạo Thế đời Đường biên tập từ những bộ kinh Đại thừa quan trọng). Đối tượng độc giả của quyển sách này không hạn chế trong phạm vi của người xuất gia hay kẻ tại gia, người tu Phật hay không tu Phật, tất cả những ai nếu đã đọc qua quyển sách này chắc chắn sẽ có được sự lợi ích. Chỉ ở điểm này thôi cũng tạo nên giá trị lớn cho tác phẩm khá đồ sộ này.
Cách trình bày từng vấn đề cụ thể được sắp xếp theo trình tự:
1. Đặt vấn đề dựa vào lý luận kinh điển.
2. Đi vào từng đề mục cụ thể, chi tiết.
3. Định nghĩa, lý giải, dẫn chứng kinh điển.
4. Xen kẽ có những bài kệ tụng tóm gọn nội dung vừa nêu.
5. Mở rộng phạm vi nội dung đến những điều có liên quan.
Giá trị của quyển sách không chỉ dừng lại ở đó, bởi tính giáo dục, thực tiễn, tính lý luận và phương pháp thực hành giúp con người hướng thiện, làm lành lánh ác, tu tập, giải thoát khỏi luân hồi sinh tử, được trình bày hết sức cụ thể, sinh động, dễ đi vào lòng người. Đó là những bài học đạo đức được nói đến như những tấm gương soi rọi qua sự tái hiện nhiều câu chuyện sinh động và sâu sắc từ kinh, luật, luận, có liên hệ thực tế đến từng vấn đề cụ thể. Chẳng hạn, kinh A-xà-thế vương thụ quyết nói đến chuyện bà già nghèo xin được hai đồng tiền liền mua dầu cúng dường Phật Thích-ca, rồi phát nguyện: “Nếu đời sau tôi đắc đạo giống như Đức Phật, thì xin số dầu này được cháy sáng suốt đêm không hết”. Quả nhiên, ngọn đèn của bà chẳng những cháy suốt đêm không tắt, mà còn rực sáng hơn các ngọn khác.
Giá trị khoa học của tác phẩm nổi bật hơn cả ở sự trình bày phương pháp ứng dụng những lời Phật dạy cho từng việc làm, hành động cụ thể và tính lý luận được thể hiện khá sâu sắc, cách lập luận vững vàng, sắc bén, chặt chẽ, đúng pháp. Ngoài ra, sự uyên bác của tác giả còn thể hiện ở khả năng liên hệ đến những vấn đề có liên quan đến chủ đề chính, khiến người đọc vừa lòng, thú vị vì vấn đề được trình bày khá đầy đủ, trọn vẹn. Điểm đặc biệt khác lôi cuốn người đọc là tác giả biết khai thác những chi tiết và khía cạnh cụ thể, cho nên dù nói đến những điều tưởng chừng khá quen thuộc như: làm thế nào khi đến chùa, cách lễ Phật, thắp hương, đốt đèn, treo phan, điều kiện thuyết pháp, nghe pháp, cúng dường đúng pháp, thực hành năm giới cấm, cách ăn uống… cũng trở thành mới mẻ, người đọc cảm thấy dường như chưa từng biết qua. Tâm trạng này không chỉ có ở độc giả tại gia mà người xuất gia cũng cảm nhận như thế. Ví dụ, khi dạy về tác dụng của việc treo phan, kinh Phổ Quảng có ghi: “Khi nhà có người lâm chung hoặc đã qua đời, thì ngay trong ngày mất, quyến thuộc của họ treo tràng phan màu vàng trên tháp, thì người ấy được phúc đức, xa lìa tám nạn khổ, được sinh trong cõi nước của chư Phật ở mười phương. Khi tràng phan vừa xoay, người ấy sẽ được ngôi vị Chuyển luân thánh vương. Tràng phan tung bay theo gió, rách nát hết, cho đến thành từng hạt bụi nhỏ, người ấy liền được ngôi vị tiểu vương. Người nhà cũng nên đốt đèn cúng dường, chiếu sáng những nơi tăm tối, giúp cho chúng sinh đau khổ nhờ ánh sáng này mà thấy nhau và được an ổn”. Điều này chưa thấy nói trong các kinh sách Tịnh độ, đặc biệt là sách hướng dẫn trợ niệm cho người lâm chung.
Nét đặc sắc của nghệ thuật trình bày tác phẩm còn thể hiện qua tác dụng hòa nhập. Bất kể vấn đề nào tác giả nêu ra có vẻ như sâu mầu, cao xa, nhưng lại giản dị, gần gũi, khiến người đọc cảm thấy như có mình ở trong từng hoàn cảnh, được cảnh tỉnh, dạy bảo, không còn phân biệt vấn đề này dành cho người xuất gia hay tại gia nữa. Chẳng hạn oai nghi của người tu Phật ảnh hưởng thế nào đến niềm tin người xung quanh; hay những trò đùa vui, những hành động vô tình hay hữu ý tạo ác nghiệp đều gây nên hậu quả xấu đến nhiều kiếp về sau…
Ở trình độ Phật học nào độc giả cũng đều gặt hái được lợi ích từ quyển sách này. Người xuất gia có thể dùng sách này làm đề tài giảng pháp, có thể sử dụng những dẫn chứng sinh động để thu hút người nghe. Kẻ tại gia có được những bài học giác ngộ, giải thoát quí báu cho hành động, suy nghĩ, lời nói của mình qua từng câu chữ, từng trang sách sáng ngời tính giáo dục. Mỗi vấn đề được đặt ra đều có thể là cẩm nang cho việc tu sửa thân tâm, tinh tiến để trở nên thanh tịnh bồ-đề hoàn thiện, không cấu uế, nhiễm ô; còn được thâm nhập Phật pháp trong từng sát-na, mọi hành động đều mang tính Phật pháp, lợi ích cho mình cho người một cách tự nhiên như gió, như mây, cao rộng, sâu thẳm như núi sông, biển cả…
Góp phần tạo nên những giá trị quí báu như đã nêu trên cho quyển sách này, không thể không nói đến sự nỗ lực to lớn của tập thể ban Dịch thuật Hán tạng Pháp Âm. Tuy mỗi thành viên phụ trách dịch thuật các phần, quyển khác nhau, nhưng nhìn chung, văn phong nhất quán, trong sáng, ý văn mạch lạc, diễn dịch nhiều vấn đề mang tính lý luận sâu xa trở thành dễ hiểu, gần gũi với nhiều đối tượng độc giả. Có rất nhiều đoạn dịch văn sâu sắc, mang tính hình tượng rõ nét và sống động, tạo tính thú vị, lôi cuốn người đọc từ đầu đến cuối. Đó là lợi ích to lớn đầu tiên mà người đọc thấy được từ trang sách đầu tiên…
Xin thành tâm cảm niệm công đức của tác giả (pháp sư Đạo Thế đời Đường) và ban dịch thuật Hán tạng đã cống hiến cho độc giả nói chung, cho người tu Phật xuất gia, tại gia vốn pháp bảo bao quát nhiều phương diện quan trọng và hết sức sâu sắc này.
Ngày 26 tháng 4 năm Kỷ Sửu (20/5/2009)
Quảng Âm- Đoàn Ánh Loan kính ghi

_________________________________
Tri Âm Quán_Thị Trấn Chũ_Lục Ngạn_Bắc Giang
http://quoccuonglucngan.blogspot.com/
Về Đầu Trang Go down
https://triamquan.forumvi.com/
Tri Âm Quán
Thành Viên Tích Cực
Thành Viên Tích Cực
Tri Âm Quán


Tổng số bài gửi : 6340
Reputation : 2
Join date : 31/07/2013
Đến từ : Thị Trấn Chũ

Thiện ác nghiệp báo  Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Thiện ác nghiệp báo    Thiện ác nghiệp báo  EmptySun Oct 06, 2013 7:06 pm

QUYỂN 1
I. KÍNH TAM BẢO
I.1. Kính Phật
I.1.1. Lời dẫn
I.1.2. Niệm thập phương Phật
I.1.3. Niệm Phật Thích-ca
I.1.4. Niệm Phật A-di-đà
I.1.5. Niệm Phật Di-lặc
I.1.6. Niệm Phật tam-muội
QUYỂN 2
I.2. Kính pháp
I.2.1 Đại ý
I.2.2. Điều kiện thuyết pháp
I.2.3. Nhân duyên nghe pháp
I.2.4. Tiệm và đốn
I.2.5. Cầu pháp
I.2.6. Cảm được phúc báo
I.2.7. Báo ân
I.2.8. Phỉ báng pháp
I.3. Kính tăng
I.3.1. Lời dẫn
I.3.2. Lợi ích
I.3.3. Tổn giảm
QUYỂN 3 
II. KÍNH THÁP
II.1. Lời dẫn
II.2. Dẫn chứng
II.3. Dựng tháp
II.4. Cảm báo
II.5. Nhiễu tháp
II.6. Vào chùa
II.7. Sửa chùa tháp cũ
III. NHIẾP NIỆM
III.1. Lời dẫn
III.2. Thập niệm
III.3. Lục niệm
III.3.1. Niệm Phật
III.3.2. Niệm pháp
III.3.3. Niệm tăng
III.3.4. Niệm giới
III.4. Phát nguyện

QUYỂN 4
IV. NHẬP ĐẠO
IV.1. Lời dẫn
IV.2. Ưa thích và nhàm chán
IV.3. Xuất gia
IV.4. Dẫn chứng
V. TÁN TỤNG
V.1Lời dẫn 
V.2. Dẫn chứng
V.3. Khen ngợi công đức 

VI. HƯƠNG ĐĂNG
VI.1. Lời dẫn
VI. 2. Hoa hương
VI. 3. Đốt đèn
VI.4. Treo tràng phan

QUYỂN 5
VII. THỤ THỈNH
VII.1. Lời dẫn
VII.2. Cúng dường
VII.3. Phân biệt những điều sai lầm
VII.4 Thánh tăng
VII.5. Bố thí thức ăn 
VII.6. Ăn đúng thời
VII.7. Cách ăn
VII.8. Ăn xong 

QUYỂN 6
VIII. THỤ TRAI
VIII.1. Lời dẫn
VIII.2. Chứng minh
IX. PHÁ TRAI
IX.1. Lời dẫn
IX.2. Chứng minh
X. PHÚ QUÍ
X.1. Lời dẫn
X.2. Chứng minh
XIBẦN TIỆN
XI.1. Lời dẫn
XI.2. Dẫn chứng
XI.3.Tu-đạt
XI.4. Bần nhi
XI.5. Bần nữ

QUYỂN 7 
XII. KHUYẾN KHÍCH TU TẬP
XII.1. Lời dẫn
XII.2. Khuyên răn người nam
XII.3. Khuyên răn người nữ
XII.4. Khuyến đạo
XII.5. Quyến thuộc
XII.6. Bỏ chấp
XII.7. Giáo giới
QUYỂN 8
XIII. BÁO ÂN
XIII.1. Lời dẫn
XIII.2. Báo ân
XIII.3. Vong ân
XIII.4. Kệ kết khuyến
XIV. PHÓNG SINH
XIV.1. Lời dẫn
XIV.2. Giết hại
XIV.3. Phóng sinh
XIV.4. Cứu nạn
XIV.5. Kết khuyến
XV. LÀM PHÚC
XV.1. Lời dẫn
XV.2. Tu phúc
XV.3. Đúng pháp
XV.4.  Cúng dường
XV.5. Chuẩn bị nước tắm cho tăng
XV.6. Các việc phúc khác 
XV.7. Kệ kết khuyến


QUYỂN 9

XVI. CHỌN BẠN KẾT GIAO
XVI.1. Lời dẫn
XVI.2. Thiện tri thức
XVI.3. Ác tri thức
XVI.4. Vay trả
XVI.5. Răn lỗi lầm 
XVII. SUY NGHĨ THẬN TRỌNG
XVII.1. Lời dẫn
XVII. 2. Thận trọng đối với lỗi lầm
XVII.3. Thận trọng đối với tai họa
XVII.4. Thận trọng đối với hoàn cảnh
XVII.5. Thận trọng đối với vật thụ dụng

QUYỂN 10

XVIII. LỤC ĐỘ
XVIII.1. Bố thí
XVIII.1.1. Lời dẫn
XVIII.1.2. Bỏn xẻn và dối trá
XVIII.1.3. Bố thí tài vật
XVIII.1.4. Bố thí giáo pháp
XVIII.1.5. Lượng định để bố thí
XVIII.1.6. Phúc điền
XVIII.1.7. Đối đãi
XVIII.2. Trì giới
XVIII.2.1. Lời dẫn
XVIII.2.2. Khuyên giữ giới
XVIII.3. Nhẫn nhục
XVIII.3.1. Lời dẫn
XVIII.3.2. Khuyên nhẫn nhục
XVIII.3.3. Lợi ích của nhẫn nhục
XVIII. 4. Tinh tiến
XVIII.4.1. Lời dẫn
XVIII.4. 2. Biếng nhác
XVIII.4.3. Sách tấn tu tập
XVIII.5. Thiền định
XVIII.5.1. Lời dẫn
XVIII.5.2. Tướng của thiền định
XVIII.6. Trí tuệ
XVIII.6.1. Lời dẫn
XVIII.6.2. Cầu pháp

QUYỂN 11
 
XIX. TẬP NHÂN
XIX.1. Lời dẫn
XIX.2. Phát nghiệp
XIX.3. Hành vi tội
XIX.4. Hành vi phúc
XIX. 5. Nghiệp khác


QUYỂN 12 

XX. DỤC CÁI
XX.1. Lời dẫn
XX.2. Năm dục
XX.2.1. Khổ do dục trói buộc
XX.2.2. Khổ do dục chướng ngại
XX.2.3. Chê trách khổ đau do dục gây tạo
XX.3. Năm món ngăn che
XX.3.1. Tham dục
XX.3.2. Sân khuể
XX.3.3. Thụy miên
XX.3.4. Trạo hối
XX.3.5. Nghi
XXI. TỨ SINH
XXI.1. Lời dẫn
XXI.2. Tổng hợp các tên gọi về bốn hình thái sinh (hội danh)
XXI.3. Phối thuộc giữa bốn loài và sáu đường (tương nhiếp)
XXI.4. Ngũ sinh
XXI. 5. Trung ấm
XXI.6. Thụ thai

QUYỂN 13
XXII. THỤ BÁO
XXII.1. Lời dẫn
XXII.2. Loại báo 
XXII.3. Hiện báo
XXII.4. Sinh báo
XXII.5. Hậu báo
XXII.6. Định báo
XXII.7. Bất định báo
XXII.8. Thiện báo
XXII.9. Ác báo
XXII.9.1. Sát sinh là nỗi khổ lớn thứ nhất
XXII.9.2. Trộm cắp là nỗi thống khổ lớn thứ hai
XXII.9.3. Tà dâm là nỗi thống khổ lớn thứ ba
XXII.9.4. Vọng ngữ là nỗi thống khổ lớn thứ tư
XXII.9.5. Nói đôi chiều là nỗi thống khổ lớn thứ năm
XXII.9.6. Ác khẩu là nỗi thống khổ lớn thứ sáu
XXII.9.7. Nói lời vô nghĩa là nỗi thống khổ lớn thứ bảy
XXII.9.8. Tham dục là nỗi thống khổ lớn thứ tám
XXII.9.9. Sân hận là nỗi khổ thứ chín
XXII.9.10. Tà kiến là nỗi khổ thứ mười

QUYỂN 14
XXIII. MƯỜI VIỆC ÁC 
XXIII.1. Sát sinh
XXIII.2. Trộm cướp tài vật
XXIII.2.1. Trộm vật cúng Phật
XXIII.2.2. Trộm vật của tăng
XXIII.2.3. Trộm và sử dụng vật lẫn lộn
XXIII.2.4. Trộm vật của người
XXIII.2.5. Trộm vật rơi
XXIII.3. Tà dâm
XXIII.3.1. Quở trách dục gây nhiều khổ
XXIII.3.2. Quán thấy người nữ nhơ uế
XXIII.3.3. Người nữ khó gần đáng chán
XXIII.3.4. Người nữ gian trá
XXIII.4. Nói lời giả dối
XXIII.5. Nói lời hung ác


QUYỂN 15
XXIII. THẬP ÁC
XXIII.6. Nói lưỡi đôi chiều
XXIII.7. Nói lời nịnh hót
XXIII.8. Tham lam keo kiệt
XXIII.9. Giận dữ ghen ghét
XXIII.10. Nhận thức sai lầm

QUYỂN 16
XXIV. DỐI TRÁ 
XXIV.1. Lời dẫn
XXIV.2. Giả làm thân gần
XXIV.3. Dùng độc mưu hại
XXIV.4. Giả làm phú quý
XXIV.5. Giả can đảm
XXIV.6. Loài vật dối trá
XXV. LƯỜI BIẾNG VÀ KIÊU MẠN 
XXV.1. Lời dẫn
XXV.2. Dẫn chứng
XXV.3. Lập chí  

QUYỂN 17
XXVI. RƯỢU THỊT
XXVI.1. Lời dẫn
XXVI.2. Uống rượu
XXVI.3. Ăn thịt
XXVII. XEM TƯỚNG
XXVII.1. Lời dẫn
XXVII.2. Xem tướng  
XXVII.3. Lòng tin

QUYỂN 18
XXVIII. ĐỊA NGỤC
XXVIII.1. Lời dẫn
XXVIII.2. Tổng hợp các tên
XXVIII.3. Thụ quả báo
XXVIII.4. Thời gian chịu tội
XXVIII.5. Vị vua quản ngục
XXVIII.6. Cung điện của vua Diêm-la
XXVIII.7. Nghiệp nhân
XXVIII.8. Khuyên răn

QUYỂN 19

XXIX. TỐNG CHUNG
XXIX.1. Lời dẫn
XXIX.2. Chăm sóc người bệnh
XXIX.3. Chữa bệnh
XXIX.4. Sắp đặt
XXIX.5. Nhiếp niệm
XXIX.6. Mạng chung
XXIX. 7. Đưa tiễn
XXIX.8. Thụ sinh
XXIX.9. Cúng tế


QUYỂN 20
XXX. LINH TINH
XXX.1. Lời dẫn
XXX.2. Oán khổ
XXX.3. Bát khổ
XXX.3.1. Thế nào là khổ do sinh?
XXX.3.2. Thế nào là khổ do già?
XXX.3.3. Thế nào là khổ do bệnh?
XXX.3.4. Thế nào là khổ do chết?
XXX.3.5. Thế nào là khổ do yêu thương mà xa lìa?
XXX.3.6. Thế nào là khổ do mong cầu không thỏa mãn?
XXX.3.7. Thế nào là khổ do ghét nhau mà gặp nhau?
XXX.3.8. Thế nào là khổ do lo lắng buồn phiền?
XXX.4. Trùng ngụ
XXX.5. Ngũ tân
XXX.6. Hắt hơi
XXX.7. Đại tiểu tiện
XXX.8. Hộ tịnh
XXX.9. Minh chung
XXX.10. Nhập chúng
XXX.11. Suy tướng 
XXX.12. Ngủ mộng 
XXX.13. Tạp hạnh

_________________________________
Tri Âm Quán_Thị Trấn Chũ_Lục Ngạn_Bắc Giang
http://quoccuonglucngan.blogspot.com/
Về Đầu Trang Go down
https://triamquan.forumvi.com/
Tri Âm Quán
Thành Viên Tích Cực
Thành Viên Tích Cực
Tri Âm Quán


Tổng số bài gửi : 6340
Reputation : 2
Join date : 31/07/2013
Đến từ : Thị Trấn Chũ

Thiện ác nghiệp báo  Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Thiện ác nghiệp báo    Thiện ác nghiệp báo  EmptySun Oct 06, 2013 7:12 pm

Thiện ác nghiệp báo (Q1-Q2)

THIỆN ÁC NGHIỆP BÁO
(CHƯ KINH YẾU TẬP)
No. 2123
TỰA
[01a] Pháp thân chỉ một tướng, mà mỗi chúng sinh nhìn thấy một vẻ; chính pháp thuần một vị, mà người nghe chẳng cùng một ý. Do đó, người giảng pháp bình đẳng như trời mưa, nhưng các đệ tử nghe thấy đều khác. Bởi vì, pháp được truyền trao tùy theo trình độ, nên sự lĩnh hội tuỳ căn khí mà có cạn, sâu. Đến như đại cương của mười hai thể loại kinh[1], ý rộng của tám vạn pháp môn, được cất chứa trong long cung ở Tây Trúc cũng không ghi hết tri thức mênh mông như lá rừng xanh của Phật, giáo pháp mà cổ đức dùng voi chở đến phương Đông, đâu chuyển hết lời dạy chỉ như số lá trong bàn tay! Vì thế, không dạo trên biển cả thì chưa thấy được cảnh bầu trời bao la, không ngước nhìn Thái sơn thì chẳng thấy cảnh núi chạm mây, có được ngọc quí của li[2] long[3] thì mới biết mắt cá nào phải châu báu, được nghe tiếng chuông lớn mới biết tiếng gõ bồn là nhỏ. Do đó, nên biết kinh Phật có chủ ý sâu xa, thánh và phàm đều ưa chuộng, đúng là báu vật riêng của trời và người, cao siêu hơn cả học thuyết hiếm có của Nho gia, Mặc gia[4] ..., uy lực chấn động cõi Đại thiên, ánh sáng vượt qua muôn cõi, đem lợi ích đến khắp sa giới, tạo công đức cho muôn đời.
Phương pháp phổ độ của Đức Phật vĩ đại thay! Nhưng lúc thời và duyên chưa gặp thì cảm và ứng không đồng. Đến khi “rừng ban mai chuyển màu[5]”, mộng ban đêm đã báo, rồi dựng nền móng chùa Bạch Mã, dần dần đến niên hiệu Xích Ô[6], thì Phật pháp đã được phổ biến rộng rãi hơn sáu trăm năm, giới xuất gia và tục gia đều được lợi ích giống như nhau.
Nhưng buồn thay! Chính pháp và tượng pháp dần dần trôi, chuyển dời đến thời mạt pháp thì chúng sinh phàm tình tăm tối, tâm thức mê mờ, ngày càng bạc bẽo, đạo thánh chìm mất, giáo pháp suy vi. Do đó, chương cú sai lạc, kinh giáo trôi chìm, văn từ mênh mông, rất khó tìm đọc. Thế nên, trong niên hiệu Hiển Khánh[7], tôi đọc tất cả kinh điển, theo ý mình tìm những lời dạy thiết yếu. Những điều mọi người có thể thực hành được chính là lý nghiệp báo thiện ác, tôi đã ghi ra một nghìn trường hợp, tập hợp thành ba mươi thiên, đóng thành hai tập, mong người xuất gia và người tại gia theo đó thực hành, đồng thời việc truyền đăng cũng có căn cứ.
Kính xét rằng, kinh Phật sâu mầu, người kém hiểu biết không thể nhận ra; đạo xuất thế kín nhiệm, kẻ vướng bận phiền não đâu thể biện luận! Bởi vì, ra biển rộng thì cảm thấy thuyền nhẹ, lên núi cao thì cảm thấy bụi là nhỏ, vung dao dễ cắt, dệt gấm khó thành.
Nay tôi chẳng lượng mình hiểu biết tầm thường, lạm bàn kinh điển sâu kín, tạm đặt ra tên gọi, lại càng thêm hổ thẹn.
Sách này chia làm ba mươi loại: Tam bảo, Kính tháp, Nhiếp niệm, Nhập đạo, [01b] Bái tán, Hương đăng, Thụ thỉnh, Thụ trai, Phá trai, Giàu sang, Nghèo hèn, Khích lệ, Báo ân, Phóng sinh, Làm phúc, Chọn bạn, Nghĩ kỹ, Lục độ, Nghiệp nhân, Tham dục, Tứ sinh, Thụ báo, Thập ác, Dối gạt, Biếng nhác, Rượu thịt, Xem tướng, Địa ngục, Tống chung, Linh tinh.


 

