Tri Âm Quán - Lục Ngạn - Bắc Giang
Chào bạn đã ghé thăm Tri Âm Quán_Thị Trấn Chũ_Lục Ngạn_Bắc Giang!
Diễn Đàn là nơi giao lưu kết bạn, sưu tầm, lưu trữ, học hỏi và chia sẻ kiến thức.
Để cùng nhau tiến bộ trên con đường hướng thiện.
Chúc bạn sức khỏe và có nhiều thành công mới trong cuộc sống!

Om mani pad me hum
Tri Âm Quán - Lục Ngạn - Bắc Giang
Chào bạn đã ghé thăm Tri Âm Quán_Thị Trấn Chũ_Lục Ngạn_Bắc Giang!
Diễn Đàn là nơi giao lưu kết bạn, sưu tầm, lưu trữ, học hỏi và chia sẻ kiến thức.
Để cùng nhau tiến bộ trên con đường hướng thiện.
Chúc bạn sức khỏe và có nhiều thành công mới trong cuộc sống!

Om mani pad me hum
Tri Âm Quán - Lục Ngạn - Bắc Giang
Bạn có muốn phản ứng với tin nhắn này? Vui lòng đăng ký diễn đàn trong một vài cú nhấp chuột hoặc đăng nhập để tiếp tục.
Tri Âm Quán - Lục Ngạn - Bắc Giang

Mỗi người đều nhận được hai thứ giáo dục: một thứ do người khác truyền cho; một thứ, quan trọng hơn nhiều, do mình tự tạo lấy.
 
Trang ChínhTrang Chính  CHÍNH TRI Cổ Nhân Icon_portal  Latest imagesLatest images  Đăng kýĐăng ký  Đăng NhậpĐăng Nhập  
Chào mừng các bạn đã ghé thăm Tri Âm Quán_Thị Trấn Chũ_Lục Ngạn_Bắc Giang! Chúc các bạn sức khỏe và thành đạt! Tri Âm Quán_Thị Trấn Chũ_Lục Ngạn_Bắc Giang.

 

 CHÍNH TRI Cổ Nhân

Go down 
Chuyển đến trang : 1, 2  Next
Tác giảThông điệp
Tri Âm Quán
Thành Viên Tích Cực
Thành Viên Tích Cực
Tri Âm Quán


Tổng số bài gửi : 6340
Reputation : 2
Join date : 31/07/2013
Đến từ : Thị Trấn Chũ

CHÍNH TRI Cổ Nhân Empty
Bài gửiTiêu đề: CHÍNH TRI Cổ Nhân   CHÍNH TRI Cổ Nhân EmptySun Apr 16, 2017 11:16 pm

Nguyễn Tử Quang


CHÍNH TRI
Cổ Nhân
Nhà xuất bản Thọ- Xuân


 
Sắp ra :
PHƯƠNG PHÁP CHIA ĐỘNG TỪ
Của Nguyễn Văn Đạt giáo sư trường trung học Nguyễn Đình Chiểu – Định tường
+ Một quyền sách tối cần cho giới học sinh.
+ Một quyền tự vị gồm có 8.000 động-từ thường dùng.
+ Một phương pháp chỉ dẫn thật rành mạch và dễ hiểu.
Giấy phép số: 2189 –XB 19-12-1957
Của nha thông tin Nam Phần
 

NGUYỄN-TỬ QUANG
CHÍNH TRỊ
CỔ NHÂN
(Binh luận những thế dựng nước cảu các chính khách thời xưa ở phương đông)
 

Đôi lời tâm sự
Tiền nhân đã để lại cho chúng ta biết bqo kinh nghiệm quý báu : chinh trị, quân sự v.v...
Những việc làm của tiền nhân dù hay hay dở cũng đều đem lại'cho hậu sinh nhưng bài học giá- trị. Bên cạnh cái thể dựng nước, chính.trị già dặn cua Quản Trọng, Kiến Thúc; Lưu Bị, Già Cát- Lượng, của Hưng Đạo vương Trần Quốc Tuăn, Trạng Trình Nguyên Bỉnh Khiêm v.v,.. có những thủ đoạn bịp bợm, chinh trị giả trá của Tào Tháo, tàn bọo cùa Thương Ưởng, Câu Ttễn, có những chinh sách ngô-nghê của Tống Tương công, Vệ Ý công, có nhúng chủ-trương sai lầm, hẹp hòi, chủ- quan của Ngũ Viên, Từ Thứ, Phụng Sồ v.v... đều xây dựng it hay nhiều cho hậu thế một hệ-thống, tư- tượng.
Biên soọn những việc làm của tiền nhâm những chinh khách cừ khôi ở Đông phương cổ kèm theo lời bình, chúng tôi có ý muõn cùng bạn đọc yêu quý suy ngẫm, nhộn xét, nghiên cứu, học tập những con người ấy đề đúc thành một kinh-nghiêm chung, một hệ-thống tư-tường chung.
Bình luận chuyện người xua Ịà một điều rất
khó khăn. Lấy tầm mắt, trí óc của người nay đề nhộn xét, phê bình việc làm ở một thời-đợi xa xưa cùa ngưừi sõng bao ngàn nam trước, làm sao tránh khỏi được sự sai lầm.
Môi thời đại có một tính-chất lịch-sử đặc-biệt của nó. Một bối cảnh lịch-sử tỗtnhứng sự kiệnn lịc.h-sử dính Iiền theo đó, cho nên láy tầm mắt người nay nhìn người xưa, nhắc chuyện ngưừi xưa dê suy ngầm chuyện người nay, tránh sao được sự lệch-lạc.
Tuy vậy, nhiệm-vụ của kè hậu sinh là buộc phải làm, phải tích-cực bới móc, tìm kiếm . . . pho thi-liệu lịch-sử mà các bậc tiền nhân đả dày công, đổ máu, phơi xương tô điểm. đó là những viên ngọc vô giá đã bị vùi dưới lớp tro bụi của thời gian mà chúng ta cổ bổn phận đào xới để giữ lấy.
Đó là di tích, là hương hoả cho chúng ta,
Chúng ta không đòi hỏi một cái cầu toàn. Nhìn người xưa, dù được một góc cạnh nào đó cũng là điều bổ ích lắm rồi.
Cũng như trên đã nói : bình luận chuyện người xưa là một điều khó  bởi thế, sự nhận xét của soạn giả ghi vào phần binh luận của mọi câu chuyện trong quyền sách này khó tránh được ý thức chủ quan, thiển-cận, vụng về ... thì dù ý kiến có đúng hay sai thế. nào nhưng với thiện chi, với lòng chân thành đối với vấn đề to lớn
trong tư-tưởng giới bạn đọc lẽ nào không rộng lượng tha thứ mà vui vẻ chỉ dạy để quyền sách được hoàn hảo hay sao ?
Quyền phê bình, nhộn xét là quyền chung cửa tốt cả mọi người. Có được sự nhận xét, phế bình chung của mọi người thì vấn để mới được sáng tỏ, sự học hỏi mới tiến bộ, tri thức mớí mở mang.
Kẻ biên soọn quyển sách này thành khẩn đón tiếp lời châu ngọc của bạn đọc.
Đôi lời tâm sự đã xong, vậy xin mời các bạn !
Mùa tháng Tám năm 1957 Soạn giả
NGUYỄN TỬ QUANG
Sa-Đéc
Saturday. May 14.2016
 

CHUỘT Ở NỀN XÃ
Tề cảnh công (1) hỏi Yến tử : (2)
—                Trị nước phải ngăn ngừa gi ?
Yến tử thưa :
—                Lo con chuột ở nền xã. (3)
—                Thế là nghĩa lăm sao ?
Yến từ thưa :
—                Nền xã ken bằng gỗ sơn vẽ, chuột nhân thế mà làm ổ ở trong. Hun thi sợ cháv gỗ, đổ nước vào thì sợ lở sơn, cho nên chuột ấv không thể chết được là vi nền xã vậy Nước ta cũng có chuột nền xã, ấy là kẻ tả hữu của bực cầm quyền. Trong thì che đậy hết những điều hay dở không cho người trên biết; ngoài thi bán quyền thê cho trăm họ. 


Giải nghĩa: (Tề cảnh công  tức công tử Chữ cữu. con của Tề Linh công đời Chiến quốc. Sau khi Tề Trang công bị quyền thần Thôi-Chữ giẽt chểt, thỉ Cảnh công được tôn làm vua.
(2)               Yến tử tức Yến-Anh tên tự bình-Trọng, người lùn, một hiền thứ nhứt ở nước Tề, đời Chiến qaốc, có tài biện luận.'
(3)               Nền xã:  Nền để xây ông Hậu thổ). 


 
Chẳng ai bắt tội giết đi thi họ làm loạn. Bắt tội thi người trên binh vực. Vậv thì khác gì con chuột nền xã.
Nước Tống (1) cỏ người bân rượu rất sạch nhưng rượu dễ chua ra mà chẳng ai mua, mới hỏi người làng vì cớ gì mà không bán đưọc? Ngưòì làng trả lời Chó nhà dữ lắm. Ngưòi ta mang bình vào mua, chỏ nhà ông đón cắn, cho nên rượu nhà ông không bán được ».
Nước cũng cõ chó dữ tức là kẻ cầm quyền Nếu có kẻ sĩ có đạo thuật muốn giúp vua thỉ kẻ cầm quyên đón lấv mã cắn thế lã chó dữ của nước vậy. Kẻ tả hữu làm chuột nền xã, kẻ cầm quyền làm chó dữ nước thi tránh sao khỏi điều lo, người trên tránh sao khỏi nguy.
Tề cảnh công nghe nói rất lấy làm bằng lòng
Chiến quốc sách
 
LỜI BÌNH
Không phải kẻ cầm quyền đều toàn là chuột ở nền xã. Nhưng ở thời nào cũng vậy, trong giới cầm quyền bao giờ cũng có những phần tử bất liềm, bất chánh. .
Họ rất ích'kỷ, ghét bỏ kẻ hiền tài tranh chấp địa-vị, hãm hại người cương-trực, bênh vực kẻ nịnh bợ mình.
Yến tử cho đó là những con chuột ở nền xã. Nền xã do đó mà bị sụp đổ. Quốc gia do những phần tử thúi mục đó mà suy đồi. 


giải nghĩa: 07) Nước Tống một nước chư hâu thời Xuân thu sau bị nước Tề chiếm lấy vào huyện Thượng Khưu, tĩnh Hà nam bây giờ.
 
Bởi vậy, ngựờỉ trên đại diện cho dân-chúng cần biết rõ nhiệm vụ của mình. Trên dưới phải nhứt trí, nhứt tâm, đặt công nghĩa trên tư lợi, lấy đức mà thu phục lòng ngườit nạp dụng hiền tài, nhân sĩ. Như vậy, có lo gì không cỏ hiền tài trổ mặt, nhân sĩ tựu về. Mà một khi có lắm hiền tài nhiều nhân sĩ hết lòng vì nước thì nước há lẽ không trị bình, dân há chẳng yên vui ! Bao giờ người trên thành thật trọng ân nghĩa hơn tư lợi tức là non nước đến vận thái bình. Mối lo ngại nhứt của người cầm vận . nước là lo sợ kẻ tả hữu trên dưới chẳng một lòng, không biết đặt công nghĩa trên tư lợi, khiến nên nối bật đường tiến thân của bực hiền sĩ.
Người cầm vận mạng quốc gia có sáng suốt và cương quyết thanh trừng chuột ớ nền xả thì vận nước mới hưng thạnh, địa vị mới vững vàng.
Một quốc gia mà có nhiều « chuột ở nền xã >> chẳng là một điều đáng lo ngại cho quốc vận lắm ru!

_________________________________
Tri Âm Quán_Thị Trấn Chũ_Lục Ngạn_Bắc Giang
http://quoccuonglucngan.blogspot.com/
Về Đầu Trang Go down
https://triamquan.forumvi.com/
Tri Âm Quán
Thành Viên Tích Cực
Thành Viên Tích Cực
Tri Âm Quán


Tổng số bài gửi : 6340
Reputation : 2
Join date : 31/07/2013
Đến từ : Thị Trấn Chũ

CHÍNH TRI Cổ Nhân Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: CHÍNH TRI Cổ Nhân   CHÍNH TRI Cổ Nhân EmptyMon Apr 17, 2017 11:55 am

MUỐN CHÌNH ĐỐN GIỀNG MỖI CỦA NƯỚC
 
Tề Hoàn công (l) hỏi Quản Trọng (2)
Nước-Tề (3) ta vốn là một nước lớn, tiên quân là Hi-công đối địch được với các nước chư hầu (4) cũng gọi là cường thịnh ; đến đời Tương công, chính lịnh. (5) bất thường đến lỗi gây ra tai biến. Ta đây mới lên nối ngôi, lòng dân chưa định, thế nước chưa yên. nay muốn chỉnh đốn lại cho nên được giềng mối thi phải làm điều gì trước ?
Quản-Trọng thưa :
Lễ, nghĩa, liêm. Sỉ, là bốn điều cốt yếu ở trong nước, nếu bốn điều ấy không giữ được thì tất phải mất nước. Nay chúa công muốn chỉnh đốn lại giềng mối thì nên giữ bốn diều ấy mà trị dân.
Tề Hoàn công lại hỏi :
Làm thế nào mà trị được dân ?
Muốn trị dân, trước nhứt phải yêu dân.
Yêu dân thì phải làm thế nào ?
Yêu dân thi phải dạy dân lấy đạo thân ái.
------------------------------------
Giải nghĩa: 1) Tề Hoàn Công tức công tử Tiểu Bạch,con thứ của Tề tương công. Sau Tề Tương công say mê sắc dục bị giết chết, Tiểu Bạch tranh nhau với công tử củ. con trưởng được lên làm vua.
(2) Quản Trọng tên Duy Ngô. Người có tài trị nước, trước phò công tử củ. Sau sang phò công tử Tiểu Bạch, làm bạn thân với Bảo Thúc Nha.
3) Nước Tề là một nước chư hầu lớn đời xuân thu Chiến quốc ở vào địa phận tỉnh Sơn đông bầy giờ.
(4) Chư hầu : những qúy tộc do nhà vua phân, phong cho để caí trị một miền đất. Có năm bực : công, hầu, bá. Tử. nam. Thứ bậc đời chiến quốc
5). Chính lịnh : Mệnh lệnh về việc cai trị.
------------------------------


Nghĩ cách giúp đỡ, giảm thuế má, khiến cho dân được đông người nhiều của. Đó là cái đạo yêu dân ?
Tề Hoàn Công lại hỏi:
Iàm thế nào dân được yên ?
Muốn cho dân yên thì sĩ, nông, công thương gọi là bốn dân. nên nghĩ cách mở mang, làm cho họ đều giữ được nghề nghiệp.
 
Chiến quốc sách



LỜI BÌNH
Con người mà thiếu lễ, nghĩa, liêm, sỉ thì còn hơn là một Con vật, vì vật đã mang một hình dáng như thế rồi, không còn ai trách cứ nữa. Chỉ có loài người, thiếu tính chất của loài người mới là điều đáng trách.
Một quốc gia mà toàn thể quan dân thiếu lễ độ, không kính người trên, không yêu kẻ dưới, ích- kỷ hại người, chuyên vụ tư lợi. Đục khoét của công thì sớm muộn gì cũng dẫn đến họa diệt vong.
Muốn trị được dân mà không chút yêu thương dân không dạy dân những đạo đức. không phục vụ dân, trái lại chỉ chuyên việc sát phạt, khủng-bố tàn nhẫn có khác nào vua Kiệt nhà Hạ (1) vua Trụ nhà Thương (2). vua Ngọa Triều nhà Tiền.
----------------------------------------
Giải nghĩa:
1, Nhà Hạ do vua Vũ sáng nhiệp truyền đến vua Kiệt. Kiệt lạm dụng quyền uy bóc lột nhân dân. Bắt dân lực dịch nặng nề, dân chịu không được nổi loạn (2.205 - trước tây kỷ nguyên).
2, Nhà Thương:Vua Thành Thang hiệu triệu các chư hầu lật đổ vua Kiệt lên làm vua truyền đến vua Trụ-vua Trụ tàn ác đắm mê Đắc Kỷ. Đặt thuế khóa nặng nề, dùng hình phạt thảm khốc dân gian thán oán. Tám trăm trấn chư hầu đem binh đến diệt (1783 -1735),
-----------------------------------------


Lê (1). vua Nê-rong (Néron) (2) thời cổ La mã thì làm sao dân được bình trị.
Yêu dân phải cải thiện đời sống cho dân bằng việc làm cụ thể.
Nếu công nghiệp được khuếch-xung. mọi ngành hoạt-động kinh tế đều được phát triển, cố nhiên dân có nghề-nghìệp làm ăn, thân được no ấm, chẳng những tránh được nạn trộm cướp loạn lạc, mà dân còn mến đức nhà cầm quyền. càng nỗ lực tăng gia sản xuất làm nước được giàu.
Dân có giàu, nước mới mạnh.
Làm lợi cho dân chẳng những nước được bình trị mà kẻ cầm quyền còn được tăng thêm uy-tín. tiếng tốt ngàn đời.
Làm chinh-trị mà không làm ích nước lợi dân tức là không phải Iàm chính-trị. Đó là chính-trị giả dối, chính-trị đầu cơ.
Cái nguy hạì lớn nhứt cho nhà cầm vận mạng đất nước Ịà chuyên về sát phạt, đục khoét nhân dân. Tưởng rằng chính sách ấy sẽ làm cho nước mạnh, địa vị cá nhân được vững vàng, nhưng đó chỉ chuốc lấy sự căm hờn của dân chúng để cho nước suy đồi, địa vị tan vỡ thế thôi.
Không yêu dân tất dân không bao giờ yêu lại. Có dân nào yêu quý những vua Kiệt, vua Trụ... bao giờ.
----------------------------------------
Giải thích:
1,Vua Ngọa triều: đời tiền Lê tên Long Đình giết anh đoạt lấy ngôi vua, bắt tà phạm quấn rơm tẩm dầu đốt sống, làm nhiều điều bạo ngược, hoang dâm vô độ mắc bịnh ngồi không được phải nằm mà thị triều (1007-1009).



2, Neron: Hoàng đế La Mã (54-68) rất tàn bạo giết em, giết mẹ, giết vợ, giết thầy học, Nerong chủ trương đốt thành cũ để cất lại cho đẹp hơn.



_________________________________
Tri Âm Quán_Thị Trấn Chũ_Lục Ngạn_Bắc Giang
http://quoccuonglucngan.blogspot.com/
Về Đầu Trang Go down
https://triamquan.forumvi.com/
Tri Âm Quán
Thành Viên Tích Cực
Thành Viên Tích Cực
Tri Âm Quán


Tổng số bài gửi : 6340
Reputation : 2
Join date : 31/07/2013
Đến từ : Thị Trấn Chũ

CHÍNH TRI Cổ Nhân Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: CHÍNH TRI Cổ Nhân   CHÍNH TRI Cổ Nhân EmptyWed Apr 19, 2017 11:57 am

UY VÀ ĐỨC

Tề Hoàn Công (1) kéo binh tới địa giới nước Tống (2), cùng với các nước chư hầu bàn việc tiến đánh. Quan đại phu là Ninh Thích (3) thưa với Tề Hoàn công :
· Chúa công phụng mạng thiên tử để hiệu lịnh các nước chư hầu, khiến cho người ta sợ uy, không bằng khiến cho người ta mến đức, cứ như ý tôi thiển nghĩ thì không nên tiến đánh vội. Tôi dẫu hèn mọn dám xin đem ba tấc lưỡi mà bảo được vua nước Tống phải giảng hòa,
Tề Hoàn công bằng lòng. Ninh Thích ngồi chiếc xe nhỏ sang Tống. Quan đại phu nưởc Tống là Đái Thúc-Bì nói vời Tống Hoàn công (4):
· Ninh Thích người có tài ứng đối, bây giờ đến đây có lẽ để du-lhuyết gì đây. Vây chúa công gọi vào, chớ nên trọng đãi, hãy xem ý tứ, nếu hắn nói không hợp lẽ, bấy giờ tôi xin nhấc cái giải áo làm hiệu thi võ sĩ đến bắt hắn giam lại.
Tống Hoàn công khen phải, truyền cho võ sĩ phục cả chung quanh rồi gọi Ninh Thích vào. Ninh- Thích mũ cao áo rộng, ngang nhiên mà vào. Trông thấy Tống Hòan công, Ninh-Thich chấp tay xá một xá. Tống Hoàn cống vẫn nghiễm nhiên, không đáp lại. Ninh-Thích thở dài, than :
-----------------------------------------------------------------
chú thích:
(1- 2) đã có chú thích ở bài ( Chuột ở nền xã)
(3) Ninh Thích : người ở nước Vệ đời Chiến quốc, lúc vận chưa đạt chăn trâu ỏ đất Dao Sơn. Người có tài nên được Tống Hoàn công tin dùng.
(4) Tống Hoàn Công tức công tử Ngự Thuyết.Khi Tống hoàn công bị Nam Cung Trường vạn giết chết, em họ của Mẫn công là công tử Du lên ngôi, sau bi các công tử giết. Ngự Thuyết được suy tôn.
--------------------------------------
· Nguy thay cho nướcTống!
Tống Hoàn Công ngạc nhiên hỏi :
· Ta đây làm vua một nước, phẩm tước hơn cả các nước chư hầu, có việc gì mà nguy.
Ninh-Thich thưa :
· Hiền hậu tự nghĩ xem so với Chắc Công ngày xưa thì ai hiền hơn?
· Chắc Công là bậc thánh nhân, có đâu ta lại dám so sánh.
Ninh-Thtch nói :
· Chắc Công ngày xưa giữa lúc thiên hạ thái bình mà còn phải hết lòng để cầu lấv người hiền sĩ. Trong bữa ăn có người vào thì người vội nhả miếng Cơm để ra tiếp đón, Trong lúc gội đầu. có người hiền đến thì người vội vẫy nắm tóc để ra chào mời. nay HIỀN HẦU LÀ MỘT NƯỚC dòng dõi đã mất rồi (2), lại gặp phải thời buổi cạnh tranh. Dẫu có bắt chước như Châu công hết lòng cầu kẻ hiền sĩ. còn sợ kẻ hiền sĩ không chịu đến huống chi lại còn kiêu-ngạo tự đắc thì những lời nói chung thực bao giờ được đến trước mặt hiền hầu. Như thế Còn gi mà không nguy.
Tống hoàn công ngẩn người ra, vội vàng xích lại gần Ninh-Thich. Bảo :
· Ta mới lên nối ngôi, chưa được nghe những lời dạy của những bực quân tử. xin tiên sinh tha lỗi cho.
Chiến quốc sách
-----------------------------------------------
Chú thích:
/) Châu công ; tức Châu Công đàn em của vua Võ
vương Cơ-Phát. Là một nhà chính trị hiền đức đời nhà
CHÂU- cùng với anh trị nước.
2) Tống là con cháu sau nhà Ân bị nhà Châu chiếm mất rồi phong cho ở nước Tống.
----------------------------------------------
LƠI BÌNH
Trong công cuộc tranh bá đối vương, mạnh được yếu thua.không phải không cần uy.Nếu không có uy thì làm sao chế ngự (/) được các chư-hầu giữ vững được nước. Có thực lực thì lời nói mới được mạnh, ngoại giao mới thắng lợi. Dùng uy lực. Bằng quân sự để làm áp lực. cho ngoại giao, đời nào lại chẳng thế.
Tuy vậy, uy không chưa đủ. Ai có uy bằng vua Hạng (2) nhưng cơ nghiệp cùa vua Hạng có được mấy năm ? Bởi vậy. cái yếu tố quyết định được việc bình trị thiên hạ theo Ninh-Thích, không phải bằng ở uy mà bằng ở đức.
Có đức mới tạo cho mình một uy lực khi đức ấy được thâm nhập ở nhân dân, hàng phục được kẻ thù. Uy do ở đức tạo ra thì uy mới chính, mới vững bền ; trái lại nếu uy mà không xây dựng trên nền tảng đạo-đức thì uy ấy dễ tan vỡ.
Người hiền sĩ bao giờ cũng là người hữu dụng của nước. Người cầm vận mạng nước muốn giữ vững địa vị mình, địa vị nước, không bao giờ dám khinh bạc mội ai, lựa là những bực quân tử hiền nhân.
Lấy đức đối xử với mọi người tạo thành một uy lực, hết lòng cầu kẻ hỉền sĩ đó là hành vi của một kẻ thật tâm muốn dựng nước ;muốn bình trị thiên hạ.
------------------------------------------------------
Chú thích:
1) Chế trị bắt buộc người ta phải theo
2) Vua Hạng: tức Sở Hạng Võ người đời nhà Tần có sức mạnh và hùng bạo nhất, cùng với Lưu Bangnổi lên dẹp được nhà Tần gây thành cuộc Hán Sở tương tranh, sau bị nhà Hán đánh bại tự tử ở Ô Giang.

