Tri Âm Quán - Lục Ngạn - Bắc Giang
Chào bạn đã ghé thăm Tri Âm Quán_Thị Trấn Chũ_Lục Ngạn_Bắc Giang!
Diễn Đàn là nơi giao lưu kết bạn, sưu tầm, lưu trữ, học hỏi và chia sẻ kiến thức.
Để cùng nhau tiến bộ trên con đường hướng thiện.
Chúc bạn sức khỏe và có nhiều thành công mới trong cuộc sống!

Om mani pad me hum
Tri Âm Quán - Lục Ngạn - Bắc Giang
Chào bạn đã ghé thăm Tri Âm Quán_Thị Trấn Chũ_Lục Ngạn_Bắc Giang!
Diễn Đàn là nơi giao lưu kết bạn, sưu tầm, lưu trữ, học hỏi và chia sẻ kiến thức.
Để cùng nhau tiến bộ trên con đường hướng thiện.
Chúc bạn sức khỏe và có nhiều thành công mới trong cuộc sống!

Om mani pad me hum
Tri Âm Quán - Lục Ngạn - Bắc Giang
Bạn có muốn phản ứng với tin nhắn này? Vui lòng đăng ký diễn đàn trong một vài cú nhấp chuột hoặc đăng nhập để tiếp tục.
Tri Âm Quán - Lục Ngạn - Bắc Giang

Mỗi người đều nhận được hai thứ giáo dục: một thứ do người khác truyền cho; một thứ, quan trọng hơn nhiều, do mình tự tạo lấy.
 
Trang ChínhTrang Chính  Kinh Pháp Cú chú giải (tập 1) - Page 2 Icon_portal  Latest imagesLatest images  Đăng kýĐăng ký  Đăng NhậpĐăng Nhập  
Chào mừng các bạn đã ghé thăm Tri Âm Quán_Thị Trấn Chũ_Lục Ngạn_Bắc Giang! Chúc các bạn sức khỏe và thành đạt! Tri Âm Quán_Thị Trấn Chũ_Lục Ngạn_Bắc Giang.

 

 Kinh Pháp Cú chú giải (tập 1)

Go down 
Chuyển đến trang : Previous  1, 2, 3  Next
Tác giảThông điệp
Tri Âm Quán
Thành Viên Tích Cực
Thành Viên Tích Cực
Tri Âm Quán


Tổng số bài gửi : 6340
Reputation : 2
Join date : 31/07/2013
Đến từ : Thị Trấn Chũ

Kinh Pháp Cú chú giải (tập 1) - Page 2 Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Kinh Pháp Cú chú giải (tập 1)   Kinh Pháp Cú chú giải (tập 1) - Page 2 EmptySun Nov 16, 2014 11:42 am