CHƯ KINH YẾU TẬP
QUYỂN 1
I. KÍNH TAM BẢO
I.1. Kính Phật
Gồm sáu phần: Phổ kính tam bảo, Niệm thập phương Phật, Niệm Phật Thích-ca, Niệm Phật A-di-đà, Niệm Phật Di-lặc, Niệm Phật tam-muội.
I.1.1. Lời dẫn
Đức Phật có tướng bình đẳng, đệ tử có đức ngợi khen. Cho nên các Đức Phật ở mười phương đều ra đời trong cõi “bùn lầy dơ bẩn”, các bậc Chính Giác đủ ba thân đều ngự trên đài sen báu; chúng sinh nhớ tưởng đến tướng nào của Phật, cũng đều được lợi ích cả. Nghĩa là từ lúc mới xuất gia, đến lúc thành Chính giác và khoảng giữa ngồi cội bồ-đề hàng ma, đến Lộc Dã thuyết pháp.., mỗi mỗi đều đầy đủ tướng quí, vẻ đẹp phát ra ánh sáng rực rỡ. Sắc thân thanh tịnh giống vàng ròng, diện mạo tươi đẹp tựa trăng tròn sáng; răng trắng như ngọc như tuyết, tóc nhuận sáng xoăn như vỏ ốc; mắt ví với sen xanh, mày sánh cùng liễu biếc; giọng nói ngân vang, muôn tướng ung dung, ngũ nhãn[8] sáng tinh, lục thông siêu việt; hùng biện như thác đổ, luôn chỉ dạy hợp căn cơ; thành tựu Phật thân trọn tam điểm[9], chứng được pháp thể đủ ngũ phần; đem pháp quyền và pháp thật cứu giúp chúng sinh, tùy chân thân và ứng thân để hóa độ mọi người. Có lúc Ngài quạt gió từ bi rộng khắp, có lúc tuôn mưa chính pháp tầm tã, giúp cho ruộng thân nhuần thấm, kế đó lại nhả mầm vô thượng, mọc lên cội tâm tươi tốt, lá xanh mướt um tùm. Như Lai không có tướng đến mà đến, không có tướng hiện mà hiện, [01c] vì chúng sinh nên tùy duyên ứng hiện. Tôi nguyện hầu hạ mười ức Như Lai trong mười phương, được phụng sự các Đức Phật trong ba nghìn đại thiên thế giới, gieo ruộng phúc mãi mãi, tu cúng dường rộng khắp, bứng rễ tà vạy, nhổ gốc tham sân, tu nhân niệm Phật để cảm quả thấy Phật.
Luận Bảo tính ghi: “Vì tam bảo có sáu nghĩa nên phải tôn kính:
1. Hiếm có: giống như vật báu ở đời, người nghèo cùng không thể có được. Tam bảo cũng như thế, chúng sinh phúc mỏng trải qua trăm nghìn vạn đời cũng không gặp được, cho nên gọi là bảo.
2. Lìa cấu bẩn: giống như vật báu thật ở đời không có tì vết, tam bảo cũng như thế, do lìa các phiền não, nên gọi là bảo.
3. Có năng lực: giống như vật quí giá ở đời có năng lực mạnh xóa nghèo, khử độc, tam bảo cũng như thế, có đủ sáu sức thần thông không thể nghĩ bàn, nên gọi là bảo.
4. Trang nghiêm: giống như vật quí báu ở đời có thể dùng trang điểm thân, giúp người được xinh đẹp, tam bảo cũng như thế, hay giúp trang nghiêm đức hạnh cho mọi người, giúp thân được thanh tịnh, nên gọi là bảo.
5. Tôn quí nhất: giống như vật quí báu hơn mọi vật trên đời, tam bảo cũng như thế, thù thắng hơn tất cả mọi thứ trong đời, nên gọi là bảo.
6. Không biến đổi: giống như vàng ròng ở đời, bị đốt, đập, mài, luyện, mà vẫn không thay đổi tính chất, tam bảo cũng như thế, không bị tám pháp [10]ở đời làm thay đổi, nên gọi là bảo.
Tam bảo còn nên được tôn kính bởi có đủ sáu ý sau:
1. Phật hay dạy bảo mọi chúng sinh, Pháp là thuốc hay, Tăng có thể truyền đạt lời Phật, tất cả đều làm lợi ích cho ta. Vì đền các ơn đó, nên ta phải tôn kính tam bảo.
2. Trong đời ác mạt pháp, việc truyền pháp không dễ dàng, cần nhờ oai lực tam bảo gia hộ, nên phải tôn kính.
3. Tam bảo khiến chúng sinh khởi lòng tin và vâng theo, nên phải tôn kính.
4. Phật dạy tăng ni nghi thức thờ kính tam bảo, cho nên phải tôn kính.
5. Tam bảo khiến mọi người ưa thích cúng dường để chính pháp hiện diện ở đời lâu dài, cho nên phải tôn kính.
6. Vì Phật thị hiện tướng thù thắng, nên phải tôn kính tam bảo”.
Do đó, luận Thành thật ghi: “Tam bảo có tướng tốt lành nhất, cho nên ta đặt ở đầu kinh”.
I.1.2. Niệm thập phương Phật
Kinh Quán Phật tam-muội ghi: “Vào thời quá khứ xa xưa cách đây vô số đời, có Đức Phật Bảo Uy Đức Thượng Vương ra đời. Lúc ấy, có vị tì-kheo cùng chín đệ tử đến tháp lễ lạy tượng Phật. Nhìn thấy một bức tượng Phật quí, đẹp, đáng ưa nhìn, họ liền lễ lạy, chiêm ngưỡng và nói kệ khen ngợi. Về sau, họ ngồi kết-già qua đời, được hóa sinh trong hoa sen lớn ở cõi Phật Bảo Uy Đức Thượng Vương. Từ đó về sau, họ thường được gặp Phật, tịnh tu Phạm hạnh ở chỗ Phật, [02a] chứng Niệm Phật tam-muội, được Phật thụ ký tất cả sẽ thành Phật ở khắp mười phương. Phật Thiện Đức ở phương đông chính là vị thầy, chín đệ tử làm Phật ở chín phương kia: Phật Vô Ưu Đức ở phương đông nam, Phật Chiên-đàn Đức ở phương nam, Phật Bảo Thí ở phương tây nam, Phật Vô Lượng Minh ở phương tây, Phật Hoa Đức ở phương tây bắc, Phật Tướng Đức ở phương bắc, Phật Tam Thừa Hạnh ở phương đông bắc, Phật Quảng Chúng Đức ở phương trên, Phật Minh Đức ở phương dưới. Mười vị Phật này nhờ nhân duyên đời quá khứ lễ tháp, quán tượng, đọc một bài kệ khen ngợi Phật, nên ngày nay các vị ấy được thành Phật ở mười phương”.
Kinh Quán Phật tam-muội lại ghi: “Vào thời quá khứ xa xưa, có Đức Phật ra đời hiệu là Không Vương. Sau khi Ngài nhập diệt, có bốn vị tì-kheo cùng học chính pháp của Phật ấy, nhưng lòng lại đầy phiền não, không thể giữ vững kho báu Phật pháp, tạo nhiều nghiệp bất thiện, sắp đọa đường ác. Bỗng trên không trung có tiếng bảo các tì-kheo ấy: ‘Không Vương Như Lai tuy đã vào niết-bàn, không còn ai cứu được những tội các ngươi đã phạm, nhưng các ngươi có thể vào tháp quán tượng Phật. Như thế, khác gì lúc Phật còn tại thế’. Sau khi nghe tiếng nói trên không, họ vào tháp quán tướng bạch hào[11] của tượng Phật, và nghĩ: ‘Thân tướng và hào quang của Phật lúc còn tại thế đâu khác với tượng này. Nguyện tướng đại nhân của Phật trừ tội cho con’. Nghĩ xong, gieo năm vóc mạnh xuống đất như ngọn Thái sơn lở sụp, sám hối các tội lỗi. Nhờ nhân duyên vào tháp quán tướng bạch hào của tượng Phật, trong tám mươi a-tăng-kì kiếp họ không bị đọa vào đường ác, đời đời thường được gặp chư Phật trong mười phương, ở chỗ chư Phật thụ trì pháp Niệm Phật tam-muội sâu xa. Sau khi được tam-muội, họ lại được chư Phật khắp mười phương hiện trước mặt thụ kí, nay họ đều thành Phật. Vị tì-kheo thứ nhất thành Phật hiệu là A-súc ở nước Diệu Hỉ, thế giới phương đông. Vị tì-kheo thứ hai thành Phật hiệu là Bảo Tướng ở nước Hoan Hỉ, thế giới phương nam. Vị tì-kheo thứ ba thành Phật hiệu là Vô Lượng Thọ, ở nước Cực Lạc, thế giới phương tây. Vị tì-kheo thứ tư thành Phật hiệu là Diệu Thanh, ở nước Liên Hoa Trang Nghiêm, thế giới phương bắc. Dựa theo nhân duyên ấy, hành giả phải nên phát nguyện quán Phật như thế”.
Kinh Ca-diếp ghi: “Vào thời quá khứ xa xưa cách đây hàng a-tăng-kì kiếp, có Đức Phật Quang Minh ra đời. Sau khi Ngài vào niết-bàn, có một bồ-tát tên Đại Tinh Tiến mười sáu tuổi, thuộc dòng dõi Bà-la-môn, dung mạo đẹp không ai sánh bằng. Bấy giờ, có một tì-kheo vẽ hình Phật trên một tấm vải nhung trắng, đem cho Tinh Tiến. Thấy hình Phật,[02b] Tinh Tiến rất vui mừng, nói: ‘Hình ảnh Như Lai còn đẹp tuyệt như thế, huống gì thân Phật thật. Nguyện trong đời vị lai tôi cũng thành tựu được thân vi diệu như thế’. Nói xong, Tinh Tiến lại suy nghĩ: ‘Nếu ta ở nhà thì không thể được thân như thế’. Thế rồi, Tinh Tiến xin cha mẹ cho xuất gia. Cha mẹ đáp: ‘Chúng ta nay tuổi đã già, mà chỉ có một mình con. Nếu con xuất gia thì chúng ta sẽ chết’. Tinh Tiến thưa: ‘Nếu không cho phép con xuất gia thì từ hôm nay trở đi con không ăn, không uống, không ngủ nghỉ, cũng không nói năng nữa’. Thề như thế xong, Tinh Tiến nhịn ăn một ngày, cho đến ngày thứ sáu. Bấy giờ, cha mẹ, tám mươi bốn nghìn người quen biết và các mỹ nữ đều khóc thương. Cha mẹ liền cho phép Tinh Tiến xuất gia. Được xuất gia rồi, Tinh Tiến mang bức tượng Phật vào núi, lấy cỏ làm tòa,  ngồi kết-già trước tượng, nhất tâm quán kỹ, thấy tượng vẽ không khác gì Như Lai. Tượng Như Lai chẳng giác, chẳng tri; tất cả các pháp cũng như thế, vô tướng, lìa tướng, thể tính rỗng lặng. Quán như thế qua một ngày một đêm, Tinh Tiến thành tựu ngũ thông, đầy đủ biện tài vô ngại, chứng Phổ quang tam-muội, thân có hào quang rực rỡ. Tinh Tiến dùng thiên nhãn thanh tịnh nhìn thấy a-tăng-kì Phật ở phương đông, dùng thiên nhĩ thanh tịnh nghe được hết mọi điều chư Phật nói. Suốt trọn bảy tháng, ngài dùng thiền duyệt thực, tất cả chư thiên đều rải hoa cúng dường. Sau đó, ngài rời khỏi núi, đến các xóm làng giảng pháp cho mọi người nghe. Có hai vạn chúng sinh phát tâm bồ-đề, vô lượng người trụ trong công đức của thanh văn và duyên giác, cha mẹ và người thân đều được không lui sụt trong đạo Vô thượng bồ-đề.

_________________________________
Tri Âm Quán_Thị Trấn Chũ_Lục Ngạn_Bắc Giang
http://quoccuonglucngan.blogspot.com/
Về Đầu Trang Go down
https://triamquan.forumvi.com/
Tri Âm Quán
Thành Viên Tích Cực
Thành Viên Tích Cực
Tri Âm Quán


Tổng số bài gửi : 6340
Reputation : 2
Join date : 31/07/2013
Đến từ : Thị Trấn Chũ

Thiện ác nghiệp báo  Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Thiện ác nghiệp báo    Thiện ác nghiệp báo  EmptySun Oct 06, 2013 7:13 pm

Khi ấy, Đức Phật bảo ngài Ca-diếp:
- Bồ-tát Đại Tinh Tiến ngày xưa chính là Ta, nhờ quán tượng Phật như thế, nên nay Ta được thành Phật. Nếu có người nào hay tu học phép quán như thế thì đời vị lai hẳn sẽ thành tựu Vô thượng đạo”.
Kinh Quán Phật tam-muội ghi: “Vào đời quá khứ xa xưa, có Đức Phật Thích-ca Mâu-ni ra đời. Sau khi Ngài diệt độ, có một vương tử tên Kim Tràng, tính tình kiêu ngạo, tà kiến, không tin Phật pháp. Bấy giờ, một vị tì-kheo tên Định Tự Tại bảo vương tử:
- Trên đời này, tượng Phật thường được trang trí bằng các vật báu rất đẹp. Ông hãy thử vào tháp ngắm tượng Phật xem!
Vương tử ấy liền theo vị tì-kheo vào tháp. Nhìn thấy tượng đẹp, vương tử bảo vị tì-kheo:
- Tượng Phật còn đẹp như thế, huống gì là thân thật của Phật.
Vị tì-kheo bảo:
- Nay ông nhìn thấy tượng Phật mà không lễ thì phải nên chắp tay và xưng nam-mô Phật.
Vị vương tử liền chắp tay và xưng nam-mô Phật.
Khi về đến cung, vì nhớ tưởng mãi về pho tượng Phật trong tháp, [02c] nên đêm ấy vị vương tử nằm mộng thấy tượng Phật. Sau giấc mộng ấy, vị vương tử lìa bỏ tà kiến, qui y tam bảo. Nhờ căn lành vào tháp xưng nam-mô Phật, nên lúc vị vương tử ấy qua đời, liền được gặp chín trăm vạn ức na-do-tha Phật, ở chỗ chư Phật mau chóng chứng Niệm Phật tam-muội. Do được tam-muội, nên vị ấy được chư Phật hiện đến trước mặt thụ ký, từ đó về sau, trải qua trăm vạn a-tăng-kì kiếp không đọa vào đường ác, cho đến ngày nay chứng được đại định Lăng-nghiêm sâu xa. Vị vương tử ngày xưa ấy chính là bồ-tát Tài Thủ ngày nay. Theo nhân duyên ấy, người hiểu biết phải nên học niệm Phật như thế”.
Hơn nữa, kinh Pháp hoa có bài kệ:
Nếu người tâm tán loạn,
Vào bên trong chùa, tháp,
Xưng mô Phật một lần,
Đều đã thành Phật đạo.
Kinh Thí dụ ghi: “Ngày xưa, có một ông vua giết cha mình để tự lên ngôi. Bấy giờ, có một vị a-la-hán biết ông vua ấy không quá bảy ngày nữa sẽ chết, sau khi chết chắc chắn sẽ đọa địa ngục a-tì[12] chịu khổ trong một kiếp. Vị a-la-hán liền đến hóa độ ông vua ấy, khuyên bảo nên chí tâm xưng niệm nam-mô Phật suốt bảy ngày không gián đoạn. Lúc sắp đi khỏi, ngài còn nhắc nhà vua cẩn thận chớ quên việc niệm Phật ấy. Ngay sau đó, nhà vua liền chắp tay nhất tâm xưng niệm Phật suốt ngày suốt đêm không nghỉ. Vừa sang ngày thứ bảy thì nhà vua bỗng qua đời, thần hồn đi về phía địa ngục A-tì. Nhờ công niệm Phật trước đó, vừa đến cửa địa ngục, thần hồn nhà vua nhận biết đó là địa ngục, liền cất to tiếng xưng niệm nam-mô Phật. Những tội nhân trong địa ngục nghe tiếng niệm Phật, đều cùng một lúc niệm nam-mô Phật. Đám lửa dữ dội trong địa ngục lập tức biến mất. Tất cả tội nhân đều được giải thoát. Riêng nhà vua sinh lại làm người. Về sau, vị a-la-hán lại đến thuyết pháp cho người ấy nghe và người ấy chứng được quả Tu-đà-hoàn. Căn cứ theo nhân duyên ấy, niệm danh hiệu Phật sẽ được công đức lớn vô cùng, không gì có thể ví dụ được”.
I.1.3. Niệm Phật Thích-ca
Kinh Quán Phật tam-muội ghi: “Ngày xưa, lúc còn tại thế, Đức Phật đã từng giảng kinhQuán Phật tam-muội cho vua cha và mọi người nghe. Đức Phật có ba mươi hai tướng quí và tám mươi vẻ đẹp, thân màu vàng ròng, hào quang rực rỡ. Bấy giờ, dưới pháp tòa của Phật có năm trăm người thuộc dòng họ Thích, vì tội chướng, nên thấy thân Ngài xám đen như tro, như một bà-la-môn gầy yếu. Thấy vậy, họ gào khóc, vò đầu bứt tóc, vật mình xuống đất khiến tuôn máu mũi. Đức Phật an ủi:
- Các người chớ nên gào khóc! Hãy nghe Ta nói. Đời quá khứ có Đức Phật hiệu là Tì-bà-thi. [03a] Sau khi Ngài vào niết-bàn, đến thời tượng pháp, có một trưởng giả tên Nguyệt Đức. Ông ta có năm trăm người con thông minh, học rộng, thông hiểu tất cả. Trưởng giả ấy kính tin tam bảo, thường giảng nghĩa Phật pháp cho các con nghe, nhưng những người con ấy lại tà kiến, không có lòng tin. Về sau, khi những người con ấy đều mắc bệnh nặng, trưởng giả đến trước mặt họ, khóc lóc, chắp tay và nói: ‘Các con tà kiến, không tin Phật pháp, nay bị lưỡi dao vô thường cắt xẻ thân thể, biết nhờ cậy vào đâu? Có Đức Phật Thế Tôn tên Tì-bà-thi, các con nên xưng danh hiệu Ngài’. Vì kính trọng cha, sau khi nghe cha nói, những người con đều xưng niệm nam-mô Phật. Ông trưởng giả lại bảo các con xưng niệm pháp và tăng. Xưng niệm xong, những người con  ấy đều qua đời. Nhờ xưng niệm Phật, họ được sinh vào cõi trời Tứ Thiên Vương. Khi hết tuổi thọ ở cõi trời, vì nghiệp tà kiến trước kia, nên họ bị đọa vào địa ngục, bị quỉ trong ngục dùng chỉa ba bằng sắt nung nóng đâm mù mắt. Khi chịu nỗi khổ như thế, họ nhớ lời cha dạy trước kia, liền xưng niệm Phật. Nhờ nhân duyên ấy, họ được ra khỏi địa ngục, sinh lại làm người, chịu cảnh nghèo túng, hèn hạ. Về sau, khi Phật Thức-khí ra đời, họ chỉ được nghe danh hiệu, mà không thấy được thân các Ngài. Vào thời những Đức Phật sau là Tùy-diệp[13], Câu-lâu-tần[14], Câu-na-hàm[15], Ca-diếp, họ cũng đều được nghe danh hiệu, nhưng không được thấy hình bóng các Ngài. Nhờ được nghe danh hiệu sáu vị Phật, nên ngày nay họ được sinh cùng dòng họ với Ta. Thân Ta đẹp như vàng diêm-phù-đàn, nhưng các ngươi thấy Ta giống như bà-la-môn gầy yếu, sắc người xám đen như tro, đều vì tà kiến đời trước của các ngươi nên mới như thế. Nay các ngươi nên đỉnh lễ và xưng danh hiệu chư Phật quá khứ, đồng thời xưng tên cha các ngươi, xưng danh hiệu Ta và Phật Di-lặc. Xưng niệm xong, phải lễ sát đất, phát lồ sám hối tội tà kiến với chư đại đức tăng và đại chúng.
Vâng lời Phật dạy, sám hối xong, mọi người đều thấy thân Phật màu vàng ròng như núi Tu-di. Họ liền thưa:
- Nay con thấy Phật có ba mươi hai tướng quí, tám mươi vẻ đẹp, hào quang rực rỡ vô cùng.
Nói như thế xong, họ liền chứng được quả Tu-đà-hoàn, cùng nhau xin Phật cho xuất gia, rồi đều được chứng quả A-la-hán, được đầy đủ tam minh[16], lục thông[17], bát giải thoát[18].
Bấy giờ, Phật bảo các tì-kheo:
- Sau khi Ta diệt độ, nếu ai xưng danh hiệu Ta và xưng nam-mô Phật thì sẽ được phúc đức vô cùng”.
Kinh Đại bi ghi: “Đức Phật bảo A-nan:
- Ông hãy nhìn. Lúc đi đường, Như Lai có thể khiến cho chỗ cao trên mặt đất hạ thấp xuống, chỗ thấp cao lên, tất cả những chỗ cao và thấp đều trở nên bằng phẳng. Sau khi Như Lai đi qua, mặt đất liền trở lại như cũ. Cây cối đều nghiêng mình về hướng Như Lai, thần cây hiện thân cúi mình lễ bái khi Như Lai đi ngang qua. Sau khi Như Lai bước qua, cây cối trở lại như cũ. Tất cả gò đống, hầm hố, chỗ dơ bẩn, rừng cây, ngói, sỏi … đều được dọn dẹp bằng phẳng, sạch sẽ, [03b] hương thơm tỏa ngát, hoa đẹp rải đầy đất để Như Lai bước đi trên đó; khi ấy vật vô tình đều nghiêng mình, huống gì loài hữu tình, mà chẳng cung kính? Vì sao? Vì ngày xưa, lúc tu hạnh bồ-tát, Ta luôn khiêm tốn nghiêng mình lễ kính tất cả mọi người. Sau khi được thành Phật, nhờ nghiệp thiện ấy, lúc Như Lai bước đi, tất cả loài hữu tình và vô tình đều nghiêng mình, cúi đầu lễ bái. Trước kia, Ta từng thành tâm tự tay đem những tài sản thanh tịnh, vi diệu, vừa ý bố thí cho chúng sinh. Nhờ nghiệp báo ấy, khi Như Lai bước đi, mặt đất trở nên bằng phẳng như được tưới quét sạch sẽ, không có gạch sỏi. Ta đã từng ở vô số chỗ của thánh hiền, khi các ngài đi đến đâu, Ta đã quét dọn đường sá, sửa sang nhà cửa đến đó. Ta dùng tâm bình đẳng không phân biệt cao thấp để quét dọn sạch sẽ, thường xuyên cầu bồ-đề, làm lợi ích cho chúng sinh. Nhờ căn lành ấy, nên Như Lai đi đến bất cứ nơi nào thì nơi ấy đường sá tự nhiên sạch sẽ, mặt đất bằng phẳng như bàn tay. Khi Đức Phật vào niết-bàn, ngay cả núi chúa Tu-di cao tám mươi bốn nghìn do-tuần, cắm sâu vào biển cả cũng vậy và núi Thiết Vi cao một trăm sáu mươi tám nghìn do-tuần bằng kim cương cứng rắn, cũng đều nghiêng mình, cúi đầu kính lễ, chẳng hề có việc chúng muốn tránh xa, không muốn nghiêng mình!”.
Kinh Phổ diệu ghi: “Do Như Lai trong quá khứ tâm thanh tịnh, xa lìa nhiễm ô, không hại chúng sinh, cho nên khi Ngài bước đi, chân không bị bẩn, không làm tổn hại các loài côn trùng”.
Kinh Xứ xứ ghi: “Khi Như Lai đi, chân không chạm đất, bởi có ba nguyên nhân: một, vì Ngài khiến người tu hành bớt ham muốn; hai, vì Ngài hiện tướng bánh xe dưới bàn chân; ba, vì Ngài khiến người trông thấy được vui vẻ. Khi Phật bước đi, chân luôn cách mặt đất bốn tấc[19], bởi ba nguyên nhân: vì Phật thấy trên mặt đất có côn trùng v.v..; vì trên mặt đất có cỏ cây sinh sống; vì Phật hiện thần biến.
Phật cũng muốn khiến tâm ý mọi người được ngay thẳng, nên khi Phật đi, những chỗ lồi lõm trên mặt đất đều trở nên bằng phẳng, bởi ba nguyên nhân:
1. Phật vốn thực hành tứ đẳng tâm[20], nên muốn khiến cho tất cả chúng sinh đều được an ổn, tất cả các thần, các loài côn trùng, kiến… ở trên mặt đất, trên mặt nước hay dưới nước khi gặp chân Phật, đều được an ổn, tâm ý bình thản. Vì thế, mặt đất dưới chân Ngài, chỗ thấp trở thành cao, chỗ cao trở thành thấp.
2. Các trời, quỉ, thần tu phúc bằng cách quét dọn mặt đất để Phật đi, do đó, những chỗ lồi lõm trở nên bằng phẳng.
3. Khi còn là bồ-tát, Đức Phật đã khai thông đường sá, cầu, đò giúp mọi người, do đó, Ngài được cái phúc mặt đất lồi lõm trở nên bằng phẳng khi Ngài đặt chân xuống. Phật muốn tâm mọi người cũng được như thế”.
Luận Đại trí độ ghi: “Đức Thế Tôn có thân tướng tốt đẹp, da mỏng và mịn, không bám bụi đất, giống như lá hoa sen không dính bụi và nước. Nếu bồ-tát kinh hành trong núi đất khô, cũng không bị đất bám chân. Dù có cuồng phong thổi ngọn núi đất ấy tan thành vô số bụi mịt mù, [03c] thì ngay cả một hạt bụi nhỏ cũng không bám vào thân Phật. Nếu bồ-tát đưa thức ăn vào miệng, hai bên yết hầu ngài liền có cam lộ chảy ra hòa hợp các vị thức ăn thành một vị thanh tịnh, cho nên gọi là được thượng vị trong các vị”.
Kinh Tăng nhất a-hàm ghi: “Người không có tâm cung kính Phật sẽ sinh làm rồng, rắn. Những người mới từ loài rồng, loài rắn đời quá khứ thụ sinh, thì nay vẫn  không cung kính Phật, ngủ nhiều và ngu si”.
Luật Tứ phần có bài kệ:
Ai kính trọng trưởng lão,
Người ấy hay hộ pháp,
Đời này được danh tiếng,
Tương lai sinh đường thiện.
I.1.4. Niệm Phật A-di-đà
Hỏi: Tại sao gọi là Tịnh độ?
Đáp: Sạch sẽ và sáng sủa gọi là tịnhnơi ở thanh tịnh gọi là Tịnh độ. Do đó, Nhiếp luậnghi: “Cõi nước không có năm thứ trược[21], trong sạch như pha-lê-kha gọi là thanh tịnh độ”. Luận Pháp hoa ghi: “Chỗ ở của chúng sinh không còn phiền não gọi là tịnh độ. Có bốn tịnh độ khác nhau:
1. Pháp tính độ: lấy chân như làm thể. Do đó, Lương nhiếp luận[22] ghi: “Lấy liên hoa vương làm thí dụ cho cõi Tịnh độ, pháp giới chân như làm thể của cõi ấy”.
2. Thật báo độ: Nhiếp luận ghi: “Cõi này lấy nhị không làm cửa, tam tuệ[23] làm đường ra vào, sa-ma-tha[24] và tì-bát-xá-na[25] làm xe, lấy căn bản vô phân biệt trí[26] làm dụng”. Đó là căn cứ vào báo công đức mà trình bày thể của cõi này.
3. Sự tịnh độ: cõi này làm bằng bảy thứ báu quí nhất, tức năm trần: sắc, thanh, hương, vị, xúc là tính chất của cõi này. Do đó, Nhiếp luận ghi: “Đó là trụ xứ bằng bảy báu và tràn đầy ánh sáng của Phật”. Kinh Hoa nghiêm cũng ghi: “Trong cảnh giới chư Phật có trang hoàng nhiều thứ báu đẹp xen lẫn nhau”, cho nên, luận Tịnh độ ghi: “Tịnh độ có đầy đủ các thứ trân bảo, đầy đủ vẻ đẹp vi diệu”. Kinh Đại bồ-tát tạng (bản dịch mớighi: “Giả sử lửa lớn đốt cháy tất cả mọi vật trong các thế giới trên, nhưng nếu Như Lai lại thị hiện đi, đứng, ngồi, nằm trong các thế giới ấy, thì các nơi ấy sẽ xuất hiện loại nước có đầy đủ tám tính chất[27]”.
4. Hóa tịnh độ: Năm trần bằng bảy báu do Đức Phật biến ra, là của Hóa tịnh độ. Do đó, kinh Niết-bàn ghi: “Do thần lực của Phật, mặt đất mềm mại, không có gò đống, cát, sỏi, đá,[04a] tất cả đều giống như thế giới Cực Lạc của Phật Vô Lượng Thọ ở phương tây”. Ngoài ra, luận Đại trang nghiêm ghi: “Do trí tự tại, tùy sự mong muốn của chúng sinh, Đức Phật có thể biến hiện ra các thế giới bằng thủy tinh, hoặc lưu li v.v…”. Kinh Duy-ma-cật ghi: “Phật ấn ngón chân xuống đất, mặt đất liền hiện các việc thanh tịnh”. Kinh Thập địa ghi: “Vì thuận theo tâm ưa thích nhìn của chúng sinh, mà Đức Phật thị hiện …”. Như vậy, các kinh luận này đều căn cứ nghĩa tịnh độ được hóa hiện thành, do Đức Phật dùng thần lực hóa hiện mà có, thâu lại thì không, do đó, gọi là Hóa độ.
Tóm lại, vừa rồi tuy trình bày Tịnh độ có bốn loại, nhưng cốt yếu thì có hai loại là Báo độ và Hóa độ, cũng gọi là lý độ và sự độ.
Báo độ: cõi nước khi Phật ra đời, thể của các điều thiện đều là vô lậu, không thuộc Tam giới. Cho nên, luận Tịnh độ ghi: “Xét thấy tướng của thế giới kia thù thắng hơn tam giới”. Luận Trí độ cũng ghi: “Có tịnh độ vi diệu vượt ngoài tam giới”. Nhưng trụ xứ của Phật là vô trụ xứ, vượt ngoài mười phương thế giới. Hoặc căn cứ vào pháp thân mà thiết lập tịnh độ, cho nên luận nói: “Phật Thích-ca Mâu-ni còn có thế giới thanh tịnh giống như cõi nước của Đức Phật A-di-đà. Đức Phật A-di-đà cũng có thế giới nghiêm tịnh và thế giới không nghiêm tịnh giống như cõi nước của Phật Thích-ca”. Ngoài ra, kinh Niết-bàn ghi: “Ta thật sự không rời khỏi cõi Diêm-phù-đề”. Kinh Pháp hoa cũng có bài kệ:
Ta thường tại Linh Thứu[28],
Và các trụ xứ khác.
Chúng sinh thấy kiếp tận,
Lửa lớn đốt thế giới.
Cõi Ta đây an ổn,
Trời, người thường đầy đủ,
Vườn, rừng, gác, lầu, nhà,
Các thứ báu trang nghiêm.
Thêm nữa, kinh Hoa nghiêm ghi: “Tịnh độ của Như Lai hoặc ở trên mão báu của Như Lai, hoặc ở trên khuyên tai, hoặc ở chuỗi ngọc anh lạc, hoặc ở hoa văn trên của Ngài, hoặc ở lỗ chân lông của Ngài”. Như thế, lỗ chân lông của Ngài đã chứa cả thế giới. Do đó, luậnThập trụ ghi: “Đức Phật nhấc một bước thì vượt qua vô số tam thiên thế giới”.
Hóa độ: Hóa độ không có nơi chốn riêng, chỉ căn cứ vào Báo độ mà Phật khởi tướng thô, hoặc ở khắp mười phương, hoặc ở ngay cõi này mà tiếp dẫn trời và người thuộc tam thừa. Như Phật A-di-đà Thế Tôn vì tiếp dẫn chúng sinh phàm phu và Tiểu thừa ở cõi kham nhẫn này, mà thiết lập cõi nước; hoặc ở cõi uế mà hiện tịnh độ, như ấn ngón chân thì hiện tịnh độ. Tịnh độ như thế không khác gì cung trời. Hoặc cõi nước ấy do chủng tử khí thế giới, cộng tướng của chúng sinh cảm được, [04b] trong đó hiện cảnh giới nhơ uế hoặc thanh tịnh khác nhau tùy vào sự thấy bất đồng của chúng sinh trong lục đạo. Đây đều là do nhân huân tập chủng tử danh ngôn bên ngoài, mà thức chủng thành tựu, cảm được hình bóng khí thế giới hiện ra. Hình bóng này là tướng phần của Bản thức[29], do chủng tử cộng tướng và hình ảnh, có thức hiện tướng làm nhân duyên tạo thành. Tức cộng tướng này do sức của tăng thượng duyên nội báo, mà cảm được các sự khổ vui khác nhau như thế.
Kinh Hoa nghiêm ghi: “Bấy giờ, đại bồ-tát Tâm Vương bảo các bồ-tát:
- Này Phật tử, một kiếp ở thế giới Ta-bà của Phật Thích-ca Mâu-ni bằng một ngày một đêm ở thế giới An Lạc của Phật A-di-đà. Một kiếp ở thế giới An Lạc bằng một ngày một đêm ở thế giới Thánh Phục Tràng của Phật Kim Cương. Một kiếp ở thế giới Thánh Phục Tràng bằng một ngày một đêm ở thế giới Bất Thoái Chuyển Âm Thanh Luân của Phật Thiện Lạc Quang Minh Thanh Tịnh Khai Phu. Một kiếp ở thế giới Bất Thoái Chuyển Âm Thanh Luân bằng một ngày một đêm ở thế giới Vô Cấu của Phật Pháp Tràng. Một kiếp ở thế giới Vô Cấu bằng một ngày một đêm ở thế giới Thiện Đăng của Phật Sư Tử. Một kiếp ở thế giới Thiện Đăng bằng một ngày một đêm ở thế giới Thiện Quang Minh của Phật Lô-xá-na Tạng. Một kiếp ở thế giới Thiện Quang Minh bằng một ngày một đêm ở thế giới Siêu Xuất của Phật Pháp Quang Minh Thanh Tịnh Khai Phu Liên Hoa. Một kiếp ở thế giới Siêu Xuất bằng một ngày một đêm ở thế giới Trang Nghiêm Tuệ của Phật Nhất Thiết Quang Minh. Một kiếp ở thế giới Trang Nghiêm Tuệ bằng một ngày một đêm ở thế giới Cảnh Quang Minh của Phật Giác Nguyệt. Này Phật tử! Như thế lần lượt cho đến trăm vạn a-tăng-kì kiếp thế giới, một kiếp ở thế giới sau cùng bằng một ngày một đêm ở thế giới Thắng Liên Hoa của Phật Hiền Thủ, các đại bồ-tát như Phổ Hiền,v.v… ở khắp trong đó”.