_________________________________
Tri Âm Quán_Thị Trấn Chũ_Lục Ngạn_Bắc Giang
http://quoccuonglucngan.blogspot.com/


Được sửa bởi Tri Âm Quán ngày Mon May 22, 2017 3:42 pm; sửa lần 1.
Về Đầu Trang Go down
https://triamquan.forumvi.com/
Tri Âm Quán
Thành Viên Tích Cực
Thành Viên Tích Cực
Tri Âm Quán


Tổng số bài gửi : 6340
Reputation : 2
Join date : 31/07/2013
Đến từ : Thị Trấn Chũ

CHÍNH TRI Cổ Nhân Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: CHÍNH TRI Cổ Nhân   CHÍNH TRI Cổ Nhân EmptyThu Apr 20, 2017 9:00 am

NHỮNG QUAN HẠC


Ý công nước Vệ (1) lên ngôi đã chín năm nhưng tính rất lười biếng, chẳng thiết gì đến chính sự(2). Lại chỉ thích chơi một giống chim là hạc.
Chim hạc hình dung xinh đẹp, tiêng kêu đã hay. nhảv múa cùng khéo vì nhà vua thích chơi như thế nên người nước Vệ thường đem hạc đến tiến ; mà ai tiến hạc đều được trọng thưởng. Thành thử trong cung nuôi đầy những hạc. Kể hàng mấy trăm con.
Ý công lại thưởng phẩm hàm (3) và cấp lương bổng cho hạc. Con nào đẹp thì được ăn lộc quan đại-phu. Mỗi khi nhã vua đi chơi đâu thi có mấy cái xe lớn để cho chim hạc đứng dàn ở trước mặt, gọi lã Hạc tướng quân. Những người nuôi hạc cũng đều được hậu lương. Triều đình phải thu thuế của dân thật nặng để được đủ tiền cấp lương cho hạc
Bắc Địch là một nước cường thịnh. Vua Bắc Địch tên Sưu-Man đem binh sang đánh nước Vệ. Ý công đương sai người xe hạc đi chơi được tin lấy làm kinh sợ. tức khắc hạ lệnh động viên. Dân nước Vệ bỏ trốn cả. không ai chịu ra lính.
Nhã vua liền sai quân đi bắt được hơn trăm người, đem về tra hỏi : tại sao dám trốn lính ? Dân thưa :
Chú thích:
1) Tên một nước thời Xuân thu ở vào vùng tỉnh Trực lệ Và Hà nam bây giờ
2) . công việc chinh-trị
3) Thứ bực của công chức.
-Chúa côngdùng một giống vật cũng đánh nổi được quân Bắc Địch, cần gì phải dùng đến lũ chúng tôi.
Nhà vua hỏi :
— Vật gì mà đánh nổi quân giặc ?
— Chim hạc.
— Chim hạc thì đánh giặc thể nào được?
— Chim hạc không đánh được giặc qủa là vật vô dụng, vậy mà chúa công đã nuôi những vật vô dụng, bỏ những người hữu dụng. Bởi thế, dân chúng không phục.
Nhà vua nói :
— Nay ta đã biết hối. Ta xin theo ý dân mà đuổi hết chim hạc đi.
Quan đại phu là Thạch Kỳ thưa :
— Xin chúa công làm ngay. Tôi e đến bây giờ cũng đã muộn lắm rồi!
— Ý công tức khắc sai người đuổi bỏ chim hạc. Nhưng chim hạc vốn đã được nuôi lâu ngày, quen chỗ ở rồi, cứ quanh quẩn mãi, không chịu đi đâu cả. Thạch-Kỳ phải thân hành đi khắp các chợ búa, giảng dụ cho dân hiểu rõ những tình ý của nhà vua đã biết hối lỗi. Dân chúng bấy giờ mới chịu ra đi lính thì quân Bắc Địch đã kéo đến nơi.
Vệ Ý công cùng với đại tướng là Cử-Khổng đem quân ngăn đánh. Trong khi đi đường quân sĩ đều oán nhà vua.Ca thán nhiều nỗi: lại làm thành bài thơ: 
Hạc được ăn lương, 
dân phải cày ruộng !
Hạc được ngồi xe, 
dân phải vác giáo !
Quân giặc gớm ghẻ,
Mười phần chết chín.
Nay hạc đi đâu, 
để ta khổ sở !
Vệ Ý Công nghe quân sĩ hát lấy làm buồn rầu. Quan đại tướng là Cừ Khổng lại hay ’nghiêm-khắc nên quân sĩ càng đem lòng tức giận.
Quân Vệ vốn không có lòng đánh giặc, lại thấy quân giặc mạnh tợn nên ồ nhau bỏ chạy. Vệ Ý công và Cừ Khổng đều bị giặc giếí cả.
Chiến quốc sách
LỜI BÌNH
Hục đẹp hạc múa hál hay, hạc được làm quan đến đại phu, ăn phẩm hàm to, cỏ phải chăng là cả một triều đình của một nước có toàn những quan lại chỉ -chuyên ăn ngon, mặc đẹp, chơi bời giỏi, luôn luôn nịnh bợ.chiều chuộng thị hiếu của một nhà vua.phóng túng phong lưu làm đẹp được cái vỏ của triều đình.
Giữa lúc ấy, dân chúng càng phải è cổ nai lưng chịu sưu. cung thuế nặng nề để triều đình có đủ lương bổng cung cấp cho bọn quan lại điếm đàng, ăn không ngồi rỗi, chăm lo trang sức.
Kè cầm vận mạng đất nước không trọng dụng, ưu đãi những kẻ vô dụng như thế, thì đến khi nguy biến còn ai ra gánh vác giang san, củng-cố ngai vàng ? Sự bất mãn không phải chì riêng ờ kẻ hiền tài mà ở toàn cả dân-chúng. Đến bước đường cùng, trước tai biến xảy đến, kẻ lãnh-đạo bấy giờ mới kêu gào than khóc cho sự sai lầm dại dột, ngu xuấn của mình, thì ô hô, đã muộn màng rồi !
Dân chúng giàu lòng vị tha sẵn sàng tha thứ
sự sai lầm một thời của kẻ lãnh-đạo ngu tối như Vị Ý công. Cừ-Khổng lại còn hiếp bức, quá hà- khắc thì tránh sao sự đoàn kết giữa tướng và quân khỏi bị tan vỡ.
Bị cưởng bách, hiễp bức. lòng đã sẵn căm hờn, không muốn đánh giặc thì làm sao đánh thắng được giặc.
Bỏ người hiền tài. dùng kẻ vô dụng, đến bước khốn cùng lại không có thái-độ thương yêu quân lính, nước mất mạng vong là lẽ tất nhiên.
Kẻ cầm vận mạng đất nước có thể làm đất nước mất, chớ dân chỉ có làm cho đất nước còn mà thôi.
Nước nào mà chỉ dùng toàn những “quan hạc” chằng là điều đáng buồn, đáng lo cho vận mạng nước lắm ru !

_________________________________
Tri Âm Quán_Thị Trấn Chũ_Lục Ngạn_Bắc Giang
http://quoccuonglucngan.blogspot.com/


Được sửa bởi Tri Âm Quán ngày Mon May 22, 2017 3:44 pm; sửa lần 2.
Về Đầu Trang Go down
https://triamquan.forumvi.com/
Tri Âm Quán
Thành Viên Tích Cực
Thành Viên Tích Cực
Tri Âm Quán


Tổng số bài gửi : 6340
Reputation : 2
Join date : 31/07/2013
Đến từ : Thị Trấn Chũ

CHÍNH TRI Cổ Nhân Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: CHÍNH TRI Cổ Nhân   CHÍNH TRI Cổ Nhân EmptyFri Apr 28, 2017 9:42 am

MƯỢN ĐẨU ĐỂ TRẤN TỈNH LÒNG QUÂN 


Tào-Tháo đem binh đánh ViênThuật (1). quân đội đến 17 muôn mỗi ngày tổn phí lương thực rất nhiều. Các quân vì bị mất mùa cấp lương không đủ. Tào-Tháo hối quân công thành.
Tướng của Viên Thuật là Lý phong đóng cửa thành không ra.
Tào-Tháo phải đóng binh tại đấy có hơn một tháng, lương thực gần hết nên gửi thơ cho Tôn Sách mượn thêm lương nhưng cũng không đủ. Bộ hạ là Vương Cấu vào bẩm với Tào-Tháo về việc thiếu lương. Tào-Tháo bảo:
Vậý phải lấv hộc (1) nhỏ phát cho chúng nó đặng quyền đỡ mà cứu khi cấp.
Vương cấu thưa :
Như quân sĩ oán trách thì tính làm sao?
— Chừng ấy ta có chước khác.
Vương Cấu y lịnh lấy hộc nhỏ phân phát. Tào Tháo lén cho người thám thính các trại thì nghe quân sì oán trách cho là họ bị Tào Tháo khinh bỉ. Tào-Tháo hay được tin ấy đòi Vương Cấu vào bảo:

Ta muốn mượn ngươi một vật để trấn tĩnh
lòng của chúng quân. Xin ngươi chớ từ.
Vương Cấu hỏi :
— Thừa tướng muốn dùng vật gì ?
— Ta muốn mượn cái thù cấp của ngươi.
Vương Cấu cả kinh, thưa :
— Tôi là người vô tội.
Tào-Tháo bảo :
— Nếu chẳng giết ngươi thì lòng dân sinh biến. Nếu ngươi thác rồi ta sẽ nuôi vợ con ngươi đến mãn đời. Xin ngươi đừng lo.
Vương Cấu vừa muốn nói nữa, thì Tào-Tháo đã khiến quân đao phủ dẫn ra ngoài cửa mà xử tử. Tào-Tháo lại truyền bêu đầu Vương Cẩu lên và truyền rao rằng :
Vương cấu lẩy hộc nhỏ phát lương gian trộm của quan nên theo quan pháp má trừng trị .
Từ ấy lòng quân mới hết thán oán Và ngay hôm sau, Tào-Tháo truyền lệnh cho các tướng phá thành. Nếu trong ba ngày mà phá không được thành thì Táo.Tháo sẽ xử tử hết.
Thế rồi Tào-Tháo bản thân đến bên thành, đốc quân khiên đất lăn đá lấp hào đặng trèo lên thành. Quân ở trên thành bắn xuống như mưa. Có hai tên tướng của Tào.Tháo sợ- chết muốn trở ra. Tào-Tháo vung gươm chém chết tại chỗ, rồi bản thân bưng đất lấp hào.
Quân sĩ thấy thế đều đua nhau tiến lên trước. Quân-trên thành ngăn trờ không lại. Quân của Tào Tháo nhảy lên thành, chặt khóa phá Cửa cho cả đội đều xông vào.Kết quả Tào-Tháo chiếm được thành,

Chiến quốc sách.
LỜI BÌNH
Với việc làm trên ta thấy Tào-Tháo hoàn toàn bị động chỉ có tính cách đối phó với hoàn-cảnh gay- cấn đương xảy ra, chớ không ngăn ngừa trước khi xảy ra. Đó là một khuyết điểm của cấp chỉ-huy.
Tại sao thấy thiếu hụt lựơng Ịại không mở cuộc đại tấn công sớm chiếm thành, để giải-quyết nạn đói cho quân lính ?
Đã biết bớt lương thế nào .cũng có sự phản ứng của quân lính (bằng cớ /à cho người thám thính) vậy mà Tào-Tháo lại thực hành bằng cách bảo người bớt lương làm gì ?
Bằng sự nhận xét với tư-tưởng ngày nay, ta có thể đặt ngược vấn-đề của câu chuyện : bớt lương là một điều phải có không thể tránh được một khi lương đã bị kiệt-quệ. nhưng tại sao Tào- Tháo không dùng lời nói để động vìên tình cảm của binh sĩ ; cũng như khi việc đã lỡ vỡ ra. Tào-Tháo lại không có can-đảm đứng trước ba quân nhìn nhận lấy việc làm củà mình ? Biết đâu lời nói tha-thiết và hành-vi chân thành của Tào- Tháo sẽ trấn tĩnh được lòng quân .
Nhưng, xã-hội phong-kiến không bao giờ cho chỉ-huy nhứl là con người như Tào-Tháo – phải ( hạ-mình ) như thế.
Lường gạt được thì cứ lường gạt.
Lợi dụng được thì cứ lợi dụng. Không lường gạt, lợi dụng được, thì cứ giết. Cái cá tinh của một chính khách « thừa tướng » ở trong một xã-hội phong kiến tạo cho Tào-Tháo một tội ác vô cùng gian hùng.
“Giễt một mạng người được an trăm họ ” không phải là những nhà chính-trị xưa nay không chủ-trương, thực hành... nhưng nếu con người ấy đã phạm tội nặng với nhân dân, không hoán cải được tâm hồn sau khi đã được, giáo-dục đúng mức, chứ giết một con người vô tội để thực hiện một thủ đọan chính-trị gian trá thì qủa thực là một hành vi tàn bạo, phát-xít.
Hỡi ơi! Chủ-trương sai lầm để gây tang tóc cho nhân-dân tuy biẽt rằng khó tránh được nhưng lịch-sử vẫn còn ghi chép tội lỗi. không tha-thứ.Huống chi một chính-trị gian trá đã làm kẻ dưới tay trung tín chết oan, mờ ám mắt người, thế không đáng trách, đáng hờn hay sao ? 

-------------------------------------------------
Chú thích
(1) Viên-Thụât: em của Viên Thiệu làm Thái thú ở Nam-.Dương đời hậu Hán, là một chư hầu trước cùng Tào- Tháo chống Đổng Trác.


Chú thích:
(I) Một thứ dùng dong lường ngày xưa độ 30 lít.

_________________________________
Tri Âm Quán_Thị Trấn Chũ_Lục Ngạn_Bắc Giang
http://quoccuonglucngan.blogspot.com/
Về Đầu Trang Go down
https://triamquan.forumvi.com/
Tri Âm Quán
Thành Viên Tích Cực
Thành Viên Tích Cực
Tri Âm Quán


Tổng số bài gửi : 6340
Reputation : 2
Join date : 31/07/2013
Đến từ : Thị Trấn Chũ

CHÍNH TRI Cổ Nhân Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: CHÍNH TRI Cổ Nhân   CHÍNH TRI Cổ Nhân EmptySun Apr 30, 2017 9:59 am

LUẬN ANH HÙNG 


Lưu Bị thất thế sang sống nhờ bên Tào-Tháo Tào-Tháo lộng quyền muốn.soán đoạt ngôi vua Hán. Tuy ở bên Tào-Tháo-nhưng Lưu-BỊ vẫn phòng lo Tào-Tháo mưu hại. Hàng ngày, Lưu Bị ra sau .vườn trồng rau, thân lo tưới cây. Quan Công (l) và Trương Phi (2) thấy hỏi :
— Sao anh không lưu tâm về việc thiên hạ, đại sự lại học làm những việc của tiểu nhân là ý chi vậy ?
Lưu-Bị đáp :
— Ấy chẳng phải là chỗ hai em biết được.
Một hôm Tào-Tháo cho mời Lưu-Bị đến phủ.
Tào-Tháo cười bảo Lưu Bị :
— Ông ở nhà đã làm nên việc lớn dữ à ?
Lưu Bị nghe nói thất kinh.
Tào-Tháo mời Lưu-Bị uốug rượu cho vui. Rượu vừa nửa chừng bỗng đâu trên trời mây kéo đen nghịt, dông mưa ào tới. Quân lính kêu lên có rồng lấy nước. Tào Tháo và Lưu Bị ra xem; Tháo mới hỏi Bị :
— Sứ quân biết rồng biến hóa thế nào chăng?
— Chưa biết cho rõ lắm. '
Tào-Tháo nóỉ :
Tính rồng hay lớn hay nhỏ. hay thăng-hay an. Khi lớn thì làm mây mưa sa mù. Khi nhỏ thì ẩn bóng giấu hình. Thăng thì bay tuông nơi vũ trụ. Ẩn lộn thì núp dưới ba đào, Nay lúc mùa xuân. rồng nương theo thời mà biến hóa. cũng như người đắc chí mà tung hoành nơi bốn bể. Rồng là một vật sánh được với bực anh hùng trên đời. Sứ quân trải khắp bốn phương đã lâu, có lẽ biết được anh hùng trong đời này chứ ?
Lưu-Bi đáp :
— Bị là con mắt thịt lẽ đâu biết được anh hùng-
— Không biết anh hùng nhưng cũng nghe danh chứ ?
Lưu Bị nói :
— Đất Hoài nam có Viên Thuật, binh nhiều lương đủ. như vậy cũng đáng gọi là anh hùng.
Tào-Tháo cười bảo :
— Nó là xương khô trong mả. Chẳng sớm thì muộn tôi sẽ bắt được nó ngay.
— Đất Hà Bắc có Viên Thiệu, bốn đời đều làm đến chức tam công. Trong nhà hắn lại có nhiều quan lại cũ. nay chiếm đất Kỳ châu. bộ hạ rất đông, như thế cũng đáng gọi là anh hùng ?
— Viên Thiệu sắc tuy dữ nhưng mặt lại mỏng, ham mưu mà không quyết đoán, làm việc lớn thì tiếc thân thấy lợi nhỏ thì quên mạng. Như thế chẳng phải là anh hùng.
—Có một người danh gọi Bác tuấn .oai trấn chín châu tên là Lưu Kiên Thăng đáng gọi là anh hùng?
.—Lưu Biểu (l)có danh mà không có thực, chẳng phải là anh hùng đâu.
Có một người huyết khí rất mạnh đứng đầu trong đất Giang đông tên là Tôn Bá Phù. Thật đáng là anh hùng ?
_ Tôn Sách (1) mượn danh của cha thì cũng chẳng phải là anh hùng.
— À, còn Lưu Quý-Ngọc ờ ích châu cũng đáng gọi là anh hùng ?
— Lưu Chương (2) tuy dòng tôn thất nhưng thực là chó giữ nhà, có chi mà gọi là anh hùng,
— Vậy như bọn Trương Tú Trương Lỗ, Hàng Toại thì thế nào?
Tào-Tháo vỗ tay Cười vang lên :
— Bọn ấy là lũ tiểu nhân có ra gì đâu mà nói đến.
Lưu-Bị hỏi :
— Vậy thì ngoài những người này, thật tôi không được biết ai cả nữa.
Tào-Tháo nói :
— Hễ đúng anh hùng thì dạ có chí lớn, bụng có mưu hay có chí nuốt trời mửa đất như thế mới. Thật là anh hùng.
Lưu-Bị lại hỏi :
— Ai mà sánh được điều ấy ?
Tào-Tháo đưa tay chỉ Lưu-Bị rồi lại chỉ mình,
nói:
— Nay đứng anh hùng trong thiên hạ duy có Sứ quân với Tháo này mà thôi.
Lưu-Bị nghe nói cả kinh, đôi đũa cầm trong tay bỗng rớt xuống đất. Giữa lức ấy trời đương mưa lớn, sấm sét vang rền Lưu-Bị thủng thỉnh cúi xuống lượm đũa điềm đạm nói :
— Một tiếng oai sấm mà phải đến nỗi này ! Tào-Thào cười
—Đại trượng phu cũng sợ tiếng sấm nữa sao ?
— Đức thánh nhân đến nỗi nghe sấm to gió lớn còn đổi sắc. kè hèn nàv cõ lẽ nào lại chẳng sợ.
Đem chuyện nghe sấm che chở cho sự rởt đũa đã giải được tính hoài nghi của Tào-Tháo.
Tam quốc chiến





LỜI BÌNH
Xem lời luận về anh hùng, qủa thật Tào-Tháo có một nhận xét tinh-vi lắm. Kẻ tầm thường chết vì lỗ miệng ba-hoa, chết vì khoe khoang: chết vì cái vỏ ở bên ngoài, Do dó, với tinh chất tầm thường chẳng những con người không làm nên được việc lớn mà còn bị hại thân một cách oan uổng. đọc (Tam quốc chí ) ai lại không thương hại cho cái chết của Nê Hoành (1) của Dương Tu.
Trái lại, người có chí khí lớn lúc vận chưa đạt vẫn chịu nép mình, chui rúc như con tò vò. nhưng trong thâm tâm vẫn tiềm tàng một cao Vọng (lấp biển vá trời ), vẫn hoài-bão cái chí vũng vầy bốn phương với một sự nghiệp vĩ-đại.
Đó là khí tượng của một kẻ anh hùng.
Đó là tinh-chất của rồng. Khi còn bé chưa đủ vây vi, gió chưa đến thì nằm ẩn mình dưới đáy vực sâu, khi đủ móng vuốt và gió đến rồi thì tung bay trong vũ-trụ.
Tào-Tháo là một chính-trị gia có tài. bao giờ chịu dung dưỡng con rồng đó. Nó là tay đối thủ lợi hại của họ Tào trong cuộc, tranh chấp bá quyền.
Đem tính-chất của rồng chuyển sang luận anh hùng trong thế cuộc, rồi quy vào một kết luận để dò xét đối phương:
« Đứng anh hùng trọng thiên hạ duy có Sứ quân với Tháo nầy mà thôi », Tàọ-Tháo qủa thực là một chính khách lợi hại.
Nhưng. .....
Tào-Thào chỉ là một ( chính khách lợi hại ) chớ không phải là anh hùng.
Tào-Tháo là con người đa nghi. Đa nghi tất đa tin. Đa tin tất dễ bị lừa.
Lưu-Bị lúc nguy ngập, chưa có một tấc đất để dụng võ phải nương náu ở Tào-Tháo. Đó chẳng khác nào ở miệng cọp đáng lo ngại cho tính mạng. Tháo đã nhận thấy ở- Lưu-Bị có khí tượng anh hùng, sau này sẽ là một đối thủ lợi hợi của mình. Nhưng vì sự giả dại khờ- nhu nhược, tiểu nhân của Lưu-Bị đánh lừa. Được cái bịnh đa nghi, đa tin của Tào-Tháo. Không khéo họ Lưu sẽ chết mất. Quả thật Lưu-Bị mới là người có chí khí của một kẻ anh hùng, nên bảo bạn : ( Ấy .chẳng, phải là chỗ hai em biết được ), Vì thế, kết thúc đoạn nầy, trong “ Tam quốc chí ) có câu :
Chung vào hang cọp tạm thủ thân,
Nhưng dạ đã rành việc nghía nhân,
Khéo mượn sấm Vang mà yểm (/) sức,
Tuỳ cơ ứng biến rất tinh thần, 

------------------------------------------------


 
CHÚ THÍCH. 1) Quan Công: tên chữ là Vân-Trường kết bạn thân với Lưu Bị: Người ở quận Hà đông, huyện Giải lương, có nghĩa khí sau bị Ngô chúa giết chết.
(2) Trương Phi : tên chữ Dực Đức lúc đầu chuyên bán thịt heo rượu ngon, cùng với Quan công và Lưu-Bị thề làm bạn thân tại vườn- đào. Sau vì việc gấp báo thù bạn mà bị lính ám sát chết.
I) Lưu Biểu : Tên Lưu Kiển Thăng đời tam quốc.

_________________________________
Tri Âm Quán_Thị Trấn Chũ_Lục Ngạn_Bắc Giang
http://quoccuonglucngan.blogspot.com/
Về Đầu Trang Go down
https://triamquan.forumvi.com/
Tri Âm Quán
Thành Viên Tích Cực
Thành Viên Tích Cực
Tri Âm Quán


Tổng số bài gửi : 6340
Reputation : 2
Join date : 31/07/2013
Đến từ : Thị Trấn Chũ

CHÍNH TRI Cổ Nhân Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: CHÍNH TRI Cổ Nhân   CHÍNH TRI Cổ Nhân EmptySat May 20, 2017 10:35 am

CÓ KẺ BỀ TÔI CHẾT CÓ KẺ BỀ TÔI SỐNG 


Quản Trọng (1) và Bảo Thúc Nha (2) là đôi bạn thân.
Bấy giờ, con trưởng của Tề Tương công là thế tử Củ. có mẹ là người nước Lỗ (3) con thứ là công tử Tiểu Bạch, mẹ là người nước Cử (-1) đều khôn lớn. Quản Trọng mới nói với Bảo Thúc Nha :
— Người nối ngôi nước Tề ngày sau nếu không phải là Củ thì cũng Tiểu Bạch. Vậy nay chúng ta. mỗi người giúp một bên rồi tiến cử lẫn nhau, nếu một bên nào lên ngôi.
Bảo Thúc Nha cho là phải nên sang phò công tử Tiểu Bạch, còn QuảnTrọng phò còng tử Củ.
Tề Tương công vì say đắm nàng Văn Khương là em khác mẹ, hoang dâm vô đạo, đảo ngược luân thường nên bị quần thần giết chết. Lúc bấy giờ, công tử Tiểu Bạch và công tử Củ đương ở quê mẹ, nghe tin cha chết nên tranh về nước làm vua. Thế tử Củ được Lỗ Trang công cho mượn quân Về đánh Tiểu Bạch nhưng bị thất bại. Tiểu Bạch lên làm vua tức là Tề Hòan công. Bấy giờ Bảo Thúc Nha mới tiến cử Quản Trọng.
----------------------------------------------------------------
Chú thích:
1) Ọuản Trọng : đã có chú thích ở bài « muốn chỉnh đốn giềng mối của nước.
(2) Bảo Thúc nha : người thời Chiến quốc, tính rất hiền từ.
3) Nước Lỗ : một nước chư hầu thời Xuân thu, ở vào từ phủ Duyên châu cho đến Bì tứ, tỉnh Sơn đông ngày nay.
<4> Lỗ Trang công ; tức thế tử Đồng con của Lỗ Hoàn công, mẹ là Văn Khương việc bại lộ nên sợ Lỗ Hoàn công thù oán mới sai người đợi khi Lỗ Hoàn công uống rượu rồi ngồi cùng Xe đưa về sứ quán thí giết ngay ở trong xe.
----------------------------------------------------------------
Vua nước Lỗ trước giúp thế tử Củ bị bại binh nay lại thấy Tiểu Bạch đem binh đóng ở biên giới để báo thù thì hoảng sợ quá mới giết chết công tử Củ, đồng thời bắt cả bề tôi của công tử Củ là Quản Trọng và Thiệu Hốt cầm tù, đưa sung Tề để xin giảng hòa.
Thiệu Hốt thấy vậy than rằng :
, — Làm con nên vì cha mà chết, làm tôi nên vì vua mà chết. ấy mới là kẻ có đạo nghĩa. Vậy Hốt này xin theo thế tử Củ xuống âm cung hơn là chịu cảnh gông cùm.
Nói rồi đập đầu tự vẫn. Quản Trọng thấy vậy nói :
— Đã theo vua thì nên có kẻ bề tôi chết, có kẻ bề tôi sống. Vậy ta nên sống để sang Tề khiếu oan cho thế tử Củ.
Quản Trọng liền bưởc vào tù xa để giải về Tề. Nhưng khi sang Tề được Tề Hoàn công phong chức tể tướng. Nước Tề từ ấy trở nên cường thịnh lấn áp tất cả các nước chư hầu.



Chiến quốc sách 
Sa-Đéc
, Saturday. May 14.2016
----------------------------------------------------------------------
LỜI BÌNH
' Quản Trọng trước không nhận được tương
quan lực-lượng giữa công tử (1) Tiểu Bạch và thế tử Củ để chọn lấy một mà phò là bất trí. Chia ra mỗi người chọn lấỵ một người mà phò để sau này
------------------------------------------------------------
chú thích:
(1). Thời bấy giờ, con trưởng vua thiên tử nhà Châu được nối ngôi gọi là Thái tử, các con khác gọi là hoàng tử. Cháu gọi là Hoàng tôn. Còn con vua chư hầu. Trưởng gọi là thế tử, các con khác gọi là công tủ. cháu gọi là công tôn.
---------------------------------------------------------------
Tiến cử cho nhau, qủa thật một kẻ xu thời, lựa gió trở cờ. Người bị giết không dám chết theo, cam mình làm một kẻ tù quả thật là một kẻ bất trí, bất trung. 
Quản Trọng là một chính khách đầu cơ, một chính khách xu thời.
Tình đời sẽ có người nhận xét như thế. .
Nhưng suy ngẫm kỹ, sự đoán xét như thế là vội vàng, nông nổi, là hẹp hòi.
Xã hội nước Tàu về thời Xuân thu, chiến quốc là một xã-hội vô cùng lọan lạc. Nước Tề dưới thời triều vua Tề Tương công lại rất suy đồi. Theo thế tập phong kiến, thế tử Củ là con trưởng tất sẻ được nối ngôi cha. nhưng vì tình trạng hỗn lọan trong nước, nhất là trong gia đình của Tề Tương công, lực-lượng giữa Củ và Tiểu Bạch, hai người con khác mẹ kẻ Lỗ người Củ — thì còn làm sao phân định được. Cát (trí ) của Quản-Trọng là ở chỗ biết cùng với Bảo Thúc chia nhau phò hai nơi.
Công danh là một điều mà mỗi người làm trai cần phải có (không công danh thà nát với cỏ cây) (1) Có công danh để làm vẻ vang cho đời mình, cho gia đình, nhất là người như Quản Trọng cần phải lập công danh để có dịp đem tài năng ra phục vụ nhân dân, xây dựng đất nước. Đó là cái hy vọng chung rất thông thường của con người ở đời. Nó rất hợp với tư-tưởng của những chính khách, những kẻ sĩ chân chính.
---------------------------------------------------------------
Chú thích
(/) Thơ của Nguyễn Công Trứ (I778-I838) một nhà thơ danh tiếng ở Việt-Nam về thế kỉ thứ 19 . Ông chẳng những là người có tài thao lược lại là một nhà kinh tế nữa. Thơ của ông thường khuyên người, phải cố gắng làm tròn phận sự, lập nên công danh. 
------------------------------------------------------
Quản-Trọng không theo gương của Thiệu HỐt đã cho ta thấy : con người làm việc không phải để phụng sự cho một cá nhân nào ; chết vì một cá nhân là ích-kỷ, là sai lầm mà cần phải sống để làm tròn nhiệm vụ đốì với dân, với nước.
Giữa lúc nhân dân nước Tề đương đòi hỏi một trật tự, yên lành, giữa lúc nước Tề đương cần phát triển về mọi mặt để làm chủ chư hầu nên rất cần có người tài giỏi ra gánh vác trọng trách, nếu Quản-Trọng chết đi thì vì cá nhân của thế tử Củ thì nhân dân, đất nước phải mất đi một người tôi con có tài. Chết như thế là mắc phải đại tội.
Cái trung với dân, với đất nựớc chính là quan điểm chính trị già dặn của Quản-Trọng.