158. Trước hãy đặt mình vào Chánh đạo [13] rồi sau giáo hóa [14] kẻ khác, được như vậy mới tránh khỏi điều lỗi lầm xảy ra.
One should first establish oneself in what is proper; then only should one instruct others. Thus the wise man will not be reproached.
Kệ Tụng
Trước hết tự đặt mình
Trên chánh pháp chơn yếu
Sau mới giáo hóa người
Người trí khỏi bị chê
Lược giảng
Pháp cú nầy Phật dạy tại tinh xá Kỳ Viên, có liên quan đến Trưởng lão Upananda, một hoàng tử dòng họ Thích Ca.
Theo truyện tích, Tỳ kheo Upananda có biệt tài thuyết pháp. Dù thầy thuyết pháp rất hay, nhưng có đôi khi thầy làm trái lại những điều thầy đã giảng dạy. Như những vật dụng do tín chủ cúng dường, thầy đều thọ dụng hết. Thậm chí, khi phân xử, thầy lại không chia đều mà thầy dành lấy những vật tốt về mình. Việc đó, gây ra lắm nỗi bất bình cho các thầy Tỳ kheo khác. Ông nghĩ rằng, ông là người thuyết pháp hay, nên ông được quyền hưởng dụng nhiều các thứ tốt đẹp hơn.
Vì không thể chịu đựng được sự bất bình đẳng đó, nên những Tỳ kheo khác, bạch trình với đức Phật. Phật bảo, đây không phải là lần đầu tiên mà Tỳ kheo Upananda đã gây ra cho các thầy bất bình ghê tởm thất vọng về ông ta, mà trong quá khứ về kiếp trước ông cũng đã từng làm như thế…
Người xưa có câu nói: “Thuyết dị hành nan”, hay “Năng thuyết bất năng hành”. Nghĩa là, nói thì rất dễ mà thật hành thì rất khó. Hoặc có người nói thì rất hay, nhưng không bao giờ làm theo những gì mình đã nói. Đây là một căn bệnh chung khó chữa của con người. Căn bệnh trầm trọng nầy, không chỉ riêng cho bất cứ ai hay ở trong bất cứ lãnh vực nào. Từ lãnh vực Tôn giáo cho đến chánh trị, xã hội v.v…Bất cứ lãnh vực nào cũng đều có những hạng người nầy. Họ là người chỉ biết nói miệng tài, hay vào tai ra miệng. Họ có biệt tài sử dụng ba tấc lưỡi để khoe khoang phô trương lừa bịp thiên hạ. Họ giống như cái máy phát thanh. Họ nói một đường làm một ngã. Họ chuyên sống bằng nghề đầu môi chót lưỡi. Thiên hạ lầm họ rất nhiều. Họ mượn danh nghĩa, đội lốt tôn giáo để làm tiền thiên hạ. Họ lợi dụng lòng tin của tín đồ mà tha hồ trục lợi. Thời nào và trong bất cứ xã hội nào, xưa hay nay, cũng đều có những hạng người nầy. Nhiều người hết tiền, hết của cũng chỉ vì nghe theo những lời khuyến dụ thuyết giảng đường mật của họ.
Khi biết được sự thể rõ ràng, thì than ôi! mọi việc đã quá phủ phàng! Thế nên, Phật dạy người Phật tử khi nghe bất cứ ai, dù người đó mệnh danh là Phật hay Tổ nói, tất cả đều phải cân nhắc suy xét cho thật kỹ càng, chớ không nên vội tin. Phải nhìn hành động của họ có xứng hợp với lời họ nói hay không. Người khôn khéo, cần phải có sự kiểm chứng trong khi nghe. Ở đời vàng thau lẫn lộn thật khó phân biệt.
Trong đạo Phật luôn đề cao việc tri hành phải hợp nhất. Nghĩa là lời nói và việc làm phải đi đôi với nhau. Nếu chỉ nói mà không làm, thì đó là kẻ chỉ biết nói suông, khác nào cái tủ đựng sách. Tệ hơn nữa là họ có ý đồ trục lợi. Bản thân họ không được lợi ích, làm sao họ đem lợi ích đến cho mọi người?
Câu chuyện lược dẫn nêu trên, thầy Tỳ kheo Pananda là người chỉ có tài hay nói mà hành động thì trái ngược lại. Khi giảng thuyết, thì thầy khuyên các Tỳ kheo khác phải nên thiểu dục tri túc, không nên cất chứa tài sản. Trong khi đó, thì ông ta lại tom góp tài vật để cất chứa và thậm chí lại lường gạt sự phân chia lấy bớt của các vị Tỳ kheo khác, đó là hiện tướng của lòng tham. Vì không chế ngự được lòng dục vọng tham lam, nên hành động trái ngược những gì ông nói. Lời nói bao giờ cũng cao siêu tuyệt mỹ, nhưng việc làm thì lại khác. Vì thâm hiểu bệnh trạng nặng nề nầy của con người, cho nên cổ đức có lời khuyên:
Đầu mồm nói suốt trăm phần diệu
Dưới gót không ly một điểm trần.
Một triết gia nào đó cũng đã nói: “Con đường thành công nhất trên đường đời là bạn hãy thật hành những điều gì mà bạn thường khuyên bảo kẻ khác”. Đây là lời khuyên thật là chí lý. Thông thường, những lời khuyên đều nhắm vào những điều hay lẽ phải. Không ai khuyên con người làm những điều phi pháp tội lỗi. Ta khuyên người không nên hút sách, cờ bạc, say sưa… tất nhiên, là ta không bao giờ làm những điều nầy. Có thế, thì lời khuyên của ta mới thực sự có giá trị. Và như thế, chính bản thân ta mới thực sự là một con người có nhân phẩm đạo đức. Bằng ngược lại, thì lời khuyên của ta chỉ là lời khuyên trống rỗng vô bổ. Vì không ai làm theo lời khuyên của ta cả. Do đó, một người thực sự có đạo đức, thì họ tuy nói ít, nhưng rất có giá trị đối với người nghe. Vì chính bản thân họ là những lời thuyết giáo sống động, đó là thân giáo.
Pháp cú trên Phật dạy rất rõ: “Trước hãy tự đặt mình vào Chánh đạo rồi sau mới giáo hóa kẻ khác,được như vậy mới tránh điều lỗi lầm xảy ra”. Cụm từ: “đặt mình vào Chánh đạo”, Phật muốn thức nhắc mọi người, cần phải trau dồi, rèn luyện, tu tập cho mình thật sự có đạo đức. Nhất là phẩm hạnh của một người có trách nhiệm hoằng hóa lợi sanh. Người có phẩm cách, đời sống đạo đức cao thượng, thì việc giáo hóa mọi người trở về với đạo đức nhân bản, với Chánh pháp, mới thật sự có tác dụng hiệu quả cao. Nếu không, thì việc giáo hóa không thể thành công được. Chẳng những thế mà còn gây ra lắm điều tệ hại. Làm trò cười cho người đời chế nhạo phỉ báng. Và như thế, sẽ làm mất tín tâm ở nơi mọi người, đó là một lỗi lầm rất lớn đối với người có trách nhiệm giáo hóa chúng sanh vậy.
159. Nếu muốn khuyên người khác nên làm như mình, trước hãy sửa mình rồi sau sửa người, vì tự sửa mình vốn là điều khó nhất.
One should do what one teaches others to do; if one would train others, one should be well controlled oneself. Difficult, indeed is self-control.
Kệ Tụng
Dạy người như thế nào
Hãy dạy mình như vậy
Khéo điều, mới điều người
Khó thay, tự điều phục.
Lược giảng
Pháp cú nầy Phật dạy tại tinh xá Kỳ Viên, có liên quan đến chuyện Trưởng lão Padhànika Tissa. Sau khi nhận đề mục thiền quán từ nơi Phật dạy, vị Trưởng lão nầy dẫn năm trăm Tỳ kheo vào trong rừng sâu để thực tập. Ông bảo các vị Tỳ kheo, mọi người hãy để tâm thiền quán qua lời đức Thế Tôn dạy. Xong, ông đi tìm chỗ vắng vẻ để ngủ nghỉ. Trong khi đó, thì các Tỳ kheo kia đi kinh hành suốt canh một. Đến giữa đêm, họ trở lại tinh xá. Khi ấy, Trưởng lão Padhanika Tissa, sau khi nằm dài ngủ một giấc say sưa, mới thức dậy đi tìm những vị Tỳ kheo nầy. Lúc gặp, ông liền lên giọng gắt gỏng bảo: các ông phải tiếp tục đi vào rừng để thiền quán, không được về đây ngủ nghỉ. Thế là, các vị Tỳ kheo nầy vâng lời ông lại trở vào rừng kinh hành thiền quán. Cứ thế, cho đến hết canh giữa. Mãi đến gần sáng, họ kéo nhau về tinh xá. Khi về đến tinh xá, họ lại bị vị Trưởng lão nầy đuổi ra, không cho họ ngủ nghỉ. Sau khi đuổi ra, ông lại đi ngủ. Các vị Tỳ kheo trẻ tuổi cứ đinh ninh nghĩ rằng, vị sư phụ của mình thật quá nhiệt tình. Từ đó, họ để ý theo dõi. Sau khi khám phá ra, biết rõ sự thật là ông ta chỉ tìm cách nằm dài ngủ, chớ không có tham thiền quán tưởng chi cả. Biết rõ sự tình, các vị Tỳ kheo nầy đâm ra bực mình vì thức sáng đêm quá sức mệt mỏi. Sau đó, khi hết hạn ở rừng, họ trở về bạch trình tỏ rõ duyên cớ cùng đức Phật. Nhân đó, đức Phật dạy:
- Nầy các Tỳ kheo! Nếu một người răn bảo kẻ khác, trước hết hãy tự điều phục, và tự điều phục mình thì có thể điều phục kẻ khác.
Sống trong một tập thể, người có trách nhiệm lãnh đạo hướng dẫn người khác tu học, tất nhiên, mình phải là người gương mẫu. Khi bảo người khác làm, chính mình phải đích thân làm. Không thể nói một đường làm một ngã. Bảo người ta không nên nói láo, mình lại nói dối hơn ai hết. Bảo người ta chăm chỉ học hành, thì mình lại kiếm chuyện đi chơi. Bảo người ta ráng lo tu học, mình lại kiếm cớ tìm chỗ ngủ dài. Bảo người ta tu tập thiền quán, mình lại đi tìm chỗ yên tịnh ngủ nghỉ. Như vậy, lời khuyên dạy của mình thật vô nghĩa, vì không có ai nghe theo.
Câu chuyện lược dẫn trên, cho ta thấy sự thất bại của vị Trưởng lão Padhanika Tissa. Là một người hướng dẫn tu học, nhưng ông không có tinh thần trách nhiệm. Ông không có đức tánh của một người lãnh đạo. Ông không phải là người giáo thọ gương mẫu. Ông không tự khắc chế nỗi tật tánh xấu của ông. Khi hướng dẫn chỉ bảo mọi người tu học, ông lại chỉ biết ra lệnh dạy bảo người khác mà chính bản thân ông thì ông lại làm một điều trái ngược. Thay vì ông cùng đi với mọi người vào rừng tu tập thiền quán, theo như lời Phật dạy, thì ông lại chém vè lẩn tránh tìm chỗ ngủ nghỉ. Ông là người không có một chút tự trọng. Người như thế, thật không xứng đáng lãnh đạo. Lãnh đạo bản thân ông còn chưa xứng đáng, nói chi đến việc lãnh đạo mọi người. Bởi thế, khi ông bị các vị Tỳ kheo trẻ tuổi phát hiện ra, bạch trình lên đức Phật, thì ông đã bị Phật quở, khiển trách là một người thiếu đạo đức trách nhiệm.
Ngẫm lại, hạng người như vị Trưởng lão trên, bất cứ trong đoàn thể nào, dù đời hay đạo, chúng ta thấy, nơi nào cũng có. Hạng người chỉ biết sai bảo kẻ khác làm, còn bản thân mình thì lo hưởng thụ. Họ khéo nịnh bợ kẻ trên, ra oai dọa nạt kẻ dưới. Họ tìm đủ mọi cách mánh lới xảo quyệt để hầu che đậy cái chân tướng xấu xa của họ. Họ là hạng người chỉ biết nô lệ cho lòng dục vọng, miễn sao thỏa mãn những nhu cầu có lợi cho thân thể của họ là được.
Đạo đức đối với họ chỉ là một cái áo khoát bề ngoài để dễ bề trục lợi. Họ là hạng người không biết tàm quý. Họ chỉ biết làm sao hưởng thụ cho sung sướng là được. Đây là hạng người sâu mọt làm băng hoại mất hết thể diện của một đoàn thể tu học. Họ là người chỉ biết phá hoại hơn xây dựng. Là người sống trong một tập thể, chúng ta nên lưu ý đối với những hạng người lãnh đạo chỉ biết nói mà không làm.
160. Chính tự mình làm chỗ nương cho mình chứ người khác làm sao nương được? Tự mình khéo tu tập mới đạt đến chỗ nương dựa nhiệm mầu.
One truly is the protector of oneself; who else could the protector be? With oneself fully controlled, one gains a mastery that is hard to gain.
Kệ Tụng
Tự mình nương tựa mình
Tựa điểm nào hơn nữa
Nhờ khéo điều phục mình
Được điểm tựa khó được.
Lược giảng
Pháp cú nầy Phật dạy tại tinh xá Kỳ Viên, có liên quan đến bà mẹ của Trưởng lão Kumara Kassapa.
Một người mẹ thật đau khổ vì bị nghi oan. Trước khi xuất gia vào Ni chúng, bà đã có mang thai, nhưng chính bà và người chồng đều không hay biết. Bà gia nhập vào Ni chúng thuộc phái Đề Bà Đạt Đa. Sau khi phát hiện biết bà mang thai, lời dị nghị đàm tiếu nghi oan của mọi người đã làm bà thật vô cùng thất vọng đau khổ. Tiếng đồn đến tai đức Phật, Phật biết đây là một sự nghi oan của mọi người. Phật sai ngài Ưu Ba Ly, một người trì giới đệ nhất đến tận nơi để giải oan.
Sau khi cho khám nghiệm kỹ càng, ngài Ưu Ba Ly dõng dạc công bố giữa mọi người là người đàn bà nầy vô tội. Và tính theo ngày tháng, thì cái bào thai kia là có trước khi bà xuất gia. Thế là mọi việc được minh bạch, không còn ai nghi ngờ. Không bao lâu, đứa bé lại chào đời. Đứa bé đó chính là Kassapa.
Kassapa lớn lên cũng đi xuất gia. Mẹ con cách xa nhau 12 năm. Có lần, bà mẹ trông thấy con mình trên đường mang bát đi khất thực, bà mừng quá la lên rồi vội vã chạy đến, vì bất cẩn bà té sấp xuống chân Ngài. Nhìn thấy cảnh tượng đau lòng đó, thầy Kassapa không muốn cho tình mẫu tử sống dậy trong lòng thêm phiền não rắc rối cho sự tu hành, nên Ngài nói những câu như vô tình bạc nghĩa. Nghe con nói thế, người mẹ rất đau lòng xót dạ ngậm ngùi nuốt tủi đành gạt lệ bỏ đi! Từ đó, bà quyết chí không còn nương tựa vào bất cứ ai, vì chính con ruột của bà còn vội nở bỏ bà, thì thử hỏi trên đời nầy, còn có ai thương bà để cho bà đáng nương tựa gởi thân. Chính bà là nơi nương tựa cho bà. Bà quyết tâm dũng mãnh nỗ lực quyết chí tiến tu, không còn ỷ lại vào bất cứ ai khác.
Qua câu chuyện lược dẫn trên, ta thấy bà mẹ của thầy Kassapa thật là đau khổ. Chính nỗi đau khổ nầy làm cho bà đứng vững mạnh hơn. Khi mẹ con gặp lại, thông thường là người ta mừng rỡ bịn rịn khóc than. Thế nhưng ở đây, ta thấy mẹ con của ngài Kassapa thì ngược lại. Thầy Kassapa đối xử với mẹ thật vượt hơn thường tình. Thầy đã không xúc động rơi lệ, dù đã trải qua 12 năm trường xa cách. Thầy đã gạt lệ khóc thầm, khi đối xử với người mẹ mình như kẻ vong ân bạc tình bạc nghĩa.
Nhưng chính cái bạc tình nầy đã đánh thức cái tình đạo lý sống dậy trong tận cùng tâm khảm của người mẹ. Bà đã mạnh dạn đứng lên và quyết tâm tự nỗ lực tu hành, không nương tựa hay ỷ lại vào bất cứ ai. Vì cái chân lý giải thoát không ai có thể ban cho mình được. Khổ hay vui chính do mình tạo lấy, đó là một bài học thật tràn đầy ý nghĩa thâm thúy.
Người ta sống hay ỷ lại kẻ khác. Đối với người Phật tử, Phật dạy không nên ỷ lại vào bất cứ nơi ai, dù người đó là đức Phật. Câu nói: “hãy tự mình thắp đuốc lên mà đi, nhưng hãy thắp lên với chánh pháp”. Đó là lời dặn dò phó chúc chí thiết sau cùng của Phật đối với ngài A Nan, một người thị giả luôn luôn hầu cận bên Phật. Qua lời dạy nầy, đức Phật muốn thức nhắc cảnh tỉnh mọi người hãy tự mình quyết định đời mình. Đừng bao giờ tin cậy nương vào bất cứ ai. Vì không có một vị Thần Thánh nào có thể cứu mình được.
Chính mình hãy tỉnh thức tự cứu lấy đời mình. Không ai có đủ quyền năng ban phước, giáng họa định đoạt đời ta cả. Địa ngục hay thiên đường do ta tự tạo lấy. Ta tự cầm tay lái chiếc xe đời ta. Ta không nên ỷ lại gởi thân phận mình cho bất cứ ai, dù người đó mệnh danh là Thần Thánh. Ngay cả đức Phật, Ngài còn không cho chúng ta ỷ lại nương tựa vào Ngài. Thế thì, thử hỏi trên đời nầy còn có ai để cho ta tin tưởng trao thân gởi phận nữa chớ?!
Phật chỉ giúp cho ta bằng cách chỉ dạy. Nói cách khác, Ngài chỉ có nhiệm vụ là người vẽ bản đồ và chỉ đường cho chúng ta đi. Đi hay không là quyền quyết định của chúng ta. Ngài chỉ rõ con đường nào an lạc và con đường nào đau khổ. Quyền chọn lựa con đường là hoàn toàn ở nơi chúng ta. Ngài không bắt buộc ai phải đi theo con đường Ngài chỉ dẫn. Ngài cho chúng ta có trọn quyền quyết định, chọn lựa. Đạo Phật rất tự do và công bằng là ở chỗ đó. Ngài chỉ khuyến hóa ta chớ không bao giờ bắt buộc hay khuyến dụ ta. Người học Phật xin nhớ rõ ở điểm nầy. Khổ hay vui là do tự mình quyết định chọn lấy.
Đọc qua Pháp cú trên, Phật dạy rất rõ: “Chính tự mình làm chỗ nương cho mình, chứ người khác làm sao nương được?” Thế mà, đại đa số Phật tử chúng ta hay ỷ lại nương vào người khác. Cứ nghĩ rằng, Phật hay Bồ tát hộ độ cho mình, trong khi đó mình không chịu lo tu, không làm theo những gì Ngài chỉ dạy. Lúc sống không lo tu niệm, làm lành lánh dữ, ăn chay niệm Phật, đến khi chết thì chạy vô chùa nhờ Tăng Ni tụng kinh cứu độ giùm. Phật tử tin tưởng một bề ỷ lại như thế, thì thật là đáng thương xót, tội nghiệp biết bao!
Phật dạy tiếp: “Tự mình khéo tu tập mới đạt đến chỗ nương dựa nhiệm mầu”. Người tu hành muốn đạt đến quả vị A la hán hay quả vị Phật là tự mỗi người nỗ lực hành trì. Trong khi thật hành, Phật dạy người Phật tử phải khéo tu tập. Khéo tu tập là khéo chọn lựa pháp môn cho thích hợp với căn cơ và trình độ của mình. Sau khi đã chọn đúng pháp môn rồi, từ đó, người Phật tử phải vận dụng công phu tu tập, nỗ lực hành trì đúng theo lời Phật chỉ dạy. Có thế, thì mới mong đạt được kết quả tốt đẹp vậy.
161. Ác nghiệp chính do mình tạo, tự mình sinh ra. Ác nghiệp làm hại kẻ ngu dễ dàng như kim cương phá hoại bảo thạch.
Evil, a witless man does by himself, born of himself and produced by himself, grinds him as a diamond grinds a hard gem.
Kệ Tụng
Tự mình làm điều ác
Tự mình sanh, mình tạo
Ác nghiệp nghiến kẻ ngu
Như kim cang nghiến báu.
Lược giảng
Pháp cú nầy Phật dạy tại tinh xá Kỳ Viên, có liên quan đến một vị cư sĩ tên là Mahà Kala.
Mahà Kala là một cư sĩ tu hành đắc quả Dự lưu. Ông là người tu hành rất tinh tấn, thường hay đến tinh xá thọ trì Bát quan trai. Có một hôm, ông ở lại tinh xá suốt đêm nghe pháp. Sáng sớm, ông ta đi ra ngồi bờ ao đang đứng rửa mặt, bỗng có một tên trộm chạy ngang qua làm rớt túi đồ trước mặt ông ta, mà hắn đã vừa mới lấy. Vừa lúc đó, người chủ mất đồ chạy đến nhìn thấy tang vật của mình đã mất, nổi cơn tức giận, không cần phân bua phải trái, ngỡ rằng ông ta là kẻ ăn trộm, nên người chủ nhà xông tới đánh ông ta đến chết.