_________________________________
Tri Âm Quán_Thị Trấn Chũ_Lục Ngạn_Bắc Giang
http://quoccuonglucngan.blogspot.com/
Về Đầu Trang Go down
https://triamquan.forumvi.com/
Tri Âm Quán
Thành Viên Tích Cực
Thành Viên Tích Cực
Tri Âm Quán


Tổng số bài gửi : 6340
Reputation : 2
Join date : 31/07/2013
Đến từ : Thị Trấn Chũ

Thiện ác nghiệp báo  Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Thiện ác nghiệp báo    Thiện ác nghiệp báo  EmptySun Oct 06, 2013 7:13 pm

Ngoài ra, luận Ưu-ba-đề-xá[30] có bài kệ:
Quán tướng thế giới kia,
Trội hơn cả tam giới,
Rốt ráo như hư không,
Rộng lớn không ranh giới.
Chính đạo đại từ bi,
Sinh căn lành xuất thế,
Ngập ánh sáng thanh tịnh,
Như nhật nguyệt, gương trong.
Hạng phàm phu và Nhị thừa trong uế độ thấy được Đức Phật A-di-đà, còn các bồ-tát ở Tịnh độ cũng thấy Đức Phật A-di-đà. Căn cứ hai điều ấy thì Báo độ luôn luôn thuần tịnh, Ứng độ vừa có nhiễm, vừa có tịnh.
[04c] Do đó, luận Tịnh độ ghi: “Có năm loại quốc độ:
1. Thuần tịnh độ: cõi này chỉ dành cho bậc chứng quả vị Phật.
2. Tịnh uế độ: cõi nhiều sự thanh tịnh, ít sự nhơ uế, là cõi của bậc bồ-tát Bát địa trở lên.
3. Tịnh uế bình đẳng độ: cõi của bậc bồ-tát từ sơ địa đến thất địa.
4. Uế tịnh độ: cõi có nhiều sự nhơ uế, ít sự thanh tịnh, là cõi của hàng bồ-tát trước Thập địa.
5. Tạp uế độ: cõi của hạng phàm phu chưa nhập tính[31].
Hạng người thứ năm chỉ thấy được cõi sau cùng, không thấy được bốn cõi trước. Hạng người thứ tư thấy được hai cõi sau, không thấy được ba cõi trước. Hạng người thứ ba thấy được ba cõi sau, không thấy được hai cõi trước. Hạng người thứ hai thấy được bốn cõi sau, không thấy được một cõi trước. Bậc thứ nhất là Phật thấy và biết được cả năm cõi”.
Kinh A-di-đà Cổ âm Thanh Vương đà-la-ni ghi: “Bấy giờ, Đức Phật bảo các tì-kheo:
- Thế giới An Lạc ở phương tây hiện đang có Đức Phật hiệu A-di-đà. Nếu có tì-kheo, tì-kheo-ni, ưu-bà-tắc, ưu-bà-di nào có thể thụ trì chân chính danh hiệu Phật kia, nhờ công đức ấy, khi lâm chung, Phật A-di-đà và thánh chúng hiện đến trước người ấy, khiến họ được nhìn thấy, khởi tâm vui mừng, giúp công đức tăng gấp bội. Nhờ nhân duyên ấy, hễ sinh ở nơi nào, người ấy cũng vĩnh viễn xa lìa thân trong bào thai dơ uế, chỉ tự nhiên hóa sinh ở trong hoa sen báu tươi đẹp, được đầy đủ sáu thần thông, ánh sáng rực rỡ, cùng ở một nơi với Phật A-di-đà và các thanh văn. Cõi nước của Như Lai, Ứng Cúng, Chính Biến Tri ấy tên là Thanh Thái. Vua nước ấy ở trong tòa thành, ngang dọc mỗi bề dài mười nghìn do-tuần, trong thành ấy có rất nhiều người dòng Sát-đế-lợi. Cha của Phật A-di-đà là Chuyển luân thánh vương Nguyệt Thượng, mẹ Ngài tên Thù Thắng Diệu Nhan, con tên Nguyệt Minh, đệ tử hầu hạ tên Vô Cấu Xưng, đệ tử trí tuệ tên Hiền Quang, đệ tử thần túc tinh cần tên Đại Hóa. Bấy giờ, ma vương tên Vô Thắng, Đề-bà-đạt-đa tên Tịch Tĩnh”.
Kinh Vô lượng thọ cũng ghi: “Phật bảo ngài Di-lặc:
- Giả sử thế giới tam thiên đại thiên bị nạn lửa dữ thiêu đốt, nhờ niệm danh hiệu Phật A-di-đà, cho nên muốn đi vào trong đó cũng không có gì khó”.
Kinh Phật A-di-đà ghi: “Phật bảo các thầy tì-kheo:
- Vua A-xà-thế ấy và năm trăm người con của các trưởng giả trong vô số kiếp về sau đều sẽ làm Phật như Phật A-di-đà. Vua A-xà-thế ấy và năm trăm người con của các trưởng giả trụ trong Bồ-tát đạo đến nay đã vô số kiếp, [05a] mỗi người đều đã cúng dường bốn trăm ức Phật, nay lại đến cúng dường Ta. Vua A-xà-thế ấy và năm trăm người con của các trưởng giả vào thời Phật Ca-diếp đều là đệ tử của Ta, nay lại gặp nhau ở trong hội này”.
I.1.5. Niệm Phật Di-lặc
Kinh Di-lặc bồ-tát sở vấn bản nguyện ghi: “A-nan bạch Phật:
- Ngài Di-lặc chứng Pháp nhẫn lâu đến như thế, tại sao chẳng mau đến đạo Vô thượng bồ-đề thành bậc Tối Chính Giác?
Đức Phật bảo A-nan:
- Bồ-tát ấy vì bốn việc nên không giữ ngôi Chính giác. Đó là tịnh hóa cõi nước, hộ trì cõi nước, tịnh hóa tất cả và hộ trì tất cả. Thuở xưa, lúc cầu làm Phật, bồ-tát Di-lặc vì bốn việc ấy nên không giữ quả vị Phật. Xưa kia, lúc cầu làm Phật, Ta cũng có bốn việc này. Ngài Di-lặc phát tâm Bồ-đề trước Ta ba mươi hai kiếp. Tuy vậy, trong kiếp Hiền này, nhờ rất tinh tiến, Ta vượt qua chín kiếp, chứng được đạo Vô thượng chính chân, thành bậc Tối Chính Giác. Nhờ mười việc, nên Ta mau chóng trở thành bậc Tối Chính Giác. Đó là:
1. Tất cả mọi thứ Ta đều không tiếc nuối.
2. Không tiếc nuối vợ.
3. Không tiếc nuối con cái.
4. Không tiếc nuối tay chân.
6. Không tiếc nuối đất nước.
7. Không tiếc nuối của cải, châu báu.
8. Không tiếc nuối tủy, não.
9. Không tiếc nuối máu, thịt.
10. Không tiếc nuối mạng sống”.
Hỏi: Phàm phu tại gia xuất gia ở trong cõi Dục phải thực hành nghiệp thiện gì để được quả báo sinh lên trời Đâu-suất trong cõi Dục?.
Đáp: Kinh Vị tằng hữu ghi: “Thập thiện hạ phẩm thì trong một niệm, thập thiện trung phẩm thì trong khoảng một bữa ăn, thập thiện thượng phẩm thì từ sáng đến trưa; tâm nhớ nghĩ hạnh thập thiện và dừng mười việc ác thì được vãng sinh. Do đó, loài dã can khởi tâm nhớ nghĩ thập thiện trong bảy ngày không ăn, đã sinh lên trời Đâu-suất”.
Kinh Thượng sinh ghi: “Sau khi Ta diệt độ, tứ chúng[32] và bát bộ[33] muốn sinh lên tầng trời thứ tư, phải trong một ngày cho đến bảy ngày luôn luôn nhớ nghĩ cõi trời ấy và giữ gìn giới cấm của Phật chế, tư duy về thập thiện và thực hành thập thiện đạo, rồi hồi hướng công đức ấy, nguyện được sinh trước mặt Phật Di-lặc. Thực hành như thế, sẽ được vãng sinh như nguyện”.
Bảy ngày tức là thời gian ngắn còn cảm được quả báo ở cõi trời kia, huống gì cả đời tu mà chẳng đạt được sao?
Kinh Thượng sinh ghi: “Nếu ai lễ kính Phật Di-lặc thì trừ được tội sinh tử trong trăm ức kiếp, cho đến đời vị lai được gặp Phật Di-lặc nơi cội cây long hoa”. Kinh cũng ghi: “Sau khi Ta diệt độ, nếu bốn chúng và tám bộ nghe danh hiệu bồ-tát ấy mà lễ bái, khi qua đời sẽ sinh lên cõi trời Đâu-suất. [05b] Nếu người nam hay nữ phạm các cấm giới và tạo các nghiệp ác, nghe được danh hiệu Đại Từ của bồ-tát ấy, thành tâm sám hối tất cả nghiệp ác, thì tâm chóng được thanh tịnh. Nếu có ai qui y bồ-tát Di-lặc, người ấy được bất thoái chuyển, đến khi bồ-tát Di-lặc thành Phật, người thấy ánh sáng của Ngài liền được thụ ký.
Sau khi Phật diệt độ, nếu ai siêng năng tu tập các công đức, oai nghi không thiếu, quét dọn và tô đắp tháp Phật, dâng hương hoa cúng dường, thực hành các tam-muội, đọc tụng kinh điển, người như thế chưa trừ sạch phiền não như người đã chứng lục thông, phải  nên tập trung tâm ý quán tưởng hình tượng và xưng danh hiệu Phật Di-lặc. Nếu thụ giới bát quan trai và tu các tịnh nghiệp chỉ trong một niệm, khi qua đời liền được vãng sinh trên đài hoa sen ở trời Đâu-suất, đúng lúc sẽ thấy ánh sáng từ tướng bạch hào của Phật phóng ra, liền vượt thoát khỏi tội sinh tử trong chín mươi ức kiếp, tùy theo duyên lành đời trước, sẽ được nghe Phật giảng diệu pháp, nhờ đó được giai vị Bất thoái”.
Kinh Tăng nhất a-hàm ghi: “Chúng sinh nào ba nghiệp tạo ác, khi lâm chung nhờ nghĩ đến công đức Như Lai, chắc chắn sẽ lìa xa đường ác, được sinh lên trời. Giả sử có người cực ác, nhờ niệm Phật, người ấy cũng được sinh lên trời”.
Kinh Đại tập ghi: “Nếu ai tu tâm từ, khi bỏ thân mạng, sẽ thấy chư Phật trong mười phương đưa tay xoa đầu mình. Nhờ tay Phật chạm vào nên tâm người ấy an lạc, liền được vãng sinh về cõi Phật thanh tịnh”.
Kinh Phổ hiền quán ghi: “Nếu có người ngày đêm sáu thời lễ bái chư Phật trong mười phương, tụng kinh điển Đại thừa, suy nghĩ ‘đệ nhất nghĩa không’ sâu xa, trong khoảnh khắc liền trừ được tội sinh tử trong vô số kiếp. Người thực hành pháp này đúng là Phật tử, được sinh từ chỗ chư Phật, chư Phật và bồ-tát trong mười phương đều làm thầy truyền giới cho người này. Đó là người đầy đủ giới bồ-tát, không cần yết-ma mà tự nhiên thành tựu, xứng đáng nhận sự cúng dường của tất cả trời và người”.
Kinh Pháp hoa ghi: “Nếu có người thụ trì, đọc tụng kinh Đại thừa, nhớ nghĩ và hiểu đúng nghĩa lý kinh, người ấy lúc qua đời sẽ được nghìn vị Phật đưa tay tiếp dẫn, khiến không sợ hãi, không đọa đường ác, liền sinh về chỗ bồ-tát Di-lặc trên cõi trời Đâu-suất. Bồ-tát Di-lặc có ba mươi hai tướng quí, được các bồ-tát vây quanh, có trăm nghìn ức quyến thuộc thiên nữ. Sinh trong đó có những công đức và lợi ích như thế, do đó, người hiểu biết phải nên nhất tâm tự biên chép, hoặc bảo người khác biên chép, thụ trì, đọc tụng, nhớ nghĩ đúng đắn và tu hành đúng như lời dạy”.
Luận Đại trí độ ghi: “Nếu thiện nam tử nào có thể thực hành bát-nhã ba-la-mật sâu xa này,[05c] nên biết, người ấy đến từ cõi người hoặc cõi trời Đâu-suất. Vì sao? Vì trong ba đường ác có nhiều tội khổ nên không thể thực hành được pháp Bát-nhã sâu xa; các trời Dục giới tham đắm ngũ dục[34] tịnh diệu, tâm thức tối tăm nên không thể thực hành được pháp bát-nhã; các trời Sắc giới vì đắm sâu trong thiền định nên không thực hành được pháp bát-nhã; các trời Vô sắc giới vì không có hình tướng nên không thực hành  được pháp bát-nhã; cõi trời Đâu-suất nhờ thường có bồ-tát Nhất Sinh Bổ Xứ, nên các trời thường nghe giảng bát-nhã, do đó, dù có nhiều ngũ dục, song sức Phật pháp mạnh hơn. Bởi thế, nên hai nơi ấy thù thắng hơn hết. Nếu người từ cõi Phật khác sinh đến nơi này thì lại càng thù thắng hơn”.
Trong kinh Xử thai, Đức Phật nói cho Di-lặc nghe bài kệ:
Người ba hội[35] của ông,
Trước do Ta hóa độ,
Chín mươi sáu ức người,
Thụ năm giới của Ta,
Kế là thụ tam qui,
Chín mươi hai ức người,
Một lần xưng mô Phật,
Đều được thành Phật đạo.
Kinh Xử xứ ghi: “Đức Phật nói:
- Bồ-tát Di-lặc không hạ sinh bởi bốn lý do sau:
1. Phúc đức đang ứng ở cõi kia.
2. Con người ở cõi này tâm ý thô kém không thể thụ trì kinh.
3. Công đức chưa viên mãn.
4. Thế gian vẫn có người thuyết giảng được kinh Phật.
Trong tương lai, sau hơn năm mươi ức bảy nghìn sáu mươi vạn năm nữa, bồ-tát Di-lặc sẽ hạ sinh. Vào thời Phật Di-lặc, con người nhìn thấy xa đến bốn nghìn dặm. Con người được phúc báo như thế là nhờ mười nhân duyên đời trước:
1. Không che ánh sáng của người.
2. Không làm tổn hại mắt người.
3. Không che mắt người.
4. Không che giấu việc tốt lành của người.
5. Không nhìn cảnh sát sinh.
6. Không nhìn việc trộm cắp.
7. Không nhìn việc tà dâm.
8. Không nhìn điều riêng tư và khuyết điểm của người.
9. Không nhìn các việc ác.
10. Thắp hương đốt đèn ở chùa thờ Phật”.
Kinh Phật thuyết Di-lặc lai thời ghi: “Lúc Phật Di-lặc chưa ra đời, cỏ cây trên mặt đất và trên núi cõi Diêm-phù-đề đều bị cháy sạch. Hiện nay, mặt đất cõi Diêm-phù-đề có chu vi sáu mươi vạn dặm. Khi Phật Di-lặc ra đời, cõi ấy có chiều đông tây dài bốn mươi vạn dặm, chiều nam bắc rộng ba mươi hai vạn dặm, mặt đất mọc năm thứ quả, không có gò, núi, hang, khe mà bằng phẳng như mặt đá mài, cây cối cao lớn, con người ít tham sân si, dân sống thành nhiều xóm làng. Bấy giờ, có tòa thành tên Phiếm-la-na-di; trong thành có bà-la-môn tên Tu-phạm là cha của bồ-tát Di-lặc, mẹ bồ-tát tên Ma-ha Việt-đề. [06a] Ngài Di-lặc có đầy đủ tướng hảo, cao mười sáu trượng, mắt nhìn thấy xa vạn dặm, ánh sáng quanh đầu chiếu xa bốn nghìn dặm. Bồ-tát Di-lặc đắc đạo khi ngồi ở gốc cây long hoa. Cây này cao ba mươi dặm, tàn lá rộng bốn mươi dặm”. Kinh Đại thành Phật chép: “Cành hoa của cây ấy giống như đầu rồng, nên gọi là cây long hoa. Cũng có truyện khác ghi rằng cây ấy lấy giống từ long cung, nên gọi là cây long hoa. Bồ-tát Di-lặc đắc đạo vào ngày 8 tháng 4, lúc sao Mai mọc. Nhưng sau sáu mươi ức năm nữa, lúc tuổi thọ con người sáu mươi vạn tuổi, Phật Di-lặc mới hạ sinh”.

_________________________________
Tri Âm Quán_Thị Trấn Chũ_Lục Ngạn_Bắc Giang
http://quoccuonglucngan.blogspot.com/
Về Đầu Trang Go down
https://triamquan.forumvi.com/
Tri Âm Quán
Thành Viên Tích Cực
Thành Viên Tích Cực
Tri Âm Quán


Tổng số bài gửi : 6340
Reputation : 2
Join date : 31/07/2013
Đến từ : Thị Trấn Chũ

Thiện ác nghiệp báo  Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Thiện ác nghiệp báo    Thiện ác nghiệp báo  EmptySun Oct 06, 2013 7:15 pm

Truyện Tây quốc hành của Vương Huyền Sách ghi: “Năm Hiển Khánh 2 đời Đường, vua ban sắc sai các ông Vương Huyền Sách v.v… đưa ca-sa sang Tây quốc, đến thôn Pha-la-độ nằm phía tây nam nước Nê-bà-la. Phía đông thôn ấy là một khu trũng có hồ Thủy Hỏa, hễ lấy lửa soi vào hồ ấy thì có ngọn lửa bốc lên cháy trên mặt ao, lấy nước tưới lên để dập lửa thì nó càng cháy mạnh thêm. Các sứ thần nhà Hán từng ở chỗ ấy, treo nồi phía trên ngọn lửa ao để nấu cơm. Sứ thần hỏi vua nước ấy. Nhà vua đáp: ‘Trẫm từng dùng sào xăm xuống ao ấy, chạm phải một cái rương vàng, sai người kéo rương lên, nhưng càng kéo thì nó càng chìm sâu. Tương truyền rằng rương ấy chứa chiếc thiên quan[36] của Phật Di-lặc đang được một con rồng lửa canh giữ và lửa trong ao ấy chính là lửa của con rồng”.
Luận Đại trí độ ghi: “Lúc còn tại gia, bồ-tát Di-lặc tên Bà-bạt-lê, có ba tướng quí: tướng lông trắng giữa hai chặng mày; tướng lưỡi che kín mặt; tướng âm tàng[37]. Những tướng ấy không phải hễ làm bồ-tát thì có được”.
Luận Bà-sa[38], bản tân dịch ghi: “Nghe nói bấy giờ tôn giả Ca-diếp-ba vào thành Vương Xá khất thực lần cuối. Sau khi ăn xong, tôn giả lên núi Kê Túc. Núi ấy có ba ngọn, hình dáng giống như bàn chân gà ngửa lên. Tôn giả vào núi ngồi kết-già thành tâm phát nguyện: ‘Nguyện thân tôi cùng y, bát và gậy trụ mãi, không hư hoại suốt năm mươi bảy câu-chi sáu mươi trăm nghìn năm, đến khi Từ Thị Như Lai Ứng Chính Đẳng Giác xuất hiện, tôi sẽ theo hầu Ngài’. Lúc tôn giả phát nguyện xong, liền vào niết-bàn, ba ngọn núi ấy bèn hợp lại thành một ngọn che kín; thế là, tôn giả nghiễm nhiên trụ trong đó. Đến lúc Phật Từ Thị ra đời, Ngài sẽ dẫn vô lượng trời và người lên núi ấy và bảo mọi người: ‘Các ông muốn thấy đại đệ tử công đức đầu-đà đệ nhất của Phật Thích-ca Mâu-ni không?’. Mọi người đều đáp: ‘Chúng con muốn thấy’. Từ Thị Như Lai liền đưa tay phải vỗ vào đỉnh núi Kê Túc. [06b] Ngay lúc ấy ngọn núi tách ra lại thành ba ngọn, tôn giả Ca-diếp-ba mang y, bát và gậy từ trong bước ra, bay lên không trung. Vô lượng trời, người nhìn thấy sự thần biến ấy đều khen là việc chưa từng có, tâm mọi người trở nên nhu hòa. Lúc ấy, Từ Thị Thế Tôn nói pháp, tất cả đều được kiến đế[39]”.
Nếu không có sự giữ hóa thân, tại sao có việc như thế? Cho nên, có thuyết nói rằng có việc giữ  hóa thân.
Hỏi: Nếu như thế, tại sao Đức Thế Tôn không giữ hóa thân để sau khi niết-bàn có thể tùy ý duy trì việc thuyết pháp?
Đáp: Bởi những việc nên làm Phật đã làm xong cả, nghĩa là những người cần độ thì Phật đều hóa độ xong, những người chưa được độ thì các thánh đệ tử sẽ độ. Do đó, có thuyết nói không có sự giữ hóa thân.
Hỏi: Nếu như thế, tại sao có việc của tôn giả Ca-diếp-ba?
Đáp: Thân tôn giả được các thiên thần tôn kính ngài giữ gìn.
Có thuyết nói: bấy giờ tôn giả Ca-diếp-ba chưa vào niết-bàn mà chờ đến thời Phật Từ Thị mới diệt độ.
Điều này không hợp lý. Thà nên nói không có việc giữ  thân giáo hóa, chứ không nói tôn giả ấy giữ im lặng suông trong một thời gian dài. Bởi nói như thế tức là có việc giữ thân giáo hóa (tức là vô lý). Do đó, tôn giả Đại Ca-diếp-ba đã vào niết-bàn.
Hàng phàm phu ở cõi Ta-bà tâm lực yếu kém, làm nhiều việc ác, đầu tiên học pháp này, sợ sẽ thoái tâm, cho nên cần thường xuyên phát đại nguyện giữ hạnh này đến khi qua đời, tâm không bị phiền não làm chướng ngại, tùy các căn lành đã gieo trồng mà nguyện cùng chúng sinh tự tại vãng sinh, làm nội chúng[40] của Phật Di-lặc, đến trước Phật tùy niệm tu học chứng quả Bất thoái, không nguyện vãng sinh vào ngoại chúng[41] vì sợ sẽ mê đắm ngũ dục, không được giải thoát.
Luận Đại trí độ ghi: “Có người tu một ít phúc nghiệp, nghe nói có cõi phúc, nên nguyện sẽ vãng sinh. Đến khi qua đời, người ấy được sinh vào cõi kia”.
Luận Đại trang nghiêm ghi: “Sinh về cõi Phật là việc lớn, do đó,  tu tập một mình không thể thành tựu được công đức, mà cần phải nhờ sức nguyện. Như con bò tuy có sức mạnh kéo được xe, nhưng cần phải có người đánh xe mới đi đến nơi. Cho nên, cõi Phật thanh tịnh nhờ nguyện dẫn mới thành tựu. Nhờ sức nguyện nên phúc đức tăng trưởng, không hư, không mất, thường gặp Phật”.
Luận Thập trụ ghi: “Người dùng ngón tay nhấc đại thiên thế giới đưa lên  hư không thì cũng không đáng xem là việc khó. Nếu ai phát nguyện rằng mình muốn làm Phật thì người ấy mới là người hiếm có. Vì sao? Vì tâm người đời yếu kém, không có chí lớn”.
Luận Phát tâm bồ-đề có nêu mười đại nguyện thường phải tu hành:
1. Nguyện đời trước và đời này con gieo trồng được những căn lành gì đều bố thí cho tất cả chúng sinh, hồi hướng công đức ấy về Phật đạo, khiến điều nguyện này của con tăng trưởng trong từng niệm, [06c] đời đời hễ sinh ở đâu cũng không quên mất, thường được đà-la-ni bảo vệ.
2. Nguyện con nhờ căn lành này, hễ sinh ở đâu đều được gặp Phật, và thường được cúng dường Phật, không sinh trong đất nước không có Phật.
3. Nguyện con được gần gũi chư Phật, theo hầu bên cạnh như bóng theo hình.
4. Nguyện con đã được gần gũi chư Phật, lại còn được nghe các Ngài giảng pháp, khiến con thành tựu được năm thần thông.
5. Nguyện con thông hiểu thế đế giả danh lưu bố[42], đạt đệ nhất nghĩa, chứng được trí chính pháp.
6. Nguyện con dùng tâm không nhàm chán mà giảng giải, chỉ dạy chúng sinh những điều lợi ích và an vui, khiến họ đều hiểu biết.
7. Nguyện con nhờ sức thần của Phật mà đến được tất cả thế giới trong mười phương để cúng dường chư Phật, nghe giảng chính pháp và cứu giúp khắp các chúng sinh.
8. Nguyện con thuận theo pháp luân thanh tịnh, tất cả chúng sinh nghe pháp của con và nghe tên con đều được lìa bỏ tất cả phiền não.
9. Nguyện con đi theo chúng sinh để giúp đỡ và cho họ sự an lạc, xả thân mạng, của cải để gánh vác chính pháp, trừ những việc không có lợi ích.
10. Nguyện con tuy tu hành chính pháp, nhưng tâm không thấy có tu hành mà tu hành tất cả. Vì giáo hoá chúng sinh, con nguyện không bỏ điều nguyện chân chính.
Nguyện con dùng mười đại nguyện này phủ khắp cõi chúng sinh, gom giữ tất cả vô số điều nguyện. Nếu cõi chúng sinh không còn ai thì nguyện của con mới hết. Nhưng cõi chúng sinh không thể tận cùng, nên đại nguyện này của con cũng không thể hết.
Con lại nguyện độ khắp các chúng sinh trong vô biên thế giới, những căn lành tu tập được, con đều hồi hướng về Vô thượng chính giác, được sinh vào thời Phật Di-lặc, nghe pháp thanh tịnh, ngộ Vô sinh nhẫn. Nguyện đem tất cả căn lành tu tập được khi đi, đứng, ngồi, nằm trong cả đời, cùng pháp giới chúng sinh hồi hướng về cõi Phật Di-lặc, ở trước Ngài thành tựu quả Bất thoái.
(Ngoài ra, phương pháp tu niệm và quán cầu thấy các Đức Phật A-di-đà, Di-lặc v.v… được trình bày đầy đủ trong bộ Thiền môn gồm mười quyển. Ở đây chỉ trích nêu kinh văn để dạy việc vãng sinh).
Pháp sư Huyền Trang nói:
- Người xuất gia và tại gia ở Ấn Độ đều tu tịnh nghiệp Di-lặc, bởi vì cùng ở trong Dục giới thì tu hành dễ thành tựu. Các vị tăng Đại thừa và Tiểu thừa đều chấp nhận pháp này. Còn Tịnh độ A-di-đà, chỉ sợ hàng phàm phu dơ uế, nhiều phiền não tu hành khó thành tựu được.
Theo kinh luận cựu dịch, bồ-tát từ Thập địa trở lên, tùy phần thấy được Báo Phật Tịnh độ, còn theo ý kinh luận tân dịch thì bồ-tát Tam địa thấy được Báo Phật Tịnh độ. [07a] Thế thì, lẽ nào hàng phàm phu kém cỏi lại được vãng sinh Tịnh độ A-di-đà? Đấy là ý vãng sinh vào lúc khác, chưa thể chắc chắn được. Cho nên, hàng Đại thừa ở Ấn Độ chấp nhận pháp tu này (Tịnh độ A-di-đà), nhưng hàng Tiểu thừa không chấp nhận. Vì thế, cả đời pháp sư thường xuyên tu tịnh nghiệp Di-lặc, lúc lâm chung phát nguyện sinh lên trời Đâu-suất diện kiến Phật Di-lặc. Bấy giờ, ngài thỉnh đại chúng cùng xướng kệ:
Nam-mô Di-lặc Như Lai,
Ứng chính đẳng giác.
Nguyện cùng chúng sinh,
Sớm hầu bên Phật.
Nam-mô Di-lặc Như Lai,
Trụ chúng nội điện,
Nguyện bỏ thân rồi,
Hẳn sinh trong đó.
I.1.6. Niệm Phật tam-muội
Phàm phu thường nghĩ tưởng điên đảo, theo ý mình chấp trước sai lầm, lại bị sáu trần quấy phá, khiến bị luân chuyển trong năm đường. Thật bởi sợi dây nghiệp trói buộc, nên khó thoát khỏi quả báo khổ. Vì thế, Đức Phật khởi lòng từ thương xót chúng sinh, tùy căn cơ mà tiếp dẫn, trình bày cõi Tịnh vi diệu, khuyên dạy mọi người quán tướng thù thắng của Như Lai, tha thiết thực hành không biếng nhác, khởi tâm ưa thích kính ngưỡng, quán từ trên xuống và từ dưới lên, tùy tâm mà quán cảnh đầy đủ hay vắn tắt, khiến hiểu được rằng thiện ác do tâm; nếu thiện nghiệp thành, thì sẽ có ngày được thấy Phật, lúc qua đời sẽ vui mừng tùy niệm thụ sinh. Nếu chúng sinh từ trước không tu phúc nghiệp này, khi vô thường chợt đến, sẽ hốt hoảng sợ hãi, nẻo tâm mênh mang, tịnh nghiệp chẳng có, không biết nương gá vào đâu, nhắm mắt rồi, phải theo nghiệp chịu khổ nạn. Vì thế, gây tội và làm phúc tuy cùng là mưu tính vì bản thân, nhưng chẳng bằng tu thiện. Bởi tu thiện thì được gặp Phật, làm ác thì phải chịu khổ. Do đó, kinh Hoa nghiêm có bài kệ:
Thà chịu tất cả khổ,
Mà được nghe tiếng Phật,
Chớ không ham vui gì,
Để chẳng nghe tên Phật.
Sở dĩ vô lượng kiếp,
Chịu các khổ não này,
Lưu chuyển trong sinh tử,
Bởi chẳng nghe tên Phật.
Kinh Vô lượng thọ ghi: “Giả sử tam thiên đại thiên thế giới bị nạn lửa thiêu đốt, nhưng phải ở trong đó để được nghe danh hiệu Phật A-di-đà thì chưa đáng gọi là nạn”.
Kinh Quán Phật tam-muội ghi: “Bấy giờ, bồ-tát Di-lặc bạch Phật:
- Bạch Đức Thế Tôn, cúi xin Thế Tôn đại từ đại bi thương xót tất cả chúng sinh. Trong đời vị lai có nhiều chúng sinh tạo nghiệp bất thiện mà Phật không còn trụ thế thì phải nương nhờ vào đâu để trừ tội lỗi?
[07b] Đức Phật bảo Di-lặc:
- Sau khi Như Lai diệt độ, có nhiều chúng sinh vì không được gặp Phật mà gây các nghiệp tội. Những người ấy phải quán tưởng tượng Phật. Quán tưởng tượng Phật không khác gì quán tưởng thân Ta.
Khi Phật nói những lời ấy, các Đức Phật ở mười phương từ trên không trung đều lên tiếng khen:
- Quí thay! Nay đã đúng lúc. Chớ có nghi ngờ!
Phật bảo bồ-tát Di-lặc:
- Nay Như Lai sẽ nói cách trừ tội cho những chúng sinh chịu ngũ khổ[43], các tì-kheo phạm giới cấm, người làm ác, kẻ phạm tội ngũ nghịch, phỉ báng Phật, làm mười sáu thứ ác luật nghi trong đời vị lai.
Bấy giờ, A-nan bạch:
- Thế Tôn nói cách trừ tội như thế nào?
Phật bảo A-nan:
- Nếu Ta còn tại thế, qui y Ta gọi là qui y Phật, là qui y Pháp, là qui y Tăng. Muốn quán tưởng tượng Phật, trước hết vào trong tháp Phật, dùng bùn thơm tốt và đất sạch xoa khắp mặt đất cho sạch. Sau đó, tùy khả năng mà thắp hương và rải hoa cúng dường tượng Phật, trình bày tội lỗi của mình rồi, lễ Phật sám hối. Điều phục tâm như thế từ một đến bảy ngày, lại vào trong chúng để quét dọn phân rác trong già-lam, sám hối chúng tăng, đỉnh lễ chúng tăng. Lại trải qua bảy ngày cúng dường như thế, tâm không nhàm mỏi. Nếu là người xuất gia, phải hiếu dưỡng cha mẹ, cung kính sư trưởng, giữ tâm nhu hòa. Nếu tâm không nhu hòa thì phải chế phục cho điều thuận, rồi ở chỗ yên vắng, đốt các thứ hương thơm, lễ Phật Thích-ca-văn và nói: ‘Nam-mô Đại Đức, Ứng Chính Biến Tri, Đại Bi Thế Tôn, Đại Hòa Thượng của con! Xin Ngài hãy  lòng từ che chở đệ tử’. Nói xong, khóc lóc gieo năm vóc sát đất lễ tượng Phật. Tiếp đó, đứng dậy, sửa y phục ngay ngắn, ngồi kết-già, tập trung tư tưởng. Tùy loại chúng sinh nào (đã nói ở trước) mà buộc tâm ở chót mũi, hay trên trán, hoặc ngón chân v.v… Tùy ý mà tập trung tư tưởng theo các cách như thế, tâm chuyên chú vào một chỗ, chớ để phân tán khiến tâm dao động. Nếu tâm dao động thì đưa lưỡi lên vòm họng, ngậm miệng, mở mắt, chắp tay, ngồi ngay ngắn. Thực hiện như thế từ một đến bảy ngày khiến thân an ổn rồi, mới quán tưởng tượng Phật.