_________________________________
Tri Âm Quán_Thị Trấn Chũ_Lục Ngạn_Bắc Giang
http://quoccuonglucngan.blogspot.com/
Về Đầu Trang Go down
https://triamquan.forumvi.com/
Tri Âm Quán
Thành Viên Tích Cực
Thành Viên Tích Cực
Tri Âm Quán


Tổng số bài gửi : 6340
Reputation : 2
Join date : 31/07/2013
Đến từ : Thị Trấn Chũ

CHÍNH TRI Cổ Nhân Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: CHÍNH TRI Cổ Nhân   CHÍNH TRI Cổ Nhân EmptyTue May 23, 2017 10:48 am

CÁI LỢI VÀ CÁI HẠỊ CHO NGHIỆP BÁ

Tề Hoàn công phong Quản Di Ngô (l) làm tể tướng. Quản Di Ngô chối từ không chịu nhận, Tề Hoàn công nói:
—Ta muốn theo kế-sách (2) của nhà ngươi, vậy phải dùng nhà ngươi làm tể tướng sao nhà ngươi lại không chịu nhận ?
Quản Di Ngô thưa:

— Không phải sức một cây gỗ mà làm lên một cái nhà lớn, không phải sức một dòng nước mà làm nên được cái bể lớn, nếu chúa công có chí như vậy thì nên dùng năm người kiệt sĩ,
Tề Hoàn công hỏi :
— Năm người kiệt sĩ là ai ?
Quản Di Ngô thưa :
— có tài giao thiệp, biết giữ lễ phép thì tôi không bằng Thấp Bằng, xin cho Thấp Bằng làm đại tư hạnh. Có tài khai khẩn, biết cách trồng trọt thì tôi không bằng Ninh Việt. xin cho Ninh Việt làm đại tư điền, có tài luyện tập quân sĩ, khiến cho người ta quên chết thì tôi không bằng Thành Phủ làm đại tư mã. có tài xử đoán hình ngục. Khiếu cho người ta khỏi oan thì tôi không bằng Tân Tu Vô, xin phong Tân Tu Vô làm đại tư lý. có tính cương-trực, thấv điều trái đều nói ngay không sợ những kẻ quyền thế thì tôi không bằng Đông Qúach Nha làm đại gián quan. Chúa công muốn được cường thịnh thì tất phải dùng năm người ấy. Có năm người ấy tôi dù hèn mọn cũng xin cố sức mà vâng mạng chúa công.
Tề Hoàn công liền phong ngay chức cho năm người ấy và Quản Di Ngô lên làm tể tướng.
Tề Hoàn công lại hỏi :
— Ta có tính hay săn bắn lại chuộng nữ sắc. Vậy có hại gì đến nghiệp bá không?
Quản Di Ngô thưa :
— Không hại gì cả.
— Thế thì những điều gì có hại đến nghiệp bá?
Quản Di Ngô thưa :
— Không biết người hiền thì hại bá. Biết người hiền mà không dùng thi hại bá. Dùng mà không
chuyên (t) thì hại bá. Chuyên mà lại cho kẻ tiểu nhân lẩn vào thì hại bá.
Tề Họàn công khen phải. Từ bấy giờ chuyên dùng Quản Di Ngô, tôn lên gọi là trọng phụ (2),


Chiến quốc sách.

 
LỜI BÌNH
Được phong làm tể tướng, cầm vận mạng một nước mà không đồng ý, đòi xin phong cho năm kiệt sĩ, mới chịu làm, Quản Trọng quả thật là một người chẳng những có tính khiêm nhượng, không ích-kỷ, mà là một người rất đa trí, rất biết mình. Cá-nhân dù tài giỏi đến đâu là chỉ tài giỏi ở một phương diện nào. nên không thể tự mình làm thành được việc lớn, huốngchi việc nước là việc quan-trọng.
ích-kỷ, bao biện, ỷ tài chỉ là hành-vi của những kẻ điên rồ, khổ hại cho mình còn hại cho đại cuộc.
Công cuộc kiến-thiết quốc gia là công việc của nhiều người chung lưng đấu cật lại, và sử-dụng tùy theo khả-năng của mỗi người. Dùng năm kiệt sĩ, mỗi người có một đặc tài, Quản-Trọng thật đã biết tập-trung tất cả tài năng của con người lại thành một sức mạnh, để dùng vào công việc lớn.
Thông thường, kẻ lãnh-đạo ham săn bắn làm bê tha công việc, cũng như chuộng nữ sắc làm trụy- lạc tâm hồn « sắc bất ba đào dị nịch nhân », tất cả đều tai hại. Ta đã thấy trên lịch sử đã có biết bao
ông vua vì đắm say sắc đẹp, ham săn bắn để ngai vàng phải sụp đổ. Nhưng theo Quản-Trọng, hai thói tệ nguy ấy không có hại cho nghiệp bá.
Trong công cuộc xây dựng nghiệp bá cũng như trong công cuộc xây dựng đất nước điều căn-bản là người lãnh-đạo phải biết người hiền tài. đón rước họ mà dùng; và khi dùng thì phài tin tưởng, dám trao công việc cho người. Như thế, người mới tận tâm phục vụ và công việc mới thành .Nhưng nếu trao công việc cho người hiền mà lại cho kẻ tiểu nhân xen vào công việc, thì công việc dễ hỏng. Kẻ tiểu nhân bao giờ cũng đặt tư lợi trên công vụ.
Tóm lại, người nào muốn xây dựng đất nước cũng như muốn làm thành nghiệp bá phải biết trọng dụng kẻ hiền tài phải tin tưởng, dám trao trách- nhiệm của họ, đừng nghe lời sàm tấu của kẻ tiểu nhân, thì thế nào nước cũng cường thịnh, nghiệp bá ắt thành. Bấy giờ có chuộng sắc đẹp, thích săn bắn đi nữa cũng không hại gì. Vì những điều ấy đối với một kẻ lãnh-đạo khéo léo chỉ còn là những vật để tiêu khiển mà thôi.
Trụ vương nhà Thương (1) đắm say Đắc- Kỷ. U vương nhà Chu si lụy nàng Bao Tự (2) chưa phải là động cơ chính trong việc làm sụp đổ cơ đồ. Điều căn-bản là do không biết dùng người hiền như Thái sư Văn-Trọng, Cơ-Xương, Khương Tử Nha(1)..đời nhà Thương và cũng như Thận Hầu. Triệu Thúc Đối, 'Bao-Quýnh (2). . . đời nhà Chu.

 
--------------------------------------------
chú thích
1) Quản Di Ngô: tức Quản Trọng.
2) Kế sách: ( kế hoạch và sách lược) : Chương trình làm việc có tổ chức, một phương pháp đấu tranh cao hay thấp tùy theo tinh hình chánh trị của mỗi lúc.

----------------------------------------------
----------------------------------------------
chú thích
(1) Chuyên : là trao.
2) Trọng phụ : tiếng suy tôn gần bực cha.

--------------------------------------------------
Chú thích
(1) Đã có chú giải ở bài. (Muốn chỉnh đốn giềng mối của nước).
(2) Bao Tự: Một người gái đep, u vương say mê. Đốt phong hỏa đài ở ly sơn, gạt các chư hầu để cho Bao tự cười chơi. Sau quân khuyển nhung đến đánh bao vây thành, đốt phong hỏa đài nhưng các chư hầu không đến cứu. Rốt cuộc cả hai đều chết.

_________________________________
Tri Âm Quán_Thị Trấn Chũ_Lục Ngạn_Bắc Giang
http://quoccuonglucngan.blogspot.com/
Về Đầu Trang Go down
https://triamquan.forumvi.com/
Tri Âm Quán
Thành Viên Tích Cực
Thành Viên Tích Cực
Tri Âm Quán


Tổng số bài gửi : 6340
Reputation : 2
Join date : 31/07/2013
Đến từ : Thị Trấn Chũ

CHÍNH TRI Cổ Nhân Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: CHÍNH TRI Cổ Nhân   CHÍNH TRI Cổ Nhân EmptySat May 27, 2017 5:05 pm

THUẬT GIỮ NƯỚC HAY HƠN CẢ


Khi Hưng ĐạO vương Trần-Quốc-Tuấn (3) sắp mất vua Trần Anh Tôn có ngự giá đến hỏi thăm, nhân thấy ngài bịnh nặng mới hỏi rằng:
— Thượng phụ (4) một mai khuất núi. Phỏng có quân Bắc (5) lại sang thì làm thế nào ?
Hưng Đạo vương tâu rằng :
— Nưởc ta tự thuở xưa Triệu Võ vương (6) dựng nghiệp. Hán đế (7) đem binh đến đánh. Võ vương sai dân đốt sạch đồng áng. không để lương

Thảo cho giặc cướp được ; rồi đem đại quân sang châu Khâm, châu Liêm đánh quận Trường-sa (1) dùug đỏan binh mà đánh được, đó lá một thời. Đến đời Đinh (2). Lê (3), nhiều người hiền lương giúp đỡ, bấy giờ nước Nam đương cường, vua tôi đồng lòng, bụng dân phấn chấn; mà bên Tàu đang lúc suy nhược. cho nên ta đắp thành Binh Lỗ (4) phá được quân nhà Tống (5), đó là một thời. Đến đời nhà Lý (6), quân Tống sang xâm . . . Lý đế (7) sai Lý Thường Kiệt (Cool đánh mặt Khâm. Liêm (9) dồn đến Mai lĩnh, quân hùng.
Tướng dũng, đó là có thể đánh được. Kế đến bàn triều, giặc Nguyên (1) kéo đến vây bọc bốn mặt, may được vua tôi đồng lòng, anh em hòa mục. cả nước đấu sức lại mà đánh mới bắt được tướng kia, cũng là lòng trời giúp ta mới được thế. Đại để, kẻ kia cậy có tràng trận, mà ta thì có đỏan binh ; lấy đoản chống nhau vời tràng, phép dùng binh thường vẫn phải thế. Còn như khi nào quân giặc kéo đến ầm ầm, như gió, như lửa, thế ấy lại dễ chống. Nếu nó dùng cách dần dà như tằm ăn lá, thong thả mà không ham của dân, không cần lấy mau việc, thế ấy mới khó trị : thì ta nên kén dùng tướng giỏi, liệu xem quyền biến, ví như đánh cờ phải tùy cơ mà ứng biến, cốt dùng được binh phải đồng lòng như cha con một nhà thì mới có thể đánh được. Cách ấy cốt phải tự lúc binh thì khoán sức cho dân để làm kế sâu rễ bền gốc. Đó là cái thuật giữ nước hay hơn cả đấy.
Anh Tôn chịu lời ấy là rất phải.
Việt sử



LỜI BÌNH
Quân giặc kéo đến như gió. như lửa, đến đâu là tàn phá, giết chóc đến đó. Trông tuy mạnh, ghê sợ thật, nhưng mạnh và ghê sợ ở bề ngoài. Bạo lực chỉ để phô-trương uy-thế và chỉ mua lấy thù ghét, căm hờn. Bởi vậy, võ lực không phải là phương pháp để chinh phục nhân tâm.
Nhưng nếu giặc biết dùng chính sách (tằmthực) ‘tằm ăn lá dâu’
dùng (vết dầu loang) thực hành công tác chính-trị mềm dẻo lần lần thu hút nhân tâm. thì giặc mới thật là nguy hiểm. Ta gặp phải một đối phương lợi hại, đáng lo.
Bởi vậy, muốn đối địch, chiến thắng kè thù có một chính sách nguy hiểm như thế, ngoài cần có tướng giỏi, biết tùy cơ ứng biến, nhưng điều cốt yếu là giữa quân lính với cấp chỉ-huy phải có một mối tình mặn nồng như cha con. Có đước mối tình cao qúy ấy; thì mới dám cùng hy,-sinh chống kẻ thù, bảo Vệ cho nhau.
Có nguy hại lớn nhứt cho cuộc chiến đấu là ở một trận tuyến mà-mối tình thương nhau, giữa cấp chi huy với quân lính không có. Kẻ chỉ huy ỷ quyền cậy thế coi kẻ dưới tay như thảo giới, cố nhiên kẻ dưới tay xem kẻ chỉ huy là- khấu thù.
Trách được ai ?
Nội bộ đã chia rẽ nhau, địch lợi dụng nhược điểm ấy tấn công bằng mọi cách mua chuộc những phần tử bất mãn. gây sự ly gián, gia tăng bè phái... làm tan rã dần hàng ngũ ta,
Dòi trong xương đòi ra thì còn làm sao đối địch nổi với kẻ thù.
Nhưng tạo lấy mối tình giữa vua với bề tôi, giữa quân lính với cấp chi-huy khỏng phải chỉ ở thời loạn., mà cốt ngay ở lúc thời bình. Giá-trị cao đẹp là ở chỗ đó. Chớ không phải lúc có việc cần người thì mới tha-thiết đón mời. khi hòa bình trở lại thì bỉ bạc, búng rẩy... rồi để đến thời loạn sẽ tái diễn trò hề ( thịt săn bắt được, chó săn bị mổ) Cây kìa sở dĩ được đương đầu với gió mạnh là nhờ nhiều năm vun quén, cành lá sum sê, gốc rễ ăn

Sâu bền chặt. Tình keo sơn giữa cấp lãnh đạo với quân dân bền chặt được đem ra đương đầu với chiến tranh là đã được bồi đắp xây dựng từ lúc an bình.
Đời Trần dân quân tôi chúa Việt-Nam đánh đuổi được 40 vạn quân Mông cổ, giải-phóng đất nước, ghi trong lịch sử những trương oanh liệt nhất, phải chăng là đã thực hành trung thành lý-tưởng cao qúy ở trên. 
----------------------------------------------------------------

Chú thích”
(1) Ba người hiền tài ở nhà Thương.
2)Ba người hiền tài ở nhà Chu.
3)Hưng Đạo Vương tên Trần Quốc Tuấn : một tướng có tài đời nhà Trần. Lãnh đạo cuộc kháng chiến CHốNG QUÂN MÔNG Cổ (1284 • 1288) được đại thắng ông mất ngày 20 tháng Tám năm Canh tý (1.300).
(4) Ông được suy tôn chức Thái sư. Thượng phụ, Thượng quốc công. Binh Bắc đại nguyên súy Hưng Đạo Vương.
(5) Quân ở nước Tàu.
(6) Triệu võ vương : tức Triệu Đà (207 – 137) trước Tây lịch đành được An dương vương rồi sát nhập nước Âu lạc vào quận Nam hải. Lập thành một nước gọi là Nam Việt đóng đô ở Phiên Ngung, gần thành Quảng – Châu bây giờ,
(7) Hán Đế : vua đời nhà Hán bên Tàu. Do lưu Bang sáng lập (206 trước tây lịch — 8 sau T. L)



Chú thích:
(/) Triệu Võ Vương đóng đô ở Phiên ngung tức là gần thành Qủang châu bây giờ, mà châu Khâm- châu Liêm thì ở giáp giới nước Việt-Nam. Lẽ nào đi đánhl Tràng- sa ở tỉnh Hồ nam mà lại quay trờ lại châu Khâm, châu Liêm. Chắc hẳn người mình trước kia không thuộc địa đồ. Có lẽ Hưng Đạo Vương lầm (theo lời bình phẩm của ông Trần Trọng Kim, sọan giả quyển ( Việt Nam sử lược).
(2) Nhà Đinh (968-980) do Đinh Bộ Lĩnh, tức Đinh
Tiên, hoàng sáng lập, người ở Hoa Lư động, thuộc tỉnh Ninh Bình,
3) Nhà Lê (980-1009) do Lê Hoàn tức Lê Đại Hành sáng lập, người làng Bảo thái. Huyện Thanh Liêm tỉnh Hà Nam.
4) Thành xây ở tỉnh Thái nguyên.
5) Tống là nước Tống bên Tàu do Triệu Khuông Dẫn sáng lập (950-1.275).
(6) Nhà Lý (1010-1225) ở Việt-Nam do Lý Công Uẩn sáng lập.
7) Lý đế : tức vua nhà Lý : Lý Thánh tôn.
Cool Lý Thường Kiệt: một vị tướng tài đời nhà Lý đánh đuổi được quân nhà Tống tại sông Như nguyệt và sang vây đánh hai châu Khâm và Liêm ở Tàu. Giết chết có 8.000 quân địch.
9) Khâm Liêm : hai châu thuộc tỉnh Quảng đông của Tàu.
Chú thích:
(4) Nguyên: nhà Nguyên {1280- 1341) ở bên Tàu do tướng Mông cỏ Hotts Tất Liệt sáng lập.

_________________________________
Tri Âm Quán_Thị Trấn Chũ_Lục Ngạn_Bắc Giang
http://quoccuonglucngan.blogspot.com/
Về Đầu Trang Go down
https://triamquan.forumvi.com/
Tri Âm Quán
Thành Viên Tích Cực
Thành Viên Tích Cực
Tri Âm Quán


Tổng số bài gửi : 6340
Reputation : 2
Join date : 31/07/2013
Đến từ : Thị Trấn Chũ

CHÍNH TRI Cổ Nhân Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: CHÍNH TRI Cổ Nhân   CHÍNH TRI Cổ Nhân EmptyTue May 30, 2017 3:21 pm

NGÔI BÁ CHỦ MUỐN CHỐI TỪ CŨNG KHÔNG THỂ ĐƯỢC
 
Tề Hoàn Công hỏi Quản Trọng: 
— Dân đã yên rồi nhưng giáp binh (1) không đủ thì thế nào ?
Quản Trọng thưa :
— Muốn đủ giáp binh thì hình pháp nên đặt lệ cho chuộc: tội nặng thi cho chuộc một cái lê giáp, tội nhẹ thì cho chuộc một cái quy thuẫn, tội nhỏ thi cho nộp kim khí, tội nghi thi tha hẳn. Còn kẻ nào tụng lý tương đối thì bắt nộp một bó tên rồi cho hòa. Thu được những kim khí ấy thì đem đúc đồ giáp binh.
— Nếu giáp binh đủ rồi nhưng của dùng không đủ thi làm thể nào ?

Quản Trọng thưa :
— Khai mỏ để đúc tiến, nấu nước bể để làm muối cho lợi chung cả thiên hạ ; buôn để một chỗ, đợi dịp cao mà bán ra để lấy lời; làm ba trăm nhà nữ lưu (1)cho các khách buôn bán đi lại tụ họp ở đó để đánh thuế. Như thế thì của dùng phải đủ .
Tề hoàn công hỏi :
— Của dùng đã đủ nhưng quân lính còn ít, thế lực không mạnh thì làm thế nào ?
— Quân không cần nhiều, cốt cần phải tinh luyện ; mạnh không vì sức. Cốt vì bụng nghĩ. Nay chúa công sữa sang giúp binh, các nước chư hầu cũng sửa đều sửa sang giáp binh, thì mình hơn gì người ta được. Nếu chúa công muốn cho quân mạnh thi dấu tiếng bề ngoài,sự thực chỉnh đốn bên trong.
Tề Hoàn công lại hỏi :
— Binh thế đã mạnh, có nên đi đánh các nước chư hầu hay không ? 
— Chưa nên đi đánh vội. Chúa công muốn đánh các mrớc chư hầu thi trước hết phải tôn thiên tử nhà Châu và cầu thân với các nước láng diềng.
— Như vậy thì làm thế nào ?
.Quản-Trọng thưa :
Bao nhiêu những đất đai mà ta xâm lấn của các nước làng diềng thì ta nên trả lai cho họ. Thỉnh thỏang cho người sang thăm hỏi nhưng đừng tham lấy những của cải, như thế thì các nước chư hầu đều muốn giao hiếu vời ta. Ta lại cho người đem lễ vật đi chu du (2) các nơi mà cầu 
người hiền sĩ. Ta cho người đem hàng hóa đi bán các nước để dò xem họ thích những gi, và tìm có cớ gi thi đem quân đến đánh để chiếm thêm đất. Nước nào có kẻ loạn tặc cướp ngôi thì ta đánh để lập uy. Như thế thì các nước chư hầu, nước nào lại không tin phục nước Tề. Bấy giờ, nước Tề bắt các nước chư hầu phải phụng thờ thiên tử nhà Châu, như thế thì cái ngôi bá chủ ngày nay, chúa công dẫu chối từ cùng không thể được!



Chiến quốc sách
 
LỜI BÌNH
Đã có chính sách làm cho dân yên, cố nhìên phải có một tồ-chức quân đội. Nó là đội tiên phong chiến-đấu để bảo vệ đất nước được thanh bình. Nhưng làm sao có đủ đồ trang bị cho quân ?
Cần ở sự đóng góp của nhân dân, tức là thuế vụ.
Nhưng nói đến thuế má, nhà cầm quyền tất phải bắt dân è cổ nai lưng ra gánh lấy công việc nuôi quân, dưỡng quân. Đó không phải là một điều không chính đáng.
Quân giữ nước, Quân có mạnh thì mới bảo vệ được tính mạng, tài sàn cùa nhân dân. Lẽ tất nhiên dân phải nhìn thấy nhiệm vụ của mình ( Dân là nước quân là cá ) Bởi vậy, thuế má là điều cần có.
Nhưng Quản Trọng không chủ-trương đánh các sắc thuế đề giải quyết vấn đề trang bị cho quân mà đặt những hình thức phạt vạ. Tội lỗi, sal lầm bị phạt vạ, càng thấy rõ phép nước nghiêm minh. Không mang phải tiếng bắt dân è lưng

chịu thuế má, lần lần nhờ phạt vạ dân sẽ hoán cải được tội lỗi, sai lầm.
Quân cần chất hơn lượng.
Không phải không cần quân nhiều, nhiều càng tốt là khi nào đội quân ấy có kỷ-luật và tinh-thần chiẽn-đấu. Ít mà kỷ luật chặt chẽ tinh-thần chiến- đấu cao, lâm trận mạc không sợ chết, biết tiến thoát phải lúc, biết chinh-phục lòng của kẻ thù. đội quân như thế mới có giá trị.
Muốn làm bá chủ chư hầu, yếu tố không phảì dùng quân linh sang đánh phá, chiêm đoạt dân. Võ lực sẽ trả bằng võ lực. Kẻ thắng trận cũng bị hao tổn. Quản Trọng định tấn công chư hầu bằng một lối hòa bình.
Trả đất đai đã xâm chiếm lại cho các nước láng diềng, thật là một hành-vi mới lạ trong thời chiếm đất đoạt dân. Những hành vi ấy trước nhất đã chiếm được tình cảm của các nước láng diềng, tạo thêm những bạn đường chiến-đấu.
Hiền sĩ là những bực quý nhất của xã-hội. Đem lễ vật đi các nơi để cầu người hiền tất là biết cái thế dựng nước, như thế các bực hiền tài đâu đâu chẳng tựu về, đất nước làm gì lại chằng thịnh Vượng.
Nhà Châu bây giờ tuy đã suy vong, nhưng nhà Châu đã mấy trăm năm dựng nghiệp, diệt được bạo Trụ, đã có thành tích chiến-đấu vẻ Vang trong nhân dân, vả lại quan niệm tôn vương còn gắn chặt trong các tầng lớp dân chúng, đành rằng nước Tề cũng như các nước chư hầu khác, vì lẽ trên, không thể lật đổ ngai vàng nhà Châu, mà vẫn tôn phò vua nhà Châu, mượn lấy danh nghĩa đó mà  
chinh phạt các chư hầu ngoan-cố để xây dựng nghiệp bá cho mình. 
Có quyền cưỡng-bách người thờ một kẻ khác  tất cũng có quyền cưỡng-bách người thờ mình vậy, Vua nhà Châu bấy giờ chỉ còn một hư-vị, một bù nhìn, một cốt phật ở trên bàn, nhưng các xãi ." chư hầu khéo thờ Phật thì được ăn xôi chuối. Cũng như ở nước ta, Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm bảo chúa Trịnh Kiểm : « Giữ chùa thờ phật thi ăn oản (1), có ý bảo phải thờ vua Lê. Âu cũng là một thuật chính-trị già dặn.


Chú thích:
1) đồ cần dùng cho quân lính.


Chú thích:
1) Nhà nữ lưu như thanh lâu bấy giờ
2) Đi du lịch khắp nơi.

_________________________________
Tri Âm Quán_Thị Trấn Chũ_Lục Ngạn_Bắc Giang
http://quoccuonglucngan.blogspot.com/
Về Đầu Trang Go down
https://triamquan.forumvi.com/
Tri Âm Quán
Thành Viên Tích Cực
Thành Viên Tích Cực
Tri Âm Quán


Tổng số bài gửi : 6340
Reputation : 2
Join date : 31/07/2013
Đến từ : Thị Trấn Chũ

CHÍNH TRI Cổ Nhân Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: CHÍNH TRI Cổ Nhân   CHÍNH TRI Cổ Nhân EmptyWed May 31, 2017 2:54 pm

BA GIAI ĐOẠN LUYỆN GÀ

Vua Tuyên vương nước Tề (2) thích chơi đá gà biết Kỷ Sảnh là người chuyên môn luyện gà. Tề vương liền cho vời đến và giao cho luyện một con gà qúy. Mới được 10 hôm, nhà vua vội triệu Kỷ sảnh đến, hỏi:
Gà của nhà ngươi đã đem dự thí được chưa ?
— Chưa được. vì gà hạ thần khí dương hăng lắm, tuy bị nhốt trong chuồng mà cứ lồng lộng lên cả ngày. Chưa thấy gà nào mà nó đã muốn đá thì sự hung khí đó sẽ bất lợi cho nó.
Cách 10 hôm sau, nhà vua lại hỏi :

— Chắc bây giờ gà đã đem đá được rồi chứ ?
Kỷ-Sảnh lắc đầu :
— Khí của gà-vẫn chưa trấn được Mới thấy bóng một con gà khác lảng vảng trước chuồng mà đã lồng lộn nhảy lên muốn đá rồi. Cần đợi khi nó thuần tính đã, 
Vừa đúng một tháng. Tề vương vui vẻ hỏi :
— Lần này nhà ngươi phải cho gà ra độ rồi đó. Ta đợi sốt cả ruột. Vả lại một tháng là nhiều quá rồi còn nhốt nó trong chuồng làm gì nữa để nó phải mềm xác ra ?
Kỷ Sảnh mĩm cười thưa :
— Tuy hết tuần trăng. khí gà đã bớt hăng nhưng nó vẫn chưa làm chủ được khí, nên mới ra khỏi chuồng đã vội chạy đi tim gà khác đá rồi. Xin chúa công dằn lòng đợi một ít lâu nữa.
Ngày thứ bốn mươi, vua liền phán hỏi :
— Chuyến này hẳn là gà đã đem đá được rồi chứ ?
Kỷ Sảnh thưa :
— Vâng, tinh nết gà đã thuần. Nó thuần đến nỗi nghe con gà khác gáy thật to. thật hách dịch (1) nhưng nó cũng giả ngây như gà điếc. Trông nó lừ đừ ở trong chuồng tựa như gà gỗ (2) ; nhưng đến khi lâm trận thi nó đủ các ngón hay. Gà khác dẫu hung tợn chi trông thấy là đã bỏ chạy rồi.
Trang tử (3)


LỜI BÌNH
Lần đầu tiên, chưa thấy gà khác mà nó đã muốn đá, đó là hòan toàn cái dũng huyết khí, như ngọn lửa rơm, hư mờ không thực, ầm ỹ nhưng rỗng tuếch như một cái thùng không. Nếu phải đương đầu với một con gà từng trải hơn một chút thì chưa chắc chịu nổi vài bà hiệp.
Lần thứ hai thấy bóng gà khác đã muốn lồng lên đá, là tuy cài dũng huyết khí đã bớt đi nhiều nhưng vì nó chưa trấn át được.
Như thế khi xung trận, nó sẽ khó bình tĩnh để thủ thắng đối phương.
Lần thứ ba tuy dũng khí đã bớt hăng nhưng nó mới vừa ra khỏi chuồng đã vội tìm gà khác để đá, đó là nó chưa làm chủ điều khiển được cái dũng khí để bình tĩnh chờ đối phương tiến đến, chuẩn bị mài móng đá cho thẳng chân.
Qua ba lần rèn luyện, . tới lần thứ tư. cái dũng huyết khí đã tiêu hẳn, thay vào là cái dũng nghĩa-lý. Gà có nghĩa lý tất nhiên là khi xung trận phải so đo, chính-chắn, tiến thoái có nghĩ ngợi hẳn hoi không đâm bừa, đá bậy phí sức như trước nữa.
Đó là ba Giai đoạn để luyện gà hay . từ lúc mất hết cả tức khí , cậy mạnh háo thắng bề trong luyện được tất cả những ngón hay, nhưng bề ngoài thì trơ ra như gỗ, thì lúc ấy không cần phải đợi đá.