Sau đó, các thầy Tỳ kheo phát hiện xác chết và rồi bạch trình lên đức Phật. Phật bảo, Mahà Kala đã trả cái quả báo mà ông ta đã gây ra trước kia. Nhân đó, Phật kể tiếp câu chuyện về tiền kiếp của ông ta. Xưa kia, chính Mahà Kala đã vu oan, gây ra tai họa giết chết người. Ngày nay, ông ta phải trả cái quả báo thê thảm đó.
Nghiệp quả là một định luật tất yếu. Một khi đã gây nhân ác, dù gần hay xa, dù mau hay chậm, cuối cùng cũng phải trả, không một ai thoát khỏi luật nhân quả.
Sự tác nghiệp do chính chúng ta tạo ra, tất nhiên chúng ta phải chịu trách nhiệm lãnh lấy. Nghiệp lành hay dữ cũng thế. Người ta thường nói: “Gieo gió thì phải gặt bão”. Tùy theo cường độ của cái nhân mà chúng ta đã gây tạo nặng nhẹ, khi trả quả cũng có nặng nhẹ khác nhau, song có điều nó không bao giờ mất. Nhân quả có ra từ ý nghĩ, lời nói và hành động. Một lời nói làm cho ích nước lợi dân, cũng một lời nói làm cho nước mất nhà tan.
Phật nói: “Ác nghiệp chính do mình tạo, từ mình sinh ra, rồi chính ác nghiệp đó trở lại hại mình, dụ như kim cương phá hoại bảo thạch”. Trên đời nầy, không có gì xảy ra mà không có nguyên nhân. Một người biết lo tu hành, trì trai giữ giới, ăn chay niệm Phật, suốt đời không làm gì hại ai, tại sao hôm nay phải hứng chịu nhiều tai ương hoạn họa? Vậy thì nhân quả có công bằng không? Điển hình như câu chuyện dẫn chứng trên, Mahà Kala là một cư sĩ rất hiền lành, thường xuyên đến tinh xá nghe pháp và thọ trì Bát quan trai. Thế thì, tại sao lại bị một người nhẫn tâm đánh chết? Chuyện xảy ra, thật là oan ức. Thật ra, không có gì là oan ức cả. Nếu chúng ta, chỉ nhìn nhân quả trong hiện tại, thì thấy như là oan ức, không công bằng. Nhưng nếu chúng ta chịu khó tìm hiểu nhìn về quá khứ, thì nhân và quả rất rõ ràng. Sở dĩ hôm nay, Mahà Kala bị đánh chết một cách đau thương như thế, Phật nói, do tiền kiếp, ông ta đã gây ra cảnh giết người cũng chết oan một cách thê thảm, bằng cách vu oan giá họa, ném đá giấu tay. Nếu Phật không nói nguyên do tiền kiếp của ông ta, thì chúng ta rất đổi nghi ngờ về nhân quả.
Do đó, muốn hiểu rõ nhân quả, chúng ta phải chịu khó nhìn xuyên suốt qua 3 thời kỳ: quá khứ, hiện tại và vị lai. Nếu chỉ nhìn cục bộ trong hiện tại không thôi, thì chúng ta không thể nào hiểu rõ nhân quả. Vì từ nhân tới quả, nó diễn biến theo chiều thời gian.
Vừa qua, báo chí đã đăng tải một vụ thảm sát đẫm máu kinh hoàng ở Mỹ. Thảm trạng đã xảy ra vào ngày 16/4/07 tại Đại học Công nghệ Virginia, kết quả 33 người chết, kể cả thủ phạm. Thủ phạm trong vụ thảm sát nầy là một thanh niên Hàn Quốc, tên là Cho Seung- hui.
Về nguyên nhân của vụ thảm sát nầy, dĩ nhiên, có nhiều lý do. Nhưng nguyên nhân chính, theo báo chí cho biết, là vì anh ta ghen tức hận thù tình yêu. Nổi tức giận thù ghét hận đời đã nhen nhúm ngấm ngầm trong lòng anh ta từ lâu. Từ một nội kết thâm sâu tận cùng của tâm thức mà anh ta không thể hóa giải được, nên cuối cùng đưa đến một hậu quả vô cùng khốc hại. Một cái nhân bất thiện ban đầu khởi lên tuy rất yếu ớt, nhưng nếu chúng ta không khéo chuyển hóa nó, để càng ngày nó càng nhen nhúm phát triển lớn mạnh và tất nhiên, một ngày nào đó, khi đã chín mùi thì nó phải nổ tung thôi! Chừng đó, không có một thế lực nào ngăn cản được và rồi sẽ gây ra một thảm trạng khủng khiếp kinh hoàng mà không ai có thể lường trước được.
Thế giới ngày nay, con người sống phóng thể gần như thác loạn. Nhơn tính, lương tri, đạo đức, nơi đã được mọi người tin tưởng quan tâm trong việc hun đúc giáo dục, đào tạo con người là nhà trường, mà nay hầu như đã bị bật gốc. Cuộc sống hối hả chạy theo máy móc vật chất, kim tiền, con người như mất hết tự chủ. Sống hoàn toàn nô lệ cho ngoại cảnh. Đầu óc con người như điên cuồng rối loạn. Người ta cứ mãi la làng lo chạy chữa cháy trên cái ngọn, mà người ta không chịu tìm hiểu và chữa cháy ngay từ cái căn nguyên gốc rễ của nó. Gốc rễ của nó là vô minh, là lòng dục vọng: tham, sân, si…đó là những độc tố tàn hại con người mà không ai để ý chạy chữa hoán cải. Đời sống con người ngày nay đã đánh mất quân bình đạo đức, không còn cấm sâu gốc rễ đạo đức vào mảnh đất tâm linh.
Đã thế, các nhà kinh doanh làm phim ảnh chuyên sản xuất những loại phim ảnh kích thích bạo động, xã hội đen, đâm chém, bắn giết với nhau, khơi dậy dục tính mãnh liệt ở tuổi trẻ, khiến cho chúng gây bạo động giết người như trò chơi. Đó là một sự đầu độc kích thích tuổi trẻ làm băng hoại của một nếp sống thơ ngây hiền hòa. Thay vì, giáo dục hướng dẫn đời sống đạo đức, xây dựng tình người, thì họ lại tạo ra nhiều cảnh bạo động chém giết coi mạng sống con người thua cỏ rác! Vì cuồng trí thác loạn, nên chúng giết người một cách bừa bãi. Than ôi! cảnh tượng người làm khổ người, đồng loại tàn sát đồng loại với nhau, biết đến bao giờ mới thực sự chấm dứt!
Cái tác nhân như thế, thì thử hỏi làm sao tránh khỏi cái hậu quả tệ hại đau thương?!!! Đã gieo nhân xấu, thì bảo sao có quả tốt cho được?
Xin mọi người hãy chiêm nghiệm lời Phật dạy trên, để chúng ta ý thức đem ra ứng dụng chuyển hóa thân tâm trong đời sống hằng ngày. Có thế, thì mới tránh được những nỗi khổ đau mà chính do con người tạo lấy.
162. Sự phá giới làm hại mình như giây mang la[15] bao quanh cây Ta la [16] làm cho nó khô héo. Người phá giới chỉ là người làm điều mà kẻ thù muốn làm cho mình.
Just as a single creeper strangles the tree on which it grows, even so, a man who is exceedingly depraved harms himself as only an enemy might wish.
Kệ Tụng
Phá giới như giây leo
Xiết chết cây ta la
Gieo hại cho tự thân
Như kẻ thù mong ước
Lược giảng :
Pháp cú nầy Phật dạy tại tinh xá Trúc Lâm, có liên quan đến Đề Bà Đạt Đa.
Truyện tích kể lại: “Các Tỳ kheo bàn tán trong pháp đường:
- Chư huynh, Đề Bà Đạt Đa tập khí độc hại, tánh tình xấu ác, ý muốn quá tàn bạo. Chỉ vì hiểm độc như thế nên luồn cúi ân sủng của A Xà Thế, dâng tặng nhiều lễ vật cho ông ta, xúi giục ông ta giết cha, rồi cùng âm mưu sát hại Phật.
Thế Tôn nghe được liền bảo:
- Đây không phải lần đầu, ở kiếp trước ông ta đã từng như vậy.
Rồi Ngài kể chuyện Kurùnga Miga và chuyện khác trong Bổn sanh, xong dạy tiếp:
- Nầy các Tỳ kheo! Khi một người phó mặc tính ác độc của mình thắng lướt mọi ranh giới, để cho ý muốn xấu ác nảy sanh từ tánh ác độc, giống như dây leo bám quanh cây Sa la, cuối cùng sẽ làm cho cây héo chết, người đó sẽ tống vào địa ngục hoặc một cõi giới khổ não nào đó”. ( trích nguyên văn tích truyện Pháp Cú Tập II, Viên Chiếu, tr 253 )
Tập khí là tên khác của chủng tử. Chủng tử là hạt giống. Hạt giống, tuy có rất nhiều loại, nhưng tựu trung cũng không ngoài hai thứ hạt giống: lành và dữ. Hai loại hạt giống nầy, ai ai cũng có. Nói cách khác, trong kho A lại da thức của mỗi người đều có huân chứa tiềm tàng hai loại hạt giống thiện và bất thiện nầy. Hạt giống có ra là do mỗi người huân tập. Tùy theo sự huân tập sâu dầy cạn mỏng mà đến lúc hiện hành nó có mạnh yếu khác nhau.
Sự huân tập nầy không phải chỉ có trong hiện đời thôi, mà nó đã có từ nhiều đời về trước. Nếu trong kho A lại da thức mà hạt giống lành nhiều, thì nó sẽ hiện ra hình tướng, tánh nết của một con người rất hiền từ. Ai trông thấy cũng rất dễ thương mến và có cảm tình ngay. Ngược lại, nếu hạt giống ác nhiều và mạnh, thì nó cũng hiện ra từ hình tướng cho đến tánh nết đều hung dữ, ai trông thấy cũng phát sợ, ít dám lân la gần gũi.
Thế nên, Phật dạy, người Phật tử cần phải huân tập cho mình thật nhiều hạt giống lành. Như niệm Phật, tụng kinh, bái sám, bố thí, cúng dường v.v… Chính sự huân tập nầy nó sẽ trở thành thói quen tốt. Hiện đời chúng ta sẽ được an vui lợi lạc và đời sau cũng được an vui lợi lạc. Cho nên, tập khí cũng có nghĩa là thói quen, mà thói quen là nghĩa của hành động. Hành động phát xuất từ thân, miệng và ý. Ba thứ nầy cũng gọi là nghiệp. Hành động được lặp đi lặp lại thành thói quen. Như vậy, tập khí cũng chính là nghiệp, là thói quen.
Qua câu chuyện trích dẫn trên, cho chúng ta thấy, tập khí của Đề bà đạt đa là thứ tập khí độc ác. Phật đã nói rõ, không phải tập khí hiện đời mà trong quá khứ ông ta đã nuôi dưỡng thứ tập khí độc ác nầy. Từ một tập khí ganh ghét, đố kỵ, không muốn ai hơn mình, nên sanh ra bao thứ tệ hại khác. Ông cấu kết với vua A xà thế cố ý hại Phật. Ông đã ra tay hại Phật nhiều lần, nhưng không lần nào hại được. Cho thấy, tập khí bất thiện của ông ta quá sâu nặng. Người tu hành sợ nhứt là tập khí xấu.
Xét kỹ, không phải chỉ có Đề bà đạt đa hay vua A xà thế mới có những hạt giống ganh tỵ ác độc nầy, mà hầu hết chúng ta ai ai cũng đều sẵn có. Chẳng qua nặng hay nhẹ mà thôi. Nếu người nào khéo biết huân tu già dặn, miên mật, chuyển hóa nó từ trong trứng nước khi nó mới manh nha khởi mầm, thì những hạt giống bất thiện của người đó lần lần sẽ giảm nhẹ và yếu dần đi.
Tập là nhóm họp; khí là hơi. Nó không có hình tướng. Vì thế, nên nó là thứ thật khó trừ khó đoạn. Vì bọn chúng không có nơi trú ngụ cố định. Như những hạt giống tham, sân, si, mạn, nghi, ác kiến, đó là những hạt giống sâu nặng, chúng thuộc về những thứ căn bản phiền não. Bình thường không biết chúng ở đâu, nhưng khi đối cảnh xúc duyên, bất như ý là chúng hiện hành ngay.
Pháp cú trên, đức Phật cho chúng ta biết tai hại của sự phá giới. Vì phá giới, nên người ta tạo ra lắm nhiều tội ác. Chính những tội ác đó lại là cái nhân bất thiện để thúc đẩy chúng ta trôi lăn mãi trong vòng sanh tử luân hồi. Tất cả những nỗi thống khổ là cái kết quả mà do chính chúng ta tạo ra.
Phật cho chúng ta thấy một hình ảnh rất cụ thể về tai hại của sự phá giới nầy. Phật nói: “những ai phá giới tổn mình hại người, hại vật, khác nào như dây mang la quấn lấy cây Ta la, tất nhiên là cây đó phải héo chết. Người phá giới cũng thế. Cũng phải trả cái nghiệp quả đau khổ như cây Ta la kia”.
Ví như, vì sân hận giận dữ, chúng ta không dằn được, liền bắn chết người. Cái ác nhân sát nhơn đó nó đeo bám sát theo ta như dây bám leo cây, và rồi chúng ta phải đền tội trả cái quả báo giết người. Có khi chúng ta bị kẻ thù giết lại hay bị luật pháp trừng trị hành hạ. Chúng ta phải chịu trả cái quả báo đau khổ cùng cực, như cây Ta la kia đã bị héo chết. Nghĩa là chúng ta sẽ bị chết dần chết mòn trong từng giây phút. Chính cái chết héo đó mới thực sự là đau khổ thống thiết!
Do đó, Phật khuyên mọi người nên tránh dữ làm lành, lo tu hành, tạo nhiều thiện nghiệp để được an vui giải thoát trong hiện tại và mai sau.
163. Việc hung ác thì dễ làm nhưng chẳng lợi gì cho ta, trái lại, việc lành có lợi cho ta thì lại rất khó làm.
Easy to do are things that are bad and harmful to oneself. But exceedingly difficult to do are things that are good and beneficial.
Kệ Tụng
Việc hung ác dễ làm
Và những điều tự hại
Còn việc lành việc tốt
Thật sự rất khó làm.
Lược giảng
Pháp cú nầy Phật dạy tại tinh xá Trúc Lâm, cũng có liên quan đến chuyện Đề Bà Đạt Đa.
Theo truyện tích, một hôm Tôn giả A Nan bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn, sáng nay trên đường vào thành Vương Xá khất thực. Đề Bà Đạt Đa gặp con bảo rằng: “Kể từ nay, sư đệ A Nan, tôi sẽ trai giới và điều hành công việc của Tăng chúng, độc lập với Tăng đoàn và Thế Tôn”. Hôm nay y sẽ tách Tăng đoàn ra làm hai, tự trai giới và điều hành công việc của Tăng chúng.
Nghe vậy, Thế Tôn đọc bài kệ:
Điều thiện thật dễ làm
Đối với người hiền thiện
Người ác không thể kham
Những việc làm phước thiện
Điều ác thật dễ làm
Đối với người dữ ác
Người hiền chẳng thể cam
Xuống tay làm điều ác.
Rồi Ngài bảo:
Nầy A Nan! Người ta dễ làm điều ác, khó làm điều thiện. (Trích nguyên văn tích truyện, Pháp Cú Tập II, Viên Chiếu, tr 254)
Sống trong một thế giới mà lòng người ác nhiều thiện ít. Hằng ngày xảy ra không biết bao nhiêu chuyện thương tâm. Từ cá nhân, gia đình, đến ngoài xã hội, lúc nào cũng biến loạn, bất an, xáo trộn. Câu nói: “Tâm bình thế giới bình” cho thấy, đó chỉ là một lý tưởng ước mơ. Thực tế, thì làm sao có được! Biết đến bao giờ lòng người mới được an bình? Dù vẫn biết, mọi khổ đau hay vui sướng, gốc từ ở nơi lòng người.
Từ thời xa xưa, cách đây trên mấy ngàn năm, đức Khổng Phu Tử cũng đã từng khuyến nhắc răn dạy mọi người:
Dục bình thiên hạ
Tiên trị kỳ quốc
Dục trị kỳ quốc
Tiên tề kỳ gia
Dục tề kỳ gia
Tiên tu kỳ thân
Dục tu kỳ thân
Tiên chánh kỳ tâm.
Tạm dịch:
Muốn trong thiên hạ được thái bình
Trước hết mỗi quốc gia phải tự trị lấy
Muốn cho mỗi quốc gia được tự trị
Trước hết mỗi gia đình phải lo chỉnh đốn an ổn
Muốn mỗi gia đình được chỉnh đốn an ổn
Trước hết mỗi cá nhân phải lo tu thân
Muốn cho mỗi cá nhân tu thân
Trước tiên phải sửa cái tâm của mình cho chơn chánh.
Thế là, cuối cùng giữa đạo Phật và đạo Nho gặp nhau ở một tụ điểm là « sửa ở nơi cái tâm ». Thế nhưng, sửa ở nơi cái tâm nào? Tức phải sửa, (nói đúng hơn là chuyển đổi) ở nơi cái tâm bất thiện, cái tâm vọng động. Chính cái tâm vô minh vọng động nầy là đầu mối tạo ra không biết bao nhiêu nghiệp ác.
Đề Bà Đạt Đa hại Phật. Ông muốn ly khai khỏi Tăng đoàn, không muốn tùng phục đức Phật. Ông muốn lập thành một phái riêng. Ông đã gây xáo trộn trong Tăng đoàn, làm cho mọi người phải nghi kỵ và gây ra nhiều rắc rối cho đức Phật. Tất cả việc làm của ông ta, đều phát xuất từ cái tâm vọng động bất thiện nầy. Từ một ý niệm bất hảo khởi lên, rồi theo nó mà hành động, tất nhiên là phải có hậu quả. Bằng chứng là Đề Bà Đạt Đa cuối cùng, ông ta phải lãnh lấy hậu quả mà chính do ông ta đã tạo ra.
Pháp cú trên, Phật cho chúng ta biết, làm ác thì dễ mà làm lành thì khó. Gây tạo nghiệp ác dễ như trên dốc cao tuột xuống. Ngược lại, gây tạo nghiệp lành khó như người leo núi cao. Bởi thế, người xưa có câu nói: “Tòng thiện như đăng, tòng ác như băng”. Thật vậy, trong xã hội, người làm việc từ thiện, giúp ích cho mọi người thì rất ít. Còn kẻ gây rối, phá làng, phá xóm, làm cho mọi người phải lo âu sợ hãi, thì rất nhiều.
Ngẫm lại, đời người thật ngắn ngủi, sống không bao lâu, thoáng qua rồi mất. Thế mà người ta không ý thức tạo nghiệp lành, gây nhân tốt, giúp ích cho xã hội, làm những việc lợi mình, lợi người. Một mai, vô thường đến, nhắm mắt xuôi tay, thử hỏi ta có mang theo được gì? Và ta có để lại những gì hữu ích cho đời không? Vẫn biết, lòng người rất ích kỷ, lúc nào cũng chỉ nghĩ đến cái lợi riêng cho mình, ai chết mặc ai. Nhưng, thưa bạn, bạn cứ thử nghĩ, dù cho bạn có thủ đoạn gian xảo mánh khóe lừa bịp ăn trên đầu trên cổ thiên hạ đến đâu, cuối cùng, bạn cũng chỉ còn lại có 3 chữ: “Lò, Gò và Hũ”. Một là bạn vào lò thiêu mà an nghỉ. Hai là bạn sẽ ra ngoài gò mã mà nằm. Ba là bạn sẽ vào trong hũ ngồi nghỉ. Thế thì, cuộc đời rốt lại, chỉ có ngần ấy thôi sao!
Bạn ơi! Người xưa có nói: “Cọp chết để da, người ta chết để tiếng”. Dù tiếng xấu hay tiếng tốt, chúng ta vẫn phải để lại. Tốt, thì được thiên hạ tán dương noi theo. Xấu, thì thiên hạ suốt đời nguyền rủa. Đó là nói theo đời. Đối với đạo Phật, thì khi còn sống, bạn cứ làm những điều phước thiện, có lợi cho bạn và cũng không làm tổn hại ai. Khi làm, bạn cũng không có ý muốn để lại tiếng thơm cho đời. Bạn là người đang thật hành hạnh hỷ xả. Cái gì đến thì làm, không có ý vụ lợi. Bạn vẫn muốn làm người ra đi không để lại dấu vết. Đó là bạn học hạnh Bồ tát. Dù bạn không có ý muốn để lại, nhưng trong lòng mọi người cũng đã ghi đậm “nét son sáng giá” của bạn rồi.
Thưa bạn, ở nơi nhơn thừa, bạn cứ tu thân, tề gia, cho phải đạo làm người. Nếu bạn là Phật tử, thì bạn chỉ giữ đúng theo Tam quy và gìn giữ năm giới cấm Phật dạy. Đó là bạn tự xây dựng đời mình theo nếp sống đạo đức. Từ đó, bạn tích cực đóng góp làm lợi ích cho xã hội, tùy khả năng và phương tiện sẵn có của bạn. Bấy nhiêu đó, cũng đủ làm cho bạn vui sống lắm rồi. Và chính bạn, bạn cũng không cảm thấy hổ thẹn khi ôn nghĩ lại đời mình. Niềm vui mà bạn có, đó cũng là niềm vui chung của mọi người. Như vậy là bạn đã có hạnh phúc trong tay của bạn rồi. Chúc bạn thành công trong sự nghiệp lợi mình, lợi người, hiện tại và mai sau.
Về Đầu Trang Go down
https://triamquan.forumvi.com/
Tri Âm Quán
Thành Viên Tích Cực
Thành Viên Tích Cực
Tri Âm Quán