_________________________________
Tri Âm Quán_Thị Trấn Chũ_Lục Ngạn_Bắc Giang
http://quoccuonglucngan.blogspot.com/
Về Đầu Trang Go down
https://triamquan.forumvi.com/
Tri Âm Quán
Thành Viên Tích Cực
Thành Viên Tích Cực
Tri Âm Quán


Tổng số bài gửi : 6340
Reputation : 2
Join date : 31/07/2013
Đến từ : Thị Trấn Chũ

Thiện ác nghiệp báo  Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Thiện ác nghiệp báo    Thiện ác nghiệp báo  EmptySun Oct 06, 2013 7:16 pm

Nếu thích quán ngược thì quán từ ngón chân lần lượt lên phía trên. Trước hết, quán tưởng ngón chân tượng Phật, chú tâm vào năm ngón chân suốt một ngày đến bảy ngày, khiến cho dù mở hay nhắm mắt đều thấy được rõ ràng ngón chân tượng Phật. Kế đó, quán tưởng hai tay tượng Phật, rồi lần lượt quán lên đến nhục kế. Tiếp đó, lại quán tưởng mặt tượng. [07c] Nếu không thấy rõ thì sám hối lại và tự phải nỗ lực thêm nhiều. Nhờ giữ giới thanh tịnh, nên thấy rõ ràng mặt tượng Phật sáng như gương vàng ròng. Sau đó, quán tưởng tướng lông trắng giữa hai chặng mày giống như ngọc, như pha-lê, xoắn tròn theo chiều bên phải. Khi thấy được tướng này thì sẽ thấy đôi mắt và chân mày tượng Phật giống như tranh do họa sĩ trời vẽ. Quán tưởng thấy như thế rồi, tiếp theo là quán tưởng ánh sáng trên đỉnh đầu tượng Phật thật rõ ràng. Quán tưởng các tướng như thế gọi là quán ngược.
Nếu thích quán xuôi thì quán từ các lọn tóc xoăn tròn như trôn ốc trên đầu Phật tựa như những cuộn tơ đen cuộn tròn theo chiều bên phải. Kế đó, quán tưởng gương mặt tượng, rồi quán tưởng thân, dần dần quán tưởng xuống chân. Quán đi quán lại như thế mười bốn lần, quán kỹ đến lúc thấy hết sức rõ ràng toàn thân tượng. Sau khi quán tưởng hoàn toàn thành tựu, dù nhập định hay xuất định, hành giả thường thấy tượng Phật đứng trước mặt mình. Khi thấy rõ ràng một tượng rồi, lại quán tưởng cho thấy được hai tượng, tiếp theo là ba tượng …, cho đến mười tượng; tất cả đều quán tưởng thấy cho rõ ràng. Khi thấy rõ được mười tượng rồi, lại quán tưởng tượng Phật đầy khắp cả một phòng, không còn chỗ trống. Quán tưởng tượng Phật đầy khắp một phòng rồi, lại càng tinh tiến thêm, đốt hương, rải hoa, quét tháp, dọn nền tháp, cúng dường việc tắm rửa của chư tăng. Sau khi cúng dường chư tăng và cha mẹ xong, phải phát nguyện: ‘Nay ta quán tưởng tượng Phật, nguyện không đem công đức này cầu làm người, hoặc trời, hoặc thanh văn, duyên giác, mà chỉ cầu đạo Bồ-đề’.
Phát nguyện như thế xong, lại cầu mong pháp Đại thừa, thực hành sám hối, khuyến thỉnh chư Phật, tùy hỉ và hồi hướng. Sau đó, ngồi ngay ngắn, giữ niệm hiện tiền, quán cảnh giới Phật dần dần rộng lớn đến cả một tăng phường đầy khắp tượng Phật. Thấy thân Phật vàng cao một trượng sáu, có hoa sen đỡ chân, hào quang quanh đầu rộng một tầm, toàn thân cũng tỏa hào quang. Lại quán các Hóa Phật và các thị giả của Phật đều có hào quang rực rỡ. Quán tưởng tượng Phật đầy khắp một tăng phường xong, lại quán tưởng tượng Phật đầy khắp một khoảnh…, một trăm khoảnh, một trăm do-tuần, tất cả tượng Phật đều có tướng hảo sáng rỡ. Quán tưởng như thế thành tựu rồi, lại quán tưởng tượng Phật đầy khắp cõi Diêm-phù-đề, rồi quán đến ba thiên hạ[44] còn lại đều đầy khắp tượng Phật. Khi ấy, thân tâm hoan hỉ, càng tinh tiến thêm nhiều, phải cung kính đỉnh lễ mười hai thể loại kinh, thành tâm gieo năm vóc sát đất sám hối trước kinh Bát-nhã ba-la-mật.
Sau khi thành tựu phép quán tưởng, hành giả nhắm mắt, chắp tay, ngồi ngay ngắn, nhập định, quán tưởng xa rộng hơn, quán tưởng tất cả tượng Phật đầy khắp trong mười phương thế giới đều là vàng ròng, các lỗ chân lông trên toàn thân Phật đều phóng ánh sáng, mỗi tia sáng có vô số màu châu báu, trong mỗi một màu lại có vô lượng màu sặc sỡ, cảnh giới vi diệu tự hiện ra. Phép quán tưởng này gọi là quán tượng đứng. Người thực hành  phép quán này trừ được tội sinh tử trong sáu mươi ức kiếp. Đó cũng gọi là quán Phật. [08a]Người ấy đời vị lai sẽ gặp được một nghìn vị Phật kiếp Hiền làm thầy mình, được lần lượt xuất gia trong Phật pháp, nghe Phật giảng pháp, ghi nhớ không quên. Người ấy được Phật Quang Minh ở kiếp Tinh Tú thời vị lai hiện trước mặt thụ kí cho. Người quán tưởng với tâm thô như thế còn được vô lượng công đức như vậy, huống gì chú tâm quán ánh sáng của sợi lông trắng giữa hai chặng mày Đức Phật!
Bấy giờ, Đức Phật lại vì chúng sinh mà giảng phép quán tượng ngồi:
- Phải quán tưởng tượng Phật ngồi trên tòa hoa báu. Khi Phật ngồi, mặt đất tự nhiên hiện ra luồng ánh sáng trắng tinh khiết và khả ái như ánh sáng ngọc lưu li, trong các tia sáng ấy có trăm ức bồ-tát trắng như tuyết. Quán tưởng từ mỗi lỗ chân lông của tượng Phật xuất hiện một vị bồ-tát, mỗi lỗ chân lông trên thân bồ-tát phóng ra một luồng ánh sáng màu vàng rất mạnh chiếu khắp nơi, khiến các thế giới trong mười phương đều sáng rực một màu vàng. Nếu có chúng sinh nào quán tưởng tượng Phật ngồi thì người ấy trừ được tội sinh tử trong năm trăm ức ức kiếp, sẽ gặp một nghìn vị Phật trong kiếp Hiền và mười vạn Phật trong kiếp Tinh Tú, thụ trì lời dạy của từng Đức Phật, thân tâm an ổn, không tán loạn, được từng Đức Phật đến trước mặt thụ kí thành Phật sau một số kiếp nhất định nữa.
Khi ấy, Đức Phật bảo A-nan:
- Nếu có chúng sinh nào quán tưởng tượng Phật ngồi rồi, lại nên quán tưởng tượng Phật đi. Hành giả quán thấy tượng Phật đi đầy trong mười phương thế giới, thấy từng tượng Phật trong không trung, hoặc trên mặt đất, từ tòa đứng dậy. Khi mỗi tượng Phật đứng dậy, từ mỗi một trong số năm trăm ức tòa hoa báu, đều xuất hiện vô số tia sáng; trong mỗi tia sáng, tùy tâm tưởng mà có vô số vị Hóa Phật; mỗi vị Hóa Phật đều phóng ánh sáng màu vàng chiếu vào thân hành giả. Bấy giờ, hành giả nhập định, tự thấy ba mươi sáu vật bất tịnh trong thân mình lộ ra. Khi các vật bất tịnh hiện ra thì nên mau chóng diệt trừ. Phải quán tưởng các thứ bất tịnh này do tham ái sinh ra, là giả dối, không thật. Dùng phép quán này khiến các vật bất tịnh biến thành ngọc trắng, tự thấy thân mình như bình ngọc trắng, trong ngoài đều rỗng rang. Khi thực hiện phép quán này, nên uống thuốc và sữa tinh chớ để bụng trống. Lại thỉnh các tượng Phật dùng tay xoa đầu, phóng ánh sáng rực rỡ chiếu thân mình. Khi ấy, hành giả tự thấy thân mình có màu như vàng ròng.
Khi thành tựu phép quán này rồi, xuất định, hoan hỉ lễ kính chư Phật, tu các công đức, hồi hướng bồ-đề. Bấy giờ, các Đức Phật, dị khẩu đồng âm[45], giảng pháp cho hành giả nghe. Tuy chưa đắc đạo, nhưng hành giả được thấy Phật, nghe pháp, ghi nhớ hết không quên. Đó là pháp Niệm Phật tam-muội của hàng phàm phu. Khi được tam-muội này, trong khoảng sát-na thường thấy các Đức Phật, qua một ngày một đêm liền thông hiểu hết pháp Đại thừa do các Đức Phật giảng. [08b] Mỗi Đức Phật đều nói lời thụ kí: ‘Ngươi nhờ nhớ tưởng Phật nên đến kiếp Tinh Tú sẽ được thành Phật, có thân tướng và ánh sáng không khác gì Ta’. Khi Phật nói lời ấy xong, tám mươi ức Phật đồng thời phóng ánh sáng, trong ánh sáng ấy có vô lượng Hóa Phật đều nói như thế.
Đức Phật bảo A-nan:
- Muốn thành tựu pháp Niệm Phật tam-muội, phải có năm nhân duyên: trì giới không phạm; không khởi tà kiến; không kiêu mạn; không giận hờn, ganh ghét; tinh tiến mạnh mẽ. Phải thực hành năm việc này như cứu lửa cháy đầu. Bởi niệm Phật giúp tâm không lui sụt, nên phải cúng dường các Đức Phật trong mười phương. Cúng dường như thế nào? Sau khi xuất định, người ấy nên vào trong tháp chiêm bái tượng Phật, tụng trì kinh. Nếu lễ một vị Phật, phải nghĩ rằng: ‘Các Đức Phật Chính Biến Tri có tâm vô ngại. Nay con lễ một vị Phật tức là lễ tất cả các Đức Phật’. Nếu nhớ nghĩ đến một vị Phật thì thấy tất cả các Đức Phật, trước mỗi vị Phật có một hành giả chính là thân mình, lễ sát chân Ngài, dâng hoa cúng dường và nghĩ: ‘Pháp thân chư Phật có công đức vô lượng, không trụ không diệt, mà thường trụ vắng lặng. Nay con kính dâng hoa lên chư Phật, nguyện các Ngài nhận lấy’, lại nghĩ rằng hoa mà mình cầm sinh ra từ cỏ cây, đem hoa này cúng dường có thể được các Đức Phật nghĩ tưởng đến. Phải quán tưởng từ mỗi lỗ chân lông trên thân mình hiện ra vô số mây hoa và khói hương mây hương tỏa khắp mười phương thế giới làm Phật sự, rồi lại hợp thành đài vàng ở trước mặt hành giả. Nếu là phàm phu cúng dường thì tay bưng lư hương và cầm hoa phát nguyện: ‘Nguyện hoa hương này tỏa đầy khắp mười phương thế giới, cúng dường tất cả Phật, Hóa Phật, bồ-tát và vô số thanh văn. Các Ngài nhận lấy mây hoa hương này để làm đài ánh sáng rộng hơn vô số cõi, làm vô lượng Phật sự. Từ mỗi lỗ chân lông đều xuất hiện tràng phan, vô số âm nhạc, y phục đẹp quí, trăm món ăn uống, các thứ cúng dường đều đúng với pháp ở trước’.
Đức Phật bảo A-nan:
- Chúng sinh đời vị lai, ai được môn Niệm Phật tam-muội này, nên bảo người ấy giữ gìn cẩn mật thân, khẩu, ý, đừng khởi tà kiến, đừng sinh lòng kiêu ngạo. Nếu khởi tâm kiêu ngạo và sống bằng các nghề ác, nên biết người ấy là người tăng thượng mạn, phá diệt Phật pháp, khiến chúng sinh khởi tâm bất thiện, phá hòa hợp tăng, làm các việc lạ để mê hoặc mọi người, là bạn của tà ma. Người như thế, tuy có niệm Phật, cũng không được giải thoát; vì tâm kiêu ngạo, người ấy sinh chỗ nào thì thân thể cũng thường nhỏ bé và sinh vào nhà hèn hạ, nghèo túng, chịu vô số ác nghiệp báo. [08c] Những việc xấu như thế, nên tự ngăn ngừa không để phát sinh”.
Có bài tụng rằng:
Pháp thân không hình tướng,
Chí giáo bặt ngữ ngôn,
Tùy cơ mà ứng hiện,
Theo niệm mà lưu truyền,
Thương xót kẻ chìm đắm,
Hoằng dương diệu môn này,
Cảnh tâm cùng cảm ứng,
Cứu giúp kẻ tối tăm.
Nước đủ tám tính chất,
Các hàng cây bảy báu,
Chim lành lượn quanh ao,
Cất vang tiếng vi diệu,
Trống pháp cùng hòa âm,
Gió lành dẫn đưa đường,
Cung kính nghe  diệu ngôn,
Kính học pháp sâu kín,
Rực rỡ thay! Đâu-suất,
Cao xa ấy!Từ Tôn,
Ánh sáng soi cung trời,
Oai chấn chúng sinh giới,
Hoa tiên bay phất phới,
Nơi Điện báu ngập tràn,
Đem phúc đã cúng dường,
Nhuần thấm kẻ cô độc,
Tụ họp nương cõi kia,
Chẳng cô phụ lời nguyện.
Mộng trần đã lắng dịu,
Lại giúp các hữu tình,
Biên chép và lưu truyền,
Dài lâu như trời đất,
Văn từ có thể thiếu,
Thệ tâm nào hư hoại?”.
Quảng An dịch



1] Mười hai thể loại kinh (thập nhị bộ kinh 十二部經; S: dvādaśāṅga-buddha-vacana): mười hai thể loại kinh được phân biệt theo hình thức trình bày và nội dung giáo pháp. Đó là: Khế kinh, Ứng tụng, Kí biệt, Phúng tụng, Tự thuyết, Nhân duyên, Thí dụ, Bản sự, Bản sinh, Hí pháp, Luận nghị.
[2] Li 螭: tên một loài vật tương tự loài rồng, nhưng có sắc vàng.
[3] Long 龍: loài rồng
[4] Mặc gia 墨家: học phái do Mặc tử đề xướng.
[5] Rừng ban mai chuyển màu (thần lâm biến thái 晨林變彩): khi Đức Phật nhập niết-bàn, cả khu rừng ta-la song thụ đều biến thành màu trắng.
[6] Xích Ô 赤烏: niên hiệu của Ngô Tôn Quyền (238-251)
[7] Hiển Khánh 顯慶: niên hiệu của Đường Cao Tông (656- 660) .
[8] Ngũ nhãn 五眼 (S: pañca cakṣūṃṣi): năm con mắt. Đó là nhục nhãn, thiên nhãn, huệ nhãn, pháp nhãn, Phật nhãn.
[9] Tam điểm 三點: ba đặc điểm lý, trí, sự  của pháp thân Phật.
[10] Tám pháp (bát phong 八風): gồm lợi, suy, hủy, dự, xưng, cơ, khổ, lạc.
[11] Tướng bạch hào (bạch hào tướng 白毫相): tướng lông trắng giữa hai chặng mày của Đức Phật.
[12] Địa ngục A-tì (A-tì địa ngục 阿毗地獄; S: Avỵci; Cg: địa ngục Vô Gián): địa ngục nằm dưới đáy trong số tám địa ngục chồng lên nhau rất sâu dưới lòng đất cõi Diêm-phù-đề. Người phạm một trong các tội ngũ nghịch, sau khi chết sẽ bị đọa ngay vào địa ngục  A-tì mà không qua thân trung ấm, chịu khổ suốt một kiếp không gián đoạn.
[13] Phật Tùy-diệp (Tuỳ-diệp Phật 隨葉佛; S: Viśvabhū 或 Viśvabhuk): kinh Đại bản trongTrường a-hàm ghi là Phật Tì-xá-phù.
[14] Phật Câu-lâu-tần (Câu-lâu-tần Phật 拘樓秦佛; S: Krakucchanda-buddha): kinh Đại đản trong Trường a-hàm ghi là Phật Câu-lưu-tôn.
[15] Phật Câu-na-hàm (Câu-na-hàm Phật 拘那含佛; S: Kanakamuni; Cg: Câu-na-hàm Mâu-ni Phật): vị Phật thứ bảy trong bảy vị Phật quá khứ, hay là Phật thứ hai trong một nghìn vị Phật ở kiếp Hiền.
[16] Tam minh 三明 (S: tri-vidya): tam chứng pháp, gồm túc mệnh trí chứng minh, sinh tử trí minh và lậu tận trí chứng minh, tức là trí tuệ thông đạt không trở ngại ba việc túc mệnh, thiên nhãn, và vô lậu tận.
[17] Lục thông 六通 (S: ṣaḍ abhijñāḥ): sáu năng lực thù thắng của bậc thánh tam thừa, gồm có thiên nhãn thông, thiên nhĩ thông, tha tâm thông, thần túc thông, túc mệnh thông và lậu tận thông.
[18] Bát giải thoát 八解脫 (S: aṣṭau vimokṣāḥ): tám định lực giúp hành giả lìa bỏ tham dục của cõi Sắc và cõi Vô sắc: trong có tưởng về sắc dục, quán các sắc để giải thoát; trong không có tưởng về sắc dục, ngoài quán các sắc để giải thoát; thân thanh tịnh giải thoát trí chứng cụ túc trụ; vượt các sắc tưởng diệt hữu đối tưởng, không suy nghĩ mọi cái tưởng, nhập vào Không vô biên xứ, an trụ đầy đủ giải thoát; vượt tất cả Không vô biên xứ, nhập Thức vô biên xứ, an trụ đầy đủ giải thoát; vượt qua tất cả Thức vô biên xứ, nhập Vô sở hữu xứ, an trụ đầy đủ giải thoát; vượt qua tất cả Vô sở hữu xứ, nhập Phi tưởng phi phi tưởng xứ, an trụ đầy đủ giải thoát; vượt qua tất cả Phi tưởng phi phi tưởng xứ, nhập tưởng thụ diệt, an trụ đầy đủ giải thoát.
[19] Bốn tấc (tứ thốn 四寸): Trung Quốc sử dụng một tấc bằng 3,3cm.
[20] Tứ đẳng tâm 四 等心 (S: Catvãr apramãnãni): bốn tinh thần phải có của Phật, bồ-tát để độ khắp vô lượng chúng sinh, giúp họ lìa khổ được vui, đó là từ, bi, hỷ, xả.
[21] Năm thứ trược (ngũ trọc 五濁; S: pañca kaṣāyāḥ): năm thứ cặn đục trong Kiếp giảm gồm Kiếp trược: khi tuổi thọ con người giảm còn ba mươi tuổi thì có nạn đói kém, khi giảm còn hai mươi tuổi thì có nạn bệnh tật, khi giảm còn mười tuổi thì có nạn chiến tranh, tất cả chúng sinh đều bị hại; kiến trược: chính pháp đã diệt, tà pháp khởi lên, tà kiến tăng mạnh, con người không tu tập pháp lành; phiền não trược: chúng sinh có nhiều ái dục, tham lam, bỏn xẻn, thích đấu tranh, dua nịnh, dối trá, học theo tà pháp, nên tâm thần não loạn; chúng sinh trược: chúng sinh thường độc ác, không hiếu kính cha mẹ, người lớn tuổi, không sợ quả báo ác, không tạo công đức, không tu huệ thí, không giữ gìn trai giới; mạng trược: do ác nghiệp tăng, đời nay tuổi thọ con người giảm dần, hiếm người được trăm tuổi.
[22] Lương Nhiếp luận 梁攝論 (Cg: luận Nhiếp Đại Thừa) : luận, ba quyển, do ngài Chân Đế dịch vào đời nhà Trần.
[23] Tam tuệ 三慧: văn tuệ, tư tuệ và tu tuệ.
[24] Sa-ma-tha 沙摩他 (S:śamatha): tức là chỉ, một phương pháp tu tập dừng tâm một chỗ, dứt trừ phiền não, vọng tưởng.
[25] Tì-bát-xá-na 毘鉢舍那: tức là quán. Một phương pháp tu tập sinh khởi chính trí để quán chiếu đối tượng, khế hội chân như.
[26] Vô phân biệt trí 無分別智 (S: nir-vikalpa-jñāna): tức căn bản trí.
[27] Tám tính chất (bát công đức thủy 八功德水): nước trong ao sen ở Tịnh độ có tám tính chất ưu việt: trong trẻo, mát mẻ, ngon ngọt, mềm nhẹ, thấm nhuần, an hòa, trừ đói khát, nuôi lớn các căn.
[28] Linh Thứu 靈鷲 (S: Gṛdhrakūṭa): núi ở phía đông bắc thành Vương Xá, nước Ma-kiệt-đà, Trung Ấn Độ. Vì hình dáng núi này giống như đầu con chim thứu và trong núi có nhiều chim thứu sinh sống nên có tên là Linh Thứu.
[29] Bản thức 本識 (S: mūla-vijñāna): thức căn bản của bảy thức như nhãn thức, nhỉ thức... tức là thức a-lại-da.
[30] Ưu-ba-đề-xá 優波提舍 (S: upadeśa): một trong mười hai thể loại kinh, nghĩa là Tùy Thị. Tức là chú giải hoặc diễn nghĩa các giáo pháp do Phật diễn nói làm cho ý nghĩa được sáng tỏ hơn, cũng tức là một trong các loại vấn đáp nghị luận trong kinh.
[31] Chưa nhập tính (vị nhập tính địa 未入性地): hàng phàm phu chưa vào địa vị Thập trụ, tức hạng phàm phu từ Thập tín trở về trước.
[32] Tứ chúng 四衆 (S: catasraḥ parṣadaḥ): bốn chúng đệ tử của Đức Phật. Đó là tì-kheo, tì-kheo-ni, ưu-bà-tắc, ưu-bà-di.
[33] Bát bộ 八部: tám bộ chúng gồm trời, rồng, dạ-xoa, càn-thát-bà, a-tu-la, ca-lâu-la, khẩn-na-la, ma-hầu-la-già.
[34] Ngũ dục 五欲 (S: pañca kāmāḥ): năm thứ ham muốn sinh ra từ sự nhiễm trước năm trần cảnh như sắc dục, thinh dục, hương dục, vị dục, xúc dục.
[35] Ba hội (tam hội 三會): ba hội thuyết pháp của chư Phật. Đến đời đương lai Đức Phật Di-lặc sẽ hạ sinh cũng có ba hội thuyết pháp để giáo hóa các chúng sinh mà Đức Thích Tôn chưa hóa độ.
[36] Thiên quan 天冠: mũ của chư thiên.
[37] Tướng âm tàng (mã âm tàng tướng 馬陰藏相; S: kośopagata-vasti-guhya): nam căn ẩn kín không lộ ra bên ngoài, một trong ba mươi hai tướng đại nhân của Đức Phật.
[38] Luận Bà-sa (Bà-sa luận 婆沙論; Gđ: A-tì-đạt-ma Đại tì-bà-sa luận; S: Abhidharmamahāvibhāṣā-śāstra): luận, hai trăm quyển, do ngài Huyền Trang dịch vào đời Đường, Trung Quốc, được xếp vào Đại chính tạng tập 27. Luận này chú thích luận A-tì-đạt-ma Phát trí của luận sư Ca-đa-diễn-ni tử ở Ấn Độ, giải thích rõ về ý nghĩ các pháp và liệt kê đầy đủ các thuyết khác nhau.
[39] Kiến đế 見諦: chứng ngộ chân lí của hàng thanh văn từ quả Dự lưu trở lên và  bồ-tát Sơ địa trở lên.
[40] Nội chúng 內衆: chúng sinh được sinh lên nội viện của cung trời Đâu-suất, nơi bồ-tát Di-lặc thuyết pháp.
[41] Ngoại chúng 外衆: chúng sinh được sinh lên ngoại viện của cung trời Đâu-suất.
[42] Lưu bố 流布: truyền bá rộng khắp.
[43] Ngũ khổ 五苦: năm thứ khổ não. Đó là chư thiên khổ, nhân đạo khổ, súc sinh khổ, ngạ quỉ khổ, địa ngục khổ hay sinh lão bệnh tử khổ, ái biệt ly khổ, oán tắng hội khổ, cầu bất đắc khổ, ngũ ấm xí thạnh khổ.
[44] Ba thiên hạ (tam thiên hạ 三天下): tức ba châu quanh núi Tu-di. Đó là Đông Thắng Thân châu, Nam Thiệm Bộ châu và Tây Ngưu Hoá châu.
[45] Dị khẩu đồng âm 異口同音: nhiều người đồng nói một lời cùng một lúc.