Những con gà khác trông đến là đã chạy mất rồi.
Con người cũng thế, kẻ tầm thường tiêm nhiễm được chút hiểu biết, tài ba thì đã vội bắt bội làm cao, ba-hoa, háo-thắng, phô-trương. Như thế, sự hiểu biết, tài ba kia không thể nào tiến-bộ, phát triển được, lắm khi còn bị hại đến sinh mạng. Trên trường chính-trị, cũng như quân sự, cái sơ hở khuyết điểm nhất là để cho đối phương nhận rõ được tâm-lý, thực lực của mình.
Trái lại, những bực già-dặn chỉ thu cái tài vào khuôn phép, nén cái khí vào tâm hồn. dùng lý trí, bình tĩnh phán xét sự việc. Con người mà luyện được tánh tình như thế thì khi đương đầu mới thắng nổi địch.
Luyện gà là cả một nghệ thuật. Luyện người lại càng đòi hỏi cả một nghệ-thuật tinh-vi hơn.

 
Chú thích
1) Xem bài (giữ chùa Phật thì ăn oản).
2) Tề: một nước chư hầu mạnh đời xuân thu ở vào tỉnh Sơn Đông bây giờ.


Chú thích:
1) Ỷ- phách lối.
(2) Gà gỗ : chữ là mộc kê. Các nhà làm văn hay dùng chữ ấy để khen những bực học tập, tu dưỡng được hòan toàn nhưng không bao giờ bộc lộ ra ngoài.
(3) Trang tử : tức Trang Chu học đạo Lão tử. Sau người ta vẫn xưng tụng Lão tử với Trang tử là tổ của Đạo gia.

_________________________________
Tri Âm Quán_Thị Trấn Chũ_Lục Ngạn_Bắc Giang
http://quoccuonglucngan.blogspot.com/
Về Đầu Trang Go down
https://triamquan.forumvi.com/
Tri Âm Quán
Thành Viên Tích Cực
Thành Viên Tích Cực
Tri Âm Quán


Tổng số bài gửi : 6340
Reputation : 2
Join date : 31/07/2013
Đến từ : Thị Trấn Chũ

CHÍNH TRI Cổ Nhân Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: CHÍNH TRI Cổ Nhân   CHÍNH TRI Cổ Nhân EmptyFri Jun 02, 2017 12:46 pm

LÃM NHỊ KIỀU

Tào-Tháo chuẩn bị đánh Đông Ngô, đưa hịch văn sang chúa Đông Ngô là Tôn Quyền, bảo : nếu chịu hợp tác cùng đánh Lưu-Bị thì chia ra hai bờ cõi. Trước lực lượng mạnh bạo của Tào-Tháo. Đông Ngô chia làm hai phe : chủ chiến và chủ hòa. Tôn Quyền phân vân cho triệu tướng Châu Du (1) về giải quyết.
Khổng Minh đi du thuyết sang Đông Ngô định liên hiệp hai nước Ngô Thục để cùng chống Tào, Lỗ Túc trong phe chủ chiến của nước Ngô dẫn Khổng Minh vào yết kiến châu Du. Lỗ Túc hỏi ý kiến Châu Du thế nào? Châu Du nói :
— Tào.Tháo lấy danh thiên tử, binh ấy không nên cự.Vả lại thế cũng mạnh, chẳng nên khinh đánh, đánh thì ắt thua, đầu thì dễ an. Ý tôi đã quyết. ngày mai xin ra mắt chúa công, sẽ sai sứ cầu hòa.
Lô Túc sửng sốt nói :
— Cơ nghiệp Giang đông đã trải ba đời (1) nay nỡ nào đem giao cho kẻ khác?
Châu Du nói :
— Sinh linh trong sáu quận này nếu để lăn mình vào binh cách thì ắt oán đổ về ta, nên ta quyết kế chịu đầu.
Hai đàng tranh biện với nhau. Khổng Minh che tay áo cười. Châu Du hỏi :
— Tiên sinh cớ sao lại cười tôi ?
Khổng Minh đáp :
— Tôi cười Lỗ Tử Kính (2) không biết thời vụ.
Lỗ Túc hỏi thì Khổng Minh nói :
—Công Cẩn muốn đầu TÀO-THÁO rất phải lẽ.
Lỗ Túc hỏi thì Khổng Minh đáp :
Tào -Tháo dụng binh rất hay. trong thiên hạ không ai dám cự. Ngày trước có Lữ Bố, Viên Thiệu, Viên Thuật và Lưu Biểu còn dám đánh với va. Nay mấy người ấy đều thác, trong thiên hạ hết người rồi, có một mình Lưu dự Châu (3) không biết thời vụ nên còn gắng gượng mà đánh với va. Bây giờ cô thân nơi Giang hạ mất còn chưa biết. Tướng quân quyết kế đầu Tào-Tháo chẳng những bảo toàn

Được vợ con mà lại được trọn giàu sang. còn mối nước đổi dời. phú cho lẽ trời, tiếc làm chi nữa. Lỗ Túc nổi giận bảo :
— Ngươi khiến chúa ta lòn cúi mà chịu nhục nơi đứa giặc sao ?
Khổng Minh nói ;
— Tôi có một kế khỏi nhọc công dắt dê khiên rượu, nạp đất. Dâng ấn mà xin đầu, và bản thân cũng khỏi qua sông nữa mà chỉ sai một anh sứ hèn, chèo thuyền nhỏ đưa hai người thiếu nữ qua dâng cho Tào-Tháo thì mấy trăm muôn binh Tào đều cởi giáp cuốn cờ mà lui về hết.
Châu Du hỏi thì Khổng Minh nói :
— Giang đông mất hai người ấy như cây lớn mà rụng đi một lá kho đầy mà bớt một hột thóc. có hại chi đâu. Còn Tào-Tháo mà được hai người ấy thì lui binh liền.
Châu Du hỏi :
— Vây dùng hai người nào. tiên sinh cho biết?
— Lúc tôi còn ở Long trung có nghe Tào-Tháo mới lập một cái đài nơi mé sông Chương hà gọi là Đồng tước đài. cao lớn rộng rãi và khéo lắm, lại chọn gái đẹp mà để vào đài ấy. Tháo vốn là kẻ háo sắc. thường nghe bên Giang đông có ông Kiều công, người có hai người con gái, đứa lớn tên Đại Kiều đứa nhỏ tên Tiểu Kiều, nhan sắc đẹp đẽ ngư trằm lạc nhan (1), bế nguyệt tú hoa (2) nên Tào-Tháo có thề rằng: Ta nguyện một điều là : dẹp an bốn biển cho nên nghiệp đế ; điều .thứ hai là : được nhị Kiều bên Giang đông để vào đài Đổng tước mà vui thú tuổi già, dẫu có thác cũng không ức gì. nay tuy ta dẫn binh trăm muôn, lựờm lượp gắm ghé đất Giang đông, sự thực là vì hai người mỹ nữ ấy thôi, Sao tướng quân không tìm Kiều công liều một ngàn vàng mà mua lấy hai người con gái ấy, rồi sai sứ đem dâng cho Tào-Tháo. Hễ Tào-Tháo được hai người ấy thì ắt vừa lòng đẹp dạ mà rút binh về.
Ấy là kế Phạm Lãi dâng Tây Thi đó (1). Vậy sao không thi hành cho kíp?
Châu Du hỏi :
— Tào-Tháo muốn được nhị Kiều, vậy có chi làm bằng cứ chăng?
Khổng Minh đáp :
— Con của Tào-Tháo là Tào Thực tự Tử Kiến hay chữ lắm. xuống bút nên vần nên Tào-Tháo có bảo hắn làm một bài phú gọi là (Đổng tước đài phú) Trong bài phú ấy đại ý nói nhà va đang làm thiên tử lại quyết bắt nhị Kiều.
Châu Du hỏi :
— Bài phú ấy, tiên sinh còn nhớ không ?
— Tôi thấy văn từ hoa mỹ, thích đọc mãi nên còn nhớ.
Châu Du bảo đọc thử. Khổng Minh vâng lời đọc. Nguyên bài phú ấy có câu : ( Lãm nhị Kiều ư đông tây hề, nhược tràng không chi đế đông », nghĩa là có hai cái cầu -phía đông và phía tây vòng lên như cái mống ở trên không. Chữ Kiều ấy là cầu
Châu Du nghe đọc dứt lời liền cả giận, đứng dậy chi tay về phía bắc mà nói lớn :
— Tào tặc khi ta thái quá !
Khổng Minh đứng dậy can :
— Xưa Siềng Vu mấy phen xâm phạm (1), Hán thiên tử còn đem công chúa hòa thân thay nay tốn hai người mỹ nữ của dân gian mà tiếc chi lắm vậy ?
Châu Du nói ;
— Tiên sinh chưa rõ. Đại Kiều là vợ của Tôn Bá Phù (2) còn tiểu Kiều là vợ của tôi.
Khổng Minh nghe nói giả vờ kinh hãi nói ;
— Tôi thực không biết, lỡ lời nói quấy tội đáng thác ?
Châu Du nói :
— Tôi với Tào tặc thề chẳng còn hai. Nguyên tôi vâng mạng Tôn Bá Phù ký thác lẽ đâu lòn cúi mà đầu Tào. Lời tôi nói khi nãy là thử ông mà thôi, chứ tôi về đây đã có lòng đánh Bắc, dù đao búa lên đầu cũng không đổi chí.
Khổng Minh và Lỗ Túc đều mừng.
Tam quốc chí

LỜI BÌNH
Châu Du là một con người rất bình tĩnh, ỷ kiến chủ chiến, họ Châu vẫn giữ kín là muốn nghe lấy dư luận của hai phái ra sao ? Đó là thái độ xứng đáng của kẻ làm tướng.
Chúng ta không biết Khổng Minh có hiểu rõ chủ định của Châu Du ra sao chưa, nhưng lời khích của Khổng Minh càng thúc đẩy Châu Du ra lãnh đạo cuộc kháng-chiến. Sự bực tức, căm hờn làm cho con người thêm mạnh mẽ, cương quyết. Mội chính-trị gia ở thế-giới có nói: « Anh có căm thù giặc mới giết được giặc » .
Lời khích của Khổng Minh dựa trên lập-trường
nào?
Thói thường hay bảo : (Nước mất nhà tan) Lời nói ấy rất đúng, rất hay, nhưng nó cũng rất trừu-tượng và rất sáo. Người nghe qua thì hội ngay được ý nhưng không cảm thấy tâm hồn rung động một cách thăm thía, sâu xa.
Còn ai không hiểu rằng : quốc phá gia vong ? Còn ai không hiểu rằng : quyền lợi của cá-nhân vẫn gắn liền quyền lợi của toàn thể, của đất nước. Châu Du đã thừa hiểu. Đem vận mạng quốc gia, nhiệm Vụ của con người phải làm sao, thế nào v.v... ra thuyết chi làm cho Châu Du thêm phát ngấy và cho kẻ thuyết là quá trẻ con !
Cái lối cầu tướng không bằng cách khích tướng của Khổng Minh mới thật là sâu sắc, đánh trúng ngay tâm lý của con người.
Quyền lợi cá-nhân của Châu Du là gì ?
Hòa với Tào, đất nước vẫn yên, địa vị vẫn còn nhưng thảm hại, người vợ đẹp yêu qúy đã mất.

con người tầm thường còn không thể chịu được hà - tất Châu Du là một viên thượng tướng, tuổi trẻ, khí hăng.
Trong lịch sử không phải không có người cam lòng cắt đứt tình chồng vợ, hiến người yêu cho kẻ thù đương mạnh hầu bảo tòan sinh linh, lãnh thổ như Hán đế công Chiêu Quân, đời Đường đức tôn, Mai Lương Ngọc đành để Hạnh Nguyên bị bắt sang cống cho Phiến quốc (1) nhưng đó là vận nước gặp phải lúc suy đồi, thế lực kém yếu, đành phải chịu thế thôi.
Trái lại, thế lực Đông Ngô còn vững mạnh, chưa đem sức để quyết định thư hùng thì sao lại đầu hàng nhục-nhã như thế được ; vả lại tâm-lý, danh-dự. và quyền lợi thiết thực nhất — người vợ trẻ đẹp — nên cá-tính của con người Châu Du bị chạm mạnh. Cái khéo của Khổng Minh là đặt ngòi lửa ở chỗ đó.
Trước ý kiến chủ chiến, Châu Du giữ kín, Châu Du bình tĩnh trước dư luận xôn xao chiến hay hòa. Sau. nghe lời khích tướng của Khổng Minh, Châu Du không còn bình tĩnh được nữa. Đó là tâm- lý chung của con người, « đem vợ dâng cho người » thi ai còn nước nào chịu nổi, nhưng biểu lộ ra cử chỉ, lời nói đối với Châu Du, giá trị hạ thấp như một kẻ tầm thường.
Khổng Minh hay.
Vừa hội kiến.Châu Du đã biểu-lộ ngay cái kém.


Chú thích
|) về đời Đường Đức Tôn ( 780 - 805). Hạnh Nguyên là con gái của Trần Đông Sơ hứa hôn vớì Mai Lương Ngọc. Nhưng trong triều có tên gian thần Lư-Kỷ ghét Trần Đông Sơ nên nhân dịp giặc Phiên sang đánh phá, Lư-Kỷ tâu với vua bắt Hạnh Nguyên sang cống.

 
Chú thích
(1) Châu Du : tự công cẩn trẻ tuổi , có mưu mẹo giỏi, làm đô đốc ở nước Ngô đánh thắng Tào Tháo nhiều trận, nhất là trận dùng hỏa công ở trận xích bích.

Chú thích
1)Ba đời là do đời cha là Tôn Kiên gây dựng, sau truyền cho con trưởng lá Tôn Sách, nay đến Tôn Quyền
2) Tử Kính tên gọi của Lỗ Túc.
3) Lưu dự Châu hay Lưu Sứ Quân tức Lưu Bị.

Chú thích
(1) cá đắm nhạn sa.
(2) trong cuộc ( Ngô việt tương tranh) đời Chiến quốc. vua Ngô là Phù Sai thắng. Việt Câu Tiễn phải làm con tin ở Ngô. Sau được tha về, để phục thù. theo kế phá Ngô của Phạm Lãi. Vua Việt cho tìm gái đẹp là Tây Thi đem dâng cho Ngô. Phù Sai đắm tai Tây Thi. không nghe lời trung thần can gián. Sau nước Việt đem quân báo thù. Ngô bị diệt.

Chú thích
1) Trăng nhường hoa thẹn.

nhưng Khổng Minh lại sửa chữ kiều là nàng Kiều mà đọc rằng ; « Lãm nhị Kiều ư đông nam hề; lạc triều tịch chi giữ cộng ». nghĩa là để hai nàng Kiều nơi phía đông nam mà chung vui sớm tối.

Chú thích
1) Siềng VU : một giống rợ Hung nô ở miền bắc nước Tàu. Đời hậu Hán, rợ này thường đánh phá biên giới dữ dội. Đến đời Quang võ nhà Hán thì rợ này chia làm hai nhánh : Bắc và Nam. Siềng vu là rợ thuộc chi Nam. Đánh với Hán. Vua Hán có lúc yếu thế phải đem cống công chúa giảng hòa. Nhưng sau chinh phục được rợ này.
(2) Tôn Bá Phù - Tôn Sách, anh Tôn Quyền.

_________________________________
Tri Âm Quán_Thị Trấn Chũ_Lục Ngạn_Bắc Giang
http://quoccuonglucngan.blogspot.com/
Về Đầu Trang Go down
https://triamquan.forumvi.com/
Tri Âm Quán
Thành Viên Tích Cực
Thành Viên Tích Cực
Tri Âm Quán


Tổng số bài gửi : 6340
Reputation : 2
Join date : 31/07/2013
Đến từ : Thị Trấn Chũ

CHÍNH TRI Cổ Nhân Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: CHÍNH TRI Cổ Nhân   CHÍNH TRI Cổ Nhân EmptyMon Jul 03, 2017 2:37 pm

KHỈ ƯỚT ĐỘI MÃO

Đời Tây Hán, sở Hạng Võ chiếm giữ đất Quang-trung (1), còn Hán Lưu Bang vì thế lực yếu nên phải bị đày vào đất Bao Trung.
Trương Lương (2) là bày tôi của Lưa Bang muốn tìm cách làm cho Hạng Võ bỏ đất Quang trung, để Lưu Bang trở lại chiếm giữ.
Trương Lương liền giả một tên đạo sĩ bị chứng phong ma, nói điên. nói cuồng, lưng buộc tiền đồng, tay áo đựng trái lê, áo sắn, giày gai đánh trống, gõ mõ đi cùng đường, khi thì ở nơi chùa chiền miễu võ, khi thì đi lang thang khắp phố phường, vảy tiền hoặc liệng trái lê ? Trẻ con ở chợ theo coi đông dầy. Lúc đầu. trẻ con chưa quen còn ở xa xa. nhưng được vài hôm, chúng chẳng còn sợ sệt chi nữa nên xáp lại gần.
Trương Lương ngắm trong đám trẻ con ấy có một đứa trông có vẻ thông minh nên dắt lần vào miễu, không có ai mới lấy bánh và tiền cho nó rồi dạy nó hát: (Kim hữu nhứt thân, cách bích diều tinh.
Chỉ văn kì thinh bất kiến kỳ-hình, phú qúy bất hườn hương như ý cẩm dạ hành ». nghĩa là : « nay có một người ở cách vách rung lục lạc duy nghe tiếng mà chẳng thấy hình ; giàu sang không về xứ như áo gấm mặc đêm ».
Khi đứa bé thuộc lòng câu hát ấy rồi, Trương Lương dặn nó về truyền lại cho những đứa khác, nếu có ai hỏi thì bảo là trời dạy Cãi lời thì sẽ bị phạt tội, đứa bé vâng lời. Bấy giờ. trẻ con ở. chợ đều hát như thế cả.
Lời hát truyền đến tai vua Hạng.Nhà vua nghĩ: Đó là trời trời xuống diêu ngôn (1). câu « Kim hữu nhất nhân », là ám chỉ nhà vua. Còn câu « cách bích diêu linh, chỉ văn kỳ thinh bất kiến kỳ hình » là nói nhà vua tuy đã có danh tiếng nhưng chưa được truyền rộng ra ngòai. Câu cuối « phú qúy bất hườn hương như ý cẩm dạ hành » là ý muốn nói nhà vua được thiên hạ mà chẳng về xứ sở thì cũng như mặc áo gấm đi đêm. Vi nghĩ như thế nên nhà vua sai người khởi công kiến-thiết lại Bành thành là cố -hương của nhà vua và chọn ngày dời đô.
Có quan Gián nghị đại phu là Hàn Sanh khuyên can. cho lời điêu ngôn ấy chính là của người bày đặt, chứ không phải là của trời. Hàn Sanh nói :
— Bệ hạ làm chúa trong bốn biển cũng như cái mặt trời, ai lại chẳng thấy, lựa phải khư khư có một việc hồi hương mới gọi là vinh sao ? vả chăng lời ông Mạnh tử có nói rằng : « Hễ làm thiên tử rồi thì có một tấc đất nào mà chẳng phải là đất của mình, có một tên dân nào mà chẳng phải là tôi của mình há đi kể có cái Bành thành mà thôi sao? Bá vương quyết định không nghe. Hàn Sanh Bước xuống thềm, ngước mặt lên trời than rằng: Thật là mộc hầu nhi quan. (1)
Nghe lời châm biếm quá sâu cay và nặng nề Bá vương (2) nổi giận truyền người dẫn Hàn Sanh ra chợ Vân dương bỏ vào vạc dầu mà nấu đi.


Tây Hán chí



LỜI BÌNH
Đánh trúng vào tâm lý thông thường của con người, Trương Lương đã hoàn toàn thắng lợi.
Người đã làm nên danh phận ở tha phương thì bao giờ lại không trở về cố hương để viếng láng diềng, để rạng rỡ mày mặt, tỏ chút vinh dự.,. Nhưng đó là lẽ thường tình.
Đáng tiếc, trường hợp Sở Bá Vương lại khác. Đã làm vua thiên hạ rồi, quê hương là Sở quốc, chớ đâu phải chỉ riềng một Bành thành. Qủa thật, làm lớn mà chí nhỏ, nên cơ nghiệp không được lâu bền.
Mưu mẹo nào cũng vậy, thất bại và thành công chỉ cách nhau có một sợi tóc con. Giá phỏng, Hạng Võ là con người có chí lớn khí cao hay biết nghe lời phải thì làm gì bị thất bại, mẹo hay của Trương Lương làm gì đã thành.
Cái chểt bi thảm của Hàn Sanh tuy đáng nhưng
không phải là điều không đáng tiẽc. Đáng tiếc là người có tài hiểu rõ mưu mẹo của đối phương ; nhưng đáng là không hiểu tâm lý, tinh tình của vua Hạng.Phê bình, khuyên can; người không nghe thì lại giữ không được mức quân bình trong người, lên giọng mạt sát làm gì đối với một con người hung bạo để phải lụy mình.

 --------------------------------------------------------------
Chú thích
/) Theo truyền thuyết, đất Quang trung là chỗ hưng vương, nơi mà các vua chúa từ xưa đều đóng đô ở đấy. Phía đông có sông Huỳnh hà. ải Hàm Cốc và Bố Tân : phía tây có Đại lũng quan : phía bắc có sông Thiệp hà. sông Kinh, sông Vi và ải Đồng quan phía nam có núi Chang nam và Võ quan... Trong Hán sử gọi là nước Thiên phủ. Xưa nhà Châu lấy đó mà cường thịnh : nhà Tần cũng nhờ đó mà dựng nên nghiệp bá.


2) Trương Lương: tự tử Phòng, người ở nước Hàn. Sau khi nước Hàn bị Tần Thủy hoàng tiêu diệt nên Trương Lương tìm cách rửa thù nên sang giúp Hán Lưu Bang. Là học trò của Huỳnh thạch Công, người có tài cao mưu giỏi, sau từ chức chu du non núi.

 
Chú thích
1/ Điêu ngôn là lời của trẻ con hát

 
Chú thích
1) « Khỉ ướt mà đội mão) ý nói : Khỉ tuy đội mão nhưng lông không phải là người, hay con khỉ chẳng chịu đội mão mặc áo của người lâu đặng vì lòng nóng nảy, không chừng : hay nói con khỉ tuy mặc áo mão của người nhưng chẳng phải tính người, đội chưa hư nó cũng làm cho hư 
(2) Tiếng suy tôn Sở Hạng Võ.

_________________________________
Tri Âm Quán_Thị Trấn Chũ_Lục Ngạn_Bắc Giang
http://quoccuonglucngan.blogspot.com/
Về Đầu Trang Go down
https://triamquan.forumvi.com/
Tri Âm Quán
Thành Viên Tích Cực
Thành Viên Tích Cực
Tri Âm Quán


Tổng số bài gửi : 6340
Reputation : 2
Join date : 31/07/2013
Đến từ : Thị Trấn Chũ

CHÍNH TRI Cổ Nhân Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: CHÍNH TRI Cổ Nhân   CHÍNH TRI Cổ Nhân EmptyThu Oct 12, 2017 10:21 am

MÔI MẤT RĂNG LẠNH

Vua Hiến công nước Tấn (l) hỏi quan đại phu là Tuân Tức ?
— Nước Quắc có nên đánh không ?
Tuân Túc thưa:
— Ngu và Quắc (2) đang giao hiếu với nhau ta đánh Quắc thì Ngu tất cứu. Nếu đánh Ngu thì Quắc tất cứu. Vậy thì một nước mà ta địch với hai nước. tôi chưa dám chắc là được hay không ?
Tấn Hiến công nói :
— Nếu vậy thì ta không làm gì nổi nước Quắc.
— Tôi nghe nói vua nước Quắc là người hiếu sắc, bây giờ chúa công tìm những gái đẹp trong nước, dạy nghề hát múa và cho ăn mặc đẹp đẽ đem hiến cho vua nước Quắc, lại lấy lời khiêm tốn mà xin giảng hòa. như vậy thì vua nước Quắc

--------------------------------------------------------
Chú thích:
1)    Tấn. một nước ở thời Xuân thu ở vào một phần tỉnh Trực lệ và tỉnh Sơn Tây ngày nay.
(2) Ngu và Quắc là hai nước nhỏ thời Xuân thu.

---------------------------------------------
 
tất mừng rỡ mà nhận ngay. Kẻ kia đã say mê về thanh sắc thi tất lười biếng mà chẳng thiết gì đến chính sự. Bây giờ ta lại đem lễ vật đút lót vua Khuyển Nhung để khiến quấy nhiễu nước Quắc, rồi ta sẽ tìm cớ sang đánh, như thế thì có thể phá tan được nước Quắc.
Tấn Hiến công nghe lời. đem bộ nữ nhạc sang dâng vua nước Quắc Vua nước Quắc toan nhận, Quan đại phu Chu Chi Kiều can :
—Đó là cái lưỡi câu của nước Tấn để câu nước Quắc ta đó, cớ sao chúa công lại tham mồi làm gì?
Vua nước Quắc không nghe, cứ cho nước Tấn giảng hòa. Tự bấy giờ, vua nước Quắc ngày đêm chỉ say đắm về bộ nhạc, mà chẳng thiết gì đến chính sự.
Vua Khuyển Nhung cũng tham lễ vật của nước Tấn, nên đem quân sang quấy nhiễu nước Quắc.
Tuân Tức lại thưa vời Tấn Hiến công :
_ Nước Ngu và nước Quắc vẫn giao hiếu với nhau, tôi có một kế có thể ngày nay chiếm được nước Quắc mà ngày mai chiếm được cả nước Ngu nữa.
— Nhà ngươi có kế gì ?
Chúa công nên đem nhiều lễ vật dâng cho nước Ngu mà mượn đường sang đánh nước Quắc. Chúa công lại mật sai người quấy nhiễu bờ cõi nước Quắc. Tất nhiên nước Quắc phải sang trách ta, bấy giờ ta mượn chuyện mà nói với vua nước Ngu.
Tấn Hiến công hỏi :
— Ta dùng lễ vật gì mà đưa cho vua nước Ngu.
Tuân Tức thưa :

. — Vua nước Ngu dẫu là người tham nhưng tất phải có đồ chí bảo đem sang thì mới làm cho hắn động lòng được. Bây giờ có hai thứ nên đem đi lễ, chì sợ chúa công không dứt tình bỏ được mà thôi. Nguyên vua nước Ngu thích nhất là ngọc quý và ngựa quý. Nay chúa công có ngọc Bích Thùy- cức ( 1 ) và cỗ ngựa Khuất sản (2) xin đem hai thứ ấy dâng cho vua nước Ngu để mượn đường. Vua nước Ngu tham hai vật ấy tất mắc kế ta.
Tấn Hiến công bảo :
— Hai vật ấy là vật chí bảo của ta, khi nào ta lại chịu đưa cho người khác !
-- Tôi vẫn biết chúa công không dứt tình bỏ được. -Tuy vậy, ta mượn đường để đánh Quắc mà Ngu không cứu thì Quắc tất mất. Quắc đã mất thì Ngu còn làm sao giữ được ? Bấy giờ ngọc bích và ngựa của ta có mất đi đâu, có khác nào như ta đem ngọc bích, ngựa quý của ta mà nuôi ở chuồng ngoài thế thôi.
Tấn Hiến công bằng lòng đem ngọc bích và ngựa giao cho Tuân Tức đem sang dâng cho nước Ngu để mượn đường.
Vua nước Ngu lúc mới nghe tin sứ giả đến mượn đường để đánh nước Quắc thì giận lắm, nhưng đến khi trông thấy ngọc bích và ngựa thì bớt giận, lấy làm khoan khóai.
Bề tôi của vua Ngu là Cung Chi Kỳ vội can :
— Chúa công chớ nên nghe. Tục ngữ có câu : « môi hở răng lạnh ». Nước Tấn xưa nay vẫn xâm chiến các nước khác mà không dám động đến

Chú thích:
/) Thủy cức : tên một địa phươngcó nhiều ngọc quí 2) Khuất :tên một địa phương, nơi sản xuất ngựa tốt. Bốn con ngựa gọi là một cỗ ngựa.