Tổng số bài gửi : 6340
Reputation : 2
Join date : 31/07/2013
Đến từ : Thị Trấn Chũ

Kinh Pháp Cú chú giải (tập 1) - Page 2 Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Kinh Pháp Cú chú giải (tập 1)   Kinh Pháp Cú chú giải (tập 1) - Page 2 EmptySun Nov 16, 2014 11:43 am

164. Những người ác tuệ ngu si, vì tâm tà kiến mà vu miệt giáo pháp A-la-hán, vu miệt người hành Chánh đạo và giáo pháp đức Như lai, để tự mang lấy bại hoại, giống như cỏ Cách tha[17], hễ sinh hoa quả xong liền tiêu diệt.
Whoever, on account of perverted views, scorns the Teaching of the Perfected Ones, the Noble and Righteous Ones – that fool, like the bamboo, produces fruits only for self-destruction.
Kệ Tụng
Kẻ ngu si miệt thị
Giáo pháp bậc giải thoát
Bậc hiền thánh chánh mạng
Chính do tà kiến này
Tự mang quả hoại diệt
Như quả cây cách tha.
Lược giảng
Pháp cú nầy Phật dạy tại tinh xá Kỳ Viên, có liên quan đến Trưởng lão Kàla.
Vị Trưởng lão nầy, được sự giúp đỡ của một vị nữ thí chủ ở thành Vương Xá. Bà đối xử với vị Trưởng lão nầy rất tốt, khác nào như tình mẹ đối với con.
Một hôm, bà nghe tin đồn Phật thuyết pháp rất thâm sâu vi diệu. Bà trình bày với vị Trưởng lão tỏ ý muốn đến nghe. Ông ta liền ngăn cản và bàn ra. Vì ông sợ bà không còn giúp đỡ ông nữa. Mặc cho ông ngăn cản, bà cũng quyết định đi nghe. Đang lúc bà ta ngồi nghe Phật thuyết giảng, Trưởng lão Kàla bước vào và thốt ra những lời thiếu nhã nhặn. Biết rõ ý tưởng của ông, Phật liền bảo:
-“Đừng tự phụ! Vì ác kiến, ông đã phỉ báng giáo pháp của chư Phật. Nhưng như thế ông chỉ làm tổn hại mình thôi”.
Ở đời, dù biết rằng mình dở hơn người về mọi mặt, nhưng vì lòng tự ái, quá coi trọng bản ngã, không cho phép người ta khuất phục. Hơn thế nữa, vì lòng ích kỷ, ganh tỵ hẹp hòi, không muốn ai hơn mình. Trưởng lão Kàla sợ mất người lo phục vụ cho mình. Một khi gặp người có tài đức hơn, thì chắc chắn người ta sẽ nương tựa học hỏi. Dù sao, vị Trưởng lão nầy cũng quá rõ tâm lý của phái nữ. Người nữ bao giờ họ cũng nặng về tình cảm hơn lý trí. Dù ngoài đời hay trong đạo cũng thế.
Ở đây, ta thấy bà nữ thí chủ nầy rất hay. Dù bà bị vị thầy mà bà hết lòng kính trọng ngăn cản, nhưng không vì thế, mà bà ta lại nghe theo mà bỏ lở cơ hội nghe Phật thuyết pháp. Đó là người thực sự có quyết tâm và vì chánh pháp. Không phải là người chỉ quá đặt nặng tình cảm mà mất đi lý trí hướng dẫn chọn lựa. Dù bà ta là một người nữ. Đây là một đức tánh sáng suốt khéo biện biệt chánh tà phải trái của bà mà ta cần phải học hỏi.
Vì sợ mất người lo phục vụ cho mình, mà ông ta thốt ra những lời lẽ hằn hộc thiếu lễ độ. Ông ta mắng nhiếc vị nữ thí chủ nầy rất thậm tệ trước mặt đức Phật. Ông ta còn lên giọng kẻ cả tự đắc, bảo đức Phật chỉ dạy cho bà ta những cách thức thông thường như: cúng dường, bố thí, trì giới mà thôi. Vì bà ta ngu lắm, không hiểu nỗi những giáo pháp sâu xa đâu. Do đó mà Phật dạy cho ông ta một bài học: “Đừng vì ác kiến, ông đã phỉ báng giáo pháp của chư Phật, nhưng như thế ông chỉ làm tổn hại mình thôi”.
Lời Phật dạy trên là một tấm gương để chúng ta soi chung. Ở đời, người ta quá thiên trọng về vật chất mà xao lãng tinh thần. Đời sống giữa vật chất và tinh thần không quân bình, thì đó là một tai hại rất lớn cho nhơn loại. Hiện trạng thế giới ngày nay, nhơn loại đang đi vào ngõ cụt, vì không có lối thoát cho đời sống tinh thần. Do quá đặt nặng về vật chất, nên người ta khinh thường những lời dạy của các bậc Thánh Hiền. Chẳng những thế mà họ còn hủy báng, miệt thị, chê bai. Họ coi thường đạo đức, lẽ sống hướng thượng. Đó là một nguy kịch mà con người ngày nay phải hứng chịu những thảm trạng xảy ra đau thương, gần như mất hết nhơn tính. Họ hành động mù quáng, theo bản năng vị kỷ của lòng vô minh dục vọng sai khiến.
Trong phạm vi của vai trò lãnh đạo, hướng dẫn tín đồ Phật tử tu học, có đôi khi, vì lòng ích kỷ nhỏ nhoi, ganh tỵ, thù hiềm, mang đầu óc bệnh hoạn kỳ thị, mà ta đánh mất bản chất của một bậc thầy lãnh đạo tín đồ. Ta không muốn cho bổn đạo hay đệ tử của ta phải đi nơi khác. Dù rằng, ta là kẻ kém tài thiếu đức. Ta không có đủ tư cách của một người giáo thọ hướng dẫn dạy dỗ tín đồ Phật tử. Vì tranh chấp bổn đạo tín đồ, hay đệ tử mà có nhiều người công kích, mạt sát lẫn nhau gây ra cảnh bất hòa trong hàng huynh đệ. Đó là một tệ nạn tai hại rất dở mà ta cần phải tránh.
Ngày nay, hiện trạng nầy đã và đang xảy ra. Có người dùng mọi thủ thuật để thu hút tín đồ về chùa mình cho đông. Mục đích là để phô trương thế lực và nhằm mục đích trục lợi. Nếu vì mục đích lợi ích cho sự truyền bá Chánh pháp Phật dạy, thì ta nên hết lòng bái kính mà thật tâm ủng hộ. Bằng ngược lại, nếu vì mục đích khác có tánh cách quyền lợi cá nhân riêng tư, thì ta nên bái xá mà xa lánh càng xa càng tốt. Vì ta biết rõ, nơi đây không phải là nơi để cho ta nương thân tu học.
Người Phật tử phải có trí huệ sáng suốt để biện biệt rõ lẽ chánh tà chân ngụy. Vì hiện ta đang sống trong một thời đại hổn tạp vàng thau lẫn lộn. Ta cần phải lấy cây thước giáo lý Phật dạy ra đo. Có thế, thì ta mới không bị lầm lẫn đáng tiếc, để rồi mai sau ân hận thì đã quá muộn màng rồi! Là đệ tử Phật, dù tăng hay tục, tất cả chúng ta đều phải có bổn phận bảo vệ duy trì Chánh pháp. Những ai vu miệt khinh chê hủy báng Chánh pháp, Phật nói, đó là kẻ tự mình mang lấy bại hoại và sẽ chết rủ mục giống như cỏ cách tha, hễ sinh hoa quả xong liền bị tiêu diệt.
165. Làm dữ bởi ta, mà nhiễm ô cũng bởi ta; làm lành bởi ta, mà thanh tịnh cũng bởi ta. Tịnh hay bất tịnh đều bởi ta, chứ không ai có thể làm cho ai thanh tịnh được?
By oneself is evil done; by oneself is one defiled. By oneself is evil left undone; by oneself is one made pure. Purity and impurity depend on oneself; no one can purify another.
Kệ Tụng
Tự mình làm điều ác
Tự mình sanh nhiễm ô
Tự mình không làm ác
Tự mình thanh tịnh mình
Thanh tịnh, không thanh tịnh
Đều do tự chính mình
Ai thanh tịnh cho ai.
Lược giảng
Pháp cú nầy Phật dạy tại tinh xá Kỳ Viên, có liên quan đến chuyện của Culla Kàla.
Cull Kàla là một cư sĩ rất ngoan đạo. Ông thường xuyên đến tinh xá nghe Phật thuyết pháp. Trường hợp của ông cũng tương tợ như cư sĩ Kàla nói trên. Ông cũng bị một tên trộm liệng túi đồ trước mặt. Họ định túm lấy đánh ông. Rất may, ông đã được một vài cô gái giang hồ chứng kiến và xác nhận ông không phải là kẻ trộm. Nhờ đó mà ông không bị đánh đập.
Sau khi thả ra, ông đến tinh xá thuật chuyện lại cho các Tỳ kheo nghe. Các vị nầy trình lên đức Phật và được Phật dạy:
- “Nầy các Tỳ kheo! Cư sĩ Culla Kàla được cứu mạng nhờ cả hai mặt, sự can thiệp của các cô gái giang hồ và chính ông ta vô tội. Chúng sanh ở thế gian nầy do ác nghiệp gây nên, tự mình chịu khổ não ở địa ngục hay cảnh giới khổ sở khác. Nhưng người làm điều thiện thì tự mình cứu độ, được lên cõi trời hay Niết bàn”.
Trong kinh Hoa Nghiêm có bài kệ:
Nhược nhơn dục liểu tri
Tam thế nhứt thiết Phật
Ưng quán pháp giới tánh
Nhứt thiết duy tâm tạo.
Tạm dịch:
Nếu người nào muốn biết
Ba đời tất cả Phật
Nên quán tánh pháp giới
Tất cả do tâm tạo.
Người hành động sái quấy, vì tâm họ vọng động nhiễm ô. Ngược lại, người hành động lương thiện, lợi mình, lợi người là do tâm họ thanh tịnh. Như vậy, tất cả khổ vui trên đời, đều do tâm ta tạo lấy. Nói tâm tạo, ta phải hiểu đó là tâm vọng tưởng. Còn tâm chơn, thì không có tạo tác. Đạo Phật quy trách nhiệm ở nơi con người. Vì xưa kia, Thái tử Sĩ Đạt Ta cũng là con người, Ngài giác ngộ tu hành thành Phật. Ngài hơn con người thường là ở chỗ Ngài sống được với cái bản tâm chân thật mà Ngài sẵn có. Ta cũng có sẵn cái tâm đó. Nhưng vì ta mê, nên tâm đó có mà chưa phát hiện. Ngài hơn ta là ở chỗ đó.
Pháp cú trên, Phật cho chúng ta thấy rõ, quyền định đoạt ở nơi chúng ta. Không ai đem lại sự thanh tịnh cho ta và cũng không ai trói buộc ta. Buộc hay mở chính do ta tự quyết định lấy. Khi tâm ác độc nổi lên mà ta không kịp thời ngăn chặn, chuyển hóa, thì hậu quả sẽ xảy ra không tốt đẹp. Kinh dạy rằng: “Người ngu chuyên làm việc ác, tự rước lấy tai họa vào thân. Đời nay vui lòng, lung ý, đời sau mang tội rất nặng”.
Người khéo biết tu, Không nên nghe theo lòng dục vọng sai khiến. Hằng ngày, chúng ta nên soi rọi lại mình. Quán chiếu từng tâm niệm. Tâm niệm xấu ác dấy lên, ta quyết buông bỏ không theo. Hằng giữ tâm ý cho được thanh tịnh, đó là cội gốc của sự tu tập. Đức Phật Ca Diếp có nói bài kệ răn dạy như sau:
Chư ác mạc tác
Chúng thiện phụng hành
Tự tịnh kỳ ý
Thị chư Phật giáo.
Nghĩa là:
Các điều ác chớ làm
Vâng làm các điều lành
Giữ tâm ý mình cho trong sạch
Đó là lời chư Phật dạy.
Bài kệ trên đã tóm tắt hết yếu nghĩa của Phật giáo. Toàn bộ hệ thống giáo điển của Phật giáo cũng chỉ dạy con người ngần ấy. Dù chư Phật trong ba đời cũng đều dạy không ngoài ý nghĩa nầy. Nếu mọi người y theo bài kệ ngắn gọn nói trên mà thực sự hết lòng tu tập, thì chắc chắn chúng ta sẽ hết khổ ngay. Như vậy, địa ngục hay Niết bàn đều ở trong lòng của chúng ta vậy.
166. Chớ vì lợi ích cho kẻ khác mà quên hẳn lợi ích cho chính mình. Người biết lo ích lợi mình mới thường chuyên tâm vào những điều ích lợi.
Let one not neglect one’s own welfare for the sake of another, however great. Clearly understanding one’s own welfare, let one be intent upon the good.
Kệ Tụng
Dầu lợi người bao nhiêu
Chớ quên phần tự lợi
Nhờ hiểu rõ tự lợi
Hãy chuyên tâm lợi mình.
Lược giảng
Pháp cú nầy Phật dạy tại tinh xá Kỳ Viên, có liên quan đến Trưởng lão Attadattha.
Sắp nhập Niết bàn Phật bảo đệ tử:
- Nầy các Tỳ kheo, bốn tháng nữa ta sẽ nhập Niết bàn.
Bảy trăm Tỳ kheo chưa chứng quả Dự lưu, quá đổi xúc động, không hề rời xa Thế Tôn, và thì thầm với nhau không biết nên làm gì. Nhưng Trưởng lão Attadattha thì tự nhủ Phật sắp nhập diệt mà mình chưa hết tham ái, vậy phải phấn đấu hết sức để chứng quả A la hán trong khi Phật còn tại thế. Các Tỳ kheo ngạc nhiên thấy Trưởng lão tách rời họ, gần như không nói chuyện với họ nữa. Họ không hiểu tại sao nên thưa chuyện với Thế Tôn. Ngài hỏi lại Trưởng lão, biết được sở nguyện nên tán dương ông và dạy các Tỳ kheo:
- “Nầy các Tỳ kheo! Người nào thành thật quý trọng Ta thì phải như Trưởng lão Attdattha mới được. Thực sự tôn quý Ta không phải là lễ kính Ta với hương hoa. Chỉ có người hành trì theo pháp từ bậc thấp đến bậc cao nhất mới đúng là tôn quý Ta. Do đó các ông nên theo gương Trưởng lão Attadattha. (trích nguyên văn tích truyện Pháp Cú tập II, Viên Chiếu, tr 259)
Trong đạo Phật, tự lợi và lợi tha, lúc nào cũng được nhắc đến. Nếu chỉ vì lợi tha không mà chúng ta không nghĩ đến phần tự lợi, thì điều đó chưa đúng với tinh thần đạo Phật. Đức Phật khi xưa, chính Ngài cũng phải nghĩ đến phần tự lợi trước. Suốt thời gian tầm thầy học đạo cũng như thời gian tu khổ hạnh trong rừng sâu núi thẳm, tất cả cũng vì tự lợi. Trong suốt thời gian mười mấy năm trời tu tập, Ngài cũng chưa phát hiện được chân lý. Từ đó, Ngài quyết định đến ngồi dưới cây Tất bát la để tư duy quán sát. Trải qua thời gian 49 ngày đêm, Ngài nỗ lực chuyên cần tu tập, chuyển hóa hết vô minh phiền não và cuối cùng, Ngài đạt thành sở nguyện. Sau khi thành Phật, Ngài mới nghĩ đến việc lợi tha là ra hoằng hóa độ sanh.
Như vậy, người tu phải lo phần tự lợi trước rồi sau mới nghĩ đến việc lợi tha. Như mình chưa biết lội, thì làm sao cứu vớt được người. Muốn cứu vớt người, trước tiên, chúng ta phải tự tập bơi lội trước. Có thế, thì mình và người mới được bảo đảm an toàn.
Qua truyện tích nêu dẫn trên, cho chúng ta thấy rằng, Trưởng lão Attadattha mới là người thực sự quý kính đức Phật. Biết tin Phật sắp nhập Niết bàn, ông tự lo nỗ lực tu chứng. Trong khi đó, các thầy Tỳ kheo khác thì lại không muốn rời xa đức Phật. Tinh thần ỷ lại không nỗ lực tự tu, đó không phải là tinh thần của đạo Phật. Phật luôn luôn khuyến khích mọi người, trước phải lo tự lực, tự giác. Mình có an lạc hạnh phúc, mới có thể chia sẻ an lạc hạnh phúc đến cho mọi người.
Ngược lại, mình còn đau khổ tràn ngập, thì làm sao chia sẻ an lạc hạnh phúc cho ai? Muốn dạy người học tập cho giỏi, trước tiên mình phải gắng lo chuyên cần học tập cho thật giỏi. Nếu mình còn dốt đặc cán mai, thì thử hỏi dạy ai? Do đó, Pháp cú trên Phật khuyên chúng ta trước tiên phải lo tự độ, rồi sau mới nói đến chuyện độ tha. Nếu chỉ biết tự hành một mặt không thôi, thì đó chưa phải đúng theo tinh thần Phật dạy.
Có người cứ mãi lo làm việc lợi người, nhìn lại mình thì trống rỗng. Chẳng khác nào, tối ngày cứ lo đếm bạc cho người, rốt cuộc lại mình không có đồng điếu bỏ túi. Giống như kẻ làm thuê suốt ngày đếm bò mướn cho người, rốt lại cả đời mình không có chút sữa bò để uống. Dạy người ta tu mà mình không tu. Bảo người ta ăn mà mình không ăn, rốt lại, người no, mình đói. Như vậy, mình có được lợi lạc gì đâu?! Người dạy đạo thời nay, đôi khi, chúng ta thường mắc phải cái lỗi lầm nầy. Muốn được giải thoát, tự mình phải nỗ lực lo tu. Có tu hành thực nghiệm đúng đắn, thực sự lợi ích, mới đem ra dạy người. Như thế, thì mới khỏi bị lầm lạc, mình và người mới thực sự cả hai đều được lợi lạc vậy.
XIII. PHẨM THẾ GIAN
(Lokavagga)
167. Chớ nên theo điều ty liệt[18], chớ nên đem thân buông lung. Chớ nên theo tà thuyết[19], chớ làm tăng trưởng tục trần[20].
Follow not the vulgar way; live not in heedlessness; hold not false views; linger not long in worldly existence.
Kệ Tụng
Chớ theo pháp hạ liệt
Chớ sống mặc, buông lung
Chớ tin theo tà kiến
Chớ tăng trưởng tục trần.
Lược giảng
Pháp cú nầy Phật dạy tại tinh xá Kỳ Viên, có liên quan đến một Tỳ kheo trẻ.
Theo truyện tích, sáng sớm, hai thầy trò một già một trẻ đến nhà nữ thí chủ Visàkha để khất thực. Sau khi dùng bánh và cháo, vị Trưởng lão đi sang nhà khác, để thầy Tỳ kheo trẻ ở lại. Trong khi rót nước vào bát, người cháu gái thấy gương mặt mình phản chiếu trong nước liền mỉm cười, thầy Tỳ kheo trẻ cũng cười lại.
Cô bé thấy thầy cười liền nói chế giễu: “Cái đầu trọc cười”. Thầy Tỳ kheo trẻ nổi xung mắng lại: “Cô là kẻ trọc đầu, má cô, ba cô cũng trọc đầu”. Cô bé òa lên khóc và chạy vào sau bếp mách bà.
Sau khi biết rõ câu chuyện giữa hai người, bà Visàkha hết lời khuyên can, nhưng cả hai người đều không chịu hòa dịu.
Khi vị Trưởng lão trở lại, thấy thế, liền quở trách thầy Tỳ kheo trẻ. Thầy Tỳ kheo trẻ bất bình, tức giận liền đến bạch Phật.
Phật biết rõ sự tình, Ngài liền khuyên bảo:
-“Thái độ chế giễu, nhạo báng lấy đó làm vui là thái độ thấp hèn không nên có, cũng như không nên sống buông thả phóng dật”.
Phẩm nầy có tên là Phẩm Thế Gian. Chữ Thế Trung Hoa dịch là thiên lưu, ý chỉ cho thời gian luôn luôn dời đổi. Còn chữ Gian có người đọc là Gián, chỉ cho không gian gián cách. Như vậy, tất cả muôn vật, không vật nào thoát khỏi thời gian và không gian. Từ ngữ nầy, Phật muốn ám chỉ cho ba cõi: dục giới, sắc giới và vô sắc giới. Chúng sanh vì tạo nghiệp lành dữ nên mãi xuống lên trong ba cõi và trôi lăn trong sáu đường (Trời, người, A tu la, địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh).
Qua tích truyện lược dẫn trên, cho chúng ta thấy, một cô bé buông ý thốt ra lời nói chế giễu, xúc phạm một vị xuất gia tu hành, đó là điều lẽ ra, cô không nên nói. Vì đó là lời nói thiếu ái ngữ, mất hòa khí. Sở dĩ có lời nói thiếu nhã nhặn lịch sự đó, là vì cô bé nầy không được học hỏi về phương cách gìn giữ chánh niệm. Do không có chánh niệm, nên cô ta mới buông lung tâm ý, thốt nên lời nói bất cẩn như thế.
Thế mới biết, chánh niệm thật hết sức quan trọng trong đời sống của con người. Người Phật tử có hít thở trong chánh niệm, thì mới mong kiểm soát được mọi hành động, từ ý nghĩ, lời nói và việc làm. Có hằng kiểm soát như thế, thì mọi việc sẽ an ổn và đời sống của chúng ta mới có hạnh phúc an vui. Rất tiếc, người ta coi thường chánh niệm, nên mới xảy ra nhiều việc đáng tiếc đau thương cho mình và người.
Thầy Tỳ kheo trẻ nầy, cũng thiếu thiền quán học tập chánh niệm, nên chấp vào lời nói của một cô bé mà hai bên mới lớn tiếng cãi cọ nhau, đến nổi bà Visàkha và vị Trưởng lão cũng không dàn xếp yên chuyện được. Nội vụ xảy ra, phải đợi đến đức Phật mới dạy bảo dàn xếp yên xuôi.
Cũng một sự việc xảy ra, nếu ta thiếu chánh niệm quán chiếu, mất bình tĩnh, tâm trí không sáng suốt, lệ thuộc duyên trần, nhìn vấn đề thiên kiến, theo vọng chấp tình cảm, thì tất nhiên là ta không thể nào giải quyết được vấn đề một cách ổn thỏa. Vì lúc đó ta để cho lòng tư dục ái kiến, sân hận của ta xen vào, nên khó thấy được toàn triệt của vấn đề. Muốn thấy rõ và sâu vào toàn bộ của vấn đề, tất nhiên là ta phải đứng trên lập trường khách quan để quán sát.
Ở đây, ta thấy, sở dĩ đức Phật giải quyết được vấn đề đó, là vì Ngài đứng trên bình diện toàn bộ của vấn đề, định tỉnh sáng suốt, nên Ngài mới thực sự hiểu rõ nguyên nhân cặn kẻ những gì đã xảy ra, và cần phải giải quyết ra sao. Sau khi biết rõ duyên cớ, Phật giải quyết một cách rất êm dịu và làm đẹp lòng mọi người. Đây là một bài học thiết yếu mà chúng ta cần phải lưu tâm học hỏi.
Pháp cú trên, Phật cho chúng ta biết, bao lâu con người còn chạy theo vật dục, sống buông thả theo dục lạc thế gian, thì bấy lâu con người vẫn còn đi trong vòng luân hồi chịu khổ đau mãi mãi. Những thứ dục lạc ở đời, Phật cho đó là những thứ thấp hèn. Những thứ đưa con người đến chỗ thân bại danh liệt. Dù cho con người có thụ hưởng đến đâu, rốt lại, cũng chuốc lấy đau khổ mà thôi.
Trên đời nầy, vật chất do người ta tạo ra, nhưng rồi người ta lại phải đau khổ vì nó. Không có ai là không đau khổ vì vật chất. Hễ có ra thứ gì là ta bị dính mắc và đau khổ với thứ đó. Có cái nhà lầu cao mấy tầng, trông thật đẹp mắt sang trọng, ai thấy cũng trầm trồ khen ngợi, nhưng họ đâu có biết rằng, cái khổ của nợ nần chồng chất phải trả. Họ phải vất vả tranh thủ cày ngày lẫn đêm để trả nợ. Đó là chưa nói đến bao nhiêu thứ bill phải lo thanh toán cho xong. Nhất là tiền rác, nước phải trả nhân lên gấp đôi.
Có người khi chưa xây nhà thì thân thể tráng kiện khỏe khoắn, trông thấy mập ra, nhưng sau khi xây nhà, thì thân thể hốc hác ốm o tiều tụy. Thế thì có sướng gì đâu, chỉ có được cái vỏ bên ngoài sang trọng, nhưng trong ruột thì đau khổ ngút ngàn. Có lắm người khi vướng mắc vô rồi, lở cười lở khóc, nuốt không trôi mà nhả ra thì tiếc. Thế thì, có thụ hưởng vui sướng gì đâu! Khi mà tâm hồn của họ lúc nào cũng nặng trĩu ưu tư lo lắng!
Cũng như tiền bạc chính do con người tạo ra, nhưng người ta lại bị nó khống chế, sai khiến đủ thứ. Người ta nô lệ nó đã đành, lắm khi người ta còn phải chết vì nó. Vì nó mà người ta dám làm tất cả, dù phải bán rẻ cả lương tâm. Quả thật, đồng tiền là một sức mạnh vạn năng và thật quá ác nghiệt oái oăm. Một thi nhân nào đó đã lên án gắt gao đồng tiền:
Ác nghiệt chi mi lắm rứa tiền
Mi làm nhơn loại hoá ra điên
Mi tô mặt nạ đen thành trắng
Mi khiến nhơn tình thẳng hoá xiêng
Mi đạp luân thường vô một xó
Mi xô nhân nghĩa dẹp đôi bên
Mi xui thế giới đâm nhau mãi
Ác nghiệt chi mi lắm rứa tiền!
Hay:
Tiền với bạc là nhân nạn khổ
Tiền xô người vào chỗ u minh
Tiền tài thay đổi tánh tình
Tiền gây nên cảnh đệ huynh tương tàn.
Xét cho cùng, lỗi không phải ở nơi đồng tiền hay vật chất. Lục trần không có lỗi chi cả. Nhưng lỗi đó phải xét lại ở nơi lòng người. Đồng tiền người ta tạo ra là để trao đổi giao dịch trên thương trường cho dễ bề tiện lợi. Nhưng tại lòng tham lam của con người quá độ, muốn chiếm hữu tất cả tiền bạc về mình, không muốn san sẻ chia bớt cho ai, nên từ đó mới xảy ra những vụ tranh chấp sát hại lẫn nhau. Thế giới bất an, cũng chỉ vì cái tâm tham vọng cùng cực không đáy của con người mà ra.
Ta nên nhớ rằng, tiền bạc, vật chất không thể đem lại thực sự hạnh phúc cho con người. Có chăng cũng chỉ là những thứ hạnh phúc giả trá tạm bợ nhất thời mà thôi. Được lợi thì vui mừng, nhưng vui đó rồi khổ đó. Không tiền khổ đã đành, nhưng có tiền rồi lại càng khổ hơn. Sống trong cõi đời tương đối, khổ vui luôn luôn đắp đổi với nhau là như thế.
Có người khi chưa có số tiền lớn, thì đi đâu cũng không sợ ai theo dõi rình rập hại mình, nhưng khi đã có lắm bạc nhiều tiền rồi, thì ôi thôi! họ đi đâu cũng nơm nớp phập phồng lo sợ. Trong tâm không lúc nào an ổn. Ngày xưa ăn ngủ tự do, ngày nay mất ăn mất ngủ. Đó là chưa nói, khi có tiền lại sanh ra lắm chuyện lăng nhăng lằng nhằng trong gia đình. Nếu là Phật tử, thì ngày xưa, tụng kinh, niệm Phật tu hành tinh tấn, bây giờ, khi có lắm tiền nhiều bạc rồi, thì thời khóa bỏ luôn, không còn an tâm tụng kinh, niệm Phật được nữa. Tối ngày lo sợ chỉ biết niệm tiền. Từ đó, tâm trí luôn luôn bất an. Lo sợ đủ thứ, thấy ai cũng sợ người ta thanh toán mình. Cho nên Phật Tổ mới nói: “tiền của là rắn độc, nó cắn mình bất cứ lúc nào”. Nhưng vì lòng tham mà chúng ta quên đi! Bởi thế, nên Phật nói: “chúng sanh vì mê muội nhận khổ cho là vui, mà lăn lóc trong non sầu bể hận”.
Chúng ta nên biết rằng, tiền bạc vật chất, nó không ở trong tay mình lâu. Vì những thứ ấy chỉ là những thứ vô thường tạm bợ. Nay ở trong tay mình, mai sẽ về tay kẻ khác. Đó là chưa nói đến năm nhà cướp mất: “lửa cháy, nước trôi, giặc cướp, con phá tán và nhà nước tịch thâu”.
Có người, tối ngày làm lụng vất vả cực nhọc trối chết, ăn không dám ăn, mặc không dám mặc, chắt mót dành dụm cả đời, bỗng một cơn hỏa hoạn, hay một trận động đất, hoặc bão lụt, thì tất cả đều thiêu hủy tiêu tan trong nháy mắt, mọi vật đều tan tành trở thành mây khói. Có ai lâm vào hoàn cảnh nầy, mới cảm nhận nỗi khổ đau ngút ngàn!
Một bọt nước nổi lên óng ánh, từ xa nhìn, người ta cứ ngỡ nó là hạt kim cương, nhưng khi đưa tay vớt, thì thật là hoài công vô ích. Tất cả đều lọt qua kẻ tay, không có một bọt nước nào tồn tại. Vật chất ở đời cũng thế. Thoáng nhìn, người ta cho nó là lâu dài bền bỉ, nhưng tất cả đều bị thời gian gậm nhấm dũa mòn không vật nào tồn tại. Bởi vậy, nên Phật nói: “Vạn vật đều là vô thường”.
Hiểu thế, là Phật tử ta nghe theo lời Phật Tổ dạy cố gắng tập tu theo hạnh thiểu dục tri túc. Đồng thời, tùy theo duyên cảnh mà ta sống an phận, cố gắng làm lành lánh dữ, tạo thêm nhiều phước đức, nỗ lực tu hành, quyết sống không buông lung. Ta luôn tâm niệm rằng:
Cuộc đời bi thảm đắng cay
Gió đùa với bóng mượn vay một đời
Duyên sinh an phận tùy thời
Sóng đùa mặc sóng sáng ngời đạo tâm.
Ta sống có lý tưởng. Sống đúng theo Chánh pháp, xa lánh mọi tà thuyết. Ta quyết không nghe theo những tà thuyết vu vơ chuyên khuyến dụ ru ngủ đời ta lún sâu vào tội lỗi, đau khổ. Ta phải sáng suốt, tin sâu vào lý nhân quả, quyết không gây nghiệp ác để làm khổ mình khổ người. Đó là ta chọn một con đường hạnh phúc theo nếp sống hướng thượng bằng tất cả trí tuệ, để quyết đạt cho kỳ được sự an vui giải thoát.
168. Hăng hái đừng buông lung, làm lành theo Chánh pháp. Người thực hành đúng Chánh pháp, đời này vui, đời sau cũng vui.
Arise! Do not be heedless! Lead a righteous life. The righteous live happily both in this world and the next.
Kệ Tụng
Coi chừng, chớ buông lung
Hãy sống theo chánh hạnh
Kẻ chánh hạnh hưởng lạc
Cả đời này, đời sau.
169. Khéo thực hành Chánh pháp, chớ làm điều ác hành. Người thực hành Chánh pháp, đời này vui, đời sau vui.
Lead a righteous life; lead not a base life. The righteous live happily both in this world and the next.
Kệ Tụng
Hãy sống theo chánh hạnh
Chớ sống theo tà hạnh
Kẻ chánh hạnh hưởng lạc
Cả đời này, đời sau.
Lược giảng
Hai Pháp Cú nầy Phật nói tại Banyan Grove, có liên quan tới vua Tịnh Phạn, tức phụ thân của Ngài.
Sau khi Phật thành đạo, trải qua thời gian dài, lần đầu tiên Phật trở về hoàng cung tại thành Ca tỳ la vệ (Kapila). Tuy Phật đã về hoàng cung, gặp lại mọi người trong hoàng tộc, ai nấy đều vui mừng đón tiếp Ngài, nhưng theo lệ thường, sáng sớm Ngài vẫn mang bát đi khất thực. Thấy thế, phụ hoàng Ngài không vui liền đến trước Ngài mà nói rằng: “Nầy con ơi! Sao con làm nhục nhà ta vậy? Con vốn là chủ thành nầy, từng ở trên châu báu, nay cứ cầm bát lần đi từng nhà, có phải làm hổ nhục cho ta lắm sao”! Đức Phật liền nói cho vua nghe, đó là pháp tắc lâu đời của chư Phật và rồi Ngài liền nói hai Pháp cú nầy.
Đời sống của người xuất gia thời Phật là đời sống khất thực. Phật chủ trương và luôn khuyến tấn các đệ tử của Ngài là phải thật hành hạnh đi xin ăn, không một ai được quyền tạo lập tài sản cho riêng mình. Pháp tắc khất thực, là phải đi từng nhà, không được bỏ sót.
Nếp sống Tăng đoàn thời Phật tất cả đều phải như thế. Đây là một nếp sống thật giải thoát. Các Ngài không bị ràng buộc vướng bận bởi bất cứ thứ gì. Một đời sống đi lang thang rày đây mai đó không nhà. Ngày ăn một bữa, đêm lại ngủ dưới tàn cây. Giường của các Ngài là đất, mền của các Ngài là sương. Một đời sống cực kỳ đơn giản và chính cái nếp sống cực kỳ đơn giản, vô sản nầy mà các Ngài mới có nhiều an lạc hạnh phúc. Vì không có thứ gì trói buộc làm phiền toái các Ngài cả.
Ngẫm lại, người xuất gia thời nay, vì muốn thích nghi thời đại, có đôi khi, chúng ta thích nghi quá trớn làm mất đi phẩm chất đạo hạnh. Những nếp sống cao đẹp hạnh phúc của thời Phật, so với ngày nay, chúng ta đã đánh mất đi quá nhiều. Ngay cả những động tác trong bốn oai nghi của người xuất gia, chúng ta cũng khó giữ đúng. Ngày xưa, Phật và các hàng Thánh chúng đi từng bước vững chãi thảnh thơi an lạc. Các Ngài đi trong chánh niệm, hoàn toàn không có những dự án tính toán trong đầu.
Ngày nay, chúng ta cũng đi, nhưng nội dung phẩm chất đi của chúng ta không giống các Ngài. Chúng ta đi trong thất niệm. Chúng ta đi nhanh, tính toán, lo âu đủ thứ, đi hối hả như con ma đói. Nội cái đi thôi là chúng ta cũng đã thấy khó giữ cho đúng rồi. Còn biết bao những chuyện khác, nhất là vấn đề tài sản, tiền bạc, của cải, vật chất, những thứ vật dụng hằng ngày, so với đời sống của Phật Tổ thời xưa, thì ôi thôi! Ngàn trùng xa cách!
Vẫn biết, sự đổi mới của đạo Phật đi vào cuộc đời để chuyển hóa xã hội, để làm mới đạo Phật, thích nghi với thời đại, là điều rất cần thiết. Sự đổi mới đó nhằm mục đích tạo dựng cho mỗi người có nếp sống an vui hạnh phúc. Việc làm đó, không có gì là chống trái với tinh thần gốc rễ tuệ giác của đạo Phật. Tuy nhiên, có lắm người lợi dụng sự đổi mới đó mà sống buông thả, tha hóa, mất gốc đạo đức làm mất đi bản chất đạo Phật. Đó là một tác hại rất lớn cho bản thân mình và làm tổn thương ảnh hưởng không tốt cho đạo Phật, nhất là cho Tăng đoàn.
Hai Pháp Cú trên, Phật dạy không những chỉ riêng cho người xuất gia, mà Phật còn khuyến tấn nhắc nhở cả người Phật tử tại gia. Theo Phật, một đời sống buông lung là một đời sống bê tha phóng đãng. Một đời sống gây ra biết bao nỗi khổ niềm đau cho chính bản thân mình và tha nhân.
Cứ nhìn vào thực trạng của xã hội ngày nay, chúng ta thấy, nhơn loại đang trên đà tự sát. Theo đà sống gọi là văn minh, nhưng thực chất, thì lại là văng xương. Ngoài những tệ nạn gây ra tội phạm: hiếp dâm, cướp của, giết người, xì ke, ma túy, băng đảng v.v… đã và đang xảy ra hàng ngày, còn biết bao những thảm họa khác, nhất là thảm họa làm ô nhiễm môi sinh. Thế giới đang la làng về vấn đề nầy. Đây là thứ văn minh mà con người sẽ đi lần đến tự hủy diệt lấy mình. Nếu mọi người không tự ý thức bảo vệ môi sinh, làm sạch môi trường, thì một ngày nào đó nhơn loại sẽ thực sự vắng bóng trên hành tinh nầy.
Theo các nhà chuyên nghiên cứu sử học cho biết, sự xuất hiện của con người trên trái đất nầy, là sau các loài thảo mộc và súc vật. Như vậy, sự sống của con người muốn được sinh tồn lâu dài, thì con người phải ý thức tiếp tay bảo vệ môi sinh. Vì tất cả có sự sống tương quan mật thiết với nhau. Bảo vệ môi sinh, không gây ô nhiễm, đó cũng là cách hành thiện cứu người. Sự sống của con người không thể đơn độc mà tồn tại được.
Thế nên Phật dạy, mọi người phải thật hành đúng theo Chánh pháp, thì đời nầy vui và đời sau cũng vui. Đúng theo Chánh pháp là thể hiện nếp sống nhân bản, phải tu thân, tề gia và bình thiên hạ. Tức mỗi người phải tự quán chiếu để chuyển hóa thân tâm, bằng cách bỏ ác làm lành, cải tà quy chánh, hy sinh làm lợi ích cho nhân quần xã hội. Đó là chúng ta tự cứu lấy chúng ta. Nếu không, thì chắc chắn mọi người sẽ không thể nào vượt thoát khỏi thảm họa diệt vong.
Về Đầu Trang Go down
https://triamquan.forumvi.com/
Tri Âm Quán
Thành Viên Tích Cực
Thành Viên Tích Cực
Tri Âm Quán