_________________________________
Tri Âm Quán_Thị Trấn Chũ_Lục Ngạn_Bắc Giang
http://quoccuonglucngan.blogspot.com/
Về Đầu Trang Go down
https://triamquan.forumvi.com/
Tri Âm Quán
Thành Viên Tích Cực
Thành Viên Tích Cực
Tri Âm Quán


Tổng số bài gửi : 6340
Reputation : 2
Join date : 31/07/2013
Đến từ : Thị Trấn Chũ

Thiện ác nghiệp báo  Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Thiện ác nghiệp báo    Thiện ác nghiệp báo  EmptySun Oct 06, 2013 7:18 pm

CHƯ KINH YẾU TẬP
QUYỂN 2
I.2. Kính pháp
Gồm tám phần: Đại ý, Thuyết pháp, Thính pháp, Tiệm đốn, Cầu pháp, Cảm phúc, Báo ân, Báng pháp.
I.2.1 Đại ý
Từng nghe đạo lớn rỗng lặng, bất động, nên không hình tướng, không ngôn từ; nhưng cảm thì liền ứng, nên có danh tự, có giáo thuyết. Vì thế, khó thể nghe được một bài kệ bốn câu, mà vẫn dễ vào cõi tam thiên[1] đang bị lửa đốt. Mong người tu hãy một mình trong đêm thanh vắng, trăng sáng trong, ngâm tụng kinh điển, âm giọng bổng trầm, văn tự rõ ràng, lời hay ý tuyệt, âm điệu hài hòa, phù hợp lòng người, lợi ích muôn loài, khéo làm cho tâm thức phấn khởi, tinh thần vui vẻ. [09a] Nên đọc kỹ đến thuộc làu, thấu suốt văn nghĩa, cung kính siêng năng đọc tụng, chí thành thầm cảm. Phải tin tưởng và biết rằng thụ trì một bài kệ sẽ được phúc đức rộng lớn, biên chép một câu kinh sẽ được công đức nhiều kiếp. Bởi thế nên, Ca-diếp[2] cung kính thụ trì, chẳng tiếc lột da; Tát-đà tâm thành ưa thích, không từ tuôn máu.
Đây là cửa đầu tiên để giải thoát, là đức cuối cùng để nhập đạo.
I.2.2. Điều kiện thuyết pháp
Bước lên tòa giảng, trước hết vị pháp sư phải lễ kính tam bảo, lắng tâm, xét thời và xác định người nghe, khởi tâm từ bi muốn cứu giúp chúng sinh, sau đó, mới giảng thuyết. Do đó, kinh Báo ân ghi: “Người nghe ngồi mà người nói đứng thì không nên giảng. Nếu người nghe tìm lỗi của người nói thì cũng không nên giảng. Nếu người nghe căn cứ theo người mà không căn cứ theo pháp, hoặc căn cứ theo chữ mà không căn cứ theo nghĩa, hoặc căn cứ theo kinh không liễu nghĩa mà chẳng căn cứ theo kinh liễu nghĩa, hoặc nương theo tình thức mà không nương theo trí tuệ, thì cũng không nên giảng. Vì sao? Vì người ấy không thể cung kính pháp thanh tịnh của các Đức Phật và bồ-tát”.
Nếu người nói tôn trọng pháp, người nghe cũng có lòng sùng kính, chí tâm nghe, không khinh thường, đó là giảng pháp một cách thanh tịnh.
Luật Ngũ phần ghi: “Lập các tâm: tâm trừ tham dục, tâm không tự xem thường mình, tâm không xem thường người khác, tâm từ, tâm hỉ, tâm muốn làm lợi ích cho người, tâm bất động, cho đến giảng nói một bài kệ bốn câu khiến người thật tâm nghe và hiểu rõ đúng như thật, thì người nói được an vui lâu dài, lợi ích vô lượng”.
Kinh Niết-bàn ghi: “Nếu có người thụ trì, đọc tụng, giảng dạy kinh Phật, không đúng thời, không đúng chỗ, không có người thỉnh mà thuyết, có tâm khinh thường pháp, xem thường người khác, tự ca ngợi mình giảng pháp khắp mọi chỗ, dẫn đến ngược lại là hủy diệt Phật pháp, làm cho vô số người sau khi chết phải đọa địa ngục, thì đó là ác tri thức của chúng sinh”.
Luật Thập tụng ghi: “Có năm hạng người sau đây hỏi pháp thì không nên giảng và cũng không được đối đáp với họ: một, người hỏi thử; hai, người không nghi mà hỏi; ba, người không vì hối hận về tội lỗi đã tạo mà hỏi; bốn, người hỏi mà không lắng nghe; năm, người hỏi để gây khó dễ.
Nếu có người thật sự hảo tâm, không có những ý như nói trên, chỉ vì muốn khởi tâm thiện, trừ bỏ tâm ác, thì pháp sư nên tùy căn cơ họ mà dùng phương tiện và hảo tâm giảng nói cho họ nghe. Nếu pháp sư hiểu chưa thấu đáo hoặc còn nghi ngờ, thì không được nói cho họ nghe, vì sợ rằng người giảng mắc lỗi truyền dạy sai lầm, khiến cả hai đều mắc tội”.
[09b] Kinh Ưu-bà-tắc giới ghi: “Đức Phật dạy:
- Người trụ đúng pháp thì có khả năng tự lợi lẫn lợi tha. Người trụ không đúng pháp thì không thể tự lợi và lợi tha. Người trụ đúng pháp có tám trí: một, pháp trí; hai, nghĩa trí; ba, thời trí; bốn, tri túc trí; năm, tự tha trí; sáu, chúng trí; bảy, căn trí; tám, thượng hạ trí.
Người có đầy đủ tám trí như trên, hễ nói điều gì thì đều có đủ mười sáu yếu tố:
1. Hợp thời
2. Chí tâm
3. Có thứ tự
4. Hòa hợp
5. Thuận nghĩa
6. Vui vẻ
7. Thuận ý
8. Không khinh mọi người
9. Không trách mọi người
10. Đúng pháp
11. Vì tự lợi và lợi tha
12. Không tán loạn
13. Hợp nghĩa
14. Ngay thật
15. Nói rồi không kiêu ngạo
16. Nói rồi không cầu phúc báo đời sau”.
Những người giảng có đầy đủ mười sáu việc như thế thì có thể nghe theo.
Kinh Chính pháp niệm ghi: “Nếu có chúng sinh chân chính tu tập nghiệp thiện, nói một bài kệ cho người tà kiến nghe, khiến họ khởi lòng thanh tịnh, tin Phật thì chúng sinh ấy lúc qua đời sẽ sinh vào cõi trời Ứng Thanh[3] hưởng hạnh phúc, sau đó người ấy lại tùy nghiệp mà luân hồi. Nếu vì cầu tiền của mà thuyết pháp cho người nghe, nhận tiền của không vì lòng từ bi muốn làm lợi ích cho chúng sinh, mà vì để uống rượu, hoặc vì để ăn uống chung với phụ nữ, giống như cách các kỹ nữ bán mình lấy tiền, thì pháp thí này có rất ít phúc báo, chỉ được sinh lên trời làm loài chim có trí tuệ biết nói kệ. Đó là pháp thí hạ phẩm”.
Thế nào là pháp thí trung phẩm? Đó là vì danh tiếng, vì muốn hơn người, vì muốn hơn các đại pháp sư mà thuyết pháp cho người nghe; hoặc thuyết pháp với tâm không thanh tịnh. Loại pháp thí như thế cũng được phúc báo nhỏ, chỉ được sinh lên trời hưởng quả báo bậc trung, hoặc sinh làm người.
Thế nào là pháp thí thượng phẩm? Đó là thuyết pháp cho người nghe với tâm thanh tịnh, vì muốn mở mang trí tuệ cho chúng sinh, không vì lợi lộc mà vì muốn giúp cho chúng sinh tà kiến được sống trong chính pháp. Loại pháp thí như thế được lợi cho mình lẫn cho người, là cao thượng nhất, cho đến khi vào niết-bàn, sẽ được phúc báo vô tận.
Kinh Ca-diếp ghi:  “Bấy giờ, Đức Phật nói kệ:
Đem tất cả châu báu
Đầy khắp cõi tam thiên,
Mà bố thí tất cả,
Chỉ được công đức nhỏ.
[09c] Nếu giảng kệ một bài,
Được rất nhiều công đức.
Âm nhạc trong tam giới,
Thí hết cho một người,
Thua thí một bài kệ,
Công đức được cùng tột.
Công đức này hơn kia,
Lìa được các khổ đau.
Hoặc đem muôn châu báu
Đầy khắp hà sa cõi
Mà cúng dường chư Phật,
Đâu bằng thí một pháp,
Thí báu, tuy phúc nhiều,
Còn thua thí một pháp.
Thí một kệ: phúc to,
Nhiều kệ sao tính nổi?”.
Luận Thập trụ tì-bà-sa ghi: “Người tại gia nên thực hành tài thí, người xuất gia nên thực hành pháp thí. Vì sao? Vì người tại gia bố thí pháp không thuận lợi bằng người xuất gia, bởi lòng tin của người nghe pháp đối với người tại gia cạn mỏng hơn đối với người xuất gia. Hơn nữa, người tại gia có nhiều tiền của, trong khi người xuất gia đọc tụng thông suốt kinh điển; do đó, người xuất gia hơn hẳn người tại gia về điểm giảng giải giữa đại chúng mà không sợ sệt. Thêm nữa, người tại gia cũng không làm cho người nghe có tâm cung kính bằng người xuất gia, người tại gia cũng hàng phục nhân tâm kém hơn người xuất gia”. Như bài kệ:
Tự tu đạo trước đã,
Sau đem dạy mọi người,
Mới được nói như vầy:
“Ông nên  làm theo tôi”.
Mình làm việc bất thiện,
Dạy tu thiện được sao?
Tự chẳng được tịch diệt,
Dạy tịch diệt được chăng?
Ngoài ra, nếu người xuất gia thực hành tài thí thì trở ngại các thiện hạnh khác, lại phải lìa xa nơi thanh tịnh để vào xóm làng cùng làm việc với người tại gia và chuyện trò nhiều thì sẽ sinh phiền não, tâm kém chuyên chú vào hạnh giải thoát như lục độ v.v…, thậm chí lại còn tham đắm ngũ dục, xả giới hoàn tục, đó là chết; hoặc có thể phạm giới, dễ sinh tội nặng. Đó là các phiền não khổ đau như bị chết v.v… Vì các nguyên nhân ấy, đối với người xuất gia thì ca ngợi pháp thí, đối với người tại gia thì ca ngợi tài thí.
Kinh Kim quang minh ghi: “Người thuyết pháp có năm việc:
1. Pháp thí được lợi mình lẫn lợi người; tài thí không được như thế.
2. Pháp thí có thể giúp chúng sinh ra khỏi tam giới; tài thí không ra khỏi Dục giới.
3. Pháp thí có lợi ích cho pháp thân; tài thí nuôi dưỡng sắc thân.
4. Pháp thí giúp tăng trưởng không cùng tận; tài thí chắc chắn có lúc cạn sạch.
[10a] 5. Pháp thí có khả năng trừ dứt vô minh; tài thí chỉ hàng phục lòng tham”.
Do đó, tài thí không bằng pháp thí. Nhưng pháp thí, cũng có thứ bậc. Nếu hiểu biết mà không giúp người khác biết, vì sợ người khác hơn mình, thì đời vị lai sẽ thường không được nghe pháp.
Luận Đại trí độ ghi: “Người xẻn tiếc pháp thì thường sinh ở vùng ven hoặc ở nơi không có Phật pháp. Do xẻn tiếc pháp, nên chướng ngại sự hiểu biết của người khác. Nếu người như vậy thì thua cả kẻ bán pháp cho người khác”.
Kinh Chư pháp dũng vương ghi: “Nếu tất cả chúng sinh dưới nước, trên cạn, hay trên không trung trong cõi Diêm-phù-đề đều được thân người, có người nào dạy tất cả họ an trụ trong ngũ giới và thập thiện, thì người ấy được công đức không bằng người dạy một người biết tin tưởng và tu hành”.
Luận Thập trụ tì-bà-sa ghi: “Bồ-tát nên xa lìa bốn pháp có thể làm giảm sút trí tuệ:
1. Không kính trọng pháp và người thuyết pháp.
2. Giấu kín và xẻn tiếc yếu pháp.
3. Tạo chướng ngại, phá ý muốn nghe pháp của người ưa thích pháp.
4. Có lòng kiêu ngạo, tự cao, xem thường người.
Bồ-tát phải nên thường xuyên tu tập bốn pháp giúp đạt trí tuệ:
1. Cung kính pháp và người thuyết pháp.
2. Tâm thanh tịnh giảng nói cho người khác nghe pháp đúng như mình đã được nghe và đọc tụng.
3. Biết rằng từ học rộng mà phát sinh trí tuệ, cho nên siêng năng cầu học không ngừng, giống như cứu lửa cháy đầu.
4. Thụ trì không quên pháp đã được nghe. Trọng sự thực hành theo lời dạy, không trọng việc bàn luận những lời ấy”.
I.2.3. Nhân duyên nghe pháp
Muốn nghe pháp, phải thật lòng kính pháp, trọng người, chí thành muốn xa lìa phiền não, không cầu pháp hữu vi trời và người. Do đó, trong kinh A-hàm, Đức Phật nói kệ:
Người nghe chú tâm như khát  uống,
Từng lời từng nghĩa chẳng dám buông.
Nghe pháp, xúc động, mừng vô hạn,
Thuyết cho người này chẳng luống công.
Kinh Ưu-bà-tắc ghi: “Khi nghe người giảng pháp, phải có mười sáu điều:
1. Đúng lúc.
2. Ưa thích.
3. Chí tâm.
4. Cung kính.
5. Không nhằm vạch tìm lỗi của người.
6. Không nhằm bàn luận.
7. Không vì hiếu thắng.
8. Không khởi tâm xem thường người nói.
9. Không có tâm xem thường pháp.
10. Không tự khinh mình.
[10b] 11. Tâm xa lìa ngũ cái[4].
12. Để thụ trì và đọc tụng.
13. Để dẹp trừ ngũ dục.
14. Tín tâm.
15. Để biết mà dạy bảo chúng sinh.
16. Để dứt trừ sự ngu dốt.
Này, thiện nam tử! Người đủ tám trí thì có khả năng nghe và nói pháp. Người như thế có thể làm lợi mình và lợi người”.
Kinh A-dục vương ghi: “Ngày xưa, vua A-thứ-già sai một vị đạo nhân thuyết pháp. Nhà vua thường dùng bình phong chắn ngang, rồi cho phụ nữ đến nghe pháp ở phía sau. Bấy giờ, pháp sư thường giảng cho các phụ nữ nghe về bố thí, giới và việc sinh lên trời.
Có một phụ nữ trái lệnh vua, khởi tâm kính ngưỡng đến gần pháp sư, thưa hỏi:
- Khi giác ngộ các pháp ở gốc bồ-đề, Đức Như Lai Đại Giác đã chứng ngộ pháp thí và giới chăng? Hay Ngài còn chứng ngộ các pháp khác nữa?

_________________________________
Tri Âm Quán_Thị Trấn Chũ_Lục Ngạn_Bắc Giang
http://quoccuonglucngan.blogspot.com/
Về Đầu Trang Go down
https://triamquan.forumvi.com/
Tri Âm Quán
Thành Viên Tích Cực
Thành Viên Tích Cực
Tri Âm Quán


Tổng số bài gửi : 6340
Reputation : 2
Join date : 31/07/2013
Đến từ : Thị Trấn Chũ

Thiện ác nghiệp báo  Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Thiện ác nghiệp báo    Thiện ác nghiệp báo  EmptySun Oct 06, 2013 7:19 pm