Nước ta là vì nước ta cùng với nước Quắc biết giao hiếu mà giữ gìn lấy nhau. Nếu ngày nay nước Quắc mất thi ngày mai nước Ngu ta cũng chẳng còn.
Vua nước Ngu bảo :
— Vua nước Tấn không tiếc đồ chi bảo mà đem cho ta, ta lại tiếc gì một lối đi nhỏ mà không cho nước Tấn. và thế lực nước Tấn mạnh gấp mười nước Quắc ; ta mất lòng nước Quắc mà được lòng nước Tấn thi có hại gì !
Vua nước Ngu không nghe lời, quả thật sau khi nước Quắc mất thì nước Ngu cũng mất luôn.
Chiến quốc sách

 
LỜI BÌNH
Trong trường tranh-đấu «ưu thắng liệt bại > kẻ yếu bao giờ cũng bị hiếp bức, bị tiêu-diệt dưới sức Uy hiếp, thế lực của kẻ mạnh.
Nhưng mạnh là thế nào ? Yếu là thế nào ?
Bài học quý nhất ở đời là kẻ yếu chưa phải là kẻ luôn luôn chịu điều thiệt thòi, kẻ yếu chưa phải là kẻ hoàn toàn chịu thất bại « cái lý của kẻ mạnh bao giờ cũng thắng » của nhà thơ La- phong tên (La Fontaine) (1) chưa phải là cái lý tuyệt-đối, nếu kẻ yếu thông minh, biết cùng nhau đoàn-kết, biết nhận lấy sự liên-quan vận mạng giữa nhau mà cùng bảo tồn cho nhau thì yếu ấy trở nên mạnh.

Chú thích:
1) La-Phong-Tên:( LA Fontaine) {1611 - 1695) một nhà thơ ngụ ngôn có danh tiếng ở Pháp.
--------------------


Quắc và Ngu là hai nước yếu. Nước Tấn là một nước mạnh nhưng chỉ mạnh hơn nước Quắc, hơn nước Ngu khi hai nước này sống cô độc. Cái lo ngại của nước Tấn trong mưu mô thôn-tính nước Qụắc là nhìn thấy hai nước Qụắc và Ngu liên kết nhau. Cái yếu của hai nước trở thành mạnh là thế. Tuân Tức bảo « Một nước mà địch với hai nước tôi chưa dám chắc là được hay không ? » thật là một nhận xét tinh-vi đã thừa nhận trực tiếp lực lượng mạnh mẽ cụ-thể của sự đoàn-kết của hai nước yếu.
Tiền bạc và gái đẹp là hai miếng mồi câu nhử rất nhạy » Tuân-Tức đã hiểu rõ tâm lý tầm thường của vua nước Ngu và nước Quắc nên thực hành mưu lược và đã thành công.
Vua nước Quắc đá có bề tôi hiền Chu Chi Kỳ can ngăn cho bộ nữ nhạc là cái « lưỡi câu » của nước Tấn, cũng như vua nước Ngu đã có bề tôi hiền là Cung Chi Kỳ cho biết « môi mất răng lạnh , như thế cả hai nước không phải thiếu người sáng suốt, không hiểu thấu mưu mẹo của đối phương- Nhưng đáng tiếc, hai ông vua không biết nghe lời của người hiền tài, vì dục vọng điên cuồng. sắc đẹp và của báu làm mờ ám tư-tưởng nên để phải mất nước, lụy mình.
Hỡi ơi! câu tục ngữ « môi mất răng lạnh »
là câu đầu mỗi chót lưỡi, nó được ăn thâm sâu vào não tủy nhưng bị sóa nhòa có phải vì dục Vọng điên cuồng của kẻ lãnh-đạo không biẽt nghe lời phải của đấng tôi hiền kia chăng ?

_________________________________
Tri Âm Quán_Thị Trấn Chũ_Lục Ngạn_Bắc Giang
http://quoccuonglucngan.blogspot.com/
Về Đầu Trang Go down
https://triamquan.forumvi.com/
Tri Âm Quán
Thành Viên Tích Cực
Thành Viên Tích Cực
Tri Âm Quán


Tổng số bài gửi : 6340
Reputation : 2
Join date : 31/07/2013
Đến từ : Thị Trấn Chũ

CHÍNH TRI Cổ Nhân Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: CHÍNH TRI Cổ Nhân   CHÍNH TRI Cổ Nhân EmptyTue Oct 17, 2017 12:48 pm

MUỐN LÀM BÁ CHỦ THIÊN HẠ 

Tần Mục công (1) nói với Kiến Thúc :
Bá Lý Hề (2) thường nói tiên sinh, là người hiền, xin tiên sinh chỉ bảo cho.
Kiến Thúc thưa :
Nước Tần ta ở cõi tây này tiếp giáp với các nước Nhung địch, đất hiểm quân mạnh mà không được bằng các nước Trung quốc là chỉ vì không có uy đức đó thôi. Không có uy thì làm sao cho người ta sợ, không có đức thì làm sao cho người ta mến. Người ta không sợ, không mến thì làm bá chủ thế nào được.
Tần Mục công hỏi :
Uy và đức, hai điều ấy nên làm điều gì trước?
-Nên lấy đức làm gốc lại có uy để giúp vào. Nếu có đức mà không có uy thì làm sao giữ được nước ; có uy mà không có đức thì làm sao yên được dân.
Tần Mục công lại hỏi :
Ta muốn sửa đức và lập uy thì nên làm thế nào ?
Kiến Thúc thưa :
Dân nước Tần ta tập nhiễm phong tục mọi rợ.
không biết lễ nghĩa, nay muốn cho dân biết tôn kính người trên thì tất phải dùng giáo hóa và hình phạt. Có giáo hóa thì dân biết ơn, có hình phạt thì dân biết sợ. Bấy giờ kẻ trên, người dưới khác nào thân thể trong một người.
Tần Mục công hỏi :
— Cứ theo như lời của tiên sinh, có thể làm bá chủ được không ?
— Thế cũng chưa đủ ! Muốn làm bá chủ thiên hạ thì Có ba điều nên kiêng: Chớ tham lam, chớ tức giận. Chớ vội vàng, Tham lam thì có nhiều điều lầm lỗi ; tức giận thì có nhiều sự khó khăn ; vội vàng thì có nhiều việc tan nát. Chúa công biết kiêng ba điều ấy thì có thể làm nên nghiệp bá.
Tần Mục công khen phải:
Sa-Đéc Chiến quốc sách
Saturday. May 14,2016

 
LỜI BÌNH
Không có uy thì không thể trị được người, hàng phục được người. Trong cuộc đời ( cường thắng nhược bại ), những lời đạo đức. cũng như trên trường ngoại giao muốn thành công phái có uy lực làm hậu thuẫn, làm áp lực. Tuy vậy, uy làm cho người ta sợ nhưng rất dễ làm cho người ta căm thù. Có uy mà thiếu đức là tàn bạo.
Trái lại, đức làm người ta mến, người ta thương, nhưng thiếu uy, người ta không nể, không sợ. Có đức, mà thiếu uy là nhu nhược, yếu hèn.
Muốn làm bá chủ, uy phải đi đôi với đức, cũng như đức phải đi đôi với uy. Hai điều-kiện ấy phải phối hợp nhau nhưng phải lấy đức làm căn bản Uy phải được xây dựng trên nền tảng đạo đức thì uy mới bền vững, mới chinh phục được nhân tâm, đánh ngã được kẻ thù.
Cùng trên lập-trường phối hợp đức và uy ấy, nên trong công việc bình trị thiên hạ. Tuân Tức chủ- trương giáo-hóa phải đi đôi với hình-phạt. Giáo-hóa là một hình-thức biểu hiện của đức, hình-thức phạt là một hình-thức biểu hiệu của uy.
Có hình phạt thì dân mới sợ nhưng dễ sinh oán, sinh lọan, vậy phải lấy gìáo-hóa làm căn-bản để nhân dân biết lấy đạo nghĩa mà tránh bớt hình phạt là điều càng hay.
Hình-phạt là phụ. giáo-dục là chính.
Tham lam, tức giận và vội vàng là ba điều đáng kiêng đối với người muốn mưu đồ nghiệp lớn. Vì tham lam nên dễ bị tiền tài, sắc đẹp . . . là những miếng mồi câu nhử rất nhạy ; và nóng nảy nên dễ bị người khiêu khích, mất cả trí khôn ; vì vội vàng nên không bình tĩnh suy nghĩ, dễ bị lừa. Nước Quắc nước Ngu mất vì tham lam (1). Hạng vỏ (2) Trương Phi (3) chết vì nóng nảy vội vàng...
Tần Mục công khen phải và Tần Mục công đã nghe lời phải của đấng hiền tài nên nước Tần ngày một cường thịnh đời Xuân thu. là lẽ tất nhiên.


Chú thích
(1) Tần Mục công : tên Nhâm Hiêu, nước Tần là một nước chư hầu đời Xuân thu ở vào Tần Châu (cam túc) và tỉnh Thiểm Tây ngày nay.
(2) Bá Lỳ Hề : là người nước Ngu, tên tự Tỉnh Bá. Trước yết kiến Tề Tương Công nhưng không được dùng, nghèo quá phải đi xin ăn, sau lại đi chăn trâu mướn ở nhà Châu rồi sang làm quan nước Ngu. Khi nước Ngu mất. Bá Lý Hề lại sang đất sở làm nghề chăn ngựa. Tần Mục công nghe tiếng đem 5 bộ da dê chuộc Về phong làm Thượng Khanh, giao cha quyền chính trong nước , bấy giờ đã 60 tuổi.

Chú thích
1) Đã nói ở bài « Môi mất răng lạnh)
(2) Hạng Võ: tức Sở Bá Vương vì có tánh nóng nảy. Hay giết những quan gián nghị. Thường bị Hàn Tín khiêu khích: dụ dịch sau chết ở bến Ô-Giang..
(3) Trương Phi : người nước Yên đời Tam Quốc, vì nóng nảy trong việc bảo lính may đồ tang cho Quan Công- hẹn trễ ngày xuất quân báo thù thì xử tử tất cả chúng tức giận rập nhau ám sát chết..

_________________________________
Tri Âm Quán_Thị Trấn Chũ_Lục Ngạn_Bắc Giang
http://quoccuonglucngan.blogspot.com/
Về Đầu Trang Go down
https://triamquan.forumvi.com/
Tri Âm Quán
Thành Viên Tích Cực
Thành Viên Tích Cực
Tri Âm Quán


Tổng số bài gửi : 6340
Reputation : 2
Join date : 31/07/2013
Đến từ : Thị Trấn Chũ

CHÍNH TRI Cổ Nhân Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: CHÍNH TRI Cổ Nhân   CHÍNH TRI Cổ Nhân EmptyWed Oct 18, 2017 5:51 pm

CÁI KHÓC CỦA KHỔNG MINH ĐIẾU CHÂU DU
Châu Du chết. Khổng Minh đem lễ vật sang điếu tang. Sau khi bày lễ vật trước linh sàng Khổng Minh qùy xuống, bản thân rót rượu rồi đọc văn tế :
Than ôi! Công Cẩn (/)! Chẳng may trời hại. Thọ yểu số trời, lòng ta ái ngại.
Rót chén rượu này. lòng ta xót xa.
Người có khôn thiên chứng giám cho ta: Thương người thuở bé chơi với Bá Phù (2) Trượng nghĩa khinh của, nhường nhà cho nhau Thương ngươi trẻ trung có chí cao xa,
Gây dựng nghiệp bá, riêng một sơn hà,
Thương ngươi sức khỏe, trấn ở Ngô trung, Cảnh Thăng (3) mất vía. Tôn Sách yên lòng, Thương ngươi đẹp trai sánh với Tiểu Kiều,Rể tôi nhà Hán xứng đáng trăm điều. Thương người khí khái, ngăn việc hàng Tào (4 ,
Trước tuy chấp cánh lần lần bay cao.
Thương người khôn ngoan, Tương Can đến
dụ (5)

chú thích
(/) công cẩn: tên tự của Châu Du.
(2) Bá Phù : tên tự của Tôn Sách.
3) Cảnh Thăng tên tự của Lưu Biểu, một quan thái thú trấn Kinh châu.
4, Tào : TàoTháo. .
5)Tương Cán : một mưu sĩ của Tào Tháo, bạn học lúc bé của Châu Du. Vâng lịnh Tháo sang do thám bên Đông NGÔ. Tương Cán bị Châu Du dùng mẹo giả say rượu. Hư hỏng để bắt được thư đem về dâng cho Tháo, mắc kế ly gián Tào-Tháo giết hai đô đốc thủy quân có tài.

Chén rượu thảnh thơi, Tào Man (I) mắc mẹo Thương ngươi có tài văn Võ kiêm toàn,
Hỏa công giặc Tháo (2), chuyển nguy thành an Tưởng ngươi khi ấy. anh hùng ghê gớm,
Lệ tuôn hai hàng, thương ngươi mất sớm. Lòng ngươi trung nghĩa, hồn ngươi anh linh Tiếng ba mươi tuổi, ngàn thu dương danh. Lòng ta rầu rĩ, thương ngươi tình thiết.
Trăm thảm ngàn sầu, kể sao cho xiết.
Trời Ngô mù mịt, ba quân xót xa,
Chủ thi sùi sụt. bạn cùng thân ta (3)
Lượng (4) tôi bất tài, xin mẹo cầu mưu.
Giúp Ngô chống Tào, phò Hán yên Lưu.
Cũng mong cùng ngươi, cứu giúp nhau cung Kẻ mất người còn ruột xót đau lòng Than ôi ! Công Cẩn đã biết nhau rồi,
Thôi nói chi nữa. là thế xong đời!
Ngươi có khôn thiêng Soi thấu vi thềm Từ rày thiên hạ ai kẻ tri âm ?
Than ôi ! đau đớn thay ! xin về hâm hưởng . Khổng Minh tế rồi. cúi xuống đất khóc rống lên, nước mắt như suối chảy, thương xót chẳng cùng. Các tướng Đông Ngô nói với nhau :
— Người đều nòi Công cẩn với Khổng Minh chẳng hòa, nay xem tình điếu tế, thực là lời người nói sai.

Chú thích
1)Tào man: cũng gọi là Tào A Man tức Tào-Tháo.
2)Giặc Tháo : tức Tào-Tháo.
3)Thán-ta : tức ta-thán hay ta-oán nghĩa là than thở, oán hờn. Cò chữ thán tích nghĩa là than thở. thương tiếc. Dùng (thán-ta) để xuôi vần chăng.
3) Lượng : tức Gia cát Lượng hay Khổng Minh.

Lỗ Túc thấy Khổng Minh –thảm-thiết như thế thì cũng động tình, nghĩ thầm :
-Khổng Minh lòng tốt như vậy. Tại Công cẩn hẹp hòi cho nên mình hại lấy mình mà thôi.

Chiến quốc sách
 
LỜI BÌNH
Đọc (Tam quốc chí). chúng ta thấy Châu Du nhiều lần tìm mưu mẹo để hại Khổng Minh, cho rằng: (để con người này, ta (Châu Du) ăn không ngon, ngủ không yên ».
Lần thứ nhất, Châu Du mượn cớ sai Khổng Minh đi đoạt lương của Tào-Tháo, cố ý mượn tay giặc giết cho khỏi mang tiếng mình cố ý sát hại người tài. Không dè nhờ mưu khéo mẹo hay Khổng Minh đoạt được lương của Tào y như lịnh dạy. Lần thứ hai. Châu Du hạ lịnh cho Khổng Minh coi việc vót tên cho kịp ngày dùng. Thời hạn định ít mà số tên lại nhiều, thế mà không phải phí nhiều công. Khổng Minh đem nạp quá số và trước thời hạn (1). Lần thứ ba, muốn dụng hỏa công nơi trận Xích bích, Châu Du phải nhờ- ngọn gió đông thuận chiều để đốt giặc, thì Khổng Minh lại cầu được gió (Trái Mùa),  


Chú thích
l) Khổng Minh thừa lúc trời có sương mù cho mgười chèo thuyền trên sông Trường giang, dậu ở ngoài khơi sa đánh trống la ó. Quân Tào tưởng giặc tấn công nhưng vì sa mù nhiều không dám ra xáp chiến, cứ ở trên bờ bắn tên xuống. Hai bên thuyền của Khổng Minh, có bện hình nhân bàng rơm nên tên cứ ghim vào đấy. Chỉ có mấy tiếng đồng hồ Khổng Minh thâu được cả mấy Chục muôn mũi tên.

và đến khi Châu Du sai tướng mạnh đến Thất tinh đàn (1) lấy đầu Gia-Cát thì.. Gia-Cát đã biết trước nhắn Triệu Tử Long (2) sang rước đi trước rồi.

Ba lần khổ kế mà không hại được Khổng Minh, Châu Du bực tức vô cùng. Vậy mà khi Châu Du chết vì uất giận, Khổng Mình lại sang điếu tế, khóc lóc bi thảm làm tất cả tướng sĩ .Đông Ngô phải mủi lòng.
Cái khóc của Khổng Minh có phải là thủ đoạn không ? Có phải là một « vấn đề chính - trị " không ?
Người ta thường bảo : những chính khách không có tình cảm, họ không biết rung động trước- giọt nước mắt của con người khốn nạn, của những kẻ thân yêu. Từ khô khan, họ đi đến chỗ độc ác, tàn bạo. Nói như thế có phần đúng đối với những chính khách phản dân, chính khách phát-xít chẳng hạn. Trái lại, một chính khách dân chủ một chính khách vì dân, họ rất giàu tình cảm. họ vẫn biết đau khổ, hay vui sướng, họ biết hướng dẫn tình cảm của họ đúng chỗ, đúng đường là không đặt tình cảm cá- nhân trên tình-cảm của dân-tộc, của nhân loại.
Nghe đồng bào bị nạn, họ khóc, ta phải thành thực nhận lấy chân giá-trị của cái khóc ấy.
Khổng Minh khóc. Châu Du có hàm súc một ý nghĩa làm cho tướng sĩ bên Đông Ngô thấy thái-độ quân tử của mình đối với ( một kẻ luôn luôn mưu hại mình, cho mình là kẻ tử- thù.


Chú thích
I) Thất tinh đàn là chỗ Khổng Minh lập đàn cầu gió  

2)Triệu tử long tức Triệu vân tướng tài của Thục.
 

Những điều này không phải lý do chính.
Chủ-trương của Khổng Minh là luôn luôn « Đông hòa Tôn Quyền, Bắc cự Tào-Tháo. »
Khổng Minh đã hiểu rõ quyền lợi của Kinh châu và Ngô quận cần giao hảo nhau, vì hai bên chỉ cách có sông Trường giang, nếu hềm khích nhau thì dân chúng làm sao an cư lạc nghiệp, và gây chiến tranh với nhau, Tào-Tháo sẽ sang tiêu diệt cả đôi bên. Vì vậy, chiến lược lâu dài của Khổng Minh là hòa với Ngô để tránh nạn xâm lăng của Tào.
Châu Du vì hẹp hòi thiển cận nên muốn tiêu diệt Lưu-Bị. Giả sử Ngô diệt được Lưu-Bị thì Ngô quận cũng không thể thoát khỏi tay thống trị của Tào-Tháo.
Khổng Minh và Châu Du đều đặt việc nước trên tình riêng.
Sở dĩ Khổng Minh thương khóc Châu Du vì Châu Du là một chiến hữu, là đô đốc của một nước đồng minh, là rường cột của lực lượng mà Khổng Minh quyết tâm đòan-kết lâu dài trên đường chiên đấu chống Tào.Còn Châu Du muốn hại Khổng Mình vì Châu Du quan niệm hẹp hòi rằng hại Tây Thục tức là có lợi cho Ngô.
Vì chủ-trương sai. Châu Du trở thành ác độc đối với một người bạn quyết tâm đoàn-kết lâu dài trên đường chiến-đấu.
Cái khóc của Khổng Minh, ta không thể cho đó là một thủ đọan mờ mắt người mà trái lại phải nhìn nhận có đầy vẻ chân thành.

_________________________________
Tri Âm Quán_Thị Trấn Chũ_Lục Ngạn_Bắc Giang
http://quoccuonglucngan.blogspot.com/
Về Đầu Trang Go down
https://triamquan.forumvi.com/
Tri Âm Quán
Thành Viên Tích Cực
Thành Viên Tích Cực
Tri Âm Quán


Tổng số bài gửi : 6340
Reputation : 2
Join date : 31/07/2013
Đến từ : Thị Trấn Chũ

CHÍNH TRI Cổ Nhân Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: CHÍNH TRI Cổ Nhân   CHÍNH TRI Cổ Nhân EmptyWed Nov 08, 2017 2:45 pm

CHỌN NGƯỜI ĐỂ GIAO QUYỀN CHÍNH

Quản-Trọng đau- nặng. Tề Hoàn công đến hỏi thăm, cầm tay mà nói rằng :
Trọng phụ đau nặng lắm, bất hạnh mà có sự gì thì ta biết giao quyền chính cho ai được ?
Bấy giờ Ninh-Thích và Tân Tu vô (1) đều mất cả rồi.
Tề Hoàn công hỏi:
— ta muốn giao quyền chính cho Bảo Thúc Nha. Trọng phụ nghĩ thế nào?
Quản Trọng thưa :
— Bảo Thúc Nha là người quân tử nhưng không có tài chính trị, hay phân biệt thiện ác qúa. Yêu điều thiện thì phải chứ ghét điều ác quá thì không ai chịu được. Bảo Thúc Nha thấy ai có điều ác gì thì suốt đời không quên, đó cũng là một điều dở.
Tề Hoàn công hỏi :
— Thấp Bằng (1) là người thế nào.
— Thấp Bằng là người hay hỏi kẻ dưới mà không thấy xấu hổ. lúc nào cũng lo nghĩ đến việc nước có thể dùng được.
Tề Hoàn Công lại hỏi :
— Còn Dịch Nha thế nào?
Qủan-Trọng thưa ;
Chúa công không hỏi tôi cũng sắp nói đến Dịch Nha, Thu Điêu và Khai Phương ba người ấy quyết không nên gần.




Dịch Nha làm thịt con để cho ta ăn, thế là yêu ta hơn yêu cha, còn nghi gi nữa ? (1)
— Tình người ta không gì yêu hơn con, Con mà nỡ như thế thì còn nghĩ gì đến vua. 
Tề Hoàn công lại nói :
—Thụ Điêu tự hoạn mình đi để xin vào hầu ta, thế là yêu ta hơn yêu mình còn nghi gì nữa ? (2) -Tình người ta không gì yêu hơn thân, thân mà lỡ như thế thì còn nghĩ gì đến vua.
Tề Hoàn Công lại nói:
-Khai Phương là công tử nước Vệ bỏ ngôi thế tử mà theo ta, khi cha mẹ chết cũng chẳng thiết gì về, thế là yêu ta hơn yêu cha mẹ, còn nghi gì nữa!
-Tình người ta không gì thân hơn cha mẹ. Cha mẹ mà nỡ như thế thì còn nghĩ gì đến vua. Vả lại ngôi thế tử sắp lên làm vua thì ai là không muốn, nay Khai Phương(3) bỏ ngôi thế tử mà theo chúa công thì tất còn muốn được hơn ngôi Thế tử nữa. Vậy chúa công chớ nên gần. Gần tất có ngày sinh loạn.
Tề Hoàn công hỏi :
Ba người ấy theo hầu ta đã lâu lắm, sao ta không thấy Trọng phụ nói đến bao giờ ?
Quản Trọng thưa :
— Tôi không nói ra là để chiều ý chúa công. Thí dụ như nước, tôi làm cái bờ đê để khiến cho nước khỏi tràn chảy. Nay bờ đê đã vỡ đi rồi thì khó lòng mà giữ được nước.
Tề Hoàn công nín lặng, cáo từ lui về.
sau khi Quản Trọng chết. Tề Hoàn công giao quyền chính cho Thấp Bằng, nhưng chưa được một tháng thì Thấp Bằng chết. Quyền chính bấy giờ lại giao cho Bảo Thúc Nha. Bảo Thúc Nha xin đuổi ba người Dich Nha. Thụ Điêu và Khai Phương thì mới nhận chức tể tướng. Tề Hòan công nghe theo. Nhưng sau nghe lời Trưởng Vệ Cơ (1) triệu cả ba về dùng. Bảo Thúc Nha can không được, uất lên mà chết. Từ bấy giờ nước Tề lại sinh biến loan.
Chiến quốc sách

 
LỜI BÌNH
Bảo Thúc Nha và Quản Trọng là đôi bạn thân. Bảo Thúc Nha đã từng chia cơm xẻ áo cho
Quản Trọng từ lúc hàn vi (1); ngay cả việc hiển đạt của Quản Trọng cũng do Bảo thúc Nha tiến cử. Vậy thay vì khi chết. Quản Trọng nên giao quyền chính lại cho Bảo Thúc Nha mới trọn tình bạn, mới đúng đạo nghĩa kim bằng, thế mà không.
Quản Trọng không đặt tình bằng hữu trên lẽ công, không đem tình cảm cá nhân để trên việc nước, VÌ Quản Trọng đã hiểu rõ cái bản chất của con người của Bảo thúc Nha, cái nhược điểm của Bảo thúc Nha.
Không được tiến cử lên địa vị tể tướng. Bảo thúc Nha không lấy đó làm phiền bạn là Bảo thúc Nha đã rất hiểu bạn, rất hiểu mình.
Tình bằng hữu như thế thật đáng qúy.
Nhược điểm của Bảo thúc Nha ở chỗ nào ?
Không phải nhà chính trị không phân biệt điều thiện và điều ác.Chính trường không phải là chỗ hỗn tạp. Chất chứa những phần tử bỉ ổi để xen vào giữa những phần tử ưu tú như một mớ ( tả bí lù). Nhà chính trị chân chính vẫn biết lấy điều thiện làm căn bản cho việc xây dựng đất nước, biết gần người thiện để cùng mưu lấy một sự nghiệp vĩ đại. Nhưng yêu điều thiện, hoàn toàn ghét điều ác. thấy ai có điều ác gì thì suốt một đời không quên, đó là thái-độ của một nhà đạo đức. một bực quân tử, chứ không phải thái-độ của một nhà chính-trị.
Những bực quân tử hiền nhân luôn luôn tránh
xa cái ác, không bao giờ gần người bất thiện (gần người hiền như vào nhà có cỏ chi cỏ lan, ; gần ké ác như vào hàng cá, hàng tôm hôi hám. »
« Thấy điều gì ác thì suốt đời không quên được) đó là khuyết điểm của người quân tử. Ta nên biết rằng : trong xã hội nào cũng có kẻ ác. người thiện, cái khéo của nhà chính-trị là biết phương pháp lãnh- đạo để điều khiển họ trong mọi công tác nào thích hợp, để lần lần hoán cải họ trở nên thiện. Nhà binh pháp Ngô Khởi đời Chiến quốc có nói : "Dùng người như dùng gỗ », gỗ tốt hay xấu đều hữu dụng, cho nên không gỗ nào là không xài, chỉ có điều biết xài hay không biết xài thế thôi.
Bảo Thúc Nha chỉ là một bực quân tử, một nhà đạo đức chớ chưa phảì là một nhà chính-trị. Sự nhận xét của Quản Trọng rất tinh-vi.
Làm thịt con cho nhà vua ăn. Thiến mình để được vào hầu, bỏ ngôi thế tử để theo, qủa thật là những người khó tìm. Họ dám cắt đứt tình huyết mạch, hủy hoại thân mình, bỏ tước vị giàu sang để đi phục vụ cho một người, như vậy thật đáng hoan hô, nhưng tại sao Quản-Trọng lại cho là những kẻ không nên gần ? Gần họ tất sinh loạn !
Quản-Trọng cho rằng : giết con thì yêu người thế nào được, không yêu mình thì yêu người thế nào được ? Nhận xét như thế chỉ đúng cò một mặt. Giới Tử Thôi cắt bắp thịt mình để nuôi vua (/), ta không thể phủ nhận tinh-thần hy-sinh cao qúy của một bề tôi như thế.
Có điều giá-trị cần xem xét là : Kẻ dám hy-sinh con, hy sinh mình cho người là khi con-người ấy ở vào hoàn-cảnh gay-cấn, ở vào địa vị thấp hèn. thì sự hy sình kia mới có giá-trị. Trái lại khi con người ấy đương ở trên ngôi cao tước cả có thế lực mạnh thì chỉ có kẻ ninh-bợ, vị-kỷ. Muốn tiến thân mới dùng những hình thức như thế thôi. Đó là những„ hành-vi hèn hạ của những bề tôi dua nịnh, chờ- gió trở cờ.
Gần những kẻ đó thì sinh loạn.
Khi Qủan-Trọng còn sống dùng bọn chúng vì Quản-Trọng là người có tài, là (một cái bờ đê cản nước ). nay Quản-Trọng chết cũng như « cái bờ đê kia vỡ. nước thừa dịp tràn » Tề Hoàn công không phải là « một bờ đê cản nước », lại không nghe lời chúc, của Quản –Trọng, nước hư là điều không tránh khỏi.