Tổng số bài gửi : 6340
Reputation : 2
Join date : 31/07/2013
Đến từ : Thị Trấn Chũ

Kinh Pháp Cú chú giải (tập 1) - Page 2 Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Kinh Pháp Cú chú giải (tập 1)   Kinh Pháp Cú chú giải (tập 1) - Page 2 EmptySun Nov 16, 2014 11:44 am

170. Như bọt nước trôi sông, như lầu sò chợ bể [21]. Nếu xem đời bằng cặp mắt ấy, chẳng còn sợ thần chết kéo lôi.
One who looks upon the world as a bubble and a mirage, him the King of Death sees not.
Kệ Tụng
Như bọt nước trôi sông
Như lầu sò chợ bể
Xem đời cặp mắt ấy
Tử thần không bắt gặp.
Lược giảng
Câu chuyện nầy xảy ra khi đức Bổn Sư ở tại tinh xá Kỳ Viên, với năm trăm Tỳ kheo chứng quả.
Theo truyện tích kể lại, có năm trăm Tỳ kheo nhận đề mục thiền định từ đức Bổn Sư, trở về rừng và nỗ lực thiền định. Nhưng mặc dù chiến đấu hết mình, họ không thể nào phát triển tuệ giác.
Các thầy nghĩ thầm: “Chúng ta sẽ đổi đề mục khác thích hợp với chúng ta hơn”. Các thầy lại chỗ Phật, trên đường đi các thầy thấy một ảo ảnh, tập trung mọi ý niệm về ảo ảnh ấy, các thầy khai mở tuệ giác. Khi bước vào sân tu viện, trời đổ mưa, các thầy đứng đấy nhìn những bọt nước nổi bập bềnh và tan nhanh chóng. Một tư tưởng trổi dậy: “Tự ngã của chúng ta như bọt nước nổi tan”. Lập tức các thầy tập trung tư tưởng vào ý nghĩ nầy. Đức Bổn Sư đang ngồi trong hương thất, bèn hóa thân đến trước các thầy và nói Pháp Cú trên.
Nghe xong, các thầy chứng quả A la hán ngay tại chỗ.
(Trích nguyên văn tích truyện Pháp Cú Tập II, Viên Chiếu, tr 268)
Đề mục thiền quán thật tối thiết yếu đối với hành giả. Bất cứ cảnh tượng nào trên thế gian nầy, nếu người khéo biết tu, đều có thể biến thành những đề mục thiền quán cả. Nhìn bọt nước trôi nổi bập bềnh trên sông, lập tức các Tỳ kheo liền phát khởi tư tưởng thiền quán. Đó là một đề mục thiền quán rất thiết thân với con người.
Ngẫm lại cho thật kỹ, đời người có khác gì bọt nước. Vì nó tan biến bất thường. Mới thấy đó rồi mất đó. Sáng thấy còn, chiều lại mất không hay. Nhưng có phải thật mất hẳn hay không? Bọt nước tan rồi có phải mất hẳn bọt nước hay không? Đó cũng là một đề mục cho chúng ta tiếp tục thiền quán. Bọt tan, nhưng nước nào có mất. Nhưng ta tự hỏi bọt nước nầy từ đâu có?
Nếu chúng ta chịu khó thiền quán sâu hơn, thì chúng ta sẽ thấy trong bọt nước, gồm có đám mây, có bầu trời u ám và có cả ao, hồ, sông, biển , hoa, lá, cây, rừng v.v… Như vậy, bọt nước chỉ là một biểu hiện tiếp nối của những thứ không phải bọt nước để hình thành ra bọt nước. Rồi khi bọt nước tan ra, nó sẽ biến dạng và biểu hiện qua một hình thái khác. Thế thì bọt nước nào có mất đi đâu? Khi đủ duyên thì hiển hiện.
Hiển Hiện
Mây tan biến ta cho là mây mất dạng
Ta bước đi trong thương tiếc băn khoăn
Ta thương mây một thoáng trôi phăng
Ta gục khóc lệ sầu biếng ăn không nói
Mọi cảnh vật biến tan thành mây khói
Bầu trời xanh vẫn hiển hiện mãi trong lành
Mây tan hình biến dạng hạt mưa nhanh
Thấm lòng đất nuôi xanh màu cây lá
Dù hạt bụi hay núi non ngàn cây đá
Không vật nào từ có biến thành không
Hạt mưa rơi ôm lấy một dòng sông
Rồi biến dạng khi đủ duyên liền biểu hiện.
Mọi sự vật trên đời, không có vật gì từ không mà thành có hay ngược lại, cũng không có thứ gì từ có mà biến thành không. Tất cả chỉ là do nhân duyên biểu hiện mà thôi. Thiền quán sâu sắc vào bọt nước, ta thấy thân ta cũng như thế. Ta ra đời chỉ là biểu hiện tiếp nối từ những cái nhân duyên trong quá khứ. Cái ta đó khi đủ nhân duyên thì nó biểu hiện có mặt một thời gian. Khi thiếu duyên, thì nó tan biến để rồi biểu hiện ra một hình thái khác.
Như vậy, chết nào có mất đi đâu. Chết chỉ là một biến hình đổi dạng, từ cảnh nầy sang cảnh khác vui đau. Điều quan trọng là ta hãy chuẩn bị cho ta có đầy đủ những điều kiện tốt. Tức là ta phải nỗ lực tu hành, tránh dữ làm lành, tích công bồi đức, làm lợi ích cho mình và người, để cuộc sống của ta có ý nghĩa, an lạc và hạnh phúc.
Được thế, thì ta còn gì phải lo âu sợ chết. Nếu chúng ta có con mắt tuệ giác nhìn sâu vào cuộc đời như thế, thì chúng ta không còn sợ thần chết kéo lôi nữa.
171. Giả sử thế gian này có được trang hoàng lộng lẫy như chiếc xe của vua đi nữa, thì trong số người đến xem, chỉ người ngu mới tham đắm, chứ kẻ trí chẳng hề bận tâm.
Come! Behold this world, which is like a decorated royal chariot. Here fools flounder, but the wise have no attachment to it.
Kệ Tụng
Hãy đến nhìn đời này
Như xe vua lộng lẫy
Người ngu mới tham đắm
Kẻ trí nào bận tâm.
Lược giảng
Pháp cú nầy Phật dạy tại tinh xá Trúc Lâm (Veluvana) có liên quan đến hoàng tử Vô Úy.
Sau khi dẹp loạn ở biên cương, hoàng tử Vô Úy thắng trận trở về, được vua cha Tần Bà Sa La rất vui mừng và ban thưởng. Các nàng vũ nữ ca múa hát xướng ở trong hoàng cung bảy ngày. Hoàng tử có dịp ngắm cung điện của vua cha thật trang hoàng lộng lẫy. Đến ngày thứ tám, chàng tắm bên bờ sông và trông thấy một vũ nữ nhan sắc tuyệt đẹp. Chàng ngắm nhìn cô vũ nữ nầy nhảy múa, mê say đắm đuối. Nhưng không may, nàng ta bất thần bị ngã bệnh và chết.
Buồn quá! Hoàng tử liền tìm đến đức Phật và trình bày nỗi buồn của mình. Đức Phật an ủi và khuyên bảo: “Biết bao lần cô vũ nữ kia đã chết và cũng biết bao nhiêu lần hoàng tử đã khóc cho cô ấy. Luân hồi sanh tử, tử sanh là như thế”. Phật nói tiếp:
- “Nầy hoàng tử! Không nên sầu não, chỉ có kẻ khờ dại mới chôn mình trong bể ưu bi. Nhân đó, Phật nói Pháp cú nầy”.
Pháp cú nầy Phật nêu một thí dụ để so sánh, giả sử cả thế gian nầy, mọi thứ đều đẹp đẽ lộng lẫy như chiếc xe của vua, chỉ có kẻ ngu mới tham đắm, còn người trí thì chẳng hề bận tâm.
Hiện chúng ta đang sống trong cõi dục, mọi thứ vật chất đối với chúng ta không thứ nào mà chúng ta chẳng tham muốn. Theo lời Phật dạy trên, thì hầu hết nhơn loại đều thích làm người ngu. Bởi lòng tham muốn của con người biết sao cho đủ. Có một, họ muốn có mười. Khi được mười, họ muốn lên trăm v.v… Cứ thế mà tăng lên mãi.
Biển sâu đến đâu, người ta cũng có thể dò đến đáy được, còn cái túi tham của con người có đáy đâu mà dò. Vẫn biết tham lam là xấu xa, là đau khổ, là khổ thân, là mệt trí, nhưng con người có bao giờ biết dừng lại đâu! Còn sống thì tham lam đã đành, đến khi sắp chết lòng tham cũng không buông bỏ. Bởi thế, mà Phật nói chúng sanh trôi lăn mãi trong vòng sanh tử luân hồi để chịu lắm cảnh khổ đau là thế!
Khác hơn người ngu, người trí là người tỉnh thức sáng suốt. Nhờ có trí huệ nên họ nhận rõ vạn vật chỉ là hư ảo. Vì tất cả đều không thoát khỏi luật vô thường. Dù cho giàu có, nhiều tiền lắm của sang trọng đẹp đẽ đến đâu, rốt lại cũng chỉ là huyễn hóa như giấc mộng mà thôi. Vạn vật không có gì bền chắc. Đời là giả dối tạm bợ. Không có thứ gì tồn tại lâu dài. Quả đúng như Ôn Như Hầu Nguyễn Gia Thiều đã than:
Tuồng huyễn hóa đã bày ra đấy
Kiếp phù sinh trông thấy mà đau
Trăm năm còn có gì đâu
Chẳng qua một nắm cỏ khâu xanh rì!
Biết thế, thì thử hỏi tham đắm để làm gì? Người ta đau khổ chém giết với nhau cũng chỉ vì lòng tham. Tham mà không được toại nguyện thì nổi sân. Khi lửa sân bốc cháy lên, thì còn đâu biết phân biệt phải trái. Thế là anh si nhảy vào can thiệp quyết lòng ăn thua đủ. Lớn thì quốc gia nầy xâm lấn quốc gia kia. Nhỏ thì giữa cá nhân nầy với cá nhân nọ. Cứ thế mà tranh chấp không thôi. Tất cả củng chỉ vì ba thứ Tham, Sân, Si mà ra.
Ngược lại, người trí là người nhận ngay từ cái gốc của chúng. Chúng chỉ là những thứ hư giả như bọt nước tan hợp bất thường. Trong Chứng Đạo Ca, Ngài Vĩnh Gia Huyền Giác đã nói:
“…Ngũ ấm phù vân không khứ lai
Tam độc thủy bào hư xuất một”.
Thân ngũ uẩn ta cho là thật có, nhưng đối với cái nhìn của người đạt đạo thì nó chỉ là mây nổi hợp rồi tan trong vũ trụ bao la. Tham, Sân, Si, chúng cũng chỉ là những thứ bọt bèo sanh diệt huyễn hư, không có gì là chân thật độc hại cả. Do nhận rõ như thế, nên người ta dứt trừ được lòng tham. Bởi vậy, Phật cho đó là người trí, tức người nhìn đời bằng tuệ giác. Nhờ đó, tuy sống trong lòng cuộc đời mà tâm người ta thật thảnh thơi, tự tại, giải thoát.
172. Người nào trước buông lung sau lại tinh tấn, người đó là ánh sáng chiếu cõi thế gian, như vầng trăng ra khỏi mây mù.
He who having been heedless is heedless no more, illuminates this world like the moon freed from clouds.
Kệ Tụng
Ai trước sống buông lung
Sau sống không phóng dật
Sẽ chói sáng đời này
Như trăng thoát mây quần.
Lược giảng
Câu chuyện xảy ra tại Kỳ Viên, có liên quan đến Trưởng lão Sammũnjani.
Vị Trưởng lão nầy luôn quét dọn không kể giờ giấc. Một hôm, ông cầm chổi đến thất của Trưởng lão Revata (Ly bà đa) thấy vị nầy đang ngồi yên, ông thầm trách, cho rằng, Trưởng lão Revata tối ngày ăn không ngồi rồi, tiêu hao của tín thí, không chịu cầm chổi quét dọn như ông.
Trưởng lão Revata, liền cho ông một bài học: “Không phải tối ngày cầm chổi quét dọn hoài mới là tinh tấn, mà một thầy Tỳ kheo ngoài việc khất thực, quét dọn phòng ốc ra, còn cần phải thiền tọa quán niệm”. Nhờ lời dạy đó, Trưởng lão Sammũjani cố gắng thật hành, không bao lâu, ông chứng quả A la hán.
Sau đó, các Tỳ kheo khác thấy các phòng đều đầy rác rến, mới hỏi Sammũjani sao huynh không quét? Ông trả lời: trước kia tôi buông lung nên thường quét dọn, bây giờ tôi trở nên tinh tấn, nên không quét dọn nữa.
Các Tỳ kheo đem chuyện đó bạch trình lên Phật, Phật bảo đúng như vậy. Nhân đó, Phật dạy Pháp cú nầy.
Qua câu chuyện lược dẫn trên, cho chúng ta thấy, người tu hành không phải tối ngày lo làm công kia việc nọ, mà cho là vị đó siêng năng. Đối với đời, ai làm như thế, thì người ta thầm khen là vị đó rất siêng năng. Họ siêng năng với lý do, là vì họ mưu cầu danh lợi. Vì chén cơm manh áo, vì muốn giàu sang hơn thiên hạ, nên họ phải chịu cực, chịu khổ để làm như thế. Ngược lại, đối với người tu hành, nhất là đối với những người xuất gia, thì lại khác. Vì mục đích của người xuất gia nhắm tới là phải đạt cho kỳ được giác ngộ và giải thoát.
Trường hợp Trưởng lão Sammãjani tối ngày chỉ biết lo dọn quét bên ngoài, mà ông không hề lo dọn quét bên trong, nên ông bị Phật quở cho đó là buông lung. Bởi vì, ông làm việc chỉ biết mãi say mê với công việc mà bỏ phế việc ngồi thiền, thì đó chưa phải là người siêng năng. Chữ tinh tấn trong đạo Phật là hành giả phải hồi quang phản chiếu nỗ lực diệt trừ phiền não. Vì có diệt hết phiền não tham, sân, si, … thì định huệ mới phát sanh và có như thế, mới thực sự giải thoát.
Ở đây, ta thấy, Trưởng lão Sammũjani lại không làm như thế. Vì ông thiếu thực tập thiền quán và ái ngữ, nên ông mới thốt lời chê trách Trưởng lão Revata là người chỉ biết ăn không ngồi rồi, tiêu hao của đàn na tín thí. Nhưng ông đâu có ngờ rằng, chính ông mới là người không biết tu hành và làm tiêu hao của tín thí. Và ông mới chính là người buông lung. Vì ông làm thiếu sự nhận diện của chánh niệm. Làm không có mặt trời ý thức soi sáng vào công việc mình làm.
Cũng đồng thời làm một công việc như quét dọn, rửa bát, tưới cây, nhổ cỏ, lặt rau v.v… đối với người tu, nhất là đối với người xuất gia như chúng ta, phải làm trong chánh niệm. Chánh niệm là để tâm chú ý hằng “Biết” vào công việc mình đang làm. Tuyệt đối không nên khởi nghĩ mông lung. Làm mà khởi nghĩ lung tung, Phật cho đó là buông lung hay tâm trạo cử phóng dật.
Sau khi nghe Trưởng Lão Revata khuyến nhắc, từ đó, ông nỗ lực thiền quán và không bao lâu đắc quả A la hán. Cuối cùng, ông được Phật khen, cho rằng, ông là người trước kia buông lung, nhưng nay lại tinh tấn rất mực, giống như vừng trăng ra khỏi mây ám.
Xét kỹ, trong giới tu hành, nhất là người xuất gia hiện nay, cũng có nhiều người giống như Trưởng lão Sammũjani. Suốt ngày, họ lo làm những việc bên ngoài, thậm chí không có thời gian nào rảnh rỗi. Ai thấy cũng cho rằng vị đó rất tinh tấn. Họ hết lòng phục vụ cho đạo pháp. Nhưng, đó chỉ là tinh tấn theo công việc, cũng không khác mấy với người đời. Vì cả hai cũng bận rộn suốt ngày. Chỉ khác là không lo nghĩ đến vấn đề cơm ăn áo mặc. Thiếu đủ không cần quan tâm biết đến. Vì việc nầy đã có Phật tử lo. Khác nhau là khác ở điểm đó. Nhưng không khác nhau ở nơi bận rộn với công việc.
Nếu người tu chỉ một bề say mê với công việc, thì bị Phật quở cho đó là buông lung. Vì sao? Vì tâm luôn luôn dính mắc theo duyên trần. Thử hỏi có người nào làm việc mà không tính toán lo âu không? Ai làm cũng muốn cho công việc của mình được hoàn hảo.
Muốn thế, thì phải dồn hết tâm lực vào công việc. Tính toán đương đầu trực diện đối nội, đối ngoại đủ thứ việc. Lúc nào đầu óc cũng căng thẳng, phiền não rối rắm đủ thứ. Được việc thì vui, mà trái lại thì buồn. Thuận theo ý mình thì tốt, nghịch với ý mình thì nổi sân la ó om sòm. Đây là tâm trạng mà đa số người xuất gia chúng ta vướng mắc.
Đối với thời nay, không có mấy người làm việc Phật sự mà tâm cảnh như như. Nghĩa là làm mà không bị dính mắc vào công việc. Chỉ có những bậc đạo lực thâm hậu đối cảnh vô tâm hay đói đến thì ăn mệt ngủ khò. Những bậc cao đức nầy, chúng ta không dám luận bàn đến. Ngoài ra, đối với những người tập sự tu hành hạnh xuất thế như chúng ta, thì không ai dám tự hào là mình làm không dính mắc vào ngoại cảnh. Người tu hành không ai biết rõ mình, bằng mình tự biết mình. Dù cho chúng ta có cố gắng tỏ ra cho người ta biết mình là thứ thiệt, làm Phật sự như trò chơi, nhưng than ôi! Làm sao qua đôi mắt tinh ranh của người đời. Thế thì, mình phải thành thật nhìn kỹ lại chính mình. Chính vì thế, mà Trưởng lão Revata phải vận dụng công phu thiền quán cho mình có một nội lực thâm hậu. Bằng cách là phải thực tập thiền tọa. Có ngồi yên, mới thấy được những vọng niệm vi tế. Đó là phản quan tự kỷ. Người tu phải luôn luôn nhìn lại mình. Mà muốn nhìn lại mình cho thật kỹ lưỡng, thì Phật dạy chúng ta cần phải ngồi thiền. Trong bốn oai nghi: đi, đứng, ngồi, nằm, chỉ có tư thế ngồi mới là thù thắng hơn các oai nghi khác. Thế nên, Phật Tổ dạy người tu hành phải lấy việc ngồi thiền làm căn bản. Nhưng phải ngồi với tư thế tươi mát và thảnh thơi.
173. Người nào trước làm ác sau lại làm lành, người đó là ánh sáng chiếu cõi thế gian như vừng trăng ra khỏi mây ám.
He who by good deeds covers the evil he has done, illuminates this world like the moon freed from clouds.
Kệ Tụng
Ai dùng các hạnh lành
Che khuất các nghiệp ác
Sẽ chói sáng đời này
Như trăng thoát mây quần.
Lược giảng
Câu chuyện nầy xảy ra tại Kỳ Viên, có liên hệ đến Trưởng lão Chỉ Man (Angulimàla, tức Ương quật ma la)
Ương quật ma la, thường gọi là anh chàng Vô Não. Đây là một con người rất độc ác. Anh ta giết người không biết gớm tay. Anh ta đi đến đâu, người ta đều hoảng hốt lo sợ đến đấy. Anh ta giết nhiều người, cứ giết xong, thì anh ta chặt một ngón tay để làm chuỗi đeo cổ. Mọi người nghe đến tên anh, ai nấy đều sợ kinh hồn khiếp đảm.
Vào một buổi sáng, đức Phật mang bát đi vào thành Xá Vệ khất thực. Thọ trai xong, đức Phật đi về phía mà anh chàng Vô Não đang ẩn núp ở đó. Mọi người đi đường đều ngăn cản không cho đức Phật đi. Nhưng đức Phật vẫn không quan tâm đến sự khuyên can của họ. Đức phật vẫn lặng lẽ bước đi. Thấy thế mọi người đều lo sợ cho đức Phật.
Từ xa, Vô Não nhìn thấy đức Phật, chàng ta rất đổi vui mừng, vì hôm nay, chàng ta chưa giết một người nào. Chàng nghĩ thầm: lạ thay! mọi người không ai dám đi một mình vào đây, sao hôm nay, chỉ có Sa môn Cù Đàm dám đi một mình? Nghĩ xong, anh ta mang gươm chạy đuổi theo đức Phật và quyết lòng phải giết đức Phật cho kỳ được. Phật đi trước, anh ta đuổi rượt theo sau, nhưng vẫn không theo kịp đức Phật. Tức quá! Anh ta vội hét lớn tiếng lên! Nầy Sa môn Cù Đàm hãy dừng chân lại. Phật bảo: “Ta đã dừng lại từ lâu rồi. Chỉ có ngươi chưa dừng lại đó thôi!” Phật nói tiếp: “Ta đã dừng tất cả những thứ trược cấu phiền não tham, sân, si… Ta có lòng từ bi đối với mọi người. Còn ngươi, sao ngươi không chịu thôi bỏ cái tâm ác độc giết hại người! Ta khuyên ngươi nên từ bỏ cái tâm ác độc đó đi”.