Pháp sư đáp:
- Đức Phật giác ngộ rằng tất cả pháp hữu vi đều là khổ, giống như sắt bị nóng chảy. Nỗi khổ ấy do thói quen lâu ngày sinh ra, cũng như cây độc. Phải tu tập bát chính đạo để diệt khổ đế và tập đế.
Người phụ nữ nghe những lời ấy liền chứng được quả Tu-đà-hoàn, bèn lấy dao buộc vào cổ mình, rồi đến cung vua, tâu:
- Nay tôi đã phạm tội nặng. Xin đại vương dùng vương pháp trị tội!
Vua nói:
- Ngươi phạm tội gì?
- Tôi vi phạm lệnh vua cấm đến chỗ của đạo nhân. Giống như con bò khát nước không sợ chết, tôi thật sự khao khát Phật pháp, vì thế, tôi mạo hiểm đi nghe giảng pháp.
Vua hỏi:
- Khi nghe pháp, ngươi lĩnh hội được những gì?
- Tôi lĩnh hội được bốn chân đế, hiểu được ấm, nhập, giới và các đại đều là vô ngã và chứng được pháp nhãn.
Vua nghe nói thế, phấn khởi vui mừng, liền lễ lạy và ra lệnh:
- Từ nay về sau, ta không cho phép kẻ nào ngăn cản người ưa thích nghe pháp. Người nào muốn nghe, cứ đến thẳng trước mặt pháp sư mà nghe giảng.
Vua lại khen:
- Lạ thay! Trong cung của ta mới xuất hiện nhân bảo[5].
Vì nhân duyên ấy, nên biết việc nghe pháp có lợi ích lớn”.
Kinh Tạp bảo tạng ghi: “Nước Bát-già-la đem hiến vua Ba-tư-nặc năm trăm chim nhạn trắng. Nhà vua sai người đưa số chim ấy đến tinh xá Kì-hoàn. Cứ đến giờ ăn, thấy chư tăng bày thức ăn mới khất thực được ra, năm trăm con chim nhạn liền bay đến đậu trước mặt chư tăng. Khi ấy, Đức Phật dùng một ngôn ngữ thuyết pháp, nhưng bất kì loài nào nghe cũng đều hiểu cả. Bầy chim nhạn cũng hiểu lời Phật, nghe pháp Phật giảng, rất vui mừng, cùng hòa giọng hót vang, rồi bay về ao nước. Về sau, khi lông đã mọc dài, chúng bay đến nơi khác, bị thợ săn giăng lưới bắt giết hết cả. Khi bị bắt, một con nhạn cất tiếng thì cả bầy hòa theo hót vang những âm thanh mà chúng thường hót lúc nghe pháp. Nhờ tâm thiện ấy, bầy nhạn được sinh lên trời Đao-lợi làm các thiên tử.
[10c] Hễ sinh lên trời thì có ba điều phải nhớ nghĩ: nhớ nghĩ mình vốn từ đâu đến; nhớ nghĩ đến nơi mình muốn sinh về; nhớ nghĩ thân trước đã tạo nghiệp gì để nay được sinh lên trời.
Khi ấy, năm trăm vị thiên tử tự suy nghĩ thấy đời trước mình chẳng tu được nghiệp thiện gì ngoài việc ở cạnh Phật và chư tăng nghe giảng pháp. Nghĩ thế xong, họ liền cùng xuống cõi Diêm-phù-đề, đến chỗ Đức Phật nghe giảng pháp, tất cả đều chứng được quả Tu-đà-hoàn.
Thời ấy, vua Ba-tư-nặc thường đến chỗ Đức Phật, cũng thường trông thấy năm trăm con chim nhạn đậu trước Đức Phật. Hôm ấy, nhà vua không trông thấy bầy chim, bèn hỏi Đức Phật:
- Bầy nhạn hôm nay đã bay đi đâu?
Đức Phật nói:
- Bầy nhạn, đại vương muốn thấy đó đã bay đi nơi khác và bị thợ săn giết hết cả. Sau đó, chúng được sinh lên trời, nay chính là năm trăm thiên tử tuấn tú đội thiên quan đang ở đây. Hôm nay, họ nghe pháp và đều chứng được quả Tu-đà-hoàn.
Nhà vua hỏi:
- Bầy nhạn ấy vì nhân duyên gì mà phải đọa làm súc sinh, đến khi qua đời  được sinh lên trời và hôm nay chứng được đạo quả?
Phật bảo:
- Xưa kia, vào thời Phật Ca-diếp, có năm trăm phụ nữ cùng thụ giới, rồi vì lòng tin không bền chắc nên đã phạm giới, vì thế họ bị đọa kiếp súc sinh, làm những con nhạn ấy. Nhờ nhân duyên thụ giới trước đó, bầy nhạn được gặp Như Lai nghe pháp và chứng đạo. Nhờ nhân duyên làm kiếp nhạn nghe pháp nên chúng được sinh lên trời”.
Kinh Cựu tạp thí dụ ghi: “Ngày xưa, có một vị sa-môn tụng kinh suốt ngày đêm. Có một con chó thường nằm dưới gầm giường để hết tâm nghe kinh, quên cả việc ăn. Cứ như thế trong nhiều năm, sau khi chết, con chó được sinh làm người nữ, trong thành Xá-vệ. Lớn lên, cô gái ấy trông thấy một vị sa-môn đi khất thực, liền đem thức ăn đến cúng dường vị sa-môn. Về sau, cô gái xuất gia làm tì-kheo-ni, chứng được quả A-la-hán”.
Kinh Phó pháp tạng ghi: “Đức Phật nói:
- Tất cả chúng sinh muốn thoát khỏi biển cả sinh tử tam giới, cần phải nhờ thuyền pháp. Pháp là gió mát xua tan hơi nóng phiền não. Pháp là thuốc tốt chữa lành bệnh phiền não. Pháp là thiện tri thức chân thật của chúng sinh, đem lại lợi ích lớn, giúp trừ các đau khổ. Vì sao? Vì tất cả chúng sinh đều có tâm tính bất định, theo thói quen, hễ gần người thiện thì có tính thiện, ở gần người ác thì có tính ác. Nếu ở gần bạn ác, chúng sinh tạo nghiệp ác sẽ bị lưu chuyển trong sinh tử không có giới hạn. Nếu ở gần bạn tốt, chúng sinh khởi lòng tin kính, nghe và thụ trì diệu pháp, chắc chắn lìa được khổ đau trong ba đường. Do công đức ấy, người này được hưởng niềm vui tốt đẹp nhất.
Xưa kia, vua nước Hoa Thị có một con voi trắng thường hay giết kẻ thù địch. Nếu ai phạm tội, nhà vua thường cho con voi ấy dẫm chết. Về sau, vì chuồng voi bị cháy rụi, nhà vua cho dời nó đến gần một ngôi chùa. Từ đó, con voi thường được nghe các tì-kheo tụng kinhPháp cú:
[11a] Làm lành sinh lên trời
Làm ác đọa địa ngục.
Được nghe pháp, tâm nó trở nên nhu hòa, hiền lành. Nhà vua sai đưa tội nhân đến chỗ nó, nó chỉ lấy mũi ngửi, lấy lưỡi liếm, rồi bỏ đi, không chịu giết. Thấy thế, nhà vua hoảng sợ trong lòng, liền gọi các quan vào triều cùng bàn việc ấy. Một vị quan hiểu rộng tâu:
- Con voi này ở gần chùa, được nghe diệu pháp nên mới như thế. Nay nên đem buộc nó ở gần lò mổ súc vật.
Nhà vua liền áp dụng theo lời tâu ấy. Con voi trắng nhìn thấy cảnh giết mổ súc vật, tâm nó trở nên rất hung ác, giết hại tàn bạo hơn trước nhiều.
Vì thế, nên biết tâm tính tất cả chúng sinh không cố định. Súc sinh còn như thế, nghe pháp thì hiền lành, thấy cảnh giết chóc thì trở nên thích tàn hại, huống gì con người. Do đó, người trí thấy kẻ ác thì nên lìa bỏ, thấy người thiện thì nên gần gũi, siêng năng nghe kinh pháp.
Ngày xưa, có một bà-la-môn đem rất nhiều sọ người đến thành Hoa Thị, rao bán trên khắp các đường phố, nhưng rao mãi mà chẳng có ai mua. Lúc ấy, bà-la-môn hết sức giận dữ, cất cao giọng chửi:
- Người trong thành này thật tối tăm, ngu dốt. Nếu không ai đến mua sọ người của ta thì ta sẽ nguyền a!
Các cư sĩ nam trong thành nghe thấy thế, sợ bị chửi mắng, liền đem tiền đến mua sọ người. Họ dùng đũa đồng xuyên qua tai các sọ người. Nếu cái sọ nào xuyên qua được thì họ trả giá cao, cái nào xuyên được phân nửa thì trả giá thấp hơn, cái nào không xuyên qua được thì không trả tiền.
Người bà-la-môn nói:
- Những sọ người này đều giống nhau, tại sao lại trả giá khác nhau?
Các cư sĩ ấy đáp:
- Những cái sọ xuyên qua được, là sọ của người lúc còn sống đã nghe và thụ trì diệu pháp mà có trí tuệ cao xa. Bởi thế, chúng tôi mua giá cao. Cái sọ nào xuyên qua được một nửa là sọ người tuy nghe kinh pháp, nhưng chưa hiểu rõ. Do đó, chúng tôi trả giá thấp hơn. Còn cái nào không xỏ qua được đều là sọ của người ngày xưa không nghe kinh pháp. Do đó, chúng tôi không mua.
Bấy giờ, các cư sĩ mang những sọ người ấy ra ngoài thành, xây tháp cúng dường. Về sau, khi qua đời, tất cả các cư sĩ nam ấy đều được sinh lên trời. Bởi nhân duyên ấy, nên biết diệu pháp có công đức lớn. Những cư sĩ xây tháp cúng dường sọ của những người nghe pháp còn được sinh lên trời, huống gì người thường chí tâm nghe kinh pháp và cúng dường người cung kính thụ trì kinh. Phúc báo của  người ấy thật khó kể xiết, chắc chắn đời vị lai sẽ thành tựu đạo vô thượng”.
Thế nên, người trí muốn được an lạc cùng tột, phải nên chí tâm siêng năng nghe kinh pháp.
Kinh Hiền ngu ghi: “Ngày xưa, lúc Phật còn tại thế, trưởng giả Tu-đạt ở nước Xá-vệ là vị thí chủ kính tin Phật pháp. Ông ta cung cấp mọi thứ cần dùng cho chư tăng. [11b] Trong nhà ông Tu-đạt có hai con chim anh vũ; một con tên Luật-đề, con kia tên Xa-luật-đề. Chúng đều thông minh, hiểu tiếng người; hễ thấy tì-kheo đến nhà, chúng luôn báo trước để người trong nhà ra đón tiếp. Về sau, ngài A-nan đến nhà ông Tu-đạt, thấy hai con chim thông minh, bèn giảng cho chúng nghe pháp tứ đế. Nghe pháp xong, chúng bay lên cành cây trước nhà, vui vẻ tụng trì. Đêm ấy, chúng nghỉ trên cây, bị chồn ăn thịt. Nhờ căn lành ấy, chúng được sinh lên trời Tứ Thiên Vương; khi hết tuổi thọ ở đó, họ sinh vào cõi trời Đao-lợi; hết tuổi thọ ở trời Đao-lợi, họ sinh vào cõi trời Dạ-ma; khi hết tuổi thọ ở trời Dạ-ma, họ sinh vào cõi trời Đâu-suất; khi hết tuổi thọ ở trời Đâu-suất, họ sinh vào cõi trời thứ sáu Tha Hóa Tự Tại; khi hết tuổi thọ ở trời Tha Hóa Tự Tại, họ lại sinh vào cõi trời Hóa Lạc. Rồi lần lượt theo thứ lớp, họ sinh trở xuống đến cõi trời Tứ Thiên Vương; khi tuổi thọ ở trời này hết, họ lại lần lượt sinh trở lên đến cõi trời Tha Hóa Tự Tại. Trải qua bảy lần sinh lên và xuống như thế trong sáu cõi trời Dục, họ tự do hưởng sự vui sướng đến hết tuổi thọ, không bị chết yểu. Về sau, họ qua đời và sinh vào cõi người, xuất gia tu hành, thành Bích-chi phật; một vị tên Đàm-ma, vị kia tên Tu-đàm-ma”.
Kinh Hiền ngu ghi: “Ngày xưa, lúc Phật còn tại thế, có một vị tì-kheo ở trong rừng, thường xuyên tụng kinh. Giọng tụng của vị ấy thật thanh thoát. Bấy giờ, có một con chim nghe tụng pháp, sinh lòng kính mến, thường đậu trên cây để lắng nghe. Một hôm, chim bị thợ săn bắn chết. Nhờ căn lành nghe pháp ấy, nó được sinh lên trời Đao-lợi, làm vị thiên tử có dung mạo xinh đẹp, hào quang rực rỡ không ai sánh bằng. Tự biết túc mạng của mình nhờ nghe tì-kheo tụng kinh pháp nên được sinh vào cõi trời này, vị thiên tử liền đến chỗ tì-kheo kia để cung kính lễ lạy, thăm hỏi, dâng hương và hoa trời cúng dường. Vị tì-kheo kia hỏi rõ và biết sự việc, liền bảo vị trời ấy ngồi xuống và giảng cho nghe pháp, khiến vị trời ấy chứng được quả Tu-đà-hoàn”.
Loài cầm thú nghe pháp còn được phúc báo vô biên, huống gì người tín tâm nghe pháp, lẽ nào không được quả báo lành.
Luật Thiện kiến ghi: “Thuở xưa, lúc còn tại thế, một lần Đức Phật đến bên ao Già-la ở nước Chiêm-ba-la giảng pháp cho mọi người nghe. Khi ấy, có một con cóc ở trong ao nghe tiếng Phật giảng pháp, bèn ra khỏi ao, chui vào bụi cỏ để nghe. Cùng lúc ấy, có một người cầm gậy chăn bò, thấy Đức Phật ở trên tòa giảng pháp, liền đến chỗ Đức Phật lắng nghe. Khi cắm gậy xuống đất để đứng nghe giảng, người ấy cắm nhầm vào đầu con cóc, khiến nó chết ngay tại chỗ. Con cóc liền được sinh lên trời Đao-lợi. Nhờ phúc báo, vị trời ấy được hưởng hạnh phúc cùng với các thiên nữ trong cung điện dài và rộng đến mười hai do-tuần. Vị trời ấy từ cung điện xuống đến chỗ Đức Phật, lạy sát chân Phật. Đức Phật đã biết nhưng vẫn hỏi:
[11c] - Ngươi là người ở đâu, sao có thần thông, tướng hảo và ánh sáng không ai bằng, chiếu đến chỗ này, lại bỗng nhiên lễ chân Ta?
Vị trời ấy đáp bằng kệ:
Ngày xưa là thân cóc,
Kiếm ăn trong ao nước,
Nghe tiếng Phật giảng pháp,
Con chui vào bụi cỏ.
Có một người chăn bò,
Cầm gậy đến nghe pháp,
Cắm gậy nhằm đầu con,
Con chết, sinh lên trời.
Khi vị trời nói kệ xong, Đức Phật giảng bài kệ ấy cho tứ chúng nghe. Bấy giờ, tám mươi bốn nghìn người đều được kiến đạo, vị trời chứng được quả Tu-đà-hoàn. Tất cả đều vui vẻ lui ra”.
I.2.4. Tiệm và đốn
Kinh Bách dụ ghi: “Xưa kia, tại một ngôi làng cách kinh thành nước nọ năm do-tuần, có một nguồn nước rất ngon ngọt. Nhà vua ra lệnh cho người làng ấy hàng ngày phải mang thứ nước ấy vào cung. Mọi người trong làng rất vất vả vì việc ấy, nên đều muốn bỏ làng ra đi. Bấy giờ, trưởng làng bảo mọi người:
- Các người đừng bỏ đi! Tôi sẽ tâu vua xin sửa khoảng cách năm do-tuần thành ba do-tuần, để mọi người mang nước đi lại gần hơn, bớt mệt nhọc hơn.
Ông ta liền vào cung tâu và nhà vua liền ra lệnh sửa thành ba do-tuần. Mọi người trong làng ấy sau khi nghe lệnh đều rất vui mừng. Sau đó, có người bảo rằng: ‘Vốn chỉ là năm do-tuần, không có gì khác’. Tuy nghe lời này, nhưng vì quá tin vào lời của vua, nên họ vẫn không chịu bỏ.
Người đời cũng như thế, khi tu hành chính pháp để vượt khỏi năm đường[6], hướng đến niết-bàn thường sinh lòng chán mỏi, muốn bỏ việc tu tập, dừng nơi bờ sinh tử, không tiến tu. Đức Như Lai Pháp Vương có phương tiện rộng lớn, tùy căn cơ chúng sinh mà chia pháp nhất thừa thành ba thừa để giảng dạy. Người căn cơ Tiểu thừa nghe pháp ấy rất vui mừng, cho là dễ thực hành, bèn tu thiện, tiến đức để cầu vượt thoát sinh tử. Về sau, họ nghe người khác nói rằng không có ba thừa vì ba thừa chính thật là một thừa thôi. Nhưng vì tin lời Phật giảng trước đó, nên họ không chịu bỏ quan niệm cũ. Như thế, họ cũng giống như những người trong làng kia”.
Kinh Hoa nghiêm ghi: “Này Phật tử! Thí dụ như mặt trời mọc, trước hết chiếu đến tất cả những ngọn núi chúa, kế đến chiếu đến các núi báu kim cương, sau đó mới chiếu khắp mặt đất. Ánh sáng mặt trời không nghĩ: ‘Ta phải chiếu trước hết các ngọn núi chúa, rồi sau đó mới chiếu khắp mặt đất’. Nhưng bởi núi và mặt đất cao thấp khác nhau, nên có sự chiếu sáng trước và sau. [12a] Đức Như Lai, Ứng Cúng, Đẳng Chính Giác cũng như thế, thành tựu mặt trời trí tuệ soi sáng vô lượng pháp giới, thường phóng vô lượng ánh sáng trí tuệ vô ngại, đầu tiên chiếu đến các ngọn núi chúa là các bồ-tát v.v.., kế đó, chiếu đến các vị duyên giác, rồi đến các thanh văn; kế đó, chiếu đến các chúng sinh có căn lành chắc chắn, tùy ứng mà họ được giáo hóa; sau đó, chiếu đến tất cả chúng sinh, ngay cả chúng sinh tà kiến. Vì tạo nhân duyên lợi ích cho đời vị lai, mặt trời trí tuệ Như Lai không nghĩ rằng Ta sẽ chiếu trước hết đến bồ-tát.., đến cả chúng sinh tà kiến, nhưng phóng ánh sáng trí tuệ rực rỡ chiếu khắp tất cả.
Này Phật tử! Giống như mặt trời, mặt trăng mọc ở thế gian, cho đến núi sâu, hang thẳm đều chiếu khắp, mặt trời trí tuệ của Như Lai cũng như thế, chiếu sáng khắp tất cả. Nhưng vì sự mong cầu cũng như căn lành của chúng sinh không giống nhau nên họ thấy ánh sáng trí tuệ của Như Lai đều khác nhau”.
Kinh Niết-bàn ghi: “Không hề có việc lìa bốn pháp mà đạt được niết-bàn. Bốn pháp ấy là gì? Đó là:
1. Gần gũi thiện tri thức,
2. Chuyên tâm nghe pháp,
3. Tập trung tâm ý suy nghĩ,
4. Tu hành đúng như pháp”.
Vì nghĩa ấy, nghe pháp là nhân duyên đến gần đại bát-niết-bàn. Vì sao? Vì nghe pháp giúp mở được pháp nhãn. Ở thế gian có ba hạng người: một, người không có mắt (ví dụ cho người phàm phu); hai, người có một mắt (ví dụ cho hàng thanh văn); ba, người có hai mắt (ví dụ cho các bồ-tát). Người không có mắt là người thường không nghe pháp. Người có một mắt là người tuy tạm thời nghe pháp nhưng tâm không trụ nơi pháp. Người có hai mắt là người chuyên tâm nghe pháp và thực hành đúng theo pháp được nghe. Từ việc nghe pháp mà biết ba hạng người như thế ở thế gian.
I.2.5. Cầu pháp
Kinh Tạp bảo tạng ghi: “Phật pháp rộng lớn, cứu độ chúng sinh không cùng tận. Người chí tâm cầu đạo đều được chứng quả, đến cả người cười đùa Phật pháp cũng được phúc báo”.
Ngày xưa, có vị tì-kheo quá già, tinh thần không còn minh mẫn. Một hôm, nghe các tì-kheo trẻ tuổi giảng bốn quả[7] sa-môn, vị tì-kheo già sinh lòng ưa thích, bảo các tì-kheo trẻ:
- Các ông thông minh, xin giảng cho tôi nghe bốn quả sa-môn.
Các tì-kheo ấy ngu dốt, nhưng nói:
- Tôi có bốn quả sa-môn, nhưng ông phải đãi chúng tôi một bữa ăn ngon, rồi chúng tôi mới cho ông.
Nghe vậy, vị tì-kheo già vui mừng, liền sửa soạn nhiều món ăn ngon, rồi mời các tì-kheo trẻ đến để cầu xin bốn quả sa-môn.
Sau khi ăn xong, họ bắt đầu đùa vị tì-kheo già, nói:
- Đại đức! Ông hãy ngồi ở góc nhà này, tôi sẽ cho ông quả ấy.
[12b] Nghe vậy, vị tì-kheo già vui mừng, ngồi y theo lời các tì-kheo trẻ. Các tì-kheo trẻ liền dùng quả cầu da đánh vào đầu vị tì-kheo già và nói:
- Đây là quả Tu-đà-hoàn.
Nghe xong, tì-kheo già tập trung tâm ý không tán loạn, liền chứng được Sơ quả.
Các tì-kheo trẻ lại đùa, nói:
- Tuy tôi đã cho ông quả Tu-đà-hoàn, nhưng ông còn phải qua bảy lần sinh, bảy lần chết nữa. Hãy dời sang ngồi ở góc nhà khác, tôi sẽ cho ông tiếp quả Tư-đà-hàm.
Vị tì-kheo già vừa chứng được Sơ quả, đạo tâm càng tăng tiến, liền dời chỗ ngồi. Các tì-kheo trẻ lại dùng quả cầu da đánh vào đầu vị ấy và nói:
- Cho ông Nhị quả đây!
Vị tì-kheo già càng chú tâm suy niệm hơn và liền chứng Nhị quả. Các tì-kheo trẻ lại nói đùa:
- Nay ông đã được quả Tư-đà-hàm, nhưng vẫn còn vướng nạn qua lại sinh tử. Ông  hãy chuyển chỗ ngồi, tôi sẽ cho ông quả A-na-hàm.
Vị tì-kheo già liền theo lời bảo, chuyển chỗ ngồi. Các tì-kheo trẻ lại dùng quả cầu da đánh tì-kheo già và bảo:
- Nay tôi cho ông quả thứ ba.
Nghe xong, tì-kheo già vui mừng, càng chú tâm suy niệm nhiều hơn, liền chứng quả A-na-hàm.
Các tì-kheo trẻ lại nói đùa:
- Nay ông đã được quả Bất hoàn, nhưng còn phải thụ thân hữu lậu ở cõi Sắc và cõi Vô sắc, nên còn chịu vô thường biến đổi và hoại diệt, phải khổ đau trong từng niệm. Ông hãy chuyển chỗ ngồi, tôi sẽ cho ông quả A-la-hán.
Vị tì-kheo già liền theo lời bảo, chuyển chỗ ngồi. Các tì-kheo trẻ lại dùng quả cầu da đánh vào đầu vị tì-kheo già và nói:
- Nay tôi cho ông quả thứ tư đấy!
Vị tì-kheo già nhất tâm tư duy, liền chứng quả A-la-hán. Hết sức vui mừng, vị tì-kheo già bèn sửa soạn các món ăn ngon, nhiều thứ hương, hoa, mời các tì-kheo trẻ đến để báo đáp ân đức và cùng họ luận bàn về công đức vô lậu của các đạo phẩm. Các tì-kheo trẻ tịt lời, không nói được. Vị tì-kheo già mới nói:
- Tôi đã chứng được quả A-la-hán.
Nghe như vậy, các tì-kheo trẻ đều hối hận, xin tạ tội đã đùa trước đó.
Vì thế, người tu hành phải nên suy niệm điều thiện. Ngay cả đùa giỡn với Phật pháp còn được quả báo chân thật, huống gì là chí tâm.
Kinh Tạp bảo tạng ghi: “Ngày xưa, có một phụ nữ thông minh, hiểu biết rộng, có lòng tin tam bảo, thường theo thứ tự thỉnh từng vị tì-kheo đến nhà để cúng dường. Về sau, đến lượt vị tì-kheo già đến nhà người phụ nữ ấy. Vị ấy tuổi già, căn tính chậm lụt, thiếu hiểu biết. Sau khi vị tì-kheo già thụ trai xong, người phụ nữ chí tâm cầu thỉnh thuyết pháp, trải thảm ngồi trước mặt vị tì-kheo, nhắm mắt yên lặng. Tự biết mình không hiểu pháp gì để giảng, nhân lúc người thí chủ nữ đang nhắm mắt, vị tì-kheo già bỏ về chùa. Nhưng người phụ nữ ấy chí tâm tư duy rằng pháp hữu vi vô thường, khổ, không, không được tự tại. Nhờ quán sát sâu, người phụ nữ liền chứng quả Tu-đà-hoàn.
[12c] Sau khi chứng quả, người phụ nữ đến chùa tìm vị tì-kheo kia để báo ân. Nhưng vị tì-kheo kia tự xét thấy mình không có trí tuệ, nên bỏ đi để tránh mặt người phụ nữ ấy. Càng hổ thẹn, vị tì-kheo càng ẩn kín. Song người phụ nữ không ngừng cố sức cầu kiến, nên vị tì-kheo kia đành phải ra gặp. Gặp được vị tì-kheo rồi, người phụ nữ trình bày rõ rằng nhờ nhân duyên chứng được đạo quả, nên mang lễ vật đến cúng dường để báo ân. Nghe vậy, vị tì-kheo già vô cùng hổ thẹn, tự trách mình rất nghiêm khắc và cũng chứng được quả Tu-đà-hoàn”.
Vì thế, hành giả phải nên chú tâm chân thành cầu pháp. Nếu chí tâm thì chắc chắn đạt được điều mong cầu.
Kinh Tập nhất thiết phúc đức tam-muội ghi: “Vào đời rất xa xưa, có một vị tiên tên Tối Thắng sống trong rừng núi, chứng được năm thần thông, thường thực hành tâm từ. Một hôm, vị tiên nghĩ: ‘Không phải chỉ có tâm từ mới cứu giúp chúng sinh, học rộng cũng có khả năng trừ sạch tà kiến và phiền não của chúng sinh, giúp chúng sinh khởi chính kiến’. Nghĩ xong, vị tiên liền đến khắp các xóm làng và thành thị, tìm cầu thầy giảng pháp.
Bấy giờ, có thiên ma đến bảo vị tiên:
- Ta có một bài kệ do Phật giảng. Nay nếu ông có thể lột da làm giấy, chích máu làm mực, chẻ xương làm bút để chép bài kệ ấy thì ta sẽ nói cho ông nghe.
Nghe xong, vị tiên nghĩ: ‘Trong vô số kiếp ta đã thường hoang phí cắt xẻ thân mình cho người khác, chịu khổ vô cùng, mà chẳng được lợi ích gì. Nay ta sẽ xả bỏ thân không bền chắc này để đổi lấy diệu pháp’. Thế rồi, vị tiên phấn khởi vui mừng dùng dao lột da làm giấy, chích máu làm mực, chẻ xương làm bút, rồi chắp tay hướng lên trời xin nói cho nghe bài kệ của Phật. Bấy giờ, trông thấy thế, thiên ma buồn rầu ủ rũ, liền ẩn mất. Thấy vậy, vị tiên nói:
- Tôi nay vì pháp không tiếc mạng sống, đã lột da làm giấy, chích máu làm mực, chẻ xương làm bút. Vì chúng sinh nên tôi chí thành không giả dối. Có bậc Đại từ bi nào trong các thế giới khác có khả năng thuyết pháp, xin hãy hiện trước mặt tôi.
Khi vị tiên nói những lời ấy vừa xong, bỗng trước mặt hiện ra Đức Phật hiệu Tịnh Danh Vương ở cõi Phổ Vô Cấu cách cõi Ta-bà ba mươi hai cõi nước về phương đông. Đức Phật ấy phóng hào quang rực rỡ chiếu sáng thân tiên Tối Thắng. Vị tiên liền thấy hết đau đớn, thân thể lành lặn lại như trước. Đức Phật liền giảng cho tiên Tối Thắng nghe ‘Tập nhất thiết tam-muội’Nghe xong, tiên Tối Thắng liền được vô ngại biện tài và Đức Phật ấy cũng biến mất. [13a] Sau khi được vô ngại biện tài, tiên Tối Thắng giảng nói diệu pháp khắp cho chúng sinh nghe, khiến vô lượng chúng sinh trụ nơi đạo Tam thừa. Một nghìn năm sau, tiên Tối Thắng mới qua đời, sinh vào cõi nước Phổ Vô Cấu của Đức Phật Tịnh Danh Vương. Nhờ tôn kính pháp nên nay tiên Tối Thắng đã được thành Phật”.

_________________________________
Tri Âm Quán_Thị Trấn Chũ_Lục Ngạn_Bắc Giang
http://quoccuonglucngan.blogspot.com/
Về Đầu Trang Go down
https://triamquan.forumvi.com/
Tri Âm Quán
Thành Viên Tích Cực
Thành Viên Tích Cực
Tri Âm Quán


Tổng số bài gửi : 6340
Reputation : 2
Join date : 31/07/2013
Đến từ : Thị Trấn Chũ

Thiện ác nghiệp báo  Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Thiện ác nghiệp báo    Thiện ác nghiệp báo  EmptySun Oct 06, 2013 7:20 pm

Đức Phật bảo ngài Tịnh Uy:
- Tiên Tối Thắng xưa kia chính là Ta.
Vì thế, nên biết, nếu có người thường cung kính cầu pháp, Phật sẽ vì người ấy mà không vào niết-bàn, pháp cũng không hoại diệt. Tuy Đức Phật ở cõi nước khác, nhưng người ấy vẫn thường được diện kiến Ngài và được nghe chính pháp.
Trong kinh Niết-bàn có đồng tử Tuyết Sơn[8] xả thân cầu nửa bài kệ, trong kinh Đại phẩmcó bồ-tát Tát-đà vì cầu pháp mà chẻ xương lấy tủy v.v… Có vô số nhân duyên như vậy, không thể kể xiết.
Lời bàn: Bấy giờ, người xuất gia cũng như tại gia học ít hiểu cạn, lại bảo mình có trí tuệ hơn người, nếu muốn tu học, không chuyên học nội điển, chỉ ưa thích học sách vở thế gian và ngoại đạo. Do đó, trong kinh Niết-bàn ghi: “Đức Phật dạy:
- Sau khi ta diệt độ, có đệ tử thanh văn ngu dốt phá giới thích đấu tranh, bỏ phế mười hai thể loại kinh, đọc tụng các sách vở, thơ văn ngoại đạo, cất chứa mọi thứ bất tịnh, lại bảo là Phật cho phép như vậy. Người như thế là người đem gỗ chiên-đàn đổi lấy gỗ tạp, đem vàng đổi lấy quặng đồng, đem bạc đổi lấy sáp trắng, đem lụa đổi lấy vải thô, đem cam lộ đổi lấy thuốc độc”.
Luận Tì-bà-sa ghi: “Giống như người nhìn mặt trời thì mắt bị lóa, khi người suy tìm sách ngoại đạo thì tuệ nhãn bất tịnh. Giống như người nhìn mặt trăng thì mắt sáng tỏ, khi người tư duy kinh luận Phật giáo thì tuệ nhãn trong sáng. Nếu đọc sách ngoại đạo và thế gian thì giống như đánh con khỉ, nó chỉ tuôn ra các thứ bất tịnh. Nếu tư duy Phật pháp thì giống như luyện vàng ròng, càng luyện vàng càng sạch”.
Kinh Bồ-tát thiện giới ghi: “Bồ-tát không đọc tụng kinh điển chính pháp của Như Lai, mà đọc tụng các sách vở, thơ văn, sớ giải của thế gian thì có phạm tội hay không? Nếu vì luận bàn nghĩa lí để phá tà kiến thì có thể đọc tụng hai phần kinh Phật, một phần ngoại điển. Vì sao? Vì ngoại điển là pháp giả dối, chỉ Phật pháp mới chân thật; hơn nữa, nếu biết việc đời thì không bị người đời xem thường”.
Căn cứ đoạn văn dẫn chứng trên, người học Phật pháp nếu cứ “bỏ nội, theo ngoại” thì phạm tội. Dù đã hiểu lí và hạnh thì cũng chỉ nên tạm học ngoại điển để hàng phục ngoại đạo, sau đó, phải bỏ, luôn tiến tu nội nghiệp cho giỏi. Nếu chỉ đắm mê ngoại điển thì làm hư hoại chính pháp.
Do đó, luận Địa trì ghi: “Nếu bồ-tát vứt bỏ không học những điều Phật dạy, lại học sách ngoại đạo và kinh điển thế gian thì phạm tội. Người phạm nhiều lần gọi là phạm nhiễm ô.[13b] Nếu người thật thông minh, có thể học nhanh, đã được bất động trí, hàng ngày học hai phần Phật pháp và một phần ngoại điển thì không phạm. Nếu ưa thích, không lìa bỏ, không có ý lìa bỏ sách vở thế gian và ngoại đạo, tà giáo thì phạm nhiễm ô”.
I.2.6. Cảm được phúc báo
Kinh Phổ diệu ghi: “Nếu có người nghe kinh điển này mà chắp tay tự qui y thì lìa bỏ được gốc của tám sự biếng nhác, thành tựu tám công đức”. Tám công đức đó là:
1. Dung mạo xinh đẹp.
2. Sức lực mạnh mẽ.
3. Quyến thuộc đông đảo.
4. Mau được vô lượng biện tài.
5. Học tập nhanh, được xuất gia.
6. Việc làm thanh tịnh.
7. Đạt được tam-muội.
8. Trí tuệ sáng suốt, hiểu biết tất cả.
Nếu có pháp sư trải tòa đọc tụng kinh này thì được tám điều phúc về tòa ngồi. Đó là:
1. Được tòa trưởng giả.
2. Được tòa Chuyển luân vương.
3. Được tòa của Thiên đế.
4. Được tòa của trời Tự Tại.
5. Được tòa của a-la-hán.
6. Được tòa của bồ-tát.
7. Được tòa của Như Lai.
8. Được tòa của Chuyển pháp luân, độ thoát tất cả chúng sinh.
Nếu pháp sư giảng dạy pháp này, có người khen ngợi: “Lành thay!”, thì người ấy sẽ được tám hạnh thanh tịnh. Đó là:
1. Lời nói và việc làm phù hợp nhau, không trái nghịch.
2. Lời nói chí thành, không giả dối.
3. Chân thật không giả dối ở trong chúng hội.
4. Nói điều gì cũng được người tin, không vứt bỏ.
5. Chỉ nói những lời êm dịu, không thô tháo.
6. Giọng nói từ hòa, cảm động người.
7. Thân tâm tùy thời, tiếng nói như Phạm âm, mọi người nghe đều lãnh thụ được.
8. Giọng nói giống như giọng Phật, phù hợp với tâm chúng sinh.
Nếu người biên chép kinh điển này, sẽ được tám tạng. Đó là:
1. Được Ý tạng, chưa từng quên sót.
2. Được Tâm tạng, hiểu biết rõ mọi kinh pháp.
3. Được Vãng lai tạng, thông hiểu tất cả kinh pháp của Phật.
4. Được Tổng trì tạng, ghi nhớ tất cả những điều nghe được.
5. Được Biện tài tạng, giảng giải kinh điển cho chúng sinh nghe.
6. Được Thâm pháp tạng, hộ trì chính pháp.
7. Được Đạo ý pháp tạng, chưa từng đoạn dứt giáo pháp của tam bảo.
8. Được Phụng hành pháp tạng, mau chóng được vô sinh nhẫn.
Chương Độ vô cực trong Lục độ tập kinh ghi: “Ngày xưa, có một vị tì-kheo tinh tiến thụ trì giáo pháp, thường xuyên tụng kinh Bát-nhã ba-la-mật. Nghe tiếng tụng kinh của vị ấy, người nào cũng vui mừng. [13c] Có một đứa bé mới bảy tuổi, hàng ngày chăn dê ở ngoài thành, nghe tiếng tụng kinh của tì-kheo ấy từ xa vọng lại, liền đến tinh xá lễ bái và lắng nghe. Đến đoạn nói về sắc và không, đứa bé liền tỏ ngộ, hỏi vị tì-kheo, nhưng vị ấy không trả lời được. Ngược lại, đứa bé còn giảng cho vị tì-kheo ấy nghe nghĩa lí mà trước đó vị ấy chưa từng được nghe. Vị tì-kheo rất ngạc nhiên về trí tuệ phi phàm của đứa bé.
Một hôm, khi lùa đàn dê đến chân núi, đứa bé bỗng gặp một con cọp và bị nó ăn thịt. Sau khi qua đời, đứa bé sinh vào một gia đình trưởng giả. Lúc mang thai, vợ ông trưởng giả tự nhiên đọc tụng được kinh Bát-nhã ba-la-mật suốt từ sáng đến tối không ngơi nghỉ. Gia đình ông trưởng giả ấy ngạc nhiên, đều cho là bà ta bị ma ám. Bấy giờ, có một vị tì-kheo đi ngang qua nhà ông trưởng giả, nghe tiếng đọc kinh, lòng rất vui mừng, bảo ông trưởng giả: “Phu nhân không phải bị bệnh ma ám, mà chỉ là đang giảng bộ kinh tôn quí”. Bà vợ ông trưởng giả ra lạy chào, vị tì-kheo liền giảng pháp cho bà ta nghe; đồng thời, giải thích hết các điều bà nghi ngờ và không hiểu. Chư tăng rất vui mừng. Đến khi đủ ngày tháng, bà ấy sinh một đứa bé trai. Vừa ra đời, đứa bé liền chắp tay, quì thẳng, nói kinh Bát-nhã ba-la-mật. Còn bà trưởng giả, sau khi sinh liền trở lại bình thường như cũ.
Vị tì-kheo bảo bà ta:
- Này, đệ tử chân chính của Phật! Bà hãy nuôi nấng và chăm sóc tốt đứa bé này. Sau khi trưởng thành, nó sẽ làm thầy của tất cả mọi người. Chúng ta đây cũng sẽ theo học nó.
Khi lên bảy tuổi, đứa bé đã lĩnh hội đầy đủ đạo pháp, hiểu biết vượt xa mọi người, đạt được trí Bát-nhã ba-la-mật, có thể hiệu đính được tất cả những  nhầm lẫn trong kinh sách. Đi đến đâu, đứa bé cũng thường xuyên giáo hóa mọi người. Tất cả năm trăm người già trẻ, gái trai trong nhà ông trưởng giả đều học đạo với đứa bé. Có đến tám mươi bốn nghìn người đã phát tâm Vô thượng chính chân đạo ý, năm trăm tì-kheo nghe đứa bé giảng đều được lậu tận ý giải[9], dốc lòng cầu Đại thừa, được pháp nhãn tịnh”.
Đứa bé ấy nay chính là Ta, vị tì-kheo kia chính là Phật Ca-diếp.
Kinh Xá-lợi-phất xử thai ghi: “Khi mang thai Xá-lợi-phất, mẹ ông ấy cũng trở nên thông minh”.
Cao tăng truyện ghi: “Khi mang thai La-thập, mẹ ngài trở nên thông minh. Trước đó, hàng ngày bà tụng thuộc lòng một nghìn bài kệ, nhưng khi mang thai, hàng ngày bà tụng thuộc được hai nghìn bài kệ. Đầu tiên, bà chứng quả Tu-đà-hoàn, sau đó, bà chứng quả Tư-đà-hàm”.
Kinh Thắng thiên vương chép: “Nếu nơi nào có pháp sư truyền bá kinh này, nơi ấy chính là nơi Như Lai đến. Phải xem vị pháp sư ấy là thiện tri thức và phải tỏ lòng tôn trọng vị ấy giống như Phật, phải cung kính vui mừng, tôn trọng và khen ngợi khi gặp vị ấy”.
Kinh còn ghi: “Dù Ta trụ thế trong một kiếp hay ít hơn một kiếp, cũng không thể nói hết công đức của pháp sư truyền bá kinh này. Mặt đất nơi pháp sư đi qua, thiện nam và thiện nữ nên chích máu tưới lên để bụi không bốc lên. Cúng dường như thế cũng chưa đáng xem là nhiều, bởi pháp của Như Lai thật khó thụ trì”.
[14a] Kinh Niết-bàn ghi: “Không hề có thiện nam hay thiện nữ nào nghe được kinh này mà còn sinh vào bốn đường ác[10]. Nếu có chúng sinh nghe qua kinh này một lần, đều trừ sạch tất cả tội ác, ngay cả nghiệp tội địa ngục Vô Gián”.
Kinh cũng ghi: “Nếu chúng sinh nào nghe được kinh này một lần, trong bảy kiếp sau đó sẽ không đọa vào đường ác...Nếu chúng sinh nào biết được Như Lai thường trụ không biến đổi, hoặc nghe được hai tiếng ‘thường trụ’ một lần, thì sau khi chết được sinh lên trời. Về sau, đến lúc giải thoát, chứng biết được Như Lai thường trụ không biến đổi”.
Kinh Hoa nghiêm ghi: “Nếu nghe một câu pháp chưa từng được nghe, thì quí hơn tất cả châu báu trong cõi tam thiên đại thiên. Bồ-tát ấy được nghe một bài kệ chính pháp mà khởi tưởng là pháp tài vô thượng thì còn quí hơn cả được ngôi Chuyển luân thánh vương”.
Kinh Pháp hoa ghi: “Nếu người thiện nam hay thiện nữ nào thụ trì kinh Pháp hoa này, hoặc đọc, hoặc tụng, hoặc giảng giải, hoặc biên chép, người ấy sẽ được tám trăm công đức về mắt, một nghìn hai trăm công đức về tai, tám trăm công đức về mũi, một nghìn hai trăm công đức về lưỡi, tám trăm công đức về thân, một nghìn hai trăm công đức về ý”.
Kinh Niết-bàn ghi: “Sau khi Ta vào niết-bàn, nếu có ai nghe được kinh điển Đại thừa vi diệu mà sinh lòng kính tin, nên biết những người đó trong trăm nghìn ức kiếp vị lai sẽ không đọa vào đường ác... Nếu ai ở chỗ một hằng sa Đức Phật phát tâm, người ấy trong đời ác về sau sẽ không phỉ báng pháp này, mà lại ưa thích kinh này, nhưng không giảng nói đầy đủ, rành mạch được cho mọi người nghe. Nếu ai ở chỗ hai hằng sa Đức Phật phát tâm, người ấy trong đời ác về sau sẽ không phỉ báng pháp này, mà lại tìm hiểu đúng đắn, ưa thích thụ trì và tụng đọc kinh này, nhưng cũng không giảng nói được cho mọi người nghe. Nếu có ai ở chỗ ba hằng sa Đức Phật phát tâm, người ấy trong đời ác về sau sẽ không phỉ báng pháp này, mà lại biên chép kinh này, có thể giảng nghĩa sâu xa của kinh này cho người khác nghe, nhưng bản thân người ấy vẫn không hiểu nghĩa lý sâu xa trong kinh. Nếu có ai ở chỗ bốn hằng sa Đức Phật phát tâm, người ấy trong đời ác về sau sẽ không phỉ báng kinh này, ngược lại, còn biên chép kinh này và giảng được nghĩa của một trong số mười sáu phần kinh. Nếu có ai ở chỗ của năm hằng sa Đức Phật phát tâm, người ấy trong đời ác về sau sẽ giảng giải được nghĩa của tám trong số mười sáu phần kinh này cho khắp mọi người nghe. [14b] Nếu có ai ở chỗ sáu hằng sa Đức Phật phát tâm, đến đời ác về sau sẽ giảng giải được mười hai trong số mười sáu phần kinh này khắp cho mọi người nghe. Nếu có ai ở chỗ bảy hằng sa Đức Phật phát tâm, đến đời ác về sau sẽ giảng giải được mười bốn trong số mười sáu phần kinh này cho khắp mọi người nghe. Nếu ai ở chỗ tám hằng sa Đức Phật phát tâm, đến đời ác về sau sẽ biên chép, khuyên người thụ trì, tu hành đúng như kinh, hiểu và giảng giải được hết mọi nghĩa lí của kinh này”.
I.2.7. Báo ân
Kinh Thiện cung kính ghi: “Đức Phật bảo A-nan:
- Nếu có người nghe pháp sư giảng một bài kệ bốn câu, hoặc sao chép được kinh từ thẻ tre hoặc cuộn lụa của pháp sư, trong nhiều kiếp vác vị hòa thượng a-xà-lê ấy trên vai hoặc cõng trên lưng, hoặc đội trên đầu, hoặc thường cõng đi và cúng dường pháp sư đủ các loại âm nhạc, làm những việc như thế còn chưa báo hết được ân của thầy. Nếu trong đời vị lai người ấy khởi tâm bất kính, thường nói lỗi của pháp sư ấy, Ta nói người ấy ngu si và sẽ chịu đau khổ cùng tột, chắc chắn đọa vào đường ác ở đời vị lai. Vì thế, A-nan! Ta dạy các ông: nếu thường thực hành tâm cung kính tôn trọng thì sẽ được pháp tôn quí có tên là Pháp ái kính tam bảo sâu xa”.
Kinh Phạm võng ghi: “Nếu Phật tử trông thấy pháp sư Đại thừa đồng kiến giải, đồng hạnh tu từ ngoài xa trăm dặm, nghìn dặm đến tăng phường, hoặc các nhà trong thành thị thì phải đón tiếp, tiễn đưa, lễ lạy và cúng dường vị ấy. Hàng ngày ba thời cúng dường các món ăn uống ngon quí đáng giá ba lượng vàng, đồng thời phải sửa soạn giường ghế để nghỉ ngơi, cung cấp mọi thứ cần dùng cho pháp sư. Người ấy lại phải hàng ngày ba thời lễ lạy, thưa thỉnh pháp sư thuyết pháp, không được giận hờn, hay quấy phá pháp sư, phải quên mình vì pháp để cầu pháp. Nếu không, sẽ phạm tội khinh cấu”.
Kinh Ưu-bà-tắc ghi: “Nếu ưu-bà-tắc đã thụ trì sáu giới trọng[11] mà không đến chỗ giảng pháp trong vòng bốn mươi dặm để nghe pháp, thì phạm tội thất ý”.
Kinh Đại phương quảng đà-la-ni ghi: “Phật bảo A-nan:
- Nếu có người bị cha mẹ, vợ con không cho đến đạo tràng, người ấy phải đốt các thứ hương, quì thẳng chắp tay trước cha mẹ, ... thưa: ‘Nay con muốn đến đạo tràng, xin cha mẹ thương xót cho phép’. Đồng thời người ấy cũng nên khuyên giải cho cha mẹ hiểu, tùy nghi nói pháp cho cha mẹ nghe. [14c] Phải thưa thỉnh ba lần, nếu gia đình không cho phép thì người ấy phải ở nhà yên lặng suy niệm và tụng trì kinh điển”.
Kinh Chính pháp niệm ghi: “Nếu ai cúng dường vị pháp sư thuyết pháp thì người ấy đã cúng dường Thế Tôn hiện tại. Người như thế, tùy sự cúng dường mà điều mình mong cầu được thành tựu. Ngay đến việc được quả Vô thượng bồ-đề cũng là nhờ thường cúng dường pháp sư thuyết pháp. Vì sao? Vì nhờ nghe pháp nên tâm được điều phục; nhờ tâm được điều phục nên dứt trừ được vô tri tối tăm lưu chuyển trong sinh tử. Nếu lìa việc nghe pháp thì không có cách gì điều phục được tâm”.
Kinh Thắng tư duy ghi: “Không dấy nghiệp tội, không tạo nghiệp phúc, không dấy nghiệp bất động, đó là cúng dường Phật”.
Kinh Pháp hoa ghi: “Nếu đem hương, hoa, y phục, thức ăn, thuốc thang.., cúng dường chư Phật thì không gọi là cúng dường chân chính. Thường tu học theo pháp vi diệu mà Như Lai chứng được khi ngồi ở đạo tràng mới gọi là cúng dường chân chính”. Do đó, Phật nói kệ:
Nếu dùng hoa, hương thoa,
Thức ăn, thuốc, y phục,
Dâng cúng đến chư Phật,
Chẳng gọi chân cúng dường.
Như Lai ngồi đạo tràng,
Chứng được pháp vi diệu,
Nếu tu học pháp ấy,
Chính thật cúng dường Phật.
Luận Thập trụ tì-bà-sa ghi: “Đức Phật bảo A-nan:

_________________________________
Tri Âm Quán_Thị Trấn Chũ_Lục Ngạn_Bắc Giang
http://quoccuonglucngan.blogspot.com/
Về Đầu Trang Go down
https://triamquan.forumvi.com/
Tri Âm Quán
Thành Viên Tích Cực
Thành Viên Tích Cực
Tri Âm Quán


Tổng số bài gửi : 6340
Reputation : 2
Join date : 31/07/2013
Đến từ : Thị Trấn Chũ

Thiện ác nghiệp báo  Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Thiện ác nghiệp báo    Thiện ác nghiệp báo  EmptySun Oct 06, 2013 7:23 pm

- Trời mưa hương và  hoa không gọi là cung kính cúng dường Như Lai. Nếu tì-kheo, tì-kheo-ni, ưu-bà-tắc, ưu-bà-di nhất tâm không buông lung, gần gũi và tu tập Phật pháp, đó là chân chính cúng dường Như Lai”.
Kinh Bảo vân ghi: “Không dùng tài thí cúng dường Phật. Vì sao? Vì pháp thân Như Lai không giữ tài thí. Chỉ nên dùng pháp thí để cúng dường Phật, như thế mới đầy đủ Phật đạo, vì đó là cách cúng dường bậc nhất”.
Kinh Thiện cung kính ghi: “Đức Phật dạy:
- Nếu có tì-kheo nhiều tuổi hạ mà không thông hiểu pháp cú thì phải nên nương học người khác. Vì sao? Vì tự mình còn không hiểu đạo pháp, huống gì muốn làm thầy người khác. Giả sử có vị tì-kheo già trăm tuổi hạ, nhưng không hiểu được các việc sâu kín của sa-môn, không thông hiểu luật, giới, pháp, cũng nên bảo vị ấy nương học người khác.
[15a] Nếu tì-kheo thụ pháp với một vị thầy, khi ở bên thầy phải có tâm tôn quí, kính trọng thầy. Khi muốn thụ pháp, lúc ở trước thầy, không được cười, không được lộ răng, không đứng tréo chân, không được nhìn chân, không được động chân, không được rung đùi. Thầy không hỏi thì không được vội nói. Thầy sai bảo gì thì không được từ chối. Không được nhìn mặt thầy, phải cách xa thầy ba khuỷu tay[12]. Thầy bảo ngồi thì ngồi, không được trái lời. Phải khởi tâm từ đối với thầy. Nếu có điều nghi gì thì nên thưa hỏi; khi được thầy chấp nhận thì mới xin thầy chỉ dạy. Hàng ngày phải ba thời thưa hỏi về các việc nên làm hay không nên làm. Nếu trong ba thời người học không thưa hỏi thì vị thầy ấy nên trị tội đúng như pháp. Nếu người học đến tham vấn mà vị thầy ấy không cho gặp thì người học phải lấy hòn đất hoặc cây, hoặc que ghi lại làm bằng chứng. Khi thấy thầy trong thất, người học phải chí tâm đi nhiễu quanh thất ba vòng, rồi đỉnh lễ thầy, sau đó mới trở về. Nếu không gặp thầy, mọi người phải ngưng hết các việc, không được làm gì cả, chỉ trừ việc tiểu và đại tiện. Khi ở chỗ thầy, đệ tử không được nói năng thô tháo, dù thầy có quở mắng cũng không được phản ứng. Đệ tử phải trải sẵn chỗ ngồi, giường ngủ của thầy và thường lau quét cho sạch bụi bẩn, kiến, muỗi… Lúc thầy ngồi, hoặc nằm nghỉ cho đến lúc đứng dậy, đệ tử phải đọc tụng kinh điển. Khi mặt trời mọc ở phương đông, người học liền đến chỗ thầy, khéo léo báo cho thầy biết đã đến giờ và luôn ở bên cạnh thầy thưa hỏi: ‘Thầy có cần việc gì, xin để con phục vụ’. Ngoài ra, khi ở trước mặt thầy, đệ tử không được khạc nhổ, xì mũi. Vì cung kính thầy, khi đi trong chùa, đệ tử không phủ ca-sa che hai vai, không được trùm đầu. Khi trời nóng bức, đệ tử phải hàng ngày ba thời quạt cho thầy mát, ba lần lấy nước cho thầy tắm rửa, cũng lại phải ba thời dâng nước mát cho thầy uống. Thầy có việc lo toan, đệ tử phải hết sức lo giúp thầy”.
Đức Phật bảo A-nan:
- Nếu trong đời tương lai có tì-kheo nào không cung kính thầy, nói lỗi của sư trưởng, người ấy không phải là tu-đà-hoàn, cũng không phải là phàm phu, mà là người ngu, phải trị phạt. Giả sử thầy thực sự có lỗi, đệ tử cũng không được nói, huống gì thầy không có lỗi. Nếu có tì-kheo không cung kính khi ở bên cạnh thầy, Ta nói người ấy sẽ đọa địa ngục nhỏ Tiêu Phác. Người bị đọa vào nơi ấy thì có một thân bốn đầu, toàn thân như đống lửa lớn, cháy dữ dội không ngừng, càng lúc cháy càng lớn. Trong địa ngục ấy còn có loài thú dữ tên Câu Chủy thường ăn lưỡi người. Khi thoát khỏi chỗ đó, người ấy sẽ sinh vào loài súc sinh. Đó đều do đời trước mắng chửi thầy. Do tội lỗi về lưỡi, nên bấy giờ con vật ấy thường ăn phân, uống nước tiểu. [15b] Sau khi bỏ thân súc sinh, dù được sinh làm người, nhưng họ thường sinh ở vùng sâu vùng xa, phải chịu đủ các điều tồi tệ. Tuy họ được thân người, nhưng bề ngoài họ không giống người, không được đầy đủ hình hài, thường bị khinh rẻ, phỉ báng, nhục mạ, xa lìa Phật Thế Tôn, thường không có trí tuệ. Sau khi chết, người ấy lại bị đọa vào địa ngục, chịu vô lượng khổ sở.
I.2.8. Phỉ báng pháp
Trong đời mạt pháp ngày nay, chính pháp bị người làm sai lạc, người xuất gia và kẻ tại gia sống lẫn lộn nhau, truyền bá những điều sai lầm ngược với chân lí, cũng tu tập hỗn tạp, không tu học nội điển, chuyên làm việc thế tục. Dẫu có người sao chép kinh điển thì tâm họ cũng không tha thiết, không giữ sạch kinh sách, lại còn làm nhiều việc xằng bậy, ngủ nghỉ chung với kinh sách, hoặc bỏ mặc kinh sách ngoài hiên nhà cho mưa, gió, mối... hủy hoại, mà chẳng chút lo sợ tội, khiến cho kinh điển không còn linh nghiệm, đọc tụng không còn lợi ích cứu khổ nữa… Đó đúng là do người biên chép không thiết tha và cũng do mọi người chúng ta xem thường kinh điển.
Vì thế, kinh Kính phúc ghi: “Này hiền giả! Các ông không được làm điên đảo, hoặc sửa chữa, khiến sai lạc pháp Kinh Sinh[13].
Nếu không, sẽ bị đọa trong đường mê lầm năm trăm đời không được nghe chính pháp”.
Kinh Đại tập ghi: “Nếu có chúng sinh trong đời quá khứ đã tạo các nghiệp ác, hoặc hủy hoại Phật pháp, hoặc phỉ báng bậc thánh, gây chướng ngại cho người  thuyết pháp, hoặc tẩy xóa văn tự trong khi sao chép kinh pháp, hoặc phá hoại các pháp khác, hoặc che giấu kinh khác, do những nghiệp duyên đó, người ấy nay sẽ mắc phải quả báo mù lòa”.
Kinh Đại bát-nhã quyển 14 ghi: “Đức Phật dạy:
- Này các người thiện nam, thiện nữ! Khi biên chép kinh Bát-nhã Ba-la-mật sâu xa, nếu vươn vai ngáp, cười đùa vô cớ, xem thường..., thân tâm xao động, đảo lộn văn từ, nhầm lẫn nghĩa lí, không lĩnh hội được chủ ý, gặp việc bỏ  ngang khiến không biên chép xong, nên biết đó đều là ma sự của bồ-tát”.
Kinh Đại thừa liên hoa tạng ghi: “Người lĩnh nhận giới cấm của Phật mà không giữ gìn, về sau lại tự cho mình đúng, đã không hiểu pháp Đại thừa, lại tự khoe mình lĩnh hội được Phật pháp, thì sẽ chịu khổ không kể xiết trong địa ngục Thiết Thương. Khi thoát khỏi địa ngục, người ấy phải làm người ngọng, câm, đui, điếc, không được gặp chính pháp”.
Luận A-nan thỉnh giới luật ghi: “Tăng ni hoặc cư sĩ nào khi đọc kinh, luật, luận mà bước đi, nói chuyện và úp sách kinh thì phạm trọng tội đột-cát-la, sẽ chịu quả báo làm loài súc sinh, trong hai ức năm (tính theo năm của trời Đao-lợi) phải đọa làm hươu nai, thường bị bẻ gãy xương sống, đau đớn không chịu nổi. [15c] Người vô tình nói đùa trong lúc cầm sách kinh, luật, luận thì cũng đón nhận quả báo như trên. Nếu người để kinh và tượng ngoài hiên nhà thì phạm trọng tội đột-cát-la, sẽ chịu quả báo sinh trong loài súc sinh, làm thân chó, lợn trong hai ức năm (tính theo thời gian ở trời Đao-lợi, một năm bằng tám trăm năm ở cõi Ta-bà). Sau đó, nếu được làm người thì trong một ức năm phải thường làm thuê mướn, lao nhọc, không được chút tự do”.
Kinh Đại phẩm ghi: “Người hủy báng ba đời chư Phật Nhất Thiết Trí, do nhân duyên tạo nghiệp phá pháp nên phải đọa địa ngục lớn trong vô lượng năm. Sau đó thoát khỏi địa ngục lớn này, lại vào địa ngục lớn khác. Nếu kiếp hỏa ở đây dấy lên thì họ sinh vào địa ngục lớn ở phương khác. Ở nơi ấy, họ lại phải vào địa ngục lớn này đến địa ngục lớn khác. Cứ như thế, họ phải vào địa ngục khắp trong mười phương. Nếu kiếp hỏa dấy lên ở các nơi kia, họ chết đi, nhưng vì nghiệp duyên phá pháp chưa hết, nên họ phải sinh vào địa ngục ở nơi  này, cũng từ địa ngục lớn này đến địa ngục lớn khác chịu vô lượng khổ đau. Khi kiếp hỏa dấy lên ở nơi này, họ lại sinh vào loài súc sinh ở cõi khác trong mười phương, chịu quả báo đau khổ do nghiệp tội phá pháp. Nếu thoát khỏi địa ngục, tội nặng chuyển thành nhẹ, có thể họ được làm  người, nhưng sinh trong gia đình người mù, gia đình chiên-đà-la, các gia đình hèn hạ chuyên dọn rửa nhà xí, gánh thây người; hoặc sinh làm người một mắt, không mắt, hoặc bị mù, không có lưỡi, không tai, không tay, sinh nơi không có Phật, không có pháp, không có đệ tử Phật. Vì sao? Vì họ đã gieo trồng, chất chứa nghiệp phá pháp quá sâu dày”.
Kinh Niết-bàn ghi: “Nếu người không tin kinh điển này, thì trong đời nay, người ấy sẽ bị vô lượng bệnh khổ hành hạ, bị nhiều chúng sinh nhục mạ. Sau khi chết, trở lại làm người thì bị mọi người khinh thường, dung mạo xấu xí, vất vả kiếm sống, thường xuyên thiếu thốn, dẫu kiếm được chút vật thực thì cũng là thứ thô dở, hư nát, thường ở trong gia đình nghèo túng, hèn hạ, tà kiến, phỉ báng chính pháp, gặp cảnh chiến tranh, loạn lạc; hoặc bị vua chúa bạo ngược hay kẻ oán thù bức hại; dẫu có bạn tốt, cũng không gặp; tìm kế sinh nhai cũng không được; hoặc tuy có được chút ít lợi lộc thì cũng thường bị đói khát; chỉ được những người thấp hèn quan tâm, không được vua chúa và các quan lớn đoái hoài. Giả sử người ấy nói, dù là điều hợp lí chăng nữa, cũng chẳng ai tin theo. [16a] Giống như chim gãy cánh không bay được, người như thế không thể đến được chỗ tốt lành trong cõi trời và người.
Nếu có người tin được kinh điển Đại thừa như thế, dẫu thân thể vốn xấu xí, nhưng nhờ công đức của kinh ấy nên cũng sẽ trở nên xinh đẹp; dung mạo, oai nghi và sức khoẻ ngày càng tốt đẹp hơn; được mọi người và trời ưa thích gặp gỡ, kính trọng, mến mộ; vua chúa, các quan lớn và gia quyến cung kính tin nghe. Trong các đệ tử thanh văn của Ta, nếu ai muốn thực hiện việc hiếm có bậc nhất, thì phải giảng dạy rộng rãi kinh điển Đại thừa này cho người đời nghe.
Này, người thiện nam! Sương mù tuy muốn bền lâu, nhưng không thể tồn tại dưới ánh mặt trời. Khi mặt trời xuất hiện, sương mù sẽ tan. Này, người thiện nam! Ác nghiệp của chúng sinh cũng như thế, dẫu có sức mạnh ở đời ra sao, chúng cũng không thể tồn tại trước mặt trời Đại niết-bàn. Khi xuất hiện, mặt trời ấy sẽ tiêu diệt sạch tất cả ác nghiệp”.
Kinh Pháp hoa ghi: “Nay các ông hãy lắng nghe, khi Phật còn tại thế hay đã diệt độ, nếu những kẻ phỉ báng kinh điển, thấy người đọc tụng, hoặc biên chép, thụ trì thì khinh thường, ganh ghét, thù hận, thì tội báo của những kẻ ấy sau khi chết phải đọa địa ngục A-tì trọn một kiếp, rồi lại sinh trở lại địa ngục, cứ lần lượt như thế cho đến vô số kiếp. Sau đó, được ra khỏi địa ngục, người ấy sẽ phải đọa làm súc sinh, trong vô số kiếp vừa sinh ra liền bị câm, điếc, thiếu các căn.
Xá-lợi-phất! Nếu nói tội của người phỉ báng kinh này thì trọn các kiếp cũng không hết được”.
Hãy lắng nghe bài tụng:
Sáng nghe pháp thật vui,
Tối chết hẳn chẳng buồn,
Không tìm trong kinh sách,
Há thấu được nghĩa huyền,
Tưới máu còn khó hỏi,
Đốt thân đâu dễ cầu,
Hơi lạnh trùm đêm tối,
Ánh nắng soi vực sâu,
Đàn hồng sắp vui sướng,
Một con bỏ hạnh xưa,
Trước vui mở rương báu,
Sau làm loạn pháp thuyền.
Khó biết bát tạng[14] diệu,
Ba kì[15] chưa thể xong,
Chẳng tự lắng bụi tâm,
Chân như sao ngộ được?
I.3. Kính tăng
Gồm ba phần: Lời dẫn, Lợi ích, Tổn giảm.
I.3.1. Lời dẫn
[16b] Tăng bảo là những người giữ gìn nghiêm túc giới cấm, oai nghi khác người đời, phát tâm xuất gia, bỏ đời sống thế gian, học đạo pháp, không động lòng trước danh lợi vinh hoa, không chuyển ý trước thân thuộc, hoằng truyền Phật đạo để báo đáp bốn ân, tu dưỡng giới đức để cứu giúp ba cõi, vượt cao khỏi chốn trời và người, quí hơn vàng ngọc. Tăng bảo đem lại lợi ích không thể kể xiết.
Do đó, kinh nói: “Đối với vị tăng dù già hay trẻ, giữ giới hay phá giới, đều nên thật cung kính, không được khinh thường. Nếu trái lời dạy này thì bị tội nặng. Như Phật Thích-ca…, đúng thật là Phật bảo; giáo, lí, hạnh, quả do kim khẩu Ngài nói ra đúng thật là Pháp bảo; các sa-môn chứng quả đúng thật là Tăng bảo. Cho nên, người chiêm ngưỡng và lễ lạy tam bảo thì tiêu sạch muôn phiền não, khen ngợi và xưng danh tam bảo thì tan hết nghìn tai họa”. Riêng người phúc mỏng không gặp được chính pháp, song nhờ giáo pháp Phật để lại, may được hưởng phúc ấm của Như Lai, dùng sơn, chỉ xanh, đỏ… vẽ thêu hình Phật trên vàng, gỗ quí, đồng, lụa…, đó là Phật bảo. Những lời sâu xa ghi chép trên giấy, lụa, tre, vải … gọi là Pháp bảo. Người cạo râu tóc, mặc y nhuộm, ôm bình bát, gọi là Tăng bảo. Ba thể tướng ấy tuy giả, nhưng tiêu biểu cho hình ảnh chân thật. Do đó, tôn kính ba thể ấy thì mãi mãi thoát khỏi cảnh luân hồi; ngược lại, xem thường thì rước lấy khổ báo. Như tượng gỗ không phải mẹ ruột, nhưng lễ lạy thì phúc báo cũng hơn nghìn năm; phàm tăng không phải thánh tăng mà tôn kính thì ánh sáng cũng hơn vạn đời. Đó là phong tục lưu truyền từ lâu, khắp nơi đều theo. Công đức âm thầm cứu giúp chúng sinh siêu việt chẳng thể lường được. Nếu có lỗi lầm đối với bậc ấy thì mắc tội rất to. Người đã chấp nhận xuất gia, về lí phải khác thế tục”. Hơn nữa, kinh Lễ ghi: “Người mặc giáp thì không lễ lạy” là sai, đâu giống như người bỏ đời sống thế tục, thân khoác giáp nhẫn nhục mà quì lạy hàng cư sĩ, theo lí thì không thể chấp nhận được. Tam bảo đều tôn quí như nhau, cần phải kính trọng như nhau, không nên chỉ tuân theo Phật và pháp mà lìa bỏ tăng ni. Do đó, pháp không tự hoằng truyền, mà sự hoằng truyền là do người. Người có năng lực hoằng pháp thì nên tôn kính như Phật và pháp.
I.3.2. Lợi ích
Kinh Phạm võng ghi: “Phép tắc của người xuất gia là không lễ lạy quốc vương, cha mẹ, lục thân, cũng không thờ phụng quỉ thần”.
Kinh Niết-bàn ghi: “Người xuất gia không lễ lạy người tại gia”.
Luật Tứ phần ghi: “Phật dạy các tì-kheo theo thứ tự người trẻ lễ lạy người già, không nên lễ lạy tất cả người tại gia”.
Kinh Phật bản hạnh ghi: “Sau khi vua Thâu-đầu-đàn cùng quyến thuộc và các quan lần lượt lễ Phật, Đức Phật bảo:
- Bây giờ, đại vương nên lễ các tì-kheo Ưu-ba-li v.v...
[16c] Nghe lời Phật dạy, nhà vua đứng dậy khỏi chỗ ngồi, cung kính lễ năm trăm tì-kheo, rồi lần lượt lễ các tì-kheo mới xuất gia”.
Kinh Tát-già-ni-kiền ghi: “Nếu chê bai pháp của thanh văn, hoặc bích-chi phật và pháp Đại thừa, người chê bai và hủy hoại ấy phạm tội căn bản”. (Nay chư tăng theo kinh Tiểu thừa và Đại thừa, không lễ lạy vua chúa và cha mẹ là đúng lời Phật dạy từ xưa. Nếu buộc chư tăng quì lạy người thế tục thì trái lời Phật dạy. Như thế là không tin lời Phật, cho nên phạm tội căn bản).
Luận Thuận chính lí ghi: “Các thiên thần không dám nhận lễ lạy của người thụ ngũ giới. Người đứng đầu đất nước cũng không muốn tì-kheo lễ lạy mình vì sợ hao tổn công đức và tuổi thọ”.
Kinh Niết-bàn ghi: “Đức Phật bảo Ca-diếp:
- Nếu có người kiến lập và hộ trì chính pháp như thế, nên theo thưa thỉnh người ấy giảng dạy và phải xả thân cúng dường người ấy giống như Ta nói về kinh Đại thừa ấy:
Người hiểu biết chính pháp,
Dù già hay còn trẻ,
Nên cúng dường vị ấy,
Cung kính và lễ lạy,
Giống như bà-la-môn,
Chuyên tâm thờ cúng lửa.
Người hiểu biết chính pháp,
Dù già hay còn trẻ,
Nên cúng dường vị ấy,
Cung kính và lễ lạy,
Cũng như các vị trời,
Phụng thờ trời Đế Thích.
Ca-diếp thưa:
- Nếu có vị trưởng lão tôn túc hộ trì giới cấm theo tì-kheo trẻ tuổi học hỏi những điều chưa biết, có nên kính lễ tì-kheo kia không? Nếu lễ kính thì không gọi là người trì giới.
Nếu có tì-kheo trẻ tuổi giữ gìn giới cấm theo học hỏi những điều chưa biết với các tì-kheo lớn tuổi phá giới thì có phải lễ lạy tì-kheo ấy không? Trong Phật pháp, người trẻ tuổi phải nên cung kính bậc trưởng lão tôn túc nhiều tuổi, vì vị ấy thụ giới cụ túc và thành tựu các uy nghi trước. Do đó, phải nên cung kính cúng dường các vị ấy.
Nếu người xuất gia theo học hỏi những điều chưa biết với người tại gia, có nên lễ lạy người tại gia không? Người xuất gia không nên lễ kính người tại gia”.
Kinh Trung a-hàm ghi: “Làm thế nào biết được người nào trội, người nào kém? Đó là tì-kheo, biết có hai hạng người: người có lòng tin và người không có lòng tin. Người có lòng tin là người trội hơn, người không có lòng tin không bằng được. Người có lòng tin lại có hai hạng: thường đến gặp tì-kheo và không thường đến gặp tì-kheo. Người thường đến gặp tì-kheo thì trội hơn, người ít đến gặp tì-kheo chẳng bằng được. Người thường đến gặp tì-kheo lại có hai hạng: người lễ kính tì-kheo và người không lễ kính tì-kheo. Người lễ kính tì-kheo thì trội hơn, người không lễ kính tì-kheo chẳng bằng được. Người lễ kính tì-kheo lại có hai hạng: người hỏi kinh và người không hỏi kinh. [17a] Người hỏi kinh thì trội hơn, người không hỏi kinh chẳng bằng được”.
Kinh Cựu tạp thí dụ ghi: “Ngày xưa, có vị quốc vương đi tuần du, mỗi lần gặp sa-môn, liền vội xuống xe đỉnh lễ. Có một đạo nhân bảo:
- Đại vương hãy thôi đi! Không cần bước xuống xe!
Nhà vua nói:
- Ta bước lên đấy chứ, đâu có bước xuống. Sở dĩ ta nói bước lên, không phải là bước xuống là bởi nay lễ đạo nhân, sau khi qua đời, ta sẽ sinh lên trời”.
Luận Thiện kiến ghi: “Vua Thâu-đầu-đàn-na[16] lễ Phật xong, liền bạch:
- Đến nay, con đã ba lần lễ Đức Thế Tôn. Lần thứ nhất, lúc Phật mới đản sinh, A-di[17]xem tướng bảo: “Nếu là tại gia, đứa bé này sẽ làm Chuyển luân thánh vương. Nếu xuất gia học đạo, đứa bé này chắc chắn sẽ thành Phật”. Bấy giờ mặt đất chấn động, con thấy thần lực ấy, liền lạy Đức Thế Tôn. Lần thứ hai, con ra khỏi cung đi chơi, xem người cày ruộng. Khi ấy, bồ-tát ngồi ở cội cây diêm-phù, mặt trời đã xế, nhưng bóng cây vẫn dừng lại phía trên để che bồ-tát, không dời chuyển. Thấy thần lực ấy, con liền lạy Đức Thế Tôn. Lần thứ ba, nay con đón tiếp Thế Tôn đến nước con, Ngài đã bay lên không trung hiện mười tám thứ thần biến, như thần lực vô úy hàng phục ngoại đạo, thấy thế, con liền cúi lạy”.
Kinh Trung a-hàm cũng ghi: “Bấy giờ, Đức Phật bảo các tì-kheo:
- Vào thời quá khứ, mỗi lần đến ngồi trong vườn, Thích-đề-hoàn-nhân thường ra lệnh cho người đánh xe sửa soạn xe ngựa. Sửa soạn xong, người đánh xe tâu cho vua biết. Lúc ấy, trời Đế Thích liền bước xuống điện Thường Thắng, hướng về phía đông lễ Phật. Người đánh xe thấy thế, lòng rất kinh ngạc, dựng đứng chân lông, chiếc roi ngựa rơi xuống đất. Thấy vậy, Đế Thích liền nói kệ:
Sao ngươi lại hoảng sợ
Rơi roi ngựa xuống đất?
Người đánh xe dùng kệ đáp:
Thấy thiên vương Đế Thích,
Phu quân của Xá-chi[18],
Sở dĩ lòng sợ hãi,
Rơi roi ngựa xuống đất,
Vì thường thấy Đế Thích
Khắp các cõi lớn, nhỏ,
Bốn thiên vương hộ đời,
Và các trời Đao-lợi,
Thảy đều cung kính lễ,
Ngài Đế Thích thiên vương.
Còn bậc tôn quí nào,
Tôn quí hơn Đế Thích,
Nay ngài hướng phía đông,
Chắp tay cung kính lễ?
Đế Thích nói kệ đáp:
[17b]Đối với tất cả vua,
Lớn, bé trong thế gian,
Bốn thiên vương hộ thế,
Và các trời Đao-lợi,
Quả ta tôn quí nhất,
Tất cả tôn kính ta,
Nhưng thế gian có bậc,
Chứng quả Đẳng chính giác,
Hiệu là Mãn Đại Sư,
Nên ta dập đầu lễ.
Người đánh xe lại thưa:
Hẳn tối thắng trong đời,
Mới khiến trời Đế Thích,
Chắp tay về phía đông,
Cung kính dập đầu lễ,
Nay tôi cũng sẽ lễ,
Người mà Thiên vương lễ.