 -----------------------------------
----------------------------------------
Chú thích
|) Ninh Thích và Tân Tu Vô là hai bậc hiền tài của Tề Hoàn Công.
(2) THấP BằNG : là bề tôi hiền tài của Tề Hoàn Công..

Chú thích
1) Dịch Nha : là người nấu an cho Tề Hoàn công. Một hôm Tề Hòan công nói đùa : các giồng điểu thú. trùng ngư đều có ăn cả, chỉ có thịt của người ta là chua biết mùi vị ra sao. Dịch Nha liền đem đứa con đầu lòng 3 tuổi làm thịt cho Tề Hoàn công ăn. Rõ được chuyện. Tề Hòan công cho Dịch Nha yên mình lắm nên rất tin dùng.
(2) Thụ Điêu : là đứa đầy tớ yêu của Tề Hoàn Công muốn thân cận ở chốn nội đình nhưng ra vào không tiện, mới tự thiến mình để cầu tiến vào cùng.
3) Công tử Khai Phuvng là con của Vệ huệ công thấy
Nước Tề cường thịnh nên xin sang làm quan ờ Tề. Tề Hoàn công dùng làm quan đại phu. Dịch Nha, Thụ Điêu và Khai Phương được vua yêu, nên nước Tề gọi là (tam quý)

Chú thích
1) Trưởng Vệ Cơ: vợ của Tề Hoàn Công. Về sau Tề- Hòan công cò cưới thêm một người gái đẹp nước Vệ cũng tên Vệ Cơ, nên gọi Trưởng Vệ Cơ và Thiếu Vệ Cơ.

Chú thích
1) lúc còn hàn vi, hai người buôn chung, lúc chia với Quản Trọng bao giờ cũng lấy phần hơn, nhưng Bảo Thúc không cho là tham vì biết Quản Trọng gặp cảnh quẫn bách, bất đắc dĩ phải lấy thế.
Chú thích
(/) Công tử Trùng Nhĩ là con của Tấn Hiến công. Vì Tấn Hiến công nghe lời nàng Ly Cơ giết con trưởng là Thân Sinh nên Trùng Nhĩ sợ bị hại nên phải cùng một số bề tôi chạy trốn sang nước Địch- sau lại sang nước Vệ. Giữa đường nhịn đói. không cơm cháo ăn. Trùng Nhĩ không thể ăn rau sam luộc trừ cơm được. Bấy giờ có bề tôi theo phò là Giới Tử Thôi cắt thịt đùi mình nấu cháo cho Trùng Nhĩ ăn.

_________________________________
Tri Âm Quán_Thị Trấn Chũ_Lục Ngạn_Bắc Giang
http://quoccuonglucngan.blogspot.com/
Về Đầu Trang Go down
https://triamquan.forumvi.com/
Tri Âm Quán
Thành Viên Tích Cực
Thành Viên Tích Cực
Tri Âm Quán


Tổng số bài gửi : 6340
Reputation : 2
Join date : 31/07/2013
Đến từ : Thị Trấn Chũ

CHÍNH TRI Cổ Nhân Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: CHÍNH TRI Cổ Nhân   CHÍNH TRI Cổ Nhân EmptyThu Nov 30, 2017 12:53 pm

GIỮ CHÙA THỜ PHẬT THÌ ĂN OẢN
Nguyễn Kim (1) đem binh tiến đánh Sơn nam, đi đến huyện Yên mô bị người Dương chấp Nhứt là hàng tướng nhà Mạc (1) đánh thuốc độc chết. Bình quyền giao cả lại cho rể là Trịnh Kiểm (2).
Trịnh Kiểm rút quân Về Thanh hoá lập hành diện ở đồn Văn Lại (3) để cho vua ở, rồi chiêu mộ những kẻ hào kiệt (4) luyện tập quân sĩ, tích trữ lương thảo để lo việc đánh họ Mạc.
Sau khi vua Lê trang Tôn (5) chết; Trịnh Kiểm lập thái tử tên Duy Huyên lên làm vua tức Trung Tôn, nhưng được 8 năm thì mất.
Vua Trung Tôn mất không có con, vả lại bấy giờ dòng dõi họ Lê không còn ai, việc binh quyền ở trong tay Trịnh Kiểm cả.
Trịnh Kiểm do dự muốn tự xưng làm vua nhưng chưa dám định hẳn bề nào. Các quan cũng chẳng có ý kiến qụyết định. Bấy giờ Trịnh Kiểm lén cho người.ra Hải dương hỏi ông Nguyễn bỉnh Khiêm.
Ồng Nguyễn Bỉnh Khiêm không nói gì cả, chỉ ngoẳnh lại bảo đầy tớ rằng :
— Năm nay mất mùa, thóc giống không tốt, chúng mày nên tìm giống củ mà gieo mạ.
Nói rồi, ông lại sai đầy tớ ra bảo tiểu quét dọn chùa và đốt hương để ông ra viếng chùa, lại bảo tiểu rằng ;
— Giữ chùa, thờ Phật thì ăn oản ( 2)
Sứ giả về kể chuyện lại cho Trịnh Kiểm nghe. Trịnh Kiểm hiểu ý mới cho người đi tìm con cháu họ Lê. Sau tìm được người cháu huyền tôn của ông Lê Trừ, anh vua Thái Tổ tên Duy Bang rước về, lập lên làm vua . .
. Con thứ của Trịnh Kiểm là Trịnh Tùng (3) khi diệt được họ Mạc, thu giang san lại cho nhà Lê rồi 
thi nắm giữ tòan quyền chính, định lệ cấp bổng cho vua (1).
Tự đó về sau, họ Trịnh cứ thế lập làm vương. Tục gọi là chúa Trịnh.
Việt sử

Lời BÌNH
Phạm Tăng, (2) quân sư của Hạng Lương (3) bảo Hạng Lương : « Tướng quân nghĩa binh mới dấy mà thiên hạ bốn phương nghe tiếng đều đến đầu là chẳng có chi khác, bởi trước kia tướng quân đời đời làm tôi cho nước Sở, chắc lập lại dòng Sở mà giết đứa vô đạo . Nay lo kế, thì chi cho bằng lập dòng Sở lại trước mà tùy theo nguyện Vọng của người thì thiên hạ ai lại chẳng bảo rằng Hạng tướng quân chẳng phải lo lập cho mình mà sự thật là lo lập dòng Sở lại đặng báo cừu lục quốc (4) nếu tướng quân khởi nghĩa với danh nghĩa đó thì lòng Người kính phục, chư hầu đều bằng lòng, nước Tàu dù mạnh thứ mấy, chỉ trong một chiều tướng quân phá cũng xong..
Hạng Lương cho là phải nên cho người tìm Mế Tâm, cháu, đích tôn của Sở Hoài vương tôn lên làm vua.
Khởi binh để trừ đứa bạo mà còn phải dựa vào một danh nghĩa để thu phục nhân tâm, làm hậu thuẫn cho cuộc chiến tranh chính nghĩa của mình, đó là một lập trường chính trị rất cứng cáp.
ở Việt Nam, Mạc đăng Dung đã cướp ngôi của nhà Lê (năm Đinh hợi 1527), mạc dù nhà Lê muốn suy nhưng Mạc đăng Dung dù sao cũng mang phải tiếng thoán đoạt. Thoạn đoạt là bất chính thì làm sao thu được lòng người: huống chi nhà Lê dựng nghiệp do Lê Lợi đã có một thành tích cứu quốc, kiến quốc vẻ vang trong lịch sử Vỉệt Nam.
Nay họ Trịnh trước phò nhà Lê, hưởng bổng lộc của nhà Lê, nhờ nhà Lê mới được cầm lấy binh quyền, bây giờ lại cậy công ỷ thế phế bỏ họ Lê thì dù muốn dù không cũng diễn lại cái trò của họ Mạc. Cái trò « mất nhân tâm » ấy làm sao tạo được một hậu thuẫn nhân dân mạnh mẽ, để diệt trừ được nhà Mạc hầu xây dựng công danh địa vị rực rỡ của mình.
Hạng Võ sau giết Sở Hoài vương rồi xưng mình là Sở Bá vương, làm thêm một việc thất nhân tâm, nên lợi dụng khuyết điểm đó, Lưu Bang càng đánh mạnh hơn nữa,Và nhân dân càng quyết tử giúp Lưu Bang hơn nữa trong cuộc Hán Sở tranh hùng “Lấy hột giống cũ mà gieo mạ là tìm lấy họ Lê lập lên làm vua «giữ chùa, thờ Phật thì ăn oản " nhờ phò nhà Lê, họ Trịnh mới lập nên nghiệp chúa. Trạng Trình Nguyễn bỉnh Khiêm quả thực là mật nhà chính trị có tài.
Giữ chùa, thờ Phật mà không chăm sóc, cung kính thì tín đồ ai còn tin tưởng mà đem oản lại dâng cho ăn ? Vì thế, họ Trịnh sau khi xưng Chúa, lấn ép quyền vua Lê, đó là một cơ hội để cho Nguyễn Huệ (1) đem binh tự Nam đánh chiếm Bắc hạ dứt họ Trịnh một cách dễ dàng.
Ngay khi Nguyễn Huệ đem binh đánh Bắc hà để diệt Trịnh cũng lấy danh nghĩa “phò Lê dìệt Trịnh ” quả thật là một chính trị già dặn.

 
 
Chú thích
1) Nguyễn Kim: con của ông Nguyễn Hoàng Dụ đời nhà Mạc, làm quan Hữu vệ Điện tiền tướng quân An thành hầu trốn sang Ai lao. Ông Nguyễn Kim cho người đi tìm con cháu nhà Lê để đồ sự khôi phục.

Chú thích:
(1) Nhà Mạc : do Mạc Đăng Dung (1527-1529) sàng lập thủa trẻ làm nghề đánh cá, có sức mạnh sau thi đỗ Lực Sĩ làm đến Đô chỉ hay sứ đời vua Lê Huy Mạc , sau đoạt ngôi nhà Lê.
(2) Trịnh Kiểm : người làng Sọc sơn huyện Vĩnh lộc phủ Qủang hóa. ỏng Nguyễn Kim thấy người có tài gả con gái là Ngọc Bảo để cùng ra giúp nhà Lê dứt nhà Mạc.
(3) Vạn-lại thuộc huyện Thụy nguyện tỉnh Thanh hoá,
(4) Người có tài xuất chúng,
(5) Lê Trang tôn : tên Duy Ninh, con rốt của vua Chiên Tôn ông Nguyễn Kim lập lên làm vua tại đất cầm châu (Lào) sau đưa về Thanh Hóa được 16 năm.

Chú thích:
(1) Nguyễn Bĩnh Khiêm (1491 -I585) tự Hanh phủ, hiệu Bạch Vân cư sĩ, người làng Trung am, huyện Vĩnh lại (nay là phủ vĩnh bảo, tỉnh Hải dương) dỗ trạng nguyên đời Mạc Đông Doanh, được phong tước Trịnh quốc công lên tục gọi là Trạng Trình San ông về tri sĩ, cát nhà ở làng gọi là Bạch Vân am. chĩ đi thương ngoạn phong cảnh và ngâm vịnh thơ văn. .
(2) Oản là lễ phẩm bằng xôi đóng vào khuôn hình tròn. Ca dao có câu: (Chớ khinh chùa tích không thờ mà đem xôi oản cúng nhờ gốc cây)
(3) Trịnh Kiểm chết trao quyền lại cho con trưởng là Trịnh Cối Cối hay say đắm tửu sẳc, tướng sĩ không mấy người phục! TrịnhTùng là em mnốn cướp ngôi mới chạy vói bọn Lể Cập Bệ,.. Trịnh Bách rưởc vua về đồn Vạn tại rỗỉ chia quân chống Trịnh Cối. cối địch không nổi trở về hàng nhà Mạc.

Chú thích:
(I) Nhà vua được thu thuế 1000 xã, gọi là Lộc thượng tiến cấp cho vua 5.000 lính để làm quân túc vệ. Còn những việc đặt quan, thu thuế. bẳt linh, trị dân đều thuộc cả về quyền họ Trịnh. Chỉ có khi nào thiết triều haỵ tiếp sứ thì mới cần đến nhà vua.
2) Phạm Tăng, ngườị đời Tây Hán có tài mưu trí làm quân sư cho Hạng Võ được tôn làm Á phụ .ông 7O tuổi mới rạ làm quan,
(5) Hạnq Lương : chú của Hạng Võ dòng dõi của Hạng Yên tướng nước sở khỏi binh tại Cối Kê để đánh Tần Thủy hoảng. Sau bị tướng Tần là Chưởng Hàng giữa đêm cướp trại giết chết.
(4) Sáu nước đời Chiến quốc : Yên, Tề, sở, Triệu, Ngụy, Hàn, thêm nước Tần vào, sử gọi là Thất Hùng.

_________________________________
Tri Âm Quán_Thị Trấn Chũ_Lục Ngạn_Bắc Giang
http://quoccuonglucngan.blogspot.com/
Về Đầu Trang Go down
https://triamquan.forumvi.com/
Tri Âm Quán
Thành Viên Tích Cực
Thành Viên Tích Cực
Tri Âm Quán


Tổng số bài gửi : 6340
Reputation : 2
Join date : 31/07/2013
Đến từ : Thị Trấn Chũ

CHÍNH TRI Cổ Nhân Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: CHÍNH TRI Cổ Nhân   CHÍNH TRI Cổ Nhân EmptyThu Dec 14, 2017 12:24 pm

LÁ CỜ NHÂN NGHĨA
Tống Tương công (2) đánh mước Trịnh (3) nghe tin quân nước sở (4) kéo sang đánh Tống (5)

vội vàng thu quân trở về, đóng ở phía nam sông Hoàng thủy để đối địch với quân sở. Thành Đắc Thần (1) sai người đưa chiến thư cho Tống Tương công.
Quan tư mã (2) của nước Tống là Công Tôn Cố . bảo Tống Tương công :
— Nước Sở đem quân tới đây là cổt để cứu nừơc Trịnh, nay ta nói vởi nước Sở, xin không đánh Trịnh nữa thì nước sở tất rút quân về.
Tống Tương công nói :
— Ngày xưa Tề Hoàn công (3) đem quân sang đánh Sở, nay sở đến đánh mà mình lại thôi thì sao nối được công nghiệp bá chủ của Tề Hoàn công.
Công Tôn Cố lại nói :
— Ngày nay áo giáp của nước ta, không bền bằng nước sở, đồ binh của ta, không tốt bằng nưởc Sở ; quân sĩ của ta không mạnh bằng nước Sở. Người nước Tống ta sợ quân sở như giống rắn rết, chúa công chắc về cái gì mà dám đánh ?
Tống Tương công bảo :
— Kể binh giáp thì nước Sở hơn ta, nhưng kể nhân nghĩa thì ta hơn nước sở. Ngày xưa, vua Vũ vương nhà Chu (4) chỉ có ba ngàn quân mà đánh 
Nổi ức vạn quân của vua Trụ, cũng nhờ về-sự giữ được nhân nghĩa đó thôi, can chi mà sợ.
Nói xong liền phê vào chiến thư hẹn ngày giao chiến. Tống Tương công lại cho người làm một lá cờ thật to để cắm ở trên xe. trong lá cờ có đề hai chữ «nhân nghĩa »
Trời sáng rõ, quân Sở lục tục kéo sang. Công Tôn Cố nói với Tống Tương công :
Quân nước Sở chờ trời sáng rõ mới kéo sang đò, thế là có ý khinh ta. Nay ta nhân lúc chúng đương sang đò mà xông vào đánh thì tất có thể phá vỡ được, Nếu để cho quân Sở sang xong thì quân Sở nhiều, ta ít, địch làm sao nổi,
Tống Tương công trỏ vào lá cờ mà bảo :
Nhà ngươi không trông thấv hai chữ « nhân nghĩa hay sao? Ta dùng quân rất đường hoàng có !ẽ nào nhân lúc người, ta đương sang đò mà xông vào đánh bao giờ !
Giữa lúc ấy thì quân Sở sắp bày hàng trận, khí thế hiên ngang. Công Tôn Cố lại tấu với Tống Tương Công :
Quân Sở còn đương sắp hàng bày trận, xin chúa công xông vào đánh ngay thì chúng tất phải vỡ.
Tống Tương công nhổ vào mặt Công Tôn Cố mà mắng rằng:
Chao ôi ! Nhà ngươi chỉ thấy cái lợi một lúc mà không nghĩ đến điều nhân nghĩa muôn đời hay sao! Ta dùng quân rất là đường hoàng, có lẽ nào nhân lúc người ta chưa sắp hàng bầy trận xong mà xông vào đánh bao giờ.
Quân Sở sắp hàng bầy trận xong, quân Tống trông thấy khi thế hùng dũng của đối phương đều lấy làm sợ hãi.

Trong khi sáp chiến, quân Tống đại bại, lá cờ nhân nghĩa bị quân Sở đoạt mất. Khi Tống-Tương Công và công Tôn cố trở về kinh đô nước Tống, thi quân Tống bị Sở giết hại Không biết bao nhiêu mà kể. Những cha mẹ vợ con đều khóc lóc -than thở, oán Tống Tương công không nghe lời Công Tôn Cố để đến nỗi đại bại như thế. Tống Tương công thở dài, than :
— Người quân tử ra trận không đâm người đã bị thương rồi, không bắt người già hai thứ tóc, ta đây cũng chỉ cốt lấy điều nhân nghĩa, 'bắt chước chi những thói tàn bạo ấy !
Người trong nước nghe lời nói ấy đều chê cười.
Chiến quốc sách 



LỜI BÌNH
«'Người quân tử ra trận không đâm người đã bị thương rồi .. », Tống Tương công nói như thế không phải là không chính đáng. Thái độ ấy là thái độ của một nhà đạo đức, quân tử, thái độ ấy cần có ở một quân nhân.
Quan Công đời « Tam quốc » không giết người dưới ngựa mới thâu phục được lão tướng Huỳnh Trung, giúp thêm một rường cột cho nước Thục , và nhờ đó mới được hậu thế, ngay cả người đồng thời cũng tôn sùng là kẻ nghĩa khí cho là một gương sáng đáng soi. (1)
.Gia-Cát Khổng- Minh bắt Mạnh Hoạch (2) bảy lần tha, nhờ đó mà chinh phục được Mạnh Hoạch, một tay lợi hại trở thành một kẻ phụng sự đắc lực.
Thân phụ của nhà thơ danh tiếng Vít-to -hy-gô (Victor Hago) ở Pháp, -vào một buổi chiều tàn đi khắp mặt trận, còn cho tên lính Đức — kẻ tử- thù — đương bị thương uống nước (3).
Nhưng thái‘độ ấy là thái độ của một kẻ mạnh, kẻ đương thắng thế. Áp dụng thái-độ ấy vào trường hợp yếu thế là dại khờ, là hoàn tòan thất bại,làm trò cười cho người đời,mua lấy tiếng mỉa mai của thiên hạ . Muốn thắng gìặc phải chờ lúc giặc sơ hở, làm chủ được tình hình, chủ động được chiến cuộc, dùng chiến thuật dí dật dài lao, (lấy khỏe đánh mệt) xuất kỳ bất ý, công kỳ vô bị mà đánh mạnh hẳn lên. Một khi giặc thua bỏ chạy, phải truy kích ráo riết để tiêu diệt hoàn toàn.lực lượng của địch, đừng để địch có thời giờ tập trung, củng cố thế lực . Nếu thù lấy nghĩa nhân, không giết địch khi địch ở vào thế nguy. Để đợi địch an, sung túc lực lượng, biêt dương uy thế, - "từ thế bị động chuyển sang chủ động... thì đó là bị giặc đánh chớ không phải đánh giặc; -và cuối cùng chi còn cách mang lấy nghĩa nhân xuống xài dưới âm phủ.
So lực lượng. Tống yếu hơn Sở. Trong cuộc sát phạt quyết định thư hùng mà thực hiện chữ ( nhân nghĩa » bằng một cách phiến diện như thế là thái độ của kẻ khùng ngộ. Phê bình thái độ của Tống Tương Công, chúng ta mượn lời phàn nàn cùa Công Tôn Cố với quan đại phu Dược Bộc Y : “ Sự chinh chiến cốt ở sát phạt mà lại nói nhân nghĩa, thì tôi thật không Hiểu cái nhân nghĩa của chúa công ra thế nào ? Chẳng qua là trời thu mất hồn phách của chúa công, tôi lấy làm nguy lắm ! » Phải lắm! Nhân-nghĩa mà không có uy, không có thực lực để làm hậu thuẫn thì đừng nói nghĩa nhân. Đó là nghĩa nhân suông, nghĩa nhân hại mình, nghĩa nhân đi tự tử.
------------------------------------------------------
Chú thích:
1) Nyuyễn Huệ : em ông Nguyễn Nhạc và Nguyên lữ, nỵựờỉ huyện hưng nguyên, tỉnh Nghệ an. sau lạị về ở ấp Tây sơn thuộc đất Qui nhơn. Người có tài giỏi giữa lúc Trịnh Nguyễn phân tranh, ông cùng haỉ anh là Nguyễn Nhạc Nguyền Lữ nổi lên, được nhân dân ủng hộ, ông đại phá được 20 vạn quân Thanh tại gò Đống đa ghì trong lịch-sử một trận đại thắng vẻ vang.
2)Tông Tương công là con cháu nhà Ân. Nguyên nhà Ân bị nhà Châu lấy mất thiên hạ rồi phong cho con cháu nhà Ân làm vua nước Tống.
3)Trịnh, một nước nhỏ thời Xuân thu ở huyện Tân trịnh, một phần đất phủ Khai phong thuộc tỉnh Hà nam ngày nay.
4) Sở, một nước ở thời Xuân thu ở tỉnh Hồ bắc Hồ nam ngày nay,
(5) MỘI nước ở thời Xuân thu ở huyện Thương Khưu tỉnh Hà nam ngày nay. 
Chú thích:

1) Thành, Đắc Thần: quan đại phu của nước sở.
2) Quan tư mã : quan, chuyên coi về quân, đội đời xưa bên T'àu.
3) Tề Hoàn công tửc công từ Tiểu Bạch. Xem chú giải bài. "Muốn chỉnh đốn giềng mối của nước"

4.Vũ vương : tên Cơ Phát con của Văn vương Cừ xương, cầm binh đánh vua Trụ. Vì chính nghĩa nên cảc trấn chư hầu đều theo, sau diệt được Trụ, lập thành nhà Chu.
Chú thích:
1; Quan Công và Huỳnh Trung là tướng đời Tam Quốc ,Quan Công đánh cùng Huỳnh Trung chưa phân thắng bại, Quan - Công giả thua- bỏ chạy định dùng thế đà đao Chém trái lại, Hùynh Trung đuổi theo vì chạy maụ, ngựa vấp ngã quang Huỳnh Trung xuống đất
Quan Công quay trở lại đưa cán đao cho Huỳnh Trung bảo quay trờ về thay ngựa khác đánh nữa . Huỳnh Trung cảm nghĩa ấy mà đầu.
2; Mạnh Hoạch là chúa nam mán ở về phía nam, đánh với Khổng Minh, vì thấy Mạnh Hoạch là người có uy tín trong đám rợ này, nên Khổng Minh tìm cách chinh-phục Mạnh Hoạch đầu hàng, để dễ bề cai trị dân này. Có người cho rằng Nam Mang này là nước Việt Nam nhưng tra cứu trong Việt sử thì nước Việt Nam bây giờ gọi là đất Giao Châu thuộc về Đông Ngô bạn nào biết xin chỉ giáo.
3;Vito-Huygo(1802-1885) một nhà thơ danh tiếng ở Pháp. Trong thiên thi ca bất hủ (sau chiến cuộc) ông tả trận giặc đã tàn vào một buổi chiều. Thân phụ ông là một võ quan đi thăm mặt trận,giữa lúc ấy có tên lính Đức bị thương nặng đương rên rỉ đòi uống nước, động mối từ tâm thân phụ ông đưa tay lấy bầu nước của mình đeo bên hông định cho uống. Thừa dịp ấy tên lính Đức rút súng thét nên một tiếng bắn ngay vào thân phụ ông. Nhưng may viên đạn chỉ phớt ngang qua mũ.Thân phụ ông vẫn điềm nhiên bảo (cứ cho uống, cứ cho uống)

_________________________________
Tri Âm Quán_Thị Trấn Chũ_Lục Ngạn_Bắc Giang
http://quoccuonglucngan.blogspot.com/
Về Đầu Trang Go down
https://triamquan.forumvi.com/
Tri Âm Quán
Thành Viên Tích Cực
Thành Viên Tích Cực
Tri Âm Quán


Tổng số bài gửi : 6340
Reputation : 2
Join date : 31/07/2013
Đến từ : Thị Trấn Chũ

CHÍNH TRI Cổ Nhân Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: CHÍNH TRI Cổ Nhân   CHÍNH TRI Cổ Nhân EmptyTue Jan 16, 2018 10:28 am

TÀO THÁO CẮT TÓC THẾ ĐẦU

Tào Tháo đem binh đánh Trương Tú. 
Giữa lúc ấy, dọc đường lúa mạch đã chín. Dân chúng thấy quân đến, trốn tránh các nơi chẳng dám gặt lúa. Tào Tháo thấy vậy sai người truyền dụ khắp nơi :
Ta vâng minh chiếu của thiên tử đem binh dẹp loạn, vì dân mà trừ hại, nay vừa lúc lúa chín, cực chẳng đã mới dấy binh. Vậy các tướng sĩ lớn nhỏ nếu ai đi qua mà dày đạp lúa mạch thì bị xử tử ngay. Quân pháp rất nghiêm, chúng dân chớ kinh sợ chi cả.
Bá tánh (1) thấy lời dụ ấy rất vui mừng, liền ra đón đường mà lạy.
Quan quân đi qua đám lúa mạch đều xuống ngựa, lấy tay nâng gié lúa chuyền đưa cho nhau mà qua không một ai dám giẫm phải. Tào Tháo cưỡi ngựa đương đi, bỗng trong đám lúa cỏ con chim cưu sợ bay lên làm con ngựa của Tào Tháo giựt mình nhảy vào trong lúa, đạp hư lúa mạch hết một khoảnh lớn. Tào Tháo bèn kêu quan chủ bộ nghị tội mình đã đạp lúa.

Quan chủ bộ nói :
— Không lẽ nghị tội thừa tướng được.
Tào Tháo bảo :
— Ta đã chế phép mà lại phạm phép thì lấy chi mà phục chúng,
Nói thế rồi liền rút gươm đeo mà tự vẫn.
Chúng tướng giựt lấy gươm, Viên mưu sĩ của Tào Tháo là Quách Gia nói :



— Lấy theo nghĩa trong kinh Xuân thu (1) thì phép chẳng buộc nơi bậc tôn, thừa tướng lãnh đại quân lẽ nào lại hại mình như vậy !
Tào Tháo suy nghĩ một lát rồi nói:
— Nếu theo nghĩa Xuân thu, phép chẳng buộc nơi bực tôn thì ta khỏi thác.
Nói thế rồi liền lấy gươm cắt tóc mình quăng xuống đất bảo rằng :
Cắt tóc quyền thế cho đầu.
Rồi khiến người lấy tóc truyền rao cho tam quân rằng;« Thừa tường đạp lúa vốn đáng chém đầu, nay phải cắt tóc mà thế» ba quân thấy thế đều sợ, không một kẻ nào dám chẳng tuân theo.
Tam quốc chí

LỜI  BÌNH
Bạ tánh vui mừng, ra đón đường mà lạy là điều rất đúng, vì kẻ lãnh đạo đã biết trọng quý của dân. Lời truyền dụ của Tào-Tháo đã biểu lộ một đức tính của kẻ chỉ huy là biết quyền lợi của nhân dân, biết nhận thức quyền lợi, địa vị của mình gắn liền quyền lợi của dân chúng.
Lúa là mạch sống của nhân dân, là mạch sống của quân đội, là “mạch sống » trong cuộc tranh chấp của kẻ muốn mưu bá đồ vương. Nó có một mối quan hệ chặt chẽ duy nhất như thế.