Nghe Phật dạy thế, chàng ta liền ném khí giới xuống đất và xin quy y xuất gia theo Phật. Đức Phật thâu nhận chàng ta vào trong Tăng đoàn và trở thành một bậc Sa môn gương mẫu. Sau khi xuất gia, ông ta nỗ lực tu hành, không bao lâu chứng quả A la hán.
Thời Phật, cách chúng ta hơn hai mươi lăm thế kỷ, nhưng vẫn có những con người quá độc ác. Họ giết người như trò chơi. Coi mạng sống con người còn rẻ hơn bèo. Họ muốn giết ai thì giết. Không cần biết người đó là ai. Thấy người thì cứ giết. Độc ác như anh chàng Vô Não trong câu chuyện lược dẫn trên, có lẽ, trong xã hội loài người không còn ai độc ác hơn.
Người ta từng lên án các bạo chúa, trong thời đại quân chủ, như xưa kia, vua Tần Thủy Hoàng đốt sách chôn sống học trò và giết chết biết bao người một cách vô cớ tàn nhẫn. Nhưng sự ác độc đó, mục đích là vì ông muốn bảo vệ ngai vàng, quyền uy, thống lãnh cai trị thiên hạ của ông.
Ngược lại, anh chàng Vô Não nầy, giết người chỉ vì nghe theo lời ngoại đạo tà giáo khuyến dụ để được sanh Thiên đường. Thật là oái oăm ngược đời, kẻ chuyên làm ác mà muốn được sanh Thiên. Tuy rằng, cả hai đều bạo ác, nhưng mỗi người đều có một mục đích khác nhau. Đối với vua Tần Thủy Hoàng, cho đến khi chết, ông vẫn đeo đuổi cái mộng ước mưu bá đồ vương, có được cái quyền uy tột đỉnh, ngồi trên thiên hạ. Ông không một chút hối hận, hoán cải những tội ác mà ông đã gây ra.
Ngược lại, anh chàng Vô Não nầy, tuy cũng rất độc ác, nhưng còn gặp được Phật. Nhờ Phật giáo hóa mà ông ta cải ác tùng thiện, cải tà quy chánh. Ông quyết lòng cải hối theo Phật xuất gia và nỗ lực tu hành, đắc thành đạo quả.
Thế mới biết, con người dù cho có độc ác đến đâu, cũng có phút giây ăn năn hối cải. Nếu người đó gặp được một bậc Thầy cao đức hướng dẫn chỉ giáo. Tần Thủy Hoàng không có được cái duyên phúc nầy. Ông không có được một Đại thiện hữu tri thức chuyển hóa. Do đó, nên ông rất đau khổ suốt cả cuộc đời. Thật là tội nghiệp!
Tại sao chàng Vô Não lại hồi tâm chuyển ý? Thứ nhất, là ông gặp Phật một bậc Thầy toàn giác, đạo cao đức trọng. Thứ hai, là chính ông đã có sẵn hạt giống lành. Hạt giống nầy, vì thiếu duyên nên nó chưa có cơ hội phát hiện. Duy Thức Học cho chúng ta biết, trong mỗi người chúng ta, ai ai cũng đều sẵn có hai loại hạt giống: thiện và ác. Hai loại hạt giống nầy, tùy theo môi trường, hoàn cảnh mà chúng hiện hành có sai khác. Nếu người có duyên phúc tốt, thì sẽ gặp môi trường hoàn cảnh tốt và hạt giống lành sẽ phát triển nhanh hơn.
Ngược lại, thì hạt giống ác sẽ phát triển mạnh. Bởi thế, nên xã hội loài người mới đặt định ra vấn đề giáo dục cải hóa con người. Bản tính cố hữu của con người vốn không bạo động. Vì bạo động, đó là cá tánh của loài thú vật. Nuôi dưỡng đức tánh bất bạo động, và làm cho nó tăng trưởng, đó là con người có ý chí hướng thượng. Thánh Gandhi là cha đẻ của chủ thuyết bất bạo động. Chỉ có bất bạo động mới đưa con người đến lại gần nhau. Và từ đó mới dễ thiết lập cảm thông hiểu và thương nhau hơn để có cơ hội sống chung hòa bình.
Rất tiếc, thế giới ngày nay, người ta còn quá hăng say bạo động. Càng ngày, người ta càng đánh mất đi yếu tính nhân bản. Đạo làm người mất đi, thì giá trị nhân phẩm không còn. Có khôi phục lại đạo đức nhân bản, thì xã hội mới bớt loạn lạc khổ đau. Nền văn hóa nhơn
loại đang bị lung lay đến tận gốc rễ. Các nhà làm văn hóa, cần phải cấm sâu gốc rễ đạo đức nhân bản. Nếu không, thì nếp sống văn hóa của con người sẽ bị mất gốc thê thảm. Và như thế, thì nhơn loại càng hứng chịu những bạo động khủng bố, bắn giết, và những tệ nạn thảm họa đau thương khác xảy ra khốc liệt. Đó là một sự thật không ai có thể phủ nhận. Thú tánh trong con người càng bộc phát mạnh mẽ, thì nhơn tính càng bị yếu dần. Từ đó, nảy sanh ra không biết bao nhiêu điều họa hại cho xã hội.
Thiết nghĩ, những ai đã và đang đi vào con đường tội ác như chàng thanh niên Vô Não kia, xin mỗi người hãy tự quán chiếu xét lại. Xưa kia, chàng thanh niên Vô Não, chỉ vì cuồng tín, mất sáng suốt, bị bánh vẽ Thiên đường hấp dẫn, tạo cho anh ta có những tri giác sai lầm, gây ra nhiều tội ác, nhưng cuối cùng, anh ta đã được một bậc Thầy chuyển hóa và trở thành người lương thiện đạo đức.
Anh ta đã mạnh dạn ném khí giới, đứng lên hiên ngang làm lại cuộc đời. Anh ta hoàn toàn đổi mới con người. Tên sát nhân Ương Quật Ma La ngày xưa đã chết, để rồi chuyển hóa thành một thầy Sa môn hiền từ gương mẫu thật dễ kính mến. Thậm chí vua Ba Tư Nặc cũng phải bái kính và cúng dường.
Quả thật, Vô Não là một con người từ trong bóng tối si mê mà bước ra ánh sáng trí tuệ đầy tình thương. Tình yêu thương nhơn loại đã tràn ngập trong lòng anh ta. Anh ta đã trở thành một con người sống có lý tưởng, luôn luôn mang tình yêu thương đến cho mọi người. Ngày xưa, anh đi đến đâu, người ta run sợ khiếp đảm đến đó. Bây giờ, thì đã khác xa rồi.
Chính vì thế, mà Phật dạy: “Người nào trước làm ác sau lại làm lành, người đó là ánh sáng chiếu cõi thế gian như vừng trăng ra khỏi mây ám”. Mong sao, những ai đã vì một phút sai lầm, nên dấn thân vào con đường tội phạm như anh chàng thanh niên Vô Não kia, xin hãy nghe theo lời Phật dạy, mà quyết tâm mạnh dạn đứng lên làm lại cuộc đời, để chiếu sáng thế gian như vừng trăng ra khỏi mây ám. Xin các bạn hãy cương quyết làm vừng trăng sáng: “Phóng hạ đồ đao lập địa thành Phật”.
174. Như chim thoát khỏi lưới, chẳng mấy con bay thẳng lên trời cao, trong thế gian này chẳng mấy người sáng suốt trông thấy cao xa.
Blind is this world; here only a few possess insight. Only a few, like birds escaping from a net, go to the realms of bliss.
Kệ Tụng
Đời này thật mù quáng
Ít kẻ thấy rõ ràng
Như chim thoát khỏi lưới
Ít hướng thẳng trời cao.
Lược giảng
Câu chuyện xảy ra tại tinh xá Aggàlava có liên quan đến cô bé thợ dệt.
Khi Phật đến Àlavi, dân chúng mừng rỡ và họ thỉnh Phật thọ trai. Thọ trai xong, Phật dạy cho họ nghe về pháp quán niệm cái chết. Trong số thính chúng, có một cô bé 16 tuổi, chuyên sống bằng nghề dệt vải. Nghe lời Phật dạy, trải qua 3 năm, cô hằng quán niệm đến cái chết.
Sau một thời gian, đức Phật quán sát biết thọ mạng của cô bé không còn bao lâu nữa, nên đức Phật trở lại Àlavi để gặp cô ta. Hay tin Phật đến, cô bé rất mừng, nhưng vì bận dệt vải, nên cô không đến gặp Phật ngay được. Phật biết nên sau khi thọ trai, Phật không thuyết pháp liền mà Phật chờ cô bé đến.
Cô bé dệt xong, liền chạy đến để gặp Phật. Phật hỏi cô bé vài câu hỏi, tất cả cô đều trả lời đúng hết. Phật khen ngợi cô ta. Trong khi đó, mọi ngưòi khác ngồi nghe đâm ra bực mình và họ xì xào với nhau trách cứ cô bé. Họ đâu hiểu được những câu hỏi thâm sâu lắc léo của đức Phật. Chỉ có cô bé mới hiểu được thâm ý của Phật thôi. Và nhân đó Phật nói Pháp Cú nầy.
Người đời hầu hết ai cũng sợ chết. Dù rằng, họ chưa biết tình trạng biến chuyển của cái chết xảy ra như thế nào. Nhưng, nói đến chết là người ta sợ cuống cuồng lên. Sở dĩ người ta sợ chết là vì ai cũng ham sống. Dù có người sống rất cực khổ, không thụ hưởng được gì, nhưng nói đến chết, họ vẫn lo sợ.
Ở đây, Phật dạy, người nào muốn không sợ chết, thì phải thường xuyên quán niệm đến cái chết. Vì chết là một định luật bất di bất dịch. Hễ có sanh tất có diệt. Nhưng chết không phải là hết. Như bóng đèn đang cháy sáng, bỗng tắt, người ta lầm tưởng là không còn điện nữa. Nhưng thật ra, bóng đèn bị đứt, chớ điện nào có mất đi đâu. Thế mà người ta cứ mãi lo sợ mất điện. Chỉ cần thay bóng mới khác vào, thì ánh sáng sẽ có lại ngay.
Bóng đèn, vì thiếu một điều kiện nào đó, nên nó không thể tiếp tục cháy được. Cũng thế, thân nầy là do duyên hợp. Khi còn đủ duyên, thì tạm nói là còn sống. Khi bị hư một bộ phận nào đó trong thân, thì sự sống không còn. Không còn là không còn cái xác thân, chớ không phải mất đi cái dòng tâm thức. Cũng như bóng đèn không còn cháy sáng được nữa, chớ không phải mất đi cái luồng điện lực.
Phật bảo chúng ta phải quán niệm đến cái chết, chỉ là sinh diệt, diệt sinh mà thôi. Điều quan yếu, nếu muốn không sợ chết, thì chúng ta cần phải chuẩn bị thật chu đáo cho cái chết. Chuẩn bị như thế nào? Chuẩn bị bằng cách, vâng theo lời Phật dạy, chúng ta cố gắng làm lành, lánh dữ, tu nhân, tích đức, ăn chay, niệm Phật, quyết chí tu hành.
Thí như, chúng ta biết mùa đông là lạnh. Nếu muốn không sợ lạnh, thì mỗi người hãy chuẩn bị sẵn sàng cho mình các thứ chống lạnh, như áo ấm, mền, nệm, lò sưởi v.v… Chuẩn bị cho thật kỹ lưỡng rồi, thì dù mùa đông có tới, ta cũng không lo sợ. Vì ta biết thế nào mùa đông cũng phải đến. Phật nói đó là người trí. Đó là người không mù quáng sợ hãi về cái chết.
Thiền quán sâu hơn về cái chết, khi chúng ta nhìn cây bắp, thì chúng ta sẽ thấy được hạt bắp. Nhìn đám mây, ta thấy có biển nước sông hồ… tất cả chỉ là biểu hiện có mặt theo dòng thời gian, không có gì mất đi và cũng không có gì tồn tại. Xem những hình ảnh hoạt động trên màn ảnh TV, khi tắt điện, những hình ảnh đó không còn hoạt động nữa, ta cứ tưởng là mất hẳn, nhưng không mất đi đâu cả, khi có điện vào, thì sẽ có những hình ảnh tiếp tục hoạt động trở lại.
Hiểu thế rồi, ta không còn gì phải lo sợ cái chết. Xe chạy lâu đời thì phải hư, khi hư không còn xài được, thì phải bỏ. Cái áo rách nhơ bẩn, cần phải thay áo khác. Bỏ xe nầy mua xe khác. Điều quan trọng là ta phải chuẩn bị cho có tiền nhiều để mua xe mới tốt hơn. Cũng thế, chết là điều kiện tất yếu phải đến, điều quan trọng là ta hãy chuẩn bị cho cái thân của ta kế tiếp đẹp đẽ tốt hơn.
Muốn thế, thì ta cần phải nỗ lực tu hành, để có được cái thân như ý muốn. Theo luật nhân quả, hễ gây nhân tốt, tất nhiên là ta phải có quả báo tốt. Đó là quyền quyết định hướng đi của chúng ta. Chúng ta phải quyết định làm con chim khi thoát khỏi lưới là phải bay bổng lên trời cao, để nhìn thấy trời đất bao la rộng rãi. Chớ không thể bay là đà trên mặt đất liền, để rồi bị sa vào lưới nghiệp nữa. Khi đó, dù cho con chim có muốn thoát ra khỏi lưới để bay cao, thì chao ôi! Đã quá muộn màng rồi!
Người nào thiền quán sâu sắc như thế, Phật cho đó là người có trí huệ, nhìn xa thấy rộng không còn vọng chấp, thiên kiến, tạo nghiệp ác để bị thần chết kéo lôi đi vào con đường đau khổ, tuyệt vọng nữa.
175. Con thiên nga chỉ bay được giữa không trung, người có thần thông chỉ bay được khỏi mặt đất, duy bậc đại trí, trừ dẹp hết ma quân mới bay được khỏi thế gian này.
Swans fly on the path of the sun; men pass through the air by psychic powers; the wise are led away from the world after vanquishing Mara and his host.
Kệ Tụng
Như chim thiên nga bay
Theo hướng đi mặt trời
Kẻ trí nhờ thần thông
Bay lượn giữa hư không
Nhờ trừ diệt ma quân
Kẻ trí thoát đời này.
Lược giảng
Theo truyện tích kể lại, câu chuyện xảy ra khi đức Thế Tôn ở tại Kỳ Viên, có liên quan đến ba mươi vị Tỳ kheo.
Một hôm, có ba mươi vị Tỳ kheo sống ở các xứ khác đến thăm đức Phật. Tôn giả A nan trông thấy các vị ấy đến khi đang chuẩn bị vào hầu Phật. A Nan nghĩ thầm: “Ta sẽ đợi đức Thế Tôn tiếp đón các Tỳ kheo nầy, sau đó ta mới vào hầu”, và Tôn giả đợi ngoài cửa.
Phật đón tiếp các Tỳ kheo, thuyết pháp một cách hoan hỷ cho các vị. Sau đó, tất cả chứng quả A la hán. Các vị từ giả Phật, bay lên hư không.
Các Tỳ kheo đi rồi, A Nan đến chỗ Phật, hỏi:
- Bạch Thế Tôn, có ba mươi Tỳ kheo đến đây, họ ở đâu?
- Đã đi.
- Bạch Thế Tôn, họ đi đường nào?
- Họ bay qua hư không.
- Bạch Thế Tôn, như vậy họ đã thoát khỏi sanh tử?
- Đúng thế! Nầy A Nan! Sau khi nghe Ta nói pháp, họ đã chứng A la hán.
Lúc ấy có một vài con thiên nga bay liệng trên không. Đức Phật nói:
- Nầy A Nan! Ai phát triển đầy đủ Tứ thần túc[22], người ấy bay liệng như thiên nga. Nhân đó, Phật nói Pháp cú nầy. (Trích nguyên văn tích truyện Pháp Cú Tập II, Viên Chiếu, tr 290)
Thần túc thông, còn gọi là Như ý túc thông, là một trong ngũ thông. Đây là loại thần thông có công năng biến hóa không lường. Có thể phi hành tự do theo ý muốn. Thân bay giống như chim bay vô ngại. Người tu hành có được thần thông lực dụng như thế, thì đối với người thế gian cho đó là quá tuyệt rồi. Thế nhưng, ở đây, Phật lại nói, chỉ có bậc đại trí mới bay khỏi thế gian nầy.
Pháp cú nầy, Phật nêu ra hình ảnh của con thiên nga (ngỗng trời) và người có thần thông để so sánh với bậc đại trí. Con ngỗng trời dù cho nó có bay cao đến đâu, rồi cũng có lúc cũng phải đáp xuống đất. Người có thần thông phi hành biến hóa đến đâu, nhưng chưa diệt trừ hết vô minh phiền não, cũng vẫn tiếp diễn đi trong vòng luân hồi thọ khổ. Chỉ có bậc đại trí trừ hết ma quân phiền não mới bay ra khỏi thế gian nầy.
Thật vậy, người tu hành muốn được giác ngộ giải thoát, thì phải đoạn trừ ở nơi cái gốc. Cái gốc rễ đó là vô minh. Nếu không lo đoạn trừ ở nơi cái gốc, mà chỉ chạy theo cái ngọn, thì muôn đời khó được giải thoát. Cái ngọn đó là thần thông. Có lắm người tu, họ chỉ thích chạy theo cái dụng. Tu mà có phát sanh những hiện tượng nầy nọ thì họ rất thích.
Cũng như nói, tu có hào quang, hay xuất hồn ngao du nơi nầy nơi kia, hoặc giả tiên đoán biết rõ chuyện quá khứ, vị lai v.v… nghe thế, thì họ rất ham tu. Còn nói tu để được có trí huệ sáng suốt, dứt trừ vô minh phiền não, cứu cánh giác ngộ giải thoát, thì họ thấy sao quá buồn nản và xa vời. Nhưng họ đâu biết rằng, tất cả cái dụng đó có ra đều do từ thể mà có. Như nói, có bao nhiêu thứ nước uống ngon ngọt, cũng đều từ một chất ướt mà ra. Nói thế, họ nghe sao buồn quá! Họ muốn tu là phải có kết quả mau. Chính vì sự ham muốn đó rồi nghe đâu chúc đó, không cần biện biệt chánh tà, thì đó quả là một tai hại vô cùng.
Chúng ta nên nhớ rằng, tất cả cái dụng trên đời đều từ thể mà ra. Như nói tất cả những lượn sóng to nhỏ trên biển cả đều từ nước mà ra. Thế mà ít ai chịu nhận ở nơi cái tánh thể đó, họ chỉ thích chạy theo trên tướng và dụng. Thần thông có ra cũng từ nơi thể mà có. Nhưng thần thông bay liệng trên không, nó không cứu mình thoát khỏi sanh tử luân hồi. Đó là chưa nói, khi dụng công tu sai theo ngoại đạo tà giáo, thì tai hại biết là ngần nào!
Chúng ta nên biết rằng, chỉ cần ứng dụng sai một ly là đã đi xa một ngàn dặm. Cho nên, người Phật tử khi dụng công tu hành phải nên chọn lựa pháp môn tu cho đúng với Chánh pháp. Trước tiên, pháp môn đó phải phù hợp với căn cơ trình độ của mình. Sau đó, mình cần phải nghiên cứu học hỏi cho rõ pháp môn mà mình đang chọn lựa để tu. Bằng ngược lại, cứ nghe đâu theo đó, không cần biết chánh hay tà, thì thật là một tai hại vô cùng. Không những hại cho mình đời nầy, mà nó còn hại cho những đời sau nữa. Nếu là Phật tử, xin tất cả hãy cẩn thận.
Qua câu chuyện trích dẫn trên cho chúng ta thấy, ba mươi vị Tỳ kheo, sau khi diện kiến đức Phật và được nghe đức Phật thuyết pháp, tất cả đều khai ngộ và chứng quả A la hán. Mà chứng quả A la hán là đã chấm dứt con đường sanh tử khổ đau. Điều chúng ta nên nhớ, sở dĩ những thầy Tỳ kheo nầy được chứng quả nhanh chóng như thế, là vì, đó chẳng qua chỉ là một giọt nước làm tràn ly nước mà thôi. Không phải lần đầu gặp Phật mà các ngài được chứng quả. Phật chỉ là một tăng thượng duyên tốt cho các ngài đó thôi. Kỳ thật, là do các ngài đã huân tu, thiền quán đến mức độ chín mùi rồi, nên khi gặp Phật, nghe Phật dạy là các ngài liền chứng quả. Các ngài đã thực sự hết phiền não, và đã đạt được Niết bàn an lạc.
Về Đầu Trang Go down
https://triamquan.forumvi.com/
Tri Âm Quán
Thành Viên Tích Cực
Thành Viên Tích Cực
Tri Âm Quán