_________________________________
Tri Âm Quán_Thị Trấn Chũ_Lục Ngạn_Bắc Giang
http://quoccuonglucngan.blogspot.com/
Về Đầu Trang Go down
https://triamquan.forumvi.com/
Tri Âm Quán
Thành Viên Tích Cực
Thành Viên Tích Cực
Tri Âm Quán


Tổng số bài gửi : 6340
Reputation : 2
Join date : 31/07/2013
Đến từ : Thị Trấn Chũ

Thiện ác nghiệp báo  Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Thiện ác nghiệp báo    Thiện ác nghiệp báo  EmptySun Oct 06, 2013 7:23 pm

Phật bảo các tì-kheo:
- Thiên Đế Thích kia là vua cõi trời Tự Tại còn cung kính Phật. Tì-kheo các ông xuất gia học đạo cũng nên cung kính Phật như vậy. Thiên Đế Thích kia, chồng của Xá-chi, cung kính lễ pháp và tăng, cũng khen ngợi người lễ kính pháp và tăng. Các ông đã có lòng chính tín xuất gia học đạo, thì cũng nên kính lễ pháp và tăng, ngoài ra, còn phải khen ngợi người lễ kính pháp và tăng.
Bấy giờ, Đế Thích từ điện Thường Thắng bước xuống, chắp tay hướng về các phương, lễ một cách cung kính. Thấy trời Đế Thích bước xuống khỏi điện, đứng ở giữa sân, chắp tay cung kính hướng về các phương, người đánh xe sợ hãi, buông chiếc roi ngựa rơi xuống đất, nói kệ:
Tại sao Kiều-thi-ca,
Tôn trọng người không nhà?
Giảng nghĩa ấy cho tôi,
Tôi khao khát muốn nghe.
Thiên Đế Thích nói kệ đáp:
Ta cung kính người kia,
Bậc xuất gia không nhà,
Tự tại dạo các phương,
Đến bất cứ nơi đâu,
Mọi đất nước, thành thị,
Lòng đều chẳng vướng bận,
Không chứa vật mưu sinh,
Một đường định vô dục,
Đến  đi chẳng cầu gì,
Chỉ vui thú vô vi,
Khi nói toàn lời thiện,
Lúc im, tâm vắng lặng,
Các trời, a-tu-la
Thường xuyên chống đối nhau,
Loài người tranh giành nhau,
Chống nhau cũng như thế.
[17c] Chỉ có người xuất gia,
Không màng việc tranh đấu,
Buông bỏ hết dao, gậy,
Chẳng hại các chúng sinh,
Lìa sắc đẹp, tiền của,
Không say, không phóng túng,
Xa rời mọi điều ác,
Nên ta phải kính lễ.
Người đánh xe lại nói kệ:
Người thiên vương tôn kính,
Chắc là quí trong đời,
Nên tôi từ hôm nay,
Sẽ lễ người xuất gia”.
Kinh A-dục vương ghi: “Ngày xưa, có lần trông thấy một sa-di bảy tuổi, vua A-thứ-già muốn đưa chú sa-di đến chỗ khuất để lễ, bèn bảo:
- Chú đừng nói với mọi người rằng ta lễ chú nhé!
Lúc ấy, trước mặt có một cái bình đựng nước, chú sa-di liền chui vào đó, rồi lại chui ra, bảo:
- Đại vương đừng nói với ai rằng có sa-di chui vào, chui ra từ bình dựng nước nhé!
Nhà vua liền nói:
- Ta sẽ nói cho mọi người biết. Đừng trốn nữa!”
Vì thế, các kinh đều ghi: “Sa-di tuy còn nhỏ nhưng mọi người cũng không nên xem thường. Con vua tuy còn bé, nhưng mọi người cũng không nên xem thường. Rồng con tuy còn bé, nhưng mọi người cũng không nên xem thường. Sa-di tuy còn bé, nhưng có thể độ được mọi người. Con vua tuy còn bé, nhưng có thể giết được người. Rồng con tuy còn bé, nhưng có thể tạo mây, làm mưa, sấm, chớp. Đừng thấy họ bé mà xem thường!”.
Kinh Phó pháp tạng ghi: “Xưa kia, sau khi Phật vào niết-bàn được một trăm năm, có vua A-dục kính tin tam bảo, thường tổ chức đại hội Ban-già vu-sắt[19]. Đến ngày hội, nhà vua tắm rửa bằng nước thơm, mặc áo mới, lên lầu cao, đỉnh lễ bốn phương và thỉnh chư tăng. Có hai mươi vạn thánh tăng bay đến. Lòng tin sâu xa của vua thật khó lường. Gặp sa-môn, dù già hay trẻ, dù phàm hay thánh, nhà vua đều đón tiếp, thăm hỏi và cung kính lễ lạy. Bấy giờ, có một vị quan tên Dạ-xa mang tà kiến nặng, không có lòng kính tin. Thấy nhà vua lễ lạy chư tăng, ông ta nói: “Nhà vua thật không có trí tuệ, tự hạ thấp thân tôn quí đức độ, lễ lạy trẻ con”. Nghe lời ấy, nhà vua liền ra lệnh cho các quan cho người tìm đầu thú vật đã chết, mỗi vị dâng một đầu thú. Riêng Dạ-xa, vua sai tìm một đầu người. Sau khi mọi người tìm được đầu, vua lại ra lệnh họ mang ra chợ bán. Tất cả các đầu thú đều bán được. Nhưng cái đầu người Dạ-xa cầm, ai trông thấy cũng ghét bỏ, khinh chê, chẳng ai mua. Qua mấy ngày sau, cái đầu người ấy sắp thối. Mọi người trông thấy đều mắng chửi Dạ-xa và nói:
[18a] - Ông hiện nay không phải là hạng người chiên-đà-la, hoặc dạ-xoa, hay la-sát, tại sao ông lại tìm đầu người để bán?
Sau khi bị mắng chửi, Dạ-xa vào cung tâu:
- Đi bán đầu người, thần bị nhiều người chửi mắng! Không có ai muốn nhìn đầu người, huống gì mua.
Nhà vua bảo:
- Nếu không có ai mua, ông hãy cho không đi!
Vâng lời vua, Dạ-xa lại đem đầu người ra chợ, bảo mọi người:
- Người nào không có tiền để mua sắm thì tôi cho không cái đầu này.
Người đi chợ nghe thấy thế, lại càng mắng chửi Dạ-xa thậm tệ hơn, chẳng ai chịu lấy cái đầu. Dạ-xa hổ thẹn, trở về cung vua, chắp tay tâu:
- Cái đầu này thật khó bán. Thần cho không cũng không ai lấy, ngược lại, còn bị mắng chửi!
Nhà vua hỏi Dạ-xa:
- Vật gì quí nhất?
Dạ-xa thưa:
- Người quí nhất.
Nhà vua hỏi:
- Nếu quí, tại sao bán không được?
Dạ-xa đáp:
- Người sống tuy quí, nhưng chết rồi thì rẻ mạt.
Nhà vua lại hỏi:
- Nếu ta chết, đầu ta cũng rẻ mạt như thế chăng?
Dạ-xa hoảng sợ, không dám trả lời.
Nhà vua liền bảo:
- Ta cho phép, ngươi đừng sợ, phải trả lời thành thật!
Sợ hãi, không dám ngửng đầu lên, dạ-xa đáp:
- Nếu đại vương chết thì đầu ngài cũng  rẻ mạt như cái đầu này.
Nhà vua hỏi tiếp:
- Nếu ta chết thì đầu ta cũng giống như cái đầu hèn mạt này. Thế thì, tại sao ngươi ngạc nhiên về việc ta lễ kính chư tăng? Nếu ngươi đúng là bạn tốt của ta, phải nên khuyên ta đem cái đầu mong manh đổi lấy cái đầu bền chắc. Tại sao nay ngươi ngăn cản ta lễ lạy chư tăng?
Nghe vua nói thế, Dạ-xa mới hối hận, tự trách mình, bỏ tà kiến, theo chính kiến, qui kính tam bảo.
Vì nhân duyên ấy, chúng sinh nào được nghe hoặc thấy tam bảo, phải nên chí tâm cung kính lễ bái”.
I.3.3. Tổn giảm
Kinh Tượng pháp quyết nghi ghi: “Tất cả mọi người tại gia, không kể sang hay hèn, đều không được đánh đập người phục dịch và súc vật của tam bảo, không được nhận lễ lạy của người phục dịch ấy. Nếu không, sẽ bị tội”.
Kinh Tát-già-ni-kiền ghi: “Nếu người nào phá chùa, tháp Phật, hoặc lấy vật của tam bảo, hoặc bảo người khác làm các việc ấy, hoặc vui mừng khi thấy người khác làm, hoặc đánh đập, trói, nhốt, bắt hoàn tục hoặc giết sa-môn mặc y nhuộm trì giới hay phá giới, thì phạm trọng tội căn bản, chắc chắn sẽ chịu khổ sở trong địa ngục vô gián. Nếu đất nước nào có vị vua làm những việc bất thiện ấy, các tiên nhân và thánh nhân sẽ bỏ đi khỏi nước ấy, các thần có thế lực sẽ không bảo vệ nước ấy, các quan tranh giành, khắp nơi binh biến, thiên tai xảy ra, gió mưa trái thời, nhân dân đói kém, giặc cướp tung hoành, bệnh dịch tràn lan, người chết vô số. Vì không biết đó là do tự mình gây ra, nên vua nước ấy thường oán trách chư thiên”.
[18b] Kinh Nhân vương ghi: “Quốc vương và các đại thần tự cậy mình cao quí, nên chế định ra luật lệ để hủy diệt pháp của Ta như ngăn cấm không cho xuất gia, không cho tạo tượng Phật, đặt chức thống quan để kiểm soát tăng đoàn, lập sổ ghi chép lý lịch tăng sĩ, bắt tì-kheo đứng dưới đất trong khi người tại gia ngồi trên cao. Quốc vương và thái tử ngang ngược lập ra các biện pháp ngăn cấm, không theo lời Phật, phá hoại tăng đoàn, các thống quan kiểm soát tăng đoàn, dùng sổ sách quản lý tăng tịch, khống chế, khiến chư tăng chịu nhiều khó khăn, Phật pháp không tồn tại được lâu”.
Kinh Đại tập ghi: “Đức Phật nói:
- Tất cả chúng sinh đời này và đời vị lai phải nên tin sâu Phật, pháp và chư tăng. Những chúng sinh đó thường được hưởng quả báo tốt đẹp trong cõi trời và người, sẽ sớm được vào thành vô úy. Những chúng sinh làm các việc như thế, cho đến cúng dường một người xuất gia vì Ta hoặc theo Ta cạo bỏ râu tóc, mặc ca-sa, song không thụ giới, cũng được công đức…, cho đến được vào thành vô úy. Vì nhân duyên ấy, Ta nói: ‘Nếu có chúng sinh nào vì Ta xuất gia, cạo bỏ râu tóc, mặc ca-sa, mà không giữ giới cấm, những người đó đều đã được ấn chứng bằng ấn niết-bàn. Nếu có người dùng các cách sai trái để quấy rối, mắng chửi, chê bai, hoặc dùng tay, dao, gậy đánh, trói, chặt, cắt người xuất gia không giữ giới, hoặc đoạt y, bát và các dụng cụ sinh nhai của họ, thì đó là kẻ hủy hoại pháp thân và báo thân của chư Phật ba đời, là kẻ chọc vào mắt của tất cả trời, người, muốn phá hoại chính pháp của chư Phật và làm hủy diệt hạt giống tam bảo, khiến trời và người không còn được hưởng lợi ích, giúp ba đường ác lớn mạnh khắp nơi. Do đó, kẻ ấy sẽ đọa địa ngục’.
Bấy giờ, vị chúa thế giới Ta-bà là Đại Phạm Thiên vương thưa Phật:
- Nếu có người theo Phật cạo bỏ râu tóc, mặc ca-sa mà không thụ giới cấm hoặc thụ giới rồi vi phạm, bị vua dòng Sát-đế-lợi quấy rối, mắng chửi, đánh đập, bắt trói, thì vị vua ấy bị tội thế nào?
Đức Phật bảo:
- Này, Đại Phạm vương! Nay Ta sẽ nói sơ qua cho ông nghe. Nếu có  người làm cho thân vạn ức Phật chảy máu, người ấy bị tội có nhiều không?
Đại Phạm vương đáp:
[18c] - Nếu chỉ làm thân một Đức Phật chảy máu thì cũng mắc vô lượng tội vô gián, không thể tính được, sẽ đọa đại địa ngục A-tì, huống gì kẻ làm thân vạn ức Đức Phật chảy máu. Trừ Đức Thế Tôn ra, không ai nói hết được quả báo nghiệp tội của kẻ kia.
Đức Phật dạy:
- Đại Phạm vương! Nếu có kẻ quấy rối, mắng chửi, đánh, trói người đã vì Ta mà cạo bỏ râu tóc, mặc ca-sa, không thụ giới cấm hoặc thụ giới rồi vi phạm, kẻ ấy mắc tội còn nhiều hơn kẻ (làm thân Phật chảy máu) kia. Vì sao? Vì người xuất gia ấy còn có thể chỉ dạy con đường niết-bàn cho trời và người, người ấy đã ở trong hàng tam bảo nên lòng kính tin sâu chắc hơn tất cả chín mươi lăm phái ngoại đạo, người ấy chắc hẳn vào niết-bàn nhanh hơn tất cả mọi người tại gia, trừ người tại gia chứng được pháp nhẫn nhục. Vì thế, trời và người phải nên cúng dường người ấy, huống gì người thường giữ gìn giới cấm, ba nghiệp phù hợp chính pháp. Tất cả quốc vương, các quan và đoán sự tăng[20] nếu thấy người xuất gia theo giáo pháp của Ta phạm tội nặng như sát sinh, trộm cắp, làm hoen ố phạm hạnh, nói dối, hoặc các việc bất thiện khác, hãy trục xuất người ấy khỏi đất nước, không cho làm việc chung với tăng chúng trong chùa, nhưng không được đánh đập, chửi mắng, kết tội. Nếu ai cố ý làm trái, trách phạt người xuất gia ấy thì người này đã lạc mất đường giải thoát, chịu làm hạng thấp kém, xa lìa mọi đường thiện trời và người, chắc chắn sẽ vào địa ngục A-tì, huống gì kẻ đánh đập người xuất gia theo Phật và giữ gìn đầy đủ giới cấm”.
Kinh Thập luân ghi: “Đức Phật bảo:
- Này thiện nam! Có bốn hạng tăng. Đó là: Đệ nhất nghĩa tăng, Thanh tịnh tăng, Á dương tăng và Vô tàm quí tăng.
Đệ nhất nghĩa tăng là gì? Đó là bảy bậc: Phật, bồ-tát, bích-chi phật và bốn quả sa-môn.
Thế nào là Thanh tịnh tăng? Đó là những vị tăng giữ gìn đầy đủ giới cấm.
Thế nào là Á dương tăng? Đó là tăng không biết các việc: phạm hay không phạm, tội nặng hay tội nhẹ, lỗi nhẹ có thể sám hối. Đó hạng tăng ngu dốt, không có trí tuệ, không gần gũi thiện tri thức, không thường xuyên thưa hỏi nghĩa sâu xa. Dù thiện hay bất thiện, những tướng như thế đều gọi là á dương tăng.
Thế nào là Vô tàm quí tăng? Đó là những người vì mưu sinh mà vào Phật pháp, hủy hoại pháp, phá hòa hợp tăng, không sợ quả báo đời sau, buông lung lục tình, tham đắm ngũ dục”.
Bốn hạng tăng này, người tại gia đều phải cung kính.
[19a] Kinh Đại bi ghi: “Đức Phật bảo A-nan:
- Trong pháp của Ta, dẫu cho người tính là sa-môn, đắp ca-sa mà làm hoen ố hạnh sa-môn, tự xưng là sa-môn, thì trong kiếp Hiền, đầu tiên là Di-lặc Như Lai, cuối cùng là Lô-già Như Lai, một nghìn vị Phật như thế vào cõi niết-bàn vô dư rồi, những sa-môn kia lần lượt sẽ được vào niết-bàn không sót một ai. Vì sao? Vì tất cả sa-môn như vậy, ngay cả người xưng tụng danh hiệu Phật một lần, hoặc một lần khởi lòng tin, mọi công đức ấy đều không uổng phí.
A-nan! Ta dùng Phật trí suy lường biết được hết pháp giới. Tất cả nghiệp thiện đều được quả báo thiện, nghiệp ác đều chịu quả báo ác. Những chúng sinh có tâm thanh tịnh, nếu xưng niệm: ‘Nam-mô Phật’, nhờ thiện căn này, họ chắc chắn sẽ được gần niết-bàn, huống gì là gặp Phật, gần gũi phụng sự và cúng dường”.
Kinh Thập luân ghi: “Đức Phật dạy:
- Nếu các tì-kheo xuất gia theo Phật pháp, tất cả trời, người, a-tu-la đều nên cúng dường. Nếu vị ấy giữ gìn giới pháp thì không nên trách phạt, trói, nhốt, hoặc chặt tay chân, hoặc giết chết. Vì những việc ấy đều không đúng pháp. Nếu có tì-kheo phá giới, không có Phạm hạnh mà nói mình giữ Phạm hạnh, thì giống như cái nhọt mủ vỡ, người ấy đã lạc mất thánh đạo, quả chứng đã bị phiền não hủy hoại. Nhưng họ vẫn còn có khả năng chỉ bảo cho tất cả trời, rồng, người và phi nhân v.v…  biết kho báu chính pháp. Vì thế, người theo Ta xuất gia, dù giữ giới hoặc phá giới, Ta đều không chấp nhận các vua, hoặc tể tướng, đại thần trách phạt, trói, giam, đánh đập, chặt tay chân, giết chết, huống gì tì-kheo phá giới vì phạm các lỗi nhỏ về oai nghi. Dẫu người ấy chết rồi, giới ấy vẫn còn sức mạnh, cũng như ngưu hoàng[21] trong thân trâu, tuy trâu chết rồi, mà người ta vẫn lấy dùng, hoặc như xạ hương vẫn còn có ích sau khi con hươu xạ đã chết. Tì-kheo phá giới còn có khả năng đem lại lợi ích cho tất cả chúng sinh. Tì-kheo ác hạnh tuy phạm giới cấm, nhưng sức mạnh của giới còn làm được các lợi ích cho vô lượng trời và người, giống như hương đốt rồi thì tàn rụi, nhưng mùi thơm của nó đã xông ướp vào người khác khiến họ trở nên thơm. Tì-kheo phá giới cũng như vậy, tự thân đọa đường ác, nhưng có thể làm cho chúng sinh tăng trưởng căn lành.
Vì lý do ấy, tất cả người tại gia không nên xúc phạm, khinh rẻ tì-kheo phá giới, mà nên bảo vệ, tôn trọng và cúng dường vị ấy, không cho phép ai phạt trách, giam, trói, hoặc giết chết vị ấy”.
Bấy giờ, Đức Phật nói kệ:
Hoa chiêm-bặc tuy héo,
Vẫn quí hơn hoa khác.
Các tì-kheo phá giới,
Còn tốt hơn ngoại đạo.
[19b] Trong kinh Đại tập, Đức Phật nói kệ:
Cạo đầu, mặc ca-sa,
Giữ giới và phá giới,
Trời, người nên cúng dường,
Thường giúp không thiếu thốn,
Cúng dường người như vậy,
Chính là cúng dường Ta.
Nếu vì cung kính pháp,
Nên cạo đầu qui y,
Thân đắp y ca-sa,
Ấy chính là con Ta,
Giả sử phá giới cấm,
Vẫn trụ địa Bất thoái.
Nếu ai đánh người ấy,
Tức là đánh đập Ta,
Nếu ai chửi người ấy,
Tức là chửi mắng Ta.
Tâm người kia muốn hủy,
Ngọn đèn lớn chính pháp.
Đánh nhau giành của cải,
Vua chúa cùng nổi giận.
Kinh Thập luân ghi: “Đời xưa, có vị vua tên Phúc Đức. Một hôm, có một tì-kheo phạm tội bị bắt trói, nhưng nhà vua không muốn giết, bèn sai đưa người ấy đến chỗ một con voi điên. Nó dùng vòi túm hai chân người ấy, định ném xuống đất, nhưng nhìn thấy người ấy mặc áo hoại sắc, nó liền nhẹ nhàng đặt người ấy xuống đất, không dám làm tổn thương. Nó ngồi xuống dùng mũi ngửi chân người ấy và tỏ lòng thương mến.
Này thiện nam! Voi là loài vật, nhưng thấy người mặc áo hoại sắc, nó còn không nảy sinh tâm độc ác làm hại. Đến đời vị lai, có vua Chiên-đà-la thấy trong pháp của Ta có người xuất gia có thể nhận lĩnh trách nhiệm pháp khí, song đã không trở thành bậc pháp khí. Do đó, nhà vua hành hạ hoặc giết người ấy. Sau khi qua đời, ông vua ấy chắc chắn bị đọa địa ngục A-tì”.
Hãy nghe bài tụng:
Ngựa hay nhờ roi thúc,
Hoa cậy gió đưa hương,
Khó gặp lý cao tột,
Không người, loài nào thông?
Thành tâm cầu viên mãn,
Thấu suốt chỗ vi diệu,
Nắm trọn hết ba cõi,
Quyền quí như ảo mộng,
Của tiền tựa bụi mù,
Mãi lìa xa cõi tục,
Thong dong khỏi lụy phiền.
 
Giác Chính dịch


[1] Cõi Tam thiên (Tam thiên thế giới 三千世界; Cg: Tam thiên đại thiên thế giới; S: tri-sāhasra-mahā-sāhasra-loka-dhātu): cõi Tam thiên đại thiên. Vũ trụ quan của người Ấn Độ thời xưa. Lấy núi Tu-di làm trung tâm, chung quanh có bốn đại châu và chín lớp núi, tám lớp biển là một Tiểu thế giới, một nghìn Tiểu thế giới hình thành một Tiểu thiên thế giới, một nghìn Tiểu thiên thế giới hợp thành một Trung thiên thế giới, một nghìn Trung thiên thế giới hợp thành Đại thiên thế giới, vì Đại thiên thế giới này có ba loại thiên thế giới là tiểu, trung và đại tập hợp thành nên gọi là Tam thiên đại thiên thế giới.
[2] Ca-diếp 迦葉 (S:Mahā-kāśyapa): một trong mười đại đệ tử của Đức Phật, ngài là vị tu hạnh đầu đà bậc nhất.
[3] Trời Ứng Thanh (Ứng Thanh thiên 應聲 天; Cg: Tha Hóa Tự Tại thiên; S: Para-nirmita-vaśa-vartin): tầng trời thứ sáu trong sáu tầng trời cõi Dục. Cõi trời này nhờ niềm vui mà người khác hóa độ được để thành tựu niềm vui của mình.
[4] Ngũ cái 五蓋 (S: pañca āvaraṇāni): năm thứ phiền não ngăn che chân tính của con người. Đó là tham dục, sân khuể, hôn trầm thuỳ miên, trạo cử và nghi.
[5] Nhân bảo 人寶: từ khen ngợi Đức Phật là của báu trong loài người. Ở đây chỉ cho người phụ nữ nghe pháp và chứng quả Tu-đà-hoàn.
[6] Năm đường (ngũ đạo 五道; S: pañca gatayaḥ): năm nơi mà loài hữu tình hướng đến như trời, người, địa ngục, ngạ quỉ, súc sinh.
[7] Bốn quả (tứ quả 四果): bốn quả vị mà hàng thanh văn thuộc Tiểu thừa chứng được. Giai đoạn theo thứ lớp như quả Tu-đà-hoàn, Tư-đà-hàm, A-na-hàm, A-la-hán.
[8] Đồng tử Tuyết Sơn (Tuyết Sơn đồng tử 雪山童子): tên của Đức Thích Tôn lúc tu hạnh bồ-tát ở đời quá khứ.
[9] Lậu tận ý giải 漏盡意解: đoạn trừ tất cả phiền não, tâm hoàn toàn giải thoát.
[10] Bốn đường ác (tứ ác thú 四惡趣): bốn nơi mà chúng sinh tạo nghiệp ác phải sinh vào đó chịu quả khổ. Đó là địa ngục, ngạ quỉ, súc sinh và A-tu-la.
[11] Sáu giới trọng (lục trọng giới 六重戒; Cg: lục trọng pháp): sáu giới trọng mà hàng ưu-bà-tắc phải thụ trì. Đó là không sát sinh, không trộm cướp, không nói dối, không tà dâm, không nói lỗi bốn chúng, không uống rượu.
[12] Ba khuỷu tay (tam khuỷu 三肘): từ đo lường. Theo HanyuDacidian, một khuỷu tay bằng một thước năm tấc, ba khuỷu bằng bốn thước năm tấc.
[13] Kinh Sinh 經生 (Cg: kinh Thủ): kinh sách được ghi chép, sửa chữa để lưu truyền.
[14] Bát tạng 八藏: tám tạng giáo. Theo phẩm Xuất kinh trong kinh Bồ-tát Xử thai thì thánh giáo của Đức Phật được chia làm tám loại như thai hóa, trung ấm, ma-ha-diễn phương đẳng, giới luật, thập trụ bồ-tát, tạp tạng, kim cương, Phật tạng.
[15] Ba kì (tam kì 三祇): tức ba a-tăng-kì.
[16] Vua Thâu-đầu-đàn-na (Thâu-đầu-đàn-na vương 輸頭檀那王; S: Śuddhodana): vua Tịnh-phạn, cha của thái  tử Tất-đạt-đa.
[17] A-di 阿夷 (S: ārya): tức tiên A-tư-đà.
[18] Xá-chi 舍脂: đệ nhất thiên hậu của trời Đế Thích, con gái của a-tu-la.
[19] Hội Ban-già vu-sắt (Ban-già vu-sắt hội 般遮于瑟會; S: pañca-vārṣika-maha): đại hội Vô-già. Đó là trai hội cúng dường tất cả mọi người, do vua A-dục tổ chức năm năm một lần.
[20] Đoán sự tăng 斷事僧: vị tì-kheo thông hiểu giới luật, chuyên xử lý các việc vi phạm giới luật của tăng, ni trong tăng đoàn. Chức này tương đương chức giám luật ngày nay.
[21] Ngưu hoàng 牛黃: sạn trong mật của trâu, bò được dùng làm một vị thuốc.

_________________________________
Tri Âm Quán_Thị Trấn Chũ_Lục Ngạn_Bắc Giang
http://quoccuonglucngan.blogspot.com/
Về Đầu Trang Go down
https://triamquan.forumvi.com/
Sponsored content





Thiện ác nghiệp báo  Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Thiện ác nghiệp báo    Thiện ác nghiệp báo  Empty

Về Đầu Trang Go down
 
Thiện ác nghiệp báo
Về Đầu Trang 
Trang 1 trong tổng số 1 trang
 Similar topics
-
» Cách dịch: “Thiên thượng thiên hạ, duy ngã độc tôn” – liệu có đúng?
» Chuyện nhỏ ở vườn thiền. 15 ở Tuệ Tâm Thiền thư quán
» Khóa học thiền tuệ tại Tuệ Tâm Thiền Sư Quán
» Vấn đề linh hồn và nghiệp báo
» Bạn đã tích quá nhiều nghiệp hãy đến đây

Permissions in this forum:Bạn không có quyền trả lời bài viết
Tri Âm Quán - Lục Ngạn - Bắc Giang :: Căn Bản Phật Pháp-
Chuyển đến