Một điểm đặc-biệt đáng chú ý hơn nữa, lời truyền dụ của Tào-Tháo lại kèm theo một kỷ-luật gắt gao, để làm một hậu thuẫn cho sự thi hành lời dụ một cách hiệu lực.
Một tổ-chức nào cũng vậy, muốn được mạnh, muốn được chặt chẽ, cố nhiên cần có kỷ-luật để bảo vệ. Nhất là quân đội, vốn có tính-chất quân-phiệt, nếu không áp dụng một kỷ-luậl sắt thì quân đội ấy xa lìa nhân dân, trở nên hỗn độn,tan vỡ, ăn cướp...
Áp dụng kỷ-luật không phải chỉ riêng để cho kẻ dưới mà ngay cho kẻ bề- trên. Người đặt ra kỷ  luật lại càng phải nghiêm-khắc mình, thận trọng mình.
Nhưng Tào-Tháo buộc người thi hành kỷ-luật xử tử mình khi phạm kỷ-luật, sự thật Tào-Tháo chưa nghiêm khắc mình. Giữ kỷ-luật không có nghĩa là khi phạm kỷ-luật cố nhiên đem ra xử từ,.mà điều cần thiết, là biết kỷ-luật để giữ cho khỏi phạm. Đó là điều đáng chú ý.
Tào-Tháọ đặt ra kỷ-luật là một việc làm đáng hoan hô. Nhưng thực tế, Tào-Tháo lại là người không giữ kỷ luật. Tại sao giữa lúc binh sĩ đều giữ kỷ-luật bằng cách xuống ngựa, đưa tay dở từng gié lúa chuyền nhau đi qua thì « thừa tướng” không dám cùng làm như thế, lại còn ngồi trên ngựa để phạm phải kỷ-luật. Vả lại, có ai mà bắt một chúa tướng xử tử bao giờ nhất là giữa lúc hành quân, nhất là ở một thời-đại quân chủ phong kiến.
Tào-Tháo đã thừa hiểu.
Cắt tóc bảo quyền thế cho đầu để bảo vệ kỷ- luật, rõ thật là một chính-trị giả trá. Ba quân không sợ làm sao được vì cái chính-trị giả trá ấy.

Khi cầm quân đánh Trương Tú, dọc đường hết nước, tướng sĩ đều khát, Tào-Tháo biến ra một chước lấy roi chỉ tới trước mà bảo : « Trước, mặt có rừng mai kia kìa !». Sự thực, 'khi đến nơi thì không thấy rừng mai đâu cả. Tuy vậy khi nghe nói, quân sĩ đều rỏ nước miếng mà hết khát.
Tào-Tháo đem câu chuyện này khoe với Lưu- Bị một cách tự-đắc.
Ta thấy rõ Tào-Tháo tuy hay, tuy khéo, có thủ đoạn nhiều, sáng kiến dồi dào, chính-trị giỏi nhưng than ôi, chỉ là một chính-trị lừa bịp, giỏi dối trá mà thôi.
Phê bình việc« cắt tóc thay cho đầu », trong « Tam quốc chí > có câu : 
« Mấy muôn quân sĩ mấy muôn lòng, 
Lệnh đã truyền ra há dám không.
Cắt tóc tạm quyền làm thủ cấp,
Tào man gian trá thật vô song ».



Gian-trá nhưng mà hay.

---------------------------------------------------------------
Chú thích:
(1) Bá tánh; là toàn dân. 



( 1) Xuân thu: tên một bộ sử biên niên do đức Khổng Tử dựa theo sử của nước Lỗ mà san định lại. Xuân thu, cùng với Kinh Dịch, Kinh Thư, Kinh Thi và Kinh Lễ được kể làm 5 kinh (Ngũ kinh) của nhà Nho. 

_________________________________
Tri Âm Quán_Thị Trấn Chũ_Lục Ngạn_Bắc Giang
http://quoccuonglucngan.blogspot.com/
Về Đầu Trang Go down
https://triamquan.forumvi.com/
Tri Âm Quán
Thành Viên Tích Cực
Thành Viên Tích Cực
Tri Âm Quán


Tổng số bài gửi : 6340
Reputation : 2
Join date : 31/07/2013
Đến từ : Thị Trấn Chũ

CHÍNH TRI Cổ Nhân Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: CHÍNH TRI Cổ Nhân   CHÍNH TRI Cổ Nhân EmptyFri Feb 23, 2018 4:52 pm

CAN KHÔNG SỢ BỊ XỬ TỬ

Sở Trang vương lên làm vua, đã ba năm trời mà không làm một việc gì cả. Ngày nào nhà vua cũng chỉ đi săn bắn và cùng với mỹ nữ uống rượu vui chơi ở trong cung. Nhà vua lại còn tuyên yết ở chốn triều môn : « Nếu ai can thì bắt phải tội chết »
Quan đại phu (1) là Thân Vô úy vào yết-kiến Sở Trang vương. Thấy nhà vua tay phải ôm Trịnh CƠ, tay tả ôm Sái Nữ, chung quanh chỗ ngồi đều đầy những nhạc khí. Sở Trang vương hỏi Thân Vô Uý :
_ Quan đại phu đến đây có muốn uống rượu không? Có muốn nghe hát không? Hay là muốn nói lời gì đó ?
— Thân Vô Uý thưa :
— Tôi tới đây không phải là muốn uống rượu và nghe hát. Nguyên vì vừa rồi tôi đi chơi, có người đem một câu đối nói với tôi nhưng tôi đoán không ra được, vậy tôi muốn tâu để đại vương nghe.
— Câu đối gi mà quan đại phu không đoán ra được, vậy nói cho ta nghe.
Thân Vô Uý thưa :
— Có một con chim lớn, lông đủ năm sắc rất đẹp, đậu ở trên gò cao nước sở. đã ba năm nay mà không thấy bay, cũng không nghe kêu, không biết là con chim gì ?
Sở Trang vương hiểu là có ý can mình, cười bảo :
— Ta đã biết rồi ! Con chim ấy không phải là con chim thường, ba năm không bay, bay tất cao tận trời, ba năm không kêu, kêu tất làm cho người ta phải khiếp sợ, Đại phu hãy đợi mà xem:
Thân Vô Uý sụp lạy rồi lui ra.
Nhưng không có gì thay đổi, Sở Trang vương vẫn chơi bời như cũ, Quan đại phu là Tô Tòng xin vào yết kiến. Khi vào trông thấy sở Trang vương, Tô Tòng liền òa lên khóc,
Sở Trang vương hỏi :
— Tạo sao mà khóc lóc như thế ?
Tô Tòng thưa :
— Tôi khóc là vì nỗi thân tôi sắp chết mà nước Sở cũng sắp mất.
Vì cớ gì mà nhà ngươi chết, lại vì cớ gì nước Sở mất ?
Tôi muốn can đại vương, đại vương tất
không nghe mà giết tôi. Tôi chết thì nước Sở không ai dám can nữa, mà đại vương cứ say đắm tửu sắc, chẳng thiết gì đến chính-sự, như thế thì còn gi nước Sở mà không mất ?
Sở Trang vương sầm nét mặt lại bảo :
Ta đã có lịnh : ai can thì bắt tội chết sao nhà ngươi đã biết là chết mà còn dám can. Chẳng ngu dại lắm ru ?
Tô Tòng thưa:
—Tôi dẫu ngu cũng chưa đến nỗi ngu lắm như đại vương.
Sở Trang vương nổi giận :
Sao nhà ngươi lại dám bảo ta là ngu lắm?
— Đại vương làm vua một nước, quân mã hùng cường, các nước chư hầu đều sợ hãi mà phải đến triều cống, đó là cái lợi muôn đời, nay đại vương say đắm tửu sắc. Chẳng thiết gì đến chính sự, khiến cho nước lớn đánh ở mặt ngoài, nước nhỏ phản ở mặt trong, thế là chỉ ham cái vui một lúc mà bỏ cái lợi muôn đời, vậy không phải ngu là gì? Cái ngu của tôi chỉ đến cái chết mà thôi ; nhưng đại vương giết tôi, hậu thế sẽ cho tôi là trung thần
ví tôi như Tỷ Cang (1) thuở trước, vậy thì tôi chẳng ngu chút nào còn cái ngu của đại vương, tôi e rằng cầu làm một đứa thất phu (2) cũng không thể được ! Thôi, tôi nói đến đây là hết , tôi xin mượn thanh gươm của đại vương mà đâm cổ ở trước mặt đại vương, để khỏi trái với mạng lệnh của đại vương đã ban bố.
Sở Trang Vương vội vàng đứng dậy, ngăn Tô Tòng và bảo:
_ Lời của quan đại phu thật là trung trực lắm, vậy ta xin nghe.
Nói xong, liền truyền bỏ những đồ âm nhạc, đuổi Trịnh Cơ . Xa Sái Cơ, rồi lập Phàn Cơ làm chủ trong cung. Sở Trang vương lại nói :
— Khi trước ta hay săn bắn, Phàn Cơ thường hay khuyên can ta mà ta không nghe, sau Phàn Cơ không ăn thịt thú. Ấy là một người hiền nội trợ của ta đó.
Chiến quốc sách

Lời BÌNH
Thấy vua sai lầm, làm tôi cần phải can gián là một điều phải làm. Biết rằng can thì sẽ bị tử hình mà dám can là mật bậc tôi chỉ biết vận mạng tối cao của nước mà không tha-thiết đến vận mạng của mình. Đó là một hành-vi của một bề tôi trung liệt, đáng khen. Nhưng can mà giữ vẹn được sinh mạng mình, người nghe lại biết hối cải là một điều càng đáng khen vì can có nghệ thuật.
Thân Vô Uý tuy can gián Sở Trang vương nhưng can bằng một lối gián-tiếp, xa xôi, khéo léo ấy không làm cảm động được nhà vua. Vì ta thấy Thân Vô Uý còn sợ chết. Nói như thế không phải ta phủ-nhận giá-trị của sự can gián ấy. Dù sao nó cũng đánh được một tiếng chuông đầu tiên để cảnh tỉnh nhà vua.
Sự can gián của Tô Tòng thì tích cực, quyết liệt hơn, trước nhất cái khóc của Tô Tòng đã đánh mạnh vào ý tưởng của Sở vương. Sầm nét mặt lại không phải coi kẻ can gián kia là kẻ hoàn toàn phạm phải lời tuyên-yết, mà là tỏ vẻ khó chịu, ngạc nhiên trước một con người dám chịu hành hình.
So sánh cái vui một lúc với cái lợi muôn đời, so sánh giữa cái ngu với cái không ngu và danh tiếng ở đời, Tô Tòng quả là con người túc trí, có khoa ngôn ngữ, vén được cái màn u minh che phủ óc sáng suốt của. nhà vua.
Thói thường ai lại không nghĩ đến hậu vận, tương lai, nhất là các vua chư hầu trong cuộc tranh bá đồ vương lẽ nào không tha-thiết đến cái lợi muôn đời. Sở- dĩ quên mất đi là vì bị sắc dục làm mở ám thần trí, nếu có bề tôi hiền chỉ rõ, vạch rành thì rất dễ hối tỉnh.
Tuy vậy, can gián cũng tùy ở trình dộ, tâm lý của con người. Tỷ Cang, Hoàng Phi Hổ, Khương Tử Nha, Cơ Xương... là những đấng tôi hiền của Trụ vương không phải là không có tài trí, thiếu khoa ngôn ngữ , thiếu một nghệ thuật can gián khéo léo.... Nhưng con người của Trụ vương vốn xuất thân ở chốn đền vàng bệ ngọc , “cha truyền con nối», bản chất sẵn hủ mục rồi nên người can bị lụy mình. Trái lại, Sở Trang vương sống ở một hoàn-cảnh gay go, có cả hàng mấy trăm chư hầu tranh hùng xưng bá, nếu Sở vương là Trụ vương thì số mạng của Tô Tòng cũng như Tỷ Cang, Cơ Xương.... mà thôi.
Con người dù có lúc nào tốt nhưng cũng có lúc lầm lạc, đó là một điều thông thường, khó tránh khỏi, nhưng biết hối cải, được bề tôi trung trực có tài dám can gián, điều kiện khách và chủ quan có được điều hòa như thế thì mới có cơ cứu vãn được tình thế, mới tạo được một nền móng thịnh vượng cho đất nước.
Cái chết bì thảm của quan đại phu Hàn-Sanh vì quá bạo can gián Sở Hạng Võ có phải là một bài học vì chủ quan và khách quan vốn có khuyết điểm lớn như nhau (1).
Sa-Đée
Saturday. May 14, 2016
Chú thích:
1) một quan to đời xưa bên Tàu, dưới quan khanh, trên quan Sĩ.
-----------------------------
1) Tỷ ca : làm quan đời nhá Thương, một kẻ trung thần vì can vua trụ mà bị giết.
(2) Thất phu: Là một tên dân bình thường.

_________________________________
Tri Âm Quán_Thị Trấn Chũ_Lục Ngạn_Bắc Giang
http://quoccuonglucngan.blogspot.com/
Về Đầu Trang Go down
https://triamquan.forumvi.com/
Tri Âm Quán
Thành Viên Tích Cực
Thành Viên Tích Cực
Tri Âm Quán


Tổng số bài gửi : 6340
Reputation : 2
Join date : 31/07/2013
Đến từ : Thị Trấn Chũ

CHÍNH TRI Cổ Nhân Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: CHÍNH TRI Cổ Nhân   CHÍNH TRI Cổ Nhân EmptyThu Jun 07, 2018 5:06 pm

TUYỆT ANH HỘI

Thắng trận,. Sở Trang Vương truyền bày tiệc vui, gọi là (Thái bình yến) phàm các quan văn võ, bất cứ cấp nào đều được dự tất cả.
Khi mặt trời gần lặn, tiệc rượu còn đương vui say, Sở Trang vương truyền thắp đèn lên, lại cho một nàng hầu yêu là Hứa-Cơ đi mời khắp quan triều thần mỗi người một chén rượu.
------------------------------------
(1) xem lại bài:  “Khỉ ướt đội mão” .
_____________________________

Các quan triều thần đều đứng dậy, để uống, bỗng có một trận gió to, bao nhiêu nến thắp ở trên điện tắt phụt cả. Các nội thị còn đương đi châm lửa chưa đến. Trong các quan đại phu có một người trông thấy Hứa Cơ đẹp, nhân lúc tối tăm, thò tay nắm lấy vạt áo. Hứa Cơ tay trái giằng vạt áo, tay mặt chụp được giải mũ của người ấy. Giải mũ đứt, người ấy sợ lắm vội buông tay ra. Hứa Cơ lấy được cái giải mũ, rón rén đi đến trước mặt Sở Trang Vương, ghé tâu :
— Thiếp vâng mạng đạii vương ra mời các quan uống rượu, thế mà có một người vô lễ dám nhân lúc tắt nến,  nắm lấy vạt áo thiếp ; nay thiếp đã rứt được cái giải mũ của người ấy, vậy xin đại vương giục thắp nến mà xẻt xem..
Nhưng Sở Trang vương lại truyền cho nội thị chớ thắp nến vội, lại bảo các triều thần :
—Ngày nay ta bày tiệc mong cùng với các ngươi mua vui, các ngươi nên bứt hết giải mũ cả đi rồi cùng ta uống rượu thật say. Nếu ai không bứt đứt giải mũ thì là chưa được vui lắm,
Nghe lịnh dạy, tất cả triều thần đều bứt đứt giải mũ bấy  giờ,Sở Trang vương mới cho thắp nến,, thành ra không biết được người nào nắm lấy vạt áo của Hứa Cơ cả.
Tiệc xong, trở về cung, Hứa Cơ tâu với Sở Trang vương :
—Thiếp nghe nói kẻ trai gái phải có sự phân biệt,  huống chi lại là vua tôi. Đại vương sai thiếp mời các, quan uống rượu là để cùng tỏ lòng kính mến, nay người ấy nắm lấy vạt áo .thiếp mà đại vương không trị tội, thế còn ra thể thống gì  nữa ? Sở Trang vương cười bảo :

Ta bày tiệc rượu này là muốn các quan đều đựơc cùng vui, bởi vậy mới sai thắp nến để uống rượu thêm. Rượu say sinh ra chớt nhã (1) chẳng qua cũng là một lẽ thường tình, nếu ta trị tội một người mà làm cho các quan không-được vui thì ta không muốn.
Hứa Cơ nghe nói, phục là người có lượng. Về saụ người ta gọi tiệc rượu ấy là Tuyệt anh hội. (2)
Khi Sở Trang vương đem quân đánh nước Trịnh (3) có một viên phó tướng Đường Giao xin đem 100 thủ hạ để mở đường đi trước.
Đường Giao cố sức xông pha, quân nước Trịnh không ai đương nổi. Vì thế, đại binh của Sở Trang vương tiến thẳng được đến địa giới nước Trịnh. Sở Trang vương thấy quân tiền bộ đi đưọc nhanh chóng như vậy mới triệu Đường Giao đến, toan trọng thưởng, Đường Giao thưa :
— Tôi chịu ơn đại vương to lắm. ngày nay gọi chút báo đền, có  đâu lại dám lãnh thưởng.
Sở Trang vương ngạc nhiên hỏi :
— Ta có biết nhà ngươi bao giờ-mà nhà ngươi bảo là chịu ơn ta ?
Đường Giao thưa;
— Trong tiệc rượu dứt giải mũ mà có người nắm vạt áo Hứa Cơ, tức là tôi đó ! Đại vương rộng lượng tha  không gịết, vậy tôi phải cố sức báo đền.
--------------------------------------------------
1) Chớt nhã là đùa một cách sỗ sàng,  thiếu lịch sự.
2. Tuyệt là dứt, Anh, là giải mũ, Tuyệt anh hội là hội dứt giải mũ,
3) Một nước nhỏ thời Xuân thu. Huyện Tân Trinh, một phần đất phủ Khai  phong, thuộc tỉnh Hà nam ngày nay.
---------------------------------
Sở Trang vương truyền ghi lấy công của Đường Giao. Đường Giao nói với mọi người ?
— Tội ta đáng chết mà đại vương không giết vậy ta lên cố sức để báo đền, nay đã nói rõ ra rồi, chẳng lẽ ta là người có tội mà ngày sau lại để cho đại Vương trọng dụng mình hay Sao ?
Ngay đêm hôm ấy, Đường Giao lập tức bỏ trốn.
Chiến quốc sách

LỜI BÌNH
Hứa Cơ là một mỹ nữ được Sở Vương sủng-ái Nhà vua lại là một người trước kia say mê rượu chè, sắc đẹp, vậy mà bây giờ trong tiệc rượu có người niếu lấy vạt áo Hứa Cơ nhà vua vẫn thản nhiên.
Cũng như ái tình, đối với sắc đẹp, con người tiếc ngọc, thương hương bao giờ lại không ích kỷ, vậy mà Sở Trang Vương lại không ghen tức, thế là nhà vua đã đặt tình cảm đối với quần thần trên tình cảm cá nhân đối với một đóa hoa biết nói, một viên ngọc hữu hương của mình .
Hữu Cơ ghé tâu với nhà vua là muốn tìm kẻ « thủ phạm”   để trị tội, nhưng nhà vua   vẫn điềm nhiên, lại truyền cho nội thị không thắp nến vội, bảo mọi người đều bứt dứt giải mũ.... vẻ điềm nhiên ấy hàm súc biết bao ý nghĩa thâm thúy : độ lượng, hiểu rõ tâm lý của con người.
Thái độ ấy rất vô tư. Đáng hoan hô,
Rượu đã nhập tâm rồi, con người còn giữ làm sao được mức quân bình trong người, vả lại trước một sắc đẹp lộng lẫy, chỉ có sắt đá mới không cảm xúc, chỉ có các bực thầy tu chân chính mới không có tư tưởng, mơ ước viển vông.... còn thông thường, ai lại không có thái độ “thương hương mến ngọc »

Tạo hóa sinh cho con người một  óc thẩm mỹ, tuy bị đạo đức kềm chế nhưng tâm lý, sinh lý lại hướng dẫn con người đi đúng với luật trời.”
Ai nỡ gắt gao buộc Đường Giao đi ngược lại luật trời ? -
Ai dám trách Đường Giao dám mang phải cái bịnh chung của nhân loại?
Hiểu được thâm ý tốt đẹp  của Sở vương, Đường Giao cố gắng lập công là một điều đáng khen, nhưng dù sao không tránh khỏi tiếng hẹp hòi, tầm thường.
 Đáng khen là thái-độ biết đền đáp nghĩa cử của người.
Hẹp hòi, tầm thường là Đường Giao chỉ nghĩ đến sự đền đáp cho cá nhân, mà không nghĩ mình có một bổn phận là làm tròn công vụ. Giả sử, không có việc xảy ra, thì với nhiệm vụ đi tiền khu, việc làm của Đường Giao « thường » kia có tích cực có phải như Đường Giao « dứt giải mũ » không ?
Nghiêm-khắc mình là một điều rất tốt, rất hay trong việc xử thế. Nhưng nghiêm-khắc mình thái quá thành hẹp hòi; gắt-gao, vị ngã.
Nhưng phê bình thái-độ của Đường Giao là tầm thường, hẹp hòi đó là đứng trên phương diện nguyên-tắc, lý-trí.
Một người lính xung phong chém tướng : đoạt cờ ở giữa chiến trường, quyết đem lại một thắng lợi vinh-quang tuy vì nghĩa vụ, nhưng dù sao con người cũng có một cảm tình cá nhân đặc-biệt đối với tác phong lãnh-đạo của một viên chúa tướng. Người
lính trận có thấy tấm lòng tốt quý, cái lối xử sự đẹp đẽ của cấp chỉ huy đối với mình, thì « tình cảm nhiệm vụ » hòa hợp với « tỉnh cảm cá nhân » sẽ tăng cường thêm sức mạnh.
Tác phong lãnh-đạo của cấp chỉ huy có một ảnh hưởng sâu xa đối với tinh-thần binh sĩ, nó có một mãnh lực phi thường làm cho binh sĩ tự nguyện tự giác hăng hái ra chiến trường, coi chết nhẹ tợ lông.
Thái-độ trả ơn của Đường Giao tuy có vẻ  hẹp hòi nhưng rất đúng với tâm lý của trò đời. Đó cũng là một bài học hay cho cấp lãnh-đạo dám chia ngọt, xẻ bùi như Ngô Khởi, Nguyễn Huệ, Nã-phá- Luân (1).,. mới tạo được những tên lính trung thành, chịu hy-sinh, vui-vẻ mà hy-sinh.
Sở Trang Vương có lòng tốt đối với quần thần như thế. Biểu lộ một thái-độ vô tư, không vì tư ý để tạo có nhiều bề tôi lập công như Đường Giao, nhưng lòng tốt tự nhiên ấy lại đem đến một hậu quả tốt. Hành-vi ấy đi vào một luật nhân quả.
Dám thú tội, dám có gắng lập công để đền tội, thật là một điều đáng khen, nhưng từ quan mà bỏ đi, không bìêt Đường Giao có phải cảm thấy thẹn thùa xấu hổ, thái-độ ấy là thái-độ của bực hiền nhân, quân tử qúa nghiêm khắc mình..
Hành-vi ấy thật quá đáng !
---------------------------------------------
(1) Ngô Khởi là tướng nước  Ngụy đời Xuân Thu. Ông ăn chung, mặc chạ với tên lính hèn mọn,dám hút máu mủ cho tên quân đau nhọt. Nguyễn Huệ là người ở đất Tây-Sơn Việt Nam có tài ba lỗi lạc xuất chúng, ra trận bao giờ cũng đi đầu các tướng sĩ,và sẵn sàng chia ngọt, đắng. Xẻ vui buồn với quân lính, Nã-phá- luân đệ nhất “Napoléon) là tướng tài của nước Pháp dám chia từng thìa súp cho lính.