Tổng số bài gửi : 6340
Reputation : 2
Join date : 31/07/2013
Đến từ : Thị Trấn Chũ

Kinh Pháp Cú chú giải (tập 1) - Page 2 Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Kinh Pháp Cú chú giải (tập 1)   Kinh Pháp Cú chú giải (tập 1) - Page 2 EmptySun Nov 16, 2014 11:44 am

176. Những ai vi phạm đạo Nhất thừa [23], những ai ưa nói lời vọng ngữ, những ai không tin tưởng đời sau, thì chẳng có điều ác nào mà họ không làm được.
For a liar who has violated the one law (of truthfulness), who holds in scorn the hereafter, there is no evil that he cannot do.
Kệ Tụng
Ai phạm đạo nhứt pháp
Ai ưa lời vọng ngữ
Ai không tin đời sau
Không ác nào không làm.
Lược giảng
Câu chuyện nầy xảy ra khi đức Phật ở tại tinh xá Kỳ Viên, có liên quan đến Chiến già ma na (Cincà Mànavika).
Trên bước đường hành hóa, đức Phật gặp rất nhiều chướng nạn. Những chướng nạn nầy, phần lớn là do ngoại đạo tìm cách gây ra hãm hại. Một trong những vụ hãm hại đó, là do ngoại đạo xúi giục Chiến già ma na làm nhục đức Phật. Mục đích của họ là muốn làm cho đức Phật không còn uy tín để họ được thủ lợi. Vì uy tín, đạo hạnh và sự hoằng hóa của đức Phật càng ngày càng lan rộng. Do đó, mà các phái ngoại đạo càng lúc càng mất nhiều quyền lợi và tín đồ. Do lòng ganh tỵ đố kỵ đó, mà họ bày ra nhiều phương chước mưu mô xảo quyệt để hại Phật.
Sau khi thầy trò bàn tính phương cách hại Phật, nhưng chưa tìm ra được phương cách nào hay nhất và có tác dụng lớn lao. Trong số các nữ tín đồ của họ, thì có nàng Chiến già ma na. Nàng nầy còn trẻ trung và thêm có nhan sắc tuyệt đẹp. Nàng lãnh sứ mạng để tìm cách hại Phật. Nàng tìm ra được một phương chước là hằng ngày nàng sẽ trang điểm cực kỳ mỹ lệ để thường tới lui tinh xá giả bộ nghe đức Phật thuyết pháp. Để thực hiện theo diệu kế đó, nàng đến gần tinh xá nơi Phật ngự để trú ngụ. Nàng thường tới lui nghe Phật thuyết giảng một thời gian, sau đó nàng dùng cách độn bụng cho mỗi lúc mỗi u to lên giống như người có chửa.
Một hôm, nàng đứng trước Phật giữa thính chúng đang nghe Phật thuyết pháp, rồi bỗng nhiên, nàng quát tháo to lên bằng những lời lẽ nhục mạ và vu oan cho Phật. Nàng ta cho rằng chính đức Phật là tác giả của cái bào thai đó. Phật biết rõ cớ sự, Ngài ngồi an nhiên lặng thinh. Các thính chúng đều ngơ ngác nhìn Phật và rồi đưa mắt nhìn chòng chọc vào mặt nàng ta. Họ tỏ ra có ý giận dữ bất bình cô ta qua những lời thóa mạ đức Phật.
Bấy giờ Trời Đế Thích quán sát biết rõ duyên cớ, liền biến ra con chuột chui vào bụng của cô ta và cắn đứt sợi dây cột vào bụng. Dây bị đứt ra liền khi ấy vật (dĩa) độn trong bụng rớt xuống và làm đứt mấy ngón chân của cô ta.
Thế là, âm mưu vu khống chụp mũ đức Phật đã bị lộ tẩy phơi bày trước mắt mọi người. Ai nấy đều tức giận mắng chửi la ó rùm lên và rồi họ đuổi nàng ta ra khỏi tinh xá. Vì tâm ác độc hại Phật, nên kết quả nàng ta lãnh lấy quả báo là đọa địa ngục A tỳ. Nhân đó Phật cho biết, không phải đây là lần đầu tiên, mà Chiến già ma na hại Phật, trong quá khứ cô ta cũng đã từng hại Phật như thế. Do đó, Phật liền nói Pháp cú nầy.
Qua câu chuyện lược dẫn trên, cho chúng ta một bài học về nhân quả cụ thể. Hại người trở lại hại mình. Ở đời, người ta vì lòng ganh ghét không muốn ai hơn mình, nên tìm đủ mọi phương chước, thủ đoạn, xảo quyệt để hãm hại đối phương cho kỳ được. Hại ra mặt hay hại ngầm sau lưng, đó còn tùy thuộc vào cái cường độ của cái tâm ác độc mà người đó muốn hại. Nếu lòng ác độc của người đó nổi lên mạnh bạo, thì họ bất kể phải trái, lương tâm, đạo đức. Họ quyết lòng phải hạ nhục đối phương cho kỳ được. Họ là người hoàn toàn mất hết lương tâm và lương tri, miễn sao thỏa mãn được cái lòng tự ái độc ác của họ thì thôi. Họ không cần đếm xỉa và nghe theo lương tâm của họ. Họ là người sống hoàn toàn nô lệ cho dục vọng bản ngã vị kỷ.
Những ngoại đạo nầy, họ thù ghét đức Phật, vì đức Phật đã hơn họ về mọi mặt. Mọi người chán ghét họ, vì người ta thấy rõ bộ mặt thật của họ. Bộ mặt đó chỉ là cái lớp áo đạo đức bề ngoài, nhưng thực chất thì họ không có đạo đức. Họ là những người mưu cầu lợi dưỡng. Do đó, mọi người hướng về Phật và theo Phật ngày càng đông. Vì thế, lòng căm tức nuôi hận trả thù của họ càng lúc càng mạnh. Càng căm tức ganh ghét chừng nào lương tâm của họ càng đau khổ nhiều chừng nấy. Âm mưu của họ đã bị bại lộ. Chẳng những họ không hại được Phật, mà trái lại, họ còn chuốc lấy thảm họa là mọi người càng thù ghét xa lánh họ hơn.
Thế mới biết, kẻ ác tâm hại người hiền lương, khác nào tự họ cầm đuốc đốt cháy họ. Họ ngậm máu dơ phun người, kết quả là miệng họ đã đầy máu trước. Tâm địa độc ác hại người, người chưa bị hại mà chính mình đã chuốc lấy đau khổ quá nhiều rồi. Bài học trên là một tiếng chuông cảnh tỉnh cho những ai mang tâm địa ganh tỵ, ác độc tìm cách hại người.
Người ta hơn mình, lẽ ra mình phải nên tìm hiểu học hỏi để cho bằng người. Nếu như mình không có được cái tâm tùy hỷ như Bồ tát, thì cũng chớ nên ganh ghét hại người. Nhất là đối với người Phật tử, dù xuất gia hay tại gia, Phật Tổ thường khuyên chúng ta nên phải học cho kỳ được cái tâm tùy hỷ. Có tùy hỷ việc làm của người, thì chẳng những ta không có đau khổ mà ta càng có thêm nhiều công đức. Công đức là ở chỗ tâm ta vui vẻ. Tâm vui vẻ đó là tâm an lạc hạnh phúc.
Pháp cú trên Phật dạy, những ai vi phạm đạo Nhất thừa, đạo Nhất thừa ở đây có nghĩa là pháp tánh chân thật. Vi phạm là sống ngược lại. Sống trái với chân lý, đó là nếp sống chạy theo dục vọng trần lao đau khổ. Kế tiếp, Phật khuyên chúng ta không nên nói lời vọng ngữ, và phải tin tưởng có quả báo đời sau. Nếu như không được như vậy, thì Phật nói không có điều ác nào mà người ta chẳng dám làm. Vì có tin nơi lý nhân quả, tội phước, người ta mới lo tu hành làm lành lánh dữ, mới lo tu tạo gieo trồng phước đức. Bằng ngược lại, con người không sợ tội lỗi báo ứng, thì quả đó là một tai hại rất lớn lao cho xã hội loài người.
Đó là họ theo phái Đoạn kiến ngoại đạo. Phái nầy chủ trương chết là mất hẳn, không có nhân quả tội phước báo ứng đời sau. Thế là, con người tha hồ làm ác, lập thành băng đảng, cướp của giết người, hiếp dâm, ma túy v.v… không có tội phạm nào mà họ không dám làm. Đó là một bức tranh bi đát thê thảm và cũng là một tệ nạn nhất của xã hội ngày nay! Thử hỏi như thế thì xã hội và đời sống của con người sẽ ra sao? Tin rằng, mỗi người sẽ có câu trả lời xác đáng rồi vậy.
177. Người xan tham không thể sanh lên cõi trời, người ngu si không ưa tán dương việc cúng dường, nhưng người trí thấy việc cúng dường lại tùy hỷ và tương lai họ sẽ được phần an lạc.
Truly, misers fare not to heavenly realms; nor, indeed, do fools praise generosity. But the wise man rejoices in giving, and by that alone does he become happy hereafter.
Kệ Tụng
Keo kiết không sanh thiên
Người ngu ghét bố thí
Kẻ trí thích bố thí
Đời sau được hưởng lạc.
Lược giảng
Câu chuyện nầy xảy ra tại tinh xá Kỳ Viên, có liên quan đến phẩm vật cúng dường tối thắng.
Sau khi khất thực, Phật và Thánh chúng đệ tử trở về tinh xá, vua Ba Tư Nặc đến thỉnh Phật và Thánh chúng thọ trai. Phật hứa khả. Hôm sau, nhà vua sắm sanh phẩm vật thật nhiều để cúng dường và bảo dân chúng đến xem. Mọi người đến xem và rồi họ họp nhau lại mua sắm phẩm vật để cúng dường Phật và chúng Tăng nhiều hơn phần phẩm vật của nhà vua.
Hôm sau, nhà vua lại dâng cúng nhiều hơn. Và dân chúng trong thành hợp lực tài vật với nhau, dâng cúng nhiều hơn nhà vua nữa. Cứ thế, mà giữa nhà vua và dân chúng tranh nhau cúng dường trải qua 6 lần, không ai chịu kém hơn ai. Bấy giờ, nhà vua đâm ra lo lắng và suy nghĩ tìm phương cách thắng thế hơn.
Hoàng hậu Mạt Lợi (Mallikà) thấy vua lộ vẻ buồn lo liền hỏi duyên cớ vì sao. Vua thuật lại mọi việc. Nghe xong, hoàng hậu bày cách xây một lâu đài rộng lớn cho 500 Sa môn ngồi và các người tùy tùng ngồi ngoài. Đồng thời làm 500 lộng trắng cho voi và mỗi người đều có các cung nữ đứng hầu. Như thế, thì dân chúng không thể nào sánh kịp.
Nhà vua làm theo. Mọi việc xong xuôi, vua thỉnh Phật và chúng Tăng đến. Tất cả phẩm vật cúng dường trị giá lên đến khoảng 14 triệu, chỉ trong một buổi ngọ trai thôi.
Khi ấy, trong triều có hai vị đại thần, một tên là Kàla, một tên là Junha. Đại thần Kàla tỏ ý không hài lòng vì tốn kém quá nhiều trong ngân khố. Ngược lại, Junha thì rất vui mừng tán thán.
Thọ trai xong, Phật không thuyết pháp như thường lệ, và cũng không tán thán phẩm vật cúng dường tối thắng của nhà vua. Vì Ngài nghĩ, nếu tán thán cho xứng với phẩm vật cúng dường, thì đại thần Kàla khó sống. Do đó, Phật chỉ nói một bài kệ đơn giản, rồi từ giả mọi người.
Sau đó, Phật và Thánh chúng trở về tinh xá. Nhà vua không vui theo hỏi đức Phật. Duyên do vì sao mà Phật không tán thán như lệ thường? Bấy giờ, Phật mới nói rõ cho nhà vua biết về việc keo kiết tiếc phẩm vật dâng cúng của đại thần Kàla. Nếu Phật khen ngợi, thì Kàla sẽ chết.
Nghe xong, nhà vua liền hỏi Kàla và nhà vua nói tiếp: tất cả phẩm vật là của ta, ta hết lòng dâng cúng cho Phật và Thánh chúng, cớ sao ngươi lại tiếc nuối?
Phật nói: “Thôi đại vương! Người ngu thấy kẻ khác làm điều phước thiện, thì sanh tâm không vui và chính họ sẽ có quả báo không tốt về sau”. Nhân đó, Phật nói cho mọi người nghe Pháp cú nầy.
Qua câu chuyện lược dẫn trên, cho ta một bài học về việc cúng dường. Giữa nhà vua và dân chúng tranh nhau cúng dường Phật và chúng Tăng. Lý do tại sao họ tranh nhau như thế? Nếu nói về tiền của, thì dân chúng làm sao sánh bằng của vua? Tuy cá nhân thì họ không bằng, nhưng nếu tất cả hợp sức đồng lòng, thì tiền kho bạc đụng của vua cũng khó sánh kịp. Vì vậy, trải qua sáu lần để tranh nhau cúng dường. Sở dĩ họ tranh nhau, vì ai cũng muốn mình có nhiều phước báo. Tu theo nhơn thừa là như thế. Vì họ muốn có phước nhiều để đời sau thọ hưởng. Tuy nhiên, bà hoàng hậu đưa ra một kế sách mà dân chúng không thể nào theo kịp. Ngoài phẩm vật cúng dường thượng thặng ra, còn có 500 con voi trắng và rất nhiều cung nữ hầu hạ. Thế là dân chúng đành chịu.
Ở đây, ta thấy, không phải so sánh chuyện hơn kém, mà là chuyện đánh giá ở nơi tâm địa của con người. Từ tấm lòng của vua, hoàng hậu, dân chúng, ai ai cũng có lòng hảo tâm, không nghĩ đến phẩm vật. Trong khi đó, thì đại thần Kàla lại tỏ ra sốt ruột tiếc của kho của nhà vua. Đó là của vua mà ông còn tiếc như thế, còn nếu là của ông thì sao? Chắc chắn là ông không có phát tâm như thế rồi. Chứng tỏ tâm của ông ta quá keo kiết rít rắm. Do đó, mà Phật xót thương một con người có tâm hồn rất tham lam bỏn xẻn và Phật không muốn nhìn thấy ông bị sát hại, nên Phật không tán thán cân xứng theo phẩm vật nhà vua cúng dường. Đây là lòng từ bi của Phật. Phật chẳng những thương ông có một tâm hồn nhỏ hẹp, mà còn thương cả thân mạng của ông nữa. Chính vì nghe Phật nói, nên nhà vua mới không có ý trách Phật. Và đồng thời cũng cứu được mạng sống của ông Kàla.
Bởi thế, Phật mới nói: “Người xan tham không thể sanh lên cõi trời”. Vì cái nhân xan tham làm sao có cái quả giàu có sung sướng. Phật lại dạy tiếp: “Người ngu si không ưa tán dương việc bố thí”. Đây là một tâm lý thường tình của con người. Có những người, chẳng những họ không bố thí làm phước cho ai, mà khi thấy người khác làm, thì họ lại sanh tâm chê bai kích bác.
Họ coi trọng đồng tiền của cải hơn trái núi. Dù thấy kẻ khác đang lâm vào hoàn cảnh hết sức thương tâm, nhưng họ vẫn dửng dưng không chút từ tâm thương xót bố thí. Lòng họ thật là chai đá. Họ sống thiếu tình người. Bởi vậy, Phật nói những người ngu si thấy ai làm việc phước thiện thì lại sanh tâm không ưa. Chẳng những không ưa thôi mà họ còn phê bình nói xấu.
Hạng người nầy, xưa nay thời nào cũng có. Ngược lại, Phật nói người trí thấy ai bố thí thì họ khởi tâm tùy hỷ tán dương. Do đó mà họ có thêm nhiều phước đức. Người có tâm rộng lượng như thế, thì chắc chắn tương lai họ sẽ dự hưởng phần an lạc.
Là Phật tử, hẳn chúng ta không một ai muốn làm người ngu. Không ai muốn tương lai của mình phải đau khổ. Muốn thế, thì Phật khuyên chúng ta cố gắng làm phước tạo nhiều việc lành. Đồng thời, nên mở rộng cõi lòng thương người thương vật và hết lòng tùy hỷ đối với những ai làm việc phước thiện. Đó là ta biết thương và lo cho ta, có một tương lai an vui hạnh phúc.
178. Người thống suất cõi đất, người làm chủ chư Thiên, hết thảy vị thế chủ ấy chẳng sánh kịp một vị đã chứng quả Tu đà hoàn [24].
Better than sole sovereignty over the earth, better than going to heaven, better even than lordship over all the worlds is the supramundane Fruition of Stream Entrance.
Kệ Tụng
Kẻ thống lãnh cõi đất
Người được sanh cõi trời
Ai chủ trì vũ trụ
Không bằng quả dự lưu.
Lược giảng
Câu chuyện nầy xảy ra tại tinh xá Kỳ Viên, có liên quan đến Kàla, con trai của Trưởng giả Cấp Cô Độc.
Kàla là con trai yêu quý của ông Cấp Cô Độc. Cấp Cô Độc là người rất tin kính Phật pháp. Kàla thì không bao giờ tin Phật. Chàng ta rất ương ngạnh cứng đầu không bao giờ muốn gặp Phật. Dù hay tin Phật đến nhà, nhưng cậu ta không bao giờ ra chào hỏi. Đôi lần, ông cha khuyên con nên tin theo Phật pháp và chúng Tăng, nhưng không lần nào có hiệu quả.
Bấy giờ, ông cha nghĩ cách phải khuyến dụ con ông bằng tiền. Vì chỉ có tiền mới thuyết phục được con ông mà thôi. Nghĩ thế, ông liền nói với con:
- “Nè con! ngày mai con đến tinh xá nghe Phật thuyết pháp, xong rồi, trở về cha sẽ thưởng cho con 100 đồng”.
Cậu bé nghe cho tiền liền thực hiện ngay. Khi về, chưa nhận tiền, cậu ta làm nủng không ăn cơm. Mọi người năn nỉ, cậu ta vẫn từ chối. Giữ lời hứa, ông Trưởng giả cho tiền và rồi cậu ta mới dùng cơm.
Hôm sau, người cha khuyên cậu, nếu cậu chịu khó học thuộc lòng một câu kệ, thì sẽ được thưởng 1000 đồng. Thích chí, cậu ta liền đến tinh xá nghe Phật thuyết pháp. Phật biết, nên không muốn cho cậu ta nhớ. Phật đọc hết bài kệ nầy đến bài kệ khác và cậu ta chăm chú lắng nghe. Kết quả, cậu ta chứng được quả Dự lưu.
Khi Phật và chúng Tăng vào thành khất thực, cậu ta đi theo. Cha cậu trông thấy rất mừng thầm. Cậu ta thì mong cho cha đừng bao giờ đưa tiền trước mặt đức Phật.
Sau khi dâng thức ăn cho Phật và chúng Tăng, cha cậu liền đưa tiền cho cậu. Cậu ta quyết định không nhận. Trưởng giả năn nỉ, nhưng cậu ta vẫn khư khư từ chối. Nhân đó, cha cậu trình bày tự sự cho Phật nghe. Nghe xong, Phật liền nói Pháp cú nầy.
Câu chuyện trên, mới nghe qua như là chuyện trẻ con, không có gì lý thú. Nhưng nếu suy nghĩ kỹ, ta thấy, ông cha rất sành tâm lý trẻ con. Kàla ỷ mình con nhà giàu có sang trọng, không kính nể tùng phục một ai, dù đó là đức Phật. Ông cha biết rõ tâm ý con mình, thuộc dạng cứng đầu, nên không thể dùng biện pháp mạnh được. Thế là, phải dùng đến biện pháp tiền để khuyến dụ.
Trên đời nầy không ai lại không ham thích tiền, nhất là đối với trẻ con. Đối với trẻ con, thích cái gì rất thực tế. Vì tiền mới mua sắm được thứ nầy thứ kia. Còn vàng ngọc tuy vật rất quý giá, nhưng đối với chúng, thì thật là vô nghĩa. Vì chúng đâu có biết tiêu xài.
Dùng biện pháp dụ cho tiền để cho con đi nghe pháp, đó là một phương pháp giáo huấn rất hay. Điều lý thú hơn nữa, là khi nghe xong, trở về, người cha không vội đưa tiền liền. Để thử cậu ta có thích tiền không. Thay vì đưa tiền, thì ông lại bảo cậu bé ăn cơm trước. Và ông tỏ ý rất yêu quý con. Được cớ, cậu bé làm nủng không chịu ăn. Thế là cậu bé đã mắc câu…
Lần sau, ông ta bảo đứa con cũng đi đến tinh xá nghe Phật thuyết pháp như lần trước, nhưng lần nầy ông tăng tiền thưởng nhiều hơn. Cậu bé Kàla nghe vậy đi ngay. Lần nầy, Phật biết và làm cho cậu ta chú tâm nghe pháp. Nhờ chú tâm lắng nghe mà cậu ta chứng quả Dự lưu (Tu đà hoàn).
Ngày xưa, ở Nhật Bổn cũng có câu chuyện xảy ra tương tự như thế. Chuyện kể, có một ông già tuổi trên bảy mươi, nhưng ông còn rất ham tiền. Hằng ngày, ông đi làm vất vả để kiếm tiền. Thấy thế, đứa con trai của ông mới khuyên ông nên ráng lo tu hành. Tuổi già gần đất xa trời mà cha chưa chịu thức tỉnh lo tu. Khi cha chết đâu có mang được tiền theo.
Ông cha nghe nói, nổi giận la ó om sòm. Biết cha mình nặng tiền bạc, nên người con tìm cách khuyến dụ. Anh ta lên chùa trình bày cho thầy biết, để nhờ thầy tìm cách chuyển hóa ông ta. Vị thầy nói rằng, thầy sẽ thuê cha con niệm Phật. Cứ niệm 10 xâu chuỗi, thầy sẽ trả cho một quan tiền. Người con về thuật lại cho cha biết. Ông cha rất vui mừng và đồng ý ngay.
Kể từ đó, ông ta bắt đầu niệm Phật. Niệm một cách chí thành tha thiết. Vì nếu ông niệm dối trá thì không được trả tiền. Đó là điều kiện mà vị thầy đã giao ước. Ông niệm Phật không bao lâu đã được kết quả tốt đẹp. Tâm ông được an định. Ông mất trong tư thế đang ngồi niệm Phật trước bàn Phật. Vì ham tiền, nên ông tha thiết chí thành niệm Phật. Kết quả được vãng sanh an lành như thế.
Căn tánh nghiệp lực của mỗi người sai biệt nhau rất nhiều. Bất cứ dùng phương tiện nào nhằm thức tỉnh, chuyển hóa người ta biết lo tu niệm, làm lành, lánh dữ và có kết quả tốt, đều là thượng sách cả. Điều quan trọng là chúng ta khéo biết sử dụng phương tiện thích hợp với căn cơ. Người cha hiểu rõ tánh con, ngược lại, người con hiểu rõ tánh cha, cả hai đều suy nghĩ tìm phương cách thích nghi để chuyển hóa. Cả hai đều sử dụng đồng tiền rất hiệu quả. Cùng một vật thể, nếu người khéo biết sử dụng, thì sẽ đạt được hiệu quả rất cao và lợi ích rất lớn.
Sự giáo dục con người không phải chỉ có cách dạy dỗ không thôi, mà nó còn nhiều phương cách khác. Nhưng dù cách nào, người có trách nhiệm giáo dục cũng phải có tấm lòng yêu thương chân thiết. Thiếu tình thương, hiểu và cảm thông, thì việc làm khó đạt được thành công như ý muốn.
Pháp cú trên, Phật nói, dù cho một người nào đó có đủ quyền uy thống suất khắp cả địa cầu, thậm chí làm chủ cả chư thiên, nhưng không thể nào sánh kịp một người chứng quả Tu đà hoàn. Vì có thế lực uy quyền đến đâu, mà không biết chuyển hóa tu hành, thì rốt cuộc cũng đi mãi trong sanh tử luân hồi. Cậu bé Kàla vì có phước nên sanh ra trong một gia đình giàu có nhất xứ, nhưng cái phước đó cũng không thể cứu được con người thoát khỏi mọi đau khổ ràng buộc. Chỉ có một con đường biết hoán chuyển nội tâm, theo một tiến trình: “Niệm, Định, Tuệ”, thì mới mong thoát khổ và đạt được Niết bàn an lạc.
XIV. PHẨM PHẬT ĐÀ
(Buddhavaggo)
179. Chẳng ai hơn nổi người đã thắng phục dục tình. Người đã thắng phục dục tình không còn bị thất bại trở lại, huống Phật trí mênh mông không dấu tích, các người lấy gì mà hòng cám dỗ được?
By what track can you trace that trackless Buddha of limitless range, whose victory nothing can undo, whom none of the vanquished defilements can ever pursue?
Kệ Tụng
Chiến thắng không thể bại
Trên đời không dấu tích
Phật giới rộng mênh mông
Làm sao hòng theo dõi.
180. Người dứt hết trói buộc, ái dục còn khó cám dỗ được họ, huống Phật trí mênh mông không dấu tích, các ngươi lấy gì mà hòng cám dỗ được ư?
By what track can you trace that trackless Buddha of limitless range, in whom exists no longer the entangling and embroiling craving that perpetuates becoming?
Kệ Tụng
Lưới mê được giải tỏa
Ái phược hết buộc ràng
Phật giới rộng mênh mông
Làm sao lòng theo dõi.
Lược giảng
Hai Pháp cú nầy Phật dạy cho các cô gái con của ma vương, khi Ngài còn ngồi ở cội Bồ đề.
Bà la môn Màgandiya (Mạn la hoa) ở nước Kuru (Câu lâu) ông nầy có người con gái đẹp tuyệt trần. Những chàng trai thuộc con nhà danh gia thế phiệt đến dạm hỏi xin cưới, nhưng tất cả đều bị cô ta từ khước.
Một hôm, đức Phật quan sát căn cơ tất cả chúng sanh, Ngài thấy, Bà la môn nầy cùng vợ ông có thể đắc quả A na hàm. Phật liền đi đến gặp ông ta. Ông nhìn thấy đức Phật tướng hảo quang minh, hình dung đỉnh đạt, mừng quá, ông vội chạy đến và bày tỏ nỗi vui mừng. Ông nói, ông có một đứa con gái nhan sắc tuyệt đẹp, trên đời có một không hai. Ông hứa là sẽ gả cho đức Phật.
Nói xong, ông quày quả chạy về nhà, báo tin cho vợ và con biết. Bảo đứa con gái trang sức cho thật đẹp rồi cả ba người đồng đến gặp Phật. Đến nơi, không thấy Phật đâu, chỉ còn thấy một dấu chân ấn sâu dưới đất. Ông bảo bà vợ xem thử, bà vợ nói rằng: “Đây là dấu chân của người ly dục”. Ông tức giận quyết tìm cho gặp đức Phật.
Khi tìm được Phật, ông bảo đây là con gái tôi sẽ gả cho Ngài. Thay vì Phật từ khước, Phật lại kể cho ông nghe câu chuyện trước kia, về các người con gái của ma vương.
Phật nói, trước kia, khi Phật thành đạo dưới cây Bồ đề đã có nhiều đứa con của ma vương đến khuấy phá Ngài. Bọn chúng đã khêu gợi nhan sắc đủ thứ. Nhưng tất cả đều thất vọng trước sức thiền định và trí huệ sáng suốt của Ngài. Và Ngài đã cho bọn chúng một bài học: “Tất cả đều là những túi da hôi thúi, không làm gì mê hoặc được Ta. Mọi người hãy cút đi! Những thứ ấy Ta không cần dùng”. Nhân đây, Phật nói Pháp cú nầy.
Trên đường đời, chiến thắng được lòng dục vọng của chính mình thật là khó. Người ta có thể diệu võ dương oai hò hét chiến thắng oanh liệt vang dội ngoài chiến trường, nhưng họ không dễ gì chiến thắng được cái lòng ham muốn của mình. Trước những khó khăn nguy nan đầy gian lao cạm bẫy, người ta cũng có thể tìm cách để vượt qua dễ dàng, nhưng trước sự khêu gợi lòng dục vọng, thì người ta đành phải xuôi tay đầu hàng. Đã có biết bao người chiến sĩ không phơi thây ngoài trận địa, mà lại phơi thây ở những nơi hang ổ dục tình. Đó là điều mà con người thật khó khắc phục chế ngự để vượt qua. Quả đúng như lời người xưa đã nói:
Vũ vô thiết tỏa năng lưu khách
Sắc bất ba đào dị nịch nhân
Thiên cổ anh hùng giai tạ thử
Bá thiên đồng tác tự khanh trần.
Nghĩa là:
Mưa không phải là cái khóa bằng sắt, nhưng nó có thể giữ khách lại một cách dễ dàng.
Sắc đẹp của mỹ nhân không phải là sóng to mà nó có thể nhận chìm con người.
Từ ngàn xưa đã có biết bao anh hùng đều chết vì sắc đẹp của mỹ nhân. Và có hằng trăm ngàn người đều bị sa đọa vào cái hầm trần lao tuyệt vọng khổ đau nầy.
Ở đây, ta thấy, đức Phật đã khắc phục, chiến thắng ngoại cảnh cám dỗ, có sức quyến rũ thu hút làm lung lạc lòng người. Ngài đã chiến thắng bằng cây cung Thiền định và mũi tên Trí huệ. Đây là hai loại vũ khí sắc bén mà Ngài đã chiến thắng oanh liệt. Trước sắc đẹp của các mỹ nhân thuộc bọn ma vương quyến rũ, nhưng cũng không thể gạt gẫm qua nỗi đôi mắt tinh anh sáng suốt của Ngài. Vì những dục vọng tham, sân, si… không còn có cơ hội bộc phát. Tất cả những thứ kiết sử đó, Ngài đã không còn. Ngài đã hoàn toàn giác ngộ giải thoát.
Ngài đã hùng tráng mạnh dạn đi vào đời bằng đôi chân Thiền định vững chắc và với một thanh gươm Trí huệ sáng ngời, cùng với một chiếc áo giáp sắt tinh tấn. Nhờ trang bị như thế, nên không có một sức cám dỗ quyến rũ nào đủ lực dụng làm cản trở bước chân vân du hóa đạo của Ngài.
Ngài đã nói rõ bằng tất cả kinh nghiệm mà Ngài đã trải qua rằng: chẳng ai hơn nỗi người đã thắng dục tình. Chúng ta bị thất bại liên miên trên bước đường đời là vì chúng ta chưa thắng nỗi dục tình. Chúng ta còn thích làm nô lệ cho bọn chúng. Ngày nào bọn chúng còn sai sử ta, thì ngày đó chắc chắn là ta còn phải đau khổ. Khi nào ta không còn bị bọn chúng sai sử nữa, thì chừng đó ta mới thực sự được tự do giải thoát. Và ta không còn bị thất bại nữa. Chừng đó đối với ta, tất cả là một bầu trời trong sáng an vui hạnh phúc. Ta không còn để lại bất cứ dấu vết gì. Đó là một bước chân ra đi không lưu lại vết hình. Mọi thứ đều cởi bỏ. Chỉ còn lại một bầu trời tự do trong sáng mà thôi.
Về Đầu Trang Go down
https://triamquan.forumvi.com/
Tri Âm Quán
Thành Viên Tích Cực
Thành Viên Tích Cực
Tri Âm Quán