_________________________________
Tri Âm Quán_Thị Trấn Chũ_Lục Ngạn_Bắc Giang
http://quoccuonglucngan.blogspot.com/
Về Đầu Trang Go down
https://triamquan.forumvi.com/
Tri Âm Quán
Thành Viên Tích Cực
Thành Viên Tích Cực
Tri Âm Quán


Tổng số bài gửi : 6340
Reputation : 2
Join date : 31/07/2013
Đến từ : Thị Trấn Chũ

CHÍNH TRI Cổ Nhân Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: CHÍNH TRI Cổ Nhân   CHÍNH TRI Cổ Nhân EmptyTue Sep 04, 2018 10:00 am

“THÀ LÀ MÌNH PHỤ NGƯỜI TA”

Tào Tháo và Trần Cung đi đến một khu rừng rậm thi trời gần tối (1). Tào Tháo bảo:
— Chỗ này có một người tên là Lữ Bá Xa. anh em bạn với cha tôi, vậy chúng ta ghé vào đó đặng hỏi thăm chuyện nhà và nghỉ chân;
Cả hai đi vào nhà; Bá Xa mừng rỡ. mời Trần Cung và Tào Tháo nằm nghỉ chơi, rồi bước ra nhà sau dặn gia đình rồi nói vời Trần Cung :
ở nhà đây không có rượu ngon, để tôi đi ngoài xóm mua về uống, ngài chịu phiền ở nhà với cháu tôi.
Nói rồì liền cỡi lừa ra đi.
Tào Tháo và Trần Cung đương ngồi,bỗng nghe có tiếng mài dao ở phía sau. Tào Tháo nói :
— Lữ Bá Xa tuy quen biết nhưng không phải là chí thân, bây giờ đi mua rượu cũng là khả nghi, vậy chúng ta rình nghe thử.
Cả hai liền lén bước ra nhà sau, thì nghe nói :
— Bắt nó trói lại !
Tào Tháo nói :
Vậy là phải rồi. Nếu mình không xuống tay chắc ta mang họa.
Cả hai liền- rút gươm -thẳng vào nhà, không
phân biệt là trai gái đều chém sạch. Coi lại tất cả là tám người. Nhưng khi đi đến dưới bếp thì thấy có trói một con heo. Trần Cung kêu lên :
— Thôi rồi ! Mạnh Đức (1) đa nghi lắm, giết lầm nhiều quá !
Hai người liền hối hả lên ngựa ra đi. Gần hai dặm đường thì thấy Lữ Bá Xa ngồi trên lưng lừa đương đi về. "Trước cổ lừa có treo hai chai rượu. Lữ Bá Xa tay cầm bó rau kêu Tào -Tháo :
Cháu với ngài đi đâu ? Tôi đã bảo trẻ làm
thịt heo đặng ăn uống chơi, có chi lại không chịu ở.
Tào Tháo nói :
Cháu là người bị tội, chẳng dám ở lâu.
Thấy cầm chẳng được Bá Xa từ giã đi. Tào Tháo lại giục ngựa đuổi theo, rút gươm chém Bá Xa rơi đầu. Trần Cung thấy thế, kinh ngạc hỏi :
Khi ở nhà cho lầm cũng phải,-bây giờ lại giết người nữa là tại làm sao ?
Tào Tháo nói :
Sợ Bá Xa về nhà thấy gia quyến chết nhiều nóng giận mà đuổi theo chăng ?
— Mình đã biết mà còn cố sát thì là phi nghĩa
lắm.
Tào-Tháo bảo :
— Thà là mình phụ người ta, chẳng nên để người ta phụ mình.
Hai người đi ước được hai dặm đường gặp một quán trọ liền đánh thức chủ quán dậy xin vào nghỉ. Tào Tháo ngủ trước. Trần Cung ngồi một mình suy nghĩ :
Ta tưởng nó là người hảo tâm nên bỏ chức mà theo, không dè nó là người lòng dạ ác độc thái quá. Nếu không giết thằng này thì chắc có hậu họan.
Nghĩ thế liền rút gươm toan giết Tào Tháo. NhưngTrần Cung lại nói thầm suy nghĩ :
— Ta đã lầm theo nó, bây giờ ta lại giết nó thì càng phi nghĩa lắm. Vậy ta bỏ sang qua nơi khác hay hơn.
Ngay trong đêm ấy, Trần Cung lên ngựa ra đi.
Tam-quốc-Chí
LỜI BÌNH
Không ai dám nhận Tào-Tháo giết cả nhà Lữ Bá Xa là đúng. Chẳng những thế, Tào-Tháo còn bị những đạo đức gắt gao kết án là một con người vô cùng ác độc .
Bản án nhà đạo đức ấy chẳng những có giá- trị về tinh -thần mà còn có giá-trị về phương diện pháp luật. .Ở đây không phải là một chỗ sát phạt như một bãi chiến trường. Giết người dù vô tình cũng mang phải một đại tội, nhất là giết cả một số mạng người như thế, cố nhiên kẻ thủ phạm phải đền tội một cách xứng đáng.
Nhưng sự thật trường hợp của Tào-Tháo, sự sát nhân ấy không thể tránh được.
Tào-Thào đương phải một tội ám sát Đổng Trác, một vị quốc cựu lấn át cả quyền vua, và bị người đuổi bắt cầm tù may được thoát ra, lòng lo sợ nơm nớp cho tính mạng, chẳng khác nào « kinh cung chi điểu », vả lại, bản chất con người Tào-Tháo

hay đa nghi, những lời nói vô tình của một số người không thân thì ta buộc Tào-Tháo ngồi điềm nhiên rung đùi, chờ buổi đánh chén ngon lành làm sao được ? Hơn nữa, Tào-Tháo đã hoài bão một chí khí to lớn, xây dựng bá quyền, tóm thâu thiên hạ, thì cái lẽ bảo vệ thân mạng cần phải có. Chết một cách oan uổng như thế, thật đáng tủi, đáng tiếc cho chí nam nhi.
Thật là một điều khó xử !
Cái chết oan ức của 8 mạng người, ai lại không lấy làm đau thương, ai lại không tức bực căm hờn. Nhưng ở phải một thời ly loạn, thiên hạ nhiễu nhương, mạng người chẳng khác nào loài kiến, sự nhận xét của ta phải được rộng lượng.
Hàn Tín đời Tây Hán nhờ lão tiều chỉ đường rồi đành giết lão tiều, một ân nhân của mình, (1) huống chi 8 người đối với Tào-Tháo đương bị nghi là phản động ?
Tào-Tháo là một chính khách có can đảm dẹp bỏ những dư luận thông thường, để đeo đuổi chí- hướng của mình. Nhưng với hành-vi trên, ta thấy Tào-Tháo chưa phải là một chính khách có biệt tài.
Là một tội nhân bị quan quân truy nã, tại sao muốn vào nhà Lữ Bá Xa, để tá túc mà không suy xét kỹ tính tình của Lữ Bá Xa, tuy là bạn của cha mình nhưng tốt hay xấu, thân hay sơ. Đánh liều, nhắm mắt vào nhà người để ngủ đậu, ăn nhờ mà
thiếu suy nghĩ, điều tra, nghiên-cứu, một chính khách lão luyện không bao giờ có. Tào-Tháo bảo : “Lữ Bá Xa tuy quen biết nhưng không phải là chí thân...” lúc nghe tiếng mài dao, tỏ ra Tào-Tháo rất thiếu thận trọng ở lúc đầu.
Vì thiếu điều-tra, nghiên-cứu, thiếu thận trọng nên mới đem lại một hậu quả không hay, mới dẫn đến một sai lầm nguy hiểm, mà đạo đức khó dung tha. Ngay cả lập trường chính-trị cũng không thể châm chế được một con người phiêu lưu, thiếu thận trọng... trong công tác, trong việc đãi nhân tiếp vật.
Rồi từ sự sai lầm này dẫn đến một sai lầm khác, Tào-Tháo giết Lữ Bá Xa, thật là một hành vi tàn bạo, điên cuồng.
Trên trường ngoại giao, những bọn chính-trị đế quốc, phát-xít mới giở trò lật lọng trong việc ký kết, mới coi những hiệp định như tờ giấy lộn, trên phương diện xử thế, mà bảo " thà là mình phụ người chớ nên người ta phụ mình”- là một điều luân lý, đạo đức không thể tha thứ.
Trần Cung bỏ Tào-Tháo mà đi thật là một thái độ đúng đắn của một người đạo đức, quân tử không muốn gần kẻ ác tâm. Vì thái -độ quân tử đó, nên Trần Cung không nỡ giết một người mà mình đã lầm theo, nhưng Trần Cung quá câu chấp về phương diện đạo đức mà quên một việc lớn cần làm.
Đã biết để con người như thế sẽ có hậu hoạn thì tại sao không dám giết ? Lưỡi gươm chính đáng của Trần Cung kết liễu sinh mạng của Tào-Tháo biết đâu sẽ ngăn được một phần nào sự thảm sát của chiến tranh, hay ít nhất cũng làm thỏa vong linh của chín oan hồn ở suối vàng !

Giải nghĩa: ( 1) nguyên Tào Tháo độc thân mưu Đổng- Trác không được, phải bỏ chạy trốn. Đổng Trác vẽ hình Tào Tháo và tư tờ các phù huyện đón bắt nên Tào-Tháo bị viên tri huyện là Trần Cung nhìn mặt được, bắt cầm tù, sẵn ghét Đổng- Trác, thấy Tào Tháo có chí khí nên Trần Cung thả Tào- Tháo, lại bỏ chức quan cùng theo Tào Tháo dinh khởi nghĩa,
(I) Mạnh Đức là tên tự của Tào Tháo.
1) Hàn Tín người đời Tây Hán, trước làm tôi cho Hạng Võ nhưng không được Hạng Võ tin dùng. sau lại trốn sang Lưu Bang. Sợ Hạng Võ cho người đuổi bắt nên phải đi con đường rừng rú , giữa đường không biết lối đi, may nhờ lão tiều chỉ đường. Nhưng ngại để lão tiều gặp lính của Hạng Võ sẽ chỉ đường, nên Hàn Tín phải giết chết lão tiều.
-----------------------------------


_________________________________
Tri Âm Quán_Thị Trấn Chũ_Lục Ngạn_Bắc Giang
http://quoccuonglucngan.blogspot.com/
Về Đầu Trang Go down
https://triamquan.forumvi.com/
Tri Âm Quán
Thành Viên Tích Cực
Thành Viên Tích Cực
Tri Âm Quán


Tổng số bài gửi : 6340
Reputation : 2
Join date : 31/07/2013
Đến từ : Thị Trấn Chũ

CHÍNH TRI Cổ Nhân Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: CHÍNH TRI Cổ Nhân   CHÍNH TRI Cổ Nhân EmptyTue Mar 12, 2019 3:31 pm

HAI CON ĐƯỜNG HIẾU 


Sở Bình dương (1) nghe lời gian thần là Phí vô Cực bắt giam tướng Ngũ Sa.
Phí vô Cực tâu :
— Ngũ Sa có hai con là Ngũ Thượng và Ngũ Viên (2) đều là bực tài giỏi, nếu để trốn .sang Ngô (3) thì tất có hại cho nước sở. Chi bằng ta bắt Ngũ Sa phải viết thư triệu về, kẻ kia tin lời cha tất cả rủ nhau về cả, bấy giờ ta giết hết đi mới có thể trừ được hậu hoạn!
Sở Bình vương mừng lắm, sai người vào ngục đem Ngũ Sa ra, rồi đưa giấy bút, bảo:
Nhà ngươi xin thế tử làm phản (4), đáng lẽ phải bị chết chém nhưng ta nghĩ đến công cán củạ tổ phụ nhà ngươi, không nỡ bắt tội. Nhà ngươi nên viết thư triệu hai con về, ta sẽ phong quan chức cho,
Ngũ Sa biết Sở Bình vương đánh lừa nên nói:
Con trưởng tôi là Ngũ Thượng, tinh nết hiền lành, nghe tôi triệu thì tất về ngay. Còn con thứ tôi, là Ngũ Viên, văn võ toàn tài, tính nhẫn nại, mai sau có thể làm nên việc được; vả lại là người tính lanh lắm. vị tất nó đã chịu về.
Sở- Bình vương bảo :
— Nhà ngươi cứ nghe ta mà triệu về; còn về hay không, không can dự đến nhà ngươi.
Ngũ Sa đành phải vâng theo. Sứ giả đem thư -sang đưa cho Ngũ Thượng và Ngũ Viên.
Ngũ Thượng cầm lấy bức thư vào nhà trong cho Ngũ Viên xem. Ngũ Viên nói :
— Thân phụ ta được khỏi tội cũng đã là may, hai ta có công gì mà được phong hầu, chẳng qua chỉ lừa ta đó thôi. Ta về thì tất bị hại.
Ngũ Thượng nói:  
— Hiện có thư của thân phụ, lẽ đâu lại giả dối.
Thân phụ ta một lòng tận trung với nước
nay bị tội oan, -biết về sau thế -nào cũng báo thù. Vậy thân phụ ta cũng muốn cho chúng ta chết đi, khỏi lo về sau.
— Em nói thế chẳng qua là ức dạc (1) mà thôi, vạn nhất bức thư này là chân tình thì cái tội bất hiếu của ta to biết ngần nào.
Ngũ Viên nói:
— Để em xin bói một quẻ.
Bói xong. Ngũ Viên nói :
— Cứ như quẻ bói nầy thì vua dối với bề tôi, cha dối con. «Nếu về thì tất bị hại, chứ chẳng khi nào được phong hầu.
Ngũ Thượng nói:
Không phải ta có tham gì sự phong hầu, chỉ mong được trông mặt thân phụ thôi.
— Vua Sở sợ anh em ta ở ngoài nên chưa dám giết thân phụ ta, nếu ta lầm mà về thì chỉ làm cho thân ta chóng chết mà thôi.
Ngũ Thượng nằng nặc bảo :
— Tình cha với con, nếu được trông thấy mặt thì ta chết cũng thoả lòng. '
Ngũ Viên thở dài:
— Về để cùng chết, phỏng có ích gì. Nếu anh muốn về thì từ đây em xin từ biệt!
Ngũ Thượng khóc nói :
— Em định đi đâu ?
— Ai có thể báo thù Sở thì em xin theo.
— Trí lực của anh không bằng em thì anh nên về Sở. Em lấy sự báo thù làm hiếu, một người một chí. Từ đây trở đi, anh em ta không còn được trông thấy nhau nữa.
Ngũ Viên sụp lạy bốn lạy để từ biệt Ngũ Thượng.
Ngũ Sa thấy một mình Ngũ Thượng về triều.. liền thở dài :
— Ta vốn biết Ngũ Viên không chịu về !
Sở Bình vương liền sai quan đại phu Vù thanh Hắc đem quân bắt Ngũ Viên. Ngũ Viên khóc nói :
— Thế là cha và anh không thể thoát chết được.
Ngũ Viên liền bảo vợ là Giả Thị :
_ Ta muốn trốn sang nước khác, mượn quân về báo thù cho cha, anh, không thể trông nom nàng được thì làm thế nào ?
Giả thị trừng mắt nhìn Ngũ Viên:
—Đại trượng phu nghĩ đến cái thù của cha, anh, lòng đau như cắt, lại còn lòng nào mà tưởng người
đàn ba ! Phu quân nên mau mau trốn đi, chớ nghĩ đến thiếp.
Giả thị nói xong liền vào trong thắt cổ tự tử,
Chiến quốc sách
 
Lời BÌNH
Ngũ Sa là người tôi rất trung thành và cũng là người cha rất hiền. Thẳng thắn can vua và dám cương-quyết nói sự thật cho nhà vua biết tính tình, chí khí của hai con. Biết vua đánh lừa nhưng vẫn viết thơ về dối con thật không ai biết con cho bằng cha, nhưng đáng tiếc Ngũ Thượng quá thật thà, ngây thơ tin rằng thư của cha là nói thực, đó là con không biết ý cha. Ngũ Thượng lại hiểu chữ hiếu một cách quá hẹp hòi, nên Ngũ Sa mới bị chết sớm, vì như lời của Ngũ Viên đoán là Sở Bình Vương sợ lực lượng bên ngoài của Ngũ Thượng và Ngũ Viên.
Vả lại, trung thành với chữ Hiếu như thế vô tình Ngũ Thượng làm mất đi một lực lượng khá quan trọng trong công cuộc báo thù. Cái sống của Ngũ Thượng biết đâu sẽ giúp cho công cuộc báo thù được sớm thành công, để Ngũ Viên khỏi phải quật mồ đánh xác Sở Bình vương, mang phải tiếng hẹp hòi đối với một kẻ thù đã chết (1).
Cùng chết với cha, thấy mặt cha để rồi chết, thực hiện chữ « Hiếu » như thế thật là sai lầm !
Trái lại, Ngũ Viên hiểu chữ « Hiếu » rất linh động, cũng như chữ « Trung » với vua rất đúng. Ngũ Viên chết đi thì mối thù cha ai trả ? Đối với một nhà vua bạo ngược còn hơn Kiệt, Trụ, thì ai còn giữ lấy chứ trung làm gì ?
Cái chết của Giả thị thật đáng nêu gương tiết- liệt, nhưng sự thật chưa phải hoàn-cảnh đáng chết. Vì không còn con đường nào để trốn tránh hay sao ? Ngũ Viên còn lo nghĩ được việc lớn huống chi là một việc nhỏ mọn, tầm thường ấy. lời nói của Ngũ Viên nói với Giả thị cũng ngớ ngẩn thật !
 
----------------------------------------
1) Sở Bình vương cưới con gái của Tần Ai Công là nàng Mạnh Doanh cho con là Thế tử Kiến. Nhưng thấy nàng Mạnh Doanh có sắc đẹp lộng lẫy, đem lòng say mê đoạt lấy, đem nàng hầu của Mạnh Doanh là Tề nữ thay vào đưa cho thế tử Kiến.
2) Ngũ Viên tên tự là Tử Tư có tài thao lược.
3) Nước Ngô, một nước về thời Xuân thu, ở vào địa phận sông Hoài, sông Tứ cho đến tỉnh Chiết giang ngày nay.
4) Sở Bình Vương sợ việc đọat vợ của con lâu ngày sẽ phát giác nên sai thái tử Kiến đi trấn thủ ở đất Kiên Phu và cho Ngũ Sa theo phò Ngũ Sa tâu với vua: “Đại Vương chiếm lấy vợ của thế tử cũng đã quá lắm rồi, nay lại nghe lời đứa tiểu nhân mà bỏ tình cốt nhục, Đại Vương nỡ lòng nào như thế ?”
--------------------------------------------
1) Ức dạc là nói phỏng chừng, lấy ý riêng mà đóan.
---------------------------------------
1) Ngũ Viên mượn được quân Ngô về diệt được nước Sở, bấy giờ Sở Bình vương đã chết. Ngũ Viên sai người đào mả, lôi xác ra, đánh 300 roi. thò tay khoét mắt ra cắt lấy đầu, còn áo quan và xương thì quăng ngoài cánh đồng.

_________________________________
Tri Âm Quán_Thị Trấn Chũ_Lục Ngạn_Bắc Giang
http://quoccuonglucngan.blogspot.com/
Về Đầu Trang Go down
https://triamquan.forumvi.com/
Tri Âm Quán
Thành Viên Tích Cực
Thành Viên Tích Cực
Tri Âm Quán


Tổng số bài gửi : 6340
Reputation : 2
Join date : 31/07/2013
Đến từ : Thị Trấn Chũ

CHÍNH TRI Cổ Nhân Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: CHÍNH TRI Cổ Nhân   CHÍNH TRI Cổ Nhân EmptyFri May 03, 2019 11:09 am

CÁI CHẾT BI KHÁI CỦA ÔNG LÃO ĐÁNH CÁ
 
Ngũ Viên bị Sở Bình vương giết cả cha, anh. (1),nên dẫn công tử Thắng (2) trốn chạy sang nước khác để mưu việc báo thù.
Sở Bình vương cho người đuổi bắt.
Ngũ Viên chạy đến sông Đại giang, trông thấy mặt nước mênh mông sóng vỗ , cuồn cuộn nhưng
không có một chiếc thuyền bè nào. Mặt trước khổ về sông chắn, mặt sau khổ về quân theo. Ngũ viên trong lòng bồn chồn lo lắng. Bỗng thấy một ông lão đánh cá ngồi chiếc thuyền nhỏ, bơi ngược- dòng nước đi lên. Ngũ Viên mừng rỡ. Kêu:
— Cụ đánh cá ơi ! Cho tôi sang với.
Ông lão toan ghé thuyền để đón, nhưng trông thấy trên bờ có người đi lại lên tiếng hát :
« Kia. kia, bóng đâu (ý y ý a...) đã xế ngang
Đầu...
Đôi ta hẹn nhau {ý y ý a...) trong bụi hoa
lau...!»
Ngũ Viên nghe hát hiểu ý liền cùng công tử Thắng đi vào bờ sông thẳng xuống bãi, núp vào bụi hoa lau. Một lúc lâu ông lão đánh cá ghé thuyền vào bờ không thấy Ngũ Viên đâu cả, lại lên tiếng hát :
«Mặt trời đã xế (ý y ý a...) lòng ta thường
lo...!
Mặt trăng đã mọc (ý y ý a -) sao không sang
đò...»
Ngũ Viên cùng công tử Thắng ở trong bụi lau chui ra, ông lão đánh cá vội vàng gọi xuống thuyền, ông lão đánh cá cầm mái chèo, từ từ bơi đi. Một lúc sang đến bờ bên kia, ông lão đánh cá bảo Ngũ Viên :
— Đêm qua lão nằm mộng thấy sao tướng tinh rơi vào thuyền Lão biết có người lạ qua đây, vậy nên lão đón, tình cờ lại gặp nhà ngươi. Nhà ngươi quyết không phải người thường, nên nói thực cho lão biết.
Ngũ Viên liền nói thật họ tên cho nghe. Ông lão đánh cá lại nói :
— Lão trông mặt của nhà ngươi có vẻ đói. Vậy để lão đi lấy cơm cho ăn. Nhà ngươi hãy đợi đây một chút.
Ông lão đánh cá liền buộc thuyền ở dưới cây, để vào trong xóm lấy cơm cho Ngũ Viên và công tử Thắng ăn. Thấy ông lão đánh cá đi lâu quá mà chưa thấy đến. Ngũ Viên bảo công từ Thắng :
— Lòng người khó dò lắm, chắc đâu là hắn không gọi người bắt ta.
Hai người lại cùng nhau trốn trong bụi.
Một lúc lâu, ông lão đem cơm canh cá thịt đến dưới gốc cây, không thấy Ngũ Viên đâu cả, mới gọi to lên :
— Người trong bụi lau ơi ! Nguời trong bụi lau ơi ! Lão nào có định hại nhà ngươi để cầu lợi đâu.
Ngũ Viên ở trong bụi lau lên tiếng đi ra.
Ông lão đánh cá nói :
— Lão biết nhà ngươi đói, đi lấy cơm cho ăn, sao nhà ngươi lại trốn ?
Ngũ Viên đáp :
— Tính mạng của tôi bây giờ ở trong tay cụ ! tôi đương lo nghĩ, trong lòng bàng hoàng, chứ không phải là trốn.
Ông lão đánh cá dọn Cơm cho ăn. Ngũ Viên và công tử Thắng ăn no rồi, lúc sắp đi, Ngũ Viên cởi thanh kiếm đưa cho ông lão đánh cá, bảo :
— Thanh kiếm này là của tiên vương ban cho. Ông cha tôi đeo thanh kiếm này đã ba đời rồi. Giá đáng 100 nén vàng, xin để đền ơn cụ.
Ông lão đánh cá cười, bảo :
— Lão nghe nói vua sở có treo giải ; ai bắt được Ngũ Viên thì thưởng-cho 5 vạn thạch thóc và tước đại phu. Như thế, lão còn chẳng tham, có lẽ nào lại tham 100 nén vàng làm gì ! Và thanh kiếm này cần dùng cho nhà ngươi , chứ lão có dùng chi đến.
Ngũ Viên nói :
— Cụ không nhận thanh kiếm; xin cụ cho biết quý danh để sau này hậu tạ, ông lão đánh cá nổi giận :
— Lão thấy nhà ngươi bị oan, nên thương mà giúp nhà ngươi, nhà ngươi lại đem lòng hậu tạ mà giữ lão, thế thì sao gọi là trượng phu được ?
— Cụ đã không mong báo đền nhưng lòng tôi sao đành ?
Ngũ Viên cứ nài xin ông lão đánh cá cho biết họ tên, ông lão đánh cá bảo :
— Ngày nay gặp nhau, ngươi là kẻ mang tội đi trốn, lão là người tha kẻ có tội, còn hỏi họ tên làm gì ! Huống chi lão kiếm ăn trên mặt nước, bèo trôi sóng dạt, dù hỏi họ tên cũng không mấy khi được găp. Vạn nhất lòng trời xui khiến được nhau thì lão gọi nhà ngươi là “người trong bụi lau” nhà ngươi gọi lão là “ ông lão đánh cá“. thế cũng là đủ !
Ngũ Viên lạy tạ rồi cùng công tử Thắng bước đi. Nhưng đi được mấy bước. Ngũ Viên quay lại nói với ông lão đánh cá.
— Giả sử mặt sau có quân đuổi theo xin cụ đừng tiết lộ cho biết.
Ông lão đánh cá thở dài :
— Lão làm ơn cho nhà ngươi mà nhà ngươi lại nghi lão. Giả sử có quân theo thì dù ai chở sang mặc lòng, lão cũng không thể nào giải tỏ ra được.
Thôi thì lão xin liều chết để cho nhà ngươi khỏi nghi.
Ông lão đánh cá mở dây buộc thuyền ra quăng cả mái chèo đi rồi lật úp thuyền lại, để mình chết đuối giữa dòng sông. Ngũ Viên thấy thế, thở dài :
— Thương hại thay ! Tôi nhờ cụ mà sống, cụ vì tôi mà chết !
Chiến quốc sách
LỜI BÌNH
Cái chết của ông lão đánh cá thật đáng kính đáng thương,
Nhưng không chết không được.
Đã là người bị nghi rồi, một khi việc xảy ra, dù do một hoàn-cảnh không có liên-hệ đến. nhưng cũng khó tránh khỏi được tiếng. Chỉ có chết mới làm cho người hết nghi, mới giải quyết được những điều thắc mắc.
Nhưng, người đời kính mến, thương tiếc cái chết khí-khái, oan uổng của ông lão đánh cá bao nhiêu thì người đời lại bực tức, căm hờn sự gàn dở của Ngũ Viên bấy nhiêu.
Đành rằng con người lâm nạn như Ngũ Viên cần phải có cảnh-giác tính, nhưng đâu phải nhìn đời hoàn toàn đen tối, chung quanh mình ai cũng là kẻ thù, ai cũng là kẻ bám lợi ! Trước có Đông Cao Công hảo tâm giúp đưa qua cửa ải (1) ngay như gặp người bạn đối lập là Thân Bao Tư cũng được người rộng rãi cho tự-do đi trốn (1). Việc làm phải của Ngũ Viên đã được nhiều người ủng hộ.
« Nào ai lấy thước mà đo lòng người »,
Nhưng với hành-vi, cử-chỉ của ông lão đánh cá từ ân cần ghé thuyền chở sang, chăm lo cơm nước đến những lời khẳng-khái không nhận gươm . . . không đáng chứng minh cho lòng chân thành, cao quý của ông lão, cũng như bị sự thông minh và tài thao lược của Ngũ Viên không nhận xét thấy hay sao ?
Báo ơn là một điều đáng quý, là một điều mà người thọ ơn phải cần làm. Nhưng cũng tùy ở tâm tính của người giúp ơn, một khi họ không bao giờ nghĩ đến ơn thì ta đừng băn-khoăn, lải nhải kêu lên là ơn nghĩa. Như thế làm chạm phải lòng cao quý tốt đẹp của họ cảm thấy khó chịu.
Chỉ có kẻ tầm thường mới thi ơn rồi trông mong người trả ơn, xem sự thi ơn là một danh dự... Ông lão đánh cá tuy địa vị xã-hội kém nhưng tư-tưởng đâu phải tầm thường. Ngũ Viên không đánh giá được con người của ông lão, tuy người tài ba xuất chúng nhưng vẫn còn thiếu mắt tinh đời, quá câu chấp điều ơn nghĩa nhỏ nhặt, thường tình.
Thanh kiếm là một bảo vật của người chiến sĩ. Họ còn quý trọng hơn người yêu hay một mỹ nữ ; đối với kiếm họ xem như bóng với hình. Ngũ Viên đem thanh kiếm đền ơn là nghĩ ơn kia là trọng. Nhưng đáng tiếc. Ngũ Viên lại không nghĩ rằng : trên đường trốn tránh, cần có kiếm để đối địch với quân thù, bảo vệ sinh mạng... Lòng cao quý của ông lão đánh cá là vô hạng, chớ có phải thu hẹp trong phạm-vi bằng một thanh kiếm giá 100 nén vàng!
Một nhà văn hào Pháp La Rochepoucauld (/) nói : « Phần nhiều người ta đền ơn là vì tham muốn sâu kín và mãnh-liệt được hưởng nhiều ân huệ lớn hơn nữa » hay « Hăm hở trả ơn cũng là một thứ bội bạc “ , Ngũ Viên chắc không phạm phải lề lối thường tình như thế, nhưng Ngũ Viên có lẽ nghĩ rằng trên đường giang hồ luân-lạc, biết chừng nào mới tìm lại người ân xưa, nên xin đền đáp như thế để gọi là tạm tròn ơn nghĩa.
Tuy vậy, cái chết của ông lão đã tỏ ra Ngũ Viên rất ngông nghênh, gàn dở... Ngũ Viên không khỏi mang phải tiếng sát nhân.
-------------------------------------------
Chú thích:
1) Xem lại bài trước.
2) Công tử Thắng là con của Thế Tử Kiến. Nguyên Thế tử Kiến bị cho bắt lấy vợ, đổi Tỳ nữ cho, vợ chồng ở với nhuu sinh ra Thắng. Sau không nghe lời can của Ngũ Viên mưu làm nội ứng cho Tấn để giết Trịnh nên bị chết.
---------------------------------------------
1) Đổng Cao Công là học trò của Biển Thước đem người bạn là Hoàng Phủ Nột giả làm Ngũ Viên, còn Ngũ Viên giả làm đứa theo hầu, để khi lính giữ thành nhìn lầm, bắt Hoàng Phủ Nột thì Ngũ Viên thừa cơ chạy thoát. Bấg giờ Đông Cao Công sẽ vào quan mà nhìn lấy cứu bạn mình.
----------------------------------
(1) Xem một bài sau.

-------------------------------------------

_________________________________
Tri Âm Quán_Thị Trấn Chũ_Lục Ngạn_Bắc Giang
http://quoccuonglucngan.blogspot.com/
Về Đầu Trang Go down
https://triamquan.forumvi.com/
Sponsored content





CHÍNH TRI Cổ Nhân Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: CHÍNH TRI Cổ Nhân   CHÍNH TRI Cổ Nhân Empty

Về Đầu Trang Go down
 
CHÍNH TRI Cổ Nhân
Về Đầu Trang 
Trang 1 trong tổng số 2 trangChuyển đến trang : 1, 2  Next
 Similar topics
-
» Thủ đoạn chính trị
» Nhân tâm tỉ như bàn thủy, chính thố nhi vật động, tắc trạm trọc tại hạ, nhi thanh minh tại thượng.
» Bệnh giang mai ở nữ giới: Nguyên nhân và dấu hiệu nhận biết
» Da đầu dương vật bị nhăn theo nếp bạn có từng thắc mắc nguyên nhân
» Giá trị tiềm ẩn của chính bạn

Permissions in this forum:Bạn không có quyền trả lời bài viết
Tri Âm Quán - Lục Ngạn - Bắc Giang :: Các Đạo Khác :: Gương Xưa Tích Cũ-
Chuyển đến