Tổng số bài gửi : 6340
Reputation : 2
Join date : 31/07/2013
Đến từ : Thị Trấn Chũ

Kinh Pháp Cú chú giải (tập 1) - Page 2 Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Kinh Pháp Cú chú giải (tập 1)   Kinh Pháp Cú chú giải (tập 1) - Page 2 EmptySun Nov 16, 2014 11:46 am

181. Người trí thường ưa tu thiền định, ưa xuất gia và ở chỗ thanh vắng. Người có Chánh niệm và Chánh giác, bao giờ cũng được sự ái kính của Thiên, nhơn.
Those wise ones who are devoted to meditation and who delight in the calm of renunciation – such mindful ones, Supreme Buddhas, even the gods hold dear.
Kệ Tụng
Người trí chuyên thiền định
Thích an tịnh, giải thoát
Bậc Chánh giác, Chánh niệm
Chư thiên đều ái kính.
Lược giảng
Phật dạy Pháp cú nầy tại cổng thành Sankassa, có liên hệ đến nhiều thiên, nhơn, với duyên do là vấn đề thi triển thần thông. Phái ngoại đạo dùng mọi mánh lới thủ đoạn, gian xảo để họ so tài bằng cách sử dụng thần thông với Phật. Nhưng tất cả họ đều bị thất bại. Mọi thủ đoạn đều bị lộ tẩy phơi bày trước công chúng và họ rất hổ thẹn. Phật không cần sử dụng đến thần thông, dù có nhiều đệ tử xin phép Ngài để được so tài cao thấp cùng với ngoại đạo. Nhưng Phật không đồng ý. Phật đã quở ông Tân Đầu Lư về việc phô trương thần thông nầy. Trời Đế Thích ra oai trừng phạt họ tơi bời. Sau khi Phật hiện thần thông song hành có nhiều phép lạ, rồi Ngài lên cung trời thuyết pháp và trở lại nhơn gian hóa độ. Các hàng thiên nhơn, kể cả ngoại đạo trông thấy thảy đều quy kính bái phục. Nhân đây, Phật nói Pháp cú nầy.
Trong đạo Phật việc hiện phép lạ thần thông là điều tối kỵ. Tại sao? Vì đó không phải là mục đích của đạo Phật nhắm đến. Chủ trương của đạo Phật là dạy mọi người phải đạt được giác ngộ và giải thoát. Ngoài ra, tất cả không phải cái mà đạo Phật chủ trương nhắm tới. Tuy nhiên, trong khi giáo hóa, vì muốn khắc phục chuyển hóa ngoại đạo, nên đôi khi Phật hay các đệ tử, như Tôn giả Mục Kiền Liên, phải vận dụng phương tiện thi thố thần thông.
Trường hợp nói trên là một trong nhiều trường hợp mà Phật đã sử dụng. Sử dụng với mục đích là để hàng phục ngoại đạo. Nếu không sử dụng phương tiện nầy, thì thật khó giáo hóa ngoại đạo ở thời đại đức Phật. Nhưng đây cũng là trường hợp rất hiếm hoi. Vì thần thông, là cái dụng phát ra từ thể mà có. Khi tu hành đạt được cái tánh thể rồi, thì hành giả sẽ có vô số diệu dụng thần thông. Nếu không hiểu được cái cội gốc căn bản nầy, thì người tu Phật, không khéo sẽ bị lệch hướng. Tức là chỉ chạy theo trên cái dụng, mà quên mất cái thể, và như thế dễ bị lầm lạc, mê hoặc lòng người, nên khó được giác ngộ giải thoát.
Pháp cú trên, Phật dạy người tu hành là phải lấy thiền định làm căn bản. Bất cứ tu theo pháp môn nào, hay theo hệ phái nào, hành giả cũng phải cấm sâu gốc rễ thiền định. Nhất là đối với những hành giả tu theo Phật giáo Nguyên Thủy, thì việc tham thiền nhập định đối với họ là tối thiết yếu. Nhờ có định mới phát sanh trí huệ. Cho nên “Giới, Định, Huệ” là ba môn học chính yếu của người tu Phật.
Muốn thật hành ba pháp nầy cho có hiệu quả cao, thì Phật dạy người xuất gia phải ở chỗ thanh vắng. Người xuất gia đối với ba môn học nầy không thể thiếu được. Vì nó quan trọng thiết yếu như hơi thở và mạng sống. Nhờ sự ứng dụng hành trì một cách vững chãi, chúng ta mới có thể vượt qua được những chướng duyên thử thách.
Tâm có an định, trí ta mới sáng suốt. Muốn cho tâm an, thì phải giữ giới. Giới là hàng rào ngăn chặn mọi thứ dục nhiễm. Nhờ giữ giới tinh nghiêm, thanh tịnh mà tâm ta mới được an định và tự do. Đó là một đại lộ mà bất cứ hành giả nào muốn được lợi mình lợi người hiện tại và mai sau, cũng đều phải đi qua. Không có một lộ trình nào khác để chúng ta đạt được Niết bàn an lạc.
182. Được sinh làm người là khó, được sống còn là khó, được nghe Chánh pháp là khó, được gặp Phật ra đời là khó.
Hard is it to be born a man; hard is the life of mortals. Hard is it to gain the opportunity of hearing the Sublime Truth, and hard to encounter is the arising of the Buddhas.
Kệ Tụng
Sinh làm người là khó
Được sống còn là khó
Nghe chánh pháp là khó
Sống gặp Phật là khó.
Lược giảng
Pháp cú nầy Phật dạy dưới bảy cây Sirìsaka, gần Ba la nại, có liên hệ đến Long vương Erakapatta. Vị Long vương nầy, trong tiền kiếp thời Phật Ca Diếp, làm một Sa môn trẻ, chỉ vì vô cớ làm rách chiếc lá Eraka, mà phải chịu quả báo làm vua loài Rồng trải qua nhiều kiếp, không được làm người. Long vương thường dạy cho long nữ hát vài câu đố trên sông Hằng. Nếu có ai trả lời được, thì Long vương biết chắc là có Phật ra đời. Thật vậy, khi long nữ ca hát, thì Phật dạy cho anh chàng Uttara câu trả lời. Nhờ đó, mà cuối cùng, vị Long vương nầy mới gặp được Phật. Nhân đó, Phật nói Pháp cú nầy.
Nhân quả báo ứng thật là ghê sợ. Chỉ làm rách một chiếc lá thôi mà mắc phải quả báo làm rồng. Nhưng vị Sa môn nầy nhờ có tu thiền định (tà định) mà tái sanh làm vua loài rồng. Khi thác sanh làm rồng trải qua nhiều đời không được làm người. Thế mới biết, được làm thân người không phải là chuyện dễ dàng. Vì thế, trong Kinh Phật thường dạy: “Được làm thân người rất khó”. Khó hơn là con rùa mù tìm bộng cây để chui vào.
Trên biển cả bao la, có một bộng cây khô trôi nổi bồng bềnh từ đông sang tây, từ nam qua bắc, trong biển đó có con rùa mù, trăm năm mới trồi đầu lên một lần để tìm bộng cây chui vào. Phật nói, con rùa mù kia còn có thể chui vào bộng cây được, còn con người khi mất thân nầy rồi không thể dễ dàng có lại được.
Thế mà, trong đời có lắm người khi được thân nầy, mà họ không biết quý trọng gìn giữ lại đi quyên sinh tự tử! Phật nói: “Đó là hạng người thật quá ngu si”. Trên thế giới ngày nay, có rất nhiều thanh thiếu niên nam nữ tự tìm lấy cái chết bằng cách quyên sinh. Bạn cứ thử tưởng tượng ở những nước văn minh tân tiến, như Anh, Mỹ, Pháp v.v… hằng ngày người ta thống kê có khoảng trên 30 thanh niên nam nữ tự tử.
Tại sao họ phải tìm lấy cái chết như thế? Bạn cho rằng, họ là kẻ mù quáng phải không? Bởi mù quáng nên họ mới hành động như thế. Nhưng thưa bạn, lý do vì sao mà họ mù quáng không muốn sống? Là con người không ai lại không tham sanh úy tử? Thế thì tại sao họ phải chết? Họ chết, đương nhiên có nhiều lý do bức xúc nội và ngoại tại. Nhưng theo tôi, chỉ có một lý do quan trọng nhất, đó là nếp sống trong gia đình của họ bị bật gốc mất hạnh phúc.
Họ thực sự không có được một mái ấm gia đình hạnh phúc. Họ không được cha mẹ yêu thương quan tâm chăm sóc. Vì cha mẹ họ bất hòa hay tranh cãi nhau. Họ sống trong gia đình như sống trong cảnh địa ngục. Để bớt căng thẳng, tất nhiên họ phải tìm cách giao du với bạn bè. Họ muốn đi tìm sự nguôi ngoai khuây khỏa tinh thần. Nhưng rất tiếc, khi giao tiếp với bạn bè, không phải gặp bạn bè nào cũng tốt hết. Bề ngoài thì bạn bè, nhưng bên trong thì lại khác.
Với tuổi ngây thơ trong trắng, làm sao họ thấu hiểu hết được những bí ẩn bẫy rập ác độc của cuộc đời. Bạn xấu ác thì dàn trải quá nhiều. Do đó, khi đang buồn chán lại gặp bạn xấu ác quyến rũ, nên họ dễ bị sa ngã đi vào con đường sa đọa, trụy lạc. Khi đã lún sâu rồi, họ khó mà rút chân ra.
Từ đó, họ chịu đựng quá nhiều thứ áp lực luôn đè nặng tâm trí ngây thơ của họ. Áp lực của nhà trường, của bạn bè, của xã hội v.v… Bấy giờ, họ nhìn lại gia đình, thì không có chỗ tựa nương. Họ bị hụt hẫng, đói khát tình thương yêu. Họ thiếu hẳn tình thương an ủi của cha mẹ. Khi gặp khó khăn, họ không biết thổ lộ, tâm sự phơi bày cùng ai! Cha mẹ họ sống không có hạnh phúc. Hai người gặp nhau như nước với lửa, lúc nào trong gia đình cũng có sóng gió nổi lên bất an. Có kẻ thì không cha, không mẹ, sống lang thang bụi đời. Dù cha mẹ họ còn đó, nhưng coi như không có, vì cha mẹ họ đã bỏ bê hất hủi họ.
Cha mẹ họ, vì bất hòa với một lý do nào đó, nên đưa đến gia đình tan nát. Kẻ ở một nơi người thì một ngã. Sau khi ly dị mỗi người tìm nguồn vui thú riêng để thụ hưởng. Mạnh ai nấy sống buông thả. Hoặc giả vì bận lo cho sự sống mới, nên cha hay mẹ họ cũng không có thời giờ để ý quan tâm tới họ nữa.
Từ đó, họ không còn thiết tha gì đến sự sống. Họ buồn nản chán đời. Vì khi va chạm thực tế với đời, họ thấy toàn là đen tối, gian dối, lừa bịp, cướp đoạt tranh giành sự sống. Đó là chưa nói, khi họ vướng vào những tệ nạn: xì ke ma túy, băng đảng, trộm cướp, giết người v.v… Họ đã đi đến mức đường cùng, không còn cách nào để giải quyết. Đường hầm của họ hoàn toàn đen tối, không thấy ánh sáng, dù họ đã đi cuối đường hầm của cuộc sống.
Bấy giờ, họ nhìn thấy ai cũng ghê tởm. Họ đâm ra chán ngấy tất cả. Nhìn lại gia đình, thì hoàn toàn đã mất mát. Nhìn lại bạn bè, người thân, mọi người đều xa lánh họ. Xã hội thì giăng đầy cạm bẫy. Tình yêu thì toàn là giả dối lường gạt. Họ hoàn toàn hụt hẫng mất hết tất cả, họ không còn gì để bám víu tựa nương. Từ đó, một ý tưởng đen tối đến với họ. Chỉ có cái chết mới có thể giải quyết hết mọi việc rắc rối vấn vương. Thế là, họ phải tìm mọi cách để kết liễu cuộc đời.
Trước thảm trạng bi đát tang thương đó, các bậc làm cha mẹ, các vị lãnh đạo tinh thần, các nhà lương tâm xã hội, các nhà có trách nhiệm giáo dục, các vị nghĩ gì và làm gì để làm giảm bớt tình trạng tự tử đen tối của những thanh thiếu niên nam nữ hiện nay? Xin mọi người hãy tìm phương cách chạy chữa, nhất là đối với các bậc phụ huynh. Chỉ có mái ấm hạnh phúc gia đình, mới thực sự là một món quà lớn nhất, trong các thứ món quà mà cha mẹ thương tặng cho con. Xin các bậc làm cha mẹ hãy bình tâm suy xét và gạt bỏ mọi vị kỷ tỵ hiềm cá nhân để cùng nhau xây dựng lại mái ấm hạnh phúc gia đình. Đó là một phương thuốc kỳ diệu vô giá chữa lành căn bệnh tự tử cho tuổi trẻ hiện nay.
Trở lại Pháp cú trên Phật nói: “Được sinh làm người là khó, được sống còn là khó, được nghe Chánh pháp là khó, được gặp Phật ra đời là khó”. Phật nói đã được làm người là cái khó thứ nhất, vì trong sáu đường: Trời, người, A tu la, địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh, thì cõi người là dễ tu tiến hơn hết. Từ cõi người tiến lên Thánh quả nhanh hơn so với các cõi kia. Đó là cái khó thứ nhất mà chúng ta đã có được phải khéo gìn giữ để tiến tu.
Tuy đã được thân người, nhưng cũng không phải dễ nghe được Chánh pháp. Chánh pháp là những lời Phật Tổ dạy đúng theo chân lý. Chỉ có Chánh pháp mới đưa con người ra khỏi vòng sanh tử khổ đau. Không phải ai cũng nghe được Chánh pháp Phật dạy. Một khi nghe theo tà thuyết ngoại đạo, thì ôi thôi! chúng ta sẽ sa đọa vào con đường khổ không biết bao giờ mới được thoát ra. Cho nên Phật nói nghe được Chánh pháp là khó.
Cái khó kế tiếp là gặp Phật ra đời. Cái khó nầy quả thật là khó. Khi Phật ra đời, thì chúng ta đã bị trầm luân, không biết ở đâu và làm thân con gì. Nay được thân nầy, thì Phật đã nhập diệt. Tuy nhiên, dù chúng ta ra đời không gặp Phật, nhưng bù lại, chúng ta cũng có chút phước duyên còn gặp được Phật pháp. Nếu chúng ta y cứ theo lời Phật dạy mà nỗ lực ứng dụng tu hành, thì chúng ta cũng sẽ được giác ngộ giải thoát. Phật ra đời bằng ứng thân ở Ấn Độ, thì chúng ta không gặp. Nhưng Phật pháp thân, thì chúng ta không phải là không gặp được. Chỉ cần một giây phút nào đó, tâm ta thật yên lặng sáng suốt, không phóng nghĩ quá khứ, vị lai, thì ngay giây phút đó là ta đã thực sự gặp Phật của ta rồi. Đó là điều mà chúng ta có thể làm được. Như vậy, đâu phải chúng ta vô phần không gặp được Phật. Vì Phật dạy : mỗi người đều sẵn có tánh Phật. Tức tâm tức Phật. Chỉ cần hồi quang phản chiếu trực nhận cái tâm thể bất sanh bất diệt, ngay đó là Phật rồi, không cần tìm đâu xa. Đó là nguồn an ủi lớn nhất của chúng ta. Mong sao mỗi người chúng ta nên ý thức những điều khó đó mà nỗ lực tu hành chóng được giải thoát.
183. Chớ làm các điều ác, gắng làm các việc lành, giữ tâm ý trong sạch. Ấy lời chư Phật dạy.
To avoid all evil, to cultivate good, and to cleanse one’s mind – this is the teaching of the Buddhas.
Kệ Tụng
Chớ làm các điều ác
Gắng làm các hạnh lành
Giữ tâm ý trong sạch
Chính lời chư Phật dạy.
Lược giảng
Pháp cú nầy Phật dạy tại tinh xá Kỳ Viên, có liên quan đến câu hỏi của Tôn giả A Nan. Một hôm, Ngài A Nan khởi nghĩ: Đức Thế Tôn đã dạy rõ về cha mẹ của bảy đời chư Phật, về thọ mạng, về nơi thành đạo v.v… nhưng Ngài không nói rõ phương cách giáo hóa của bảy đời chư Phật trong ngày Bố tát. Phương cách đó có giống như hôm nay hay là khác nhau? Nghĩ xong, Ngài A Nan liền bạch hỏi đức Phật.
Phật dạy: Chư Phật tuy khác nhau về thời gian bố tát, nhưng tương đồng về lời dạy khi giáo giới. Trước hết, Phật nêu ra bài kệ của Phật Ca Diếp dạy chúng:
Các điều ác chớ làm
Vâng làm các điều lành
Giữ tâm ý trong sạch
Là lời chư Phật dạy.
Bài kệ tuy có bốn câu ngắn gọn, nhưng đã gói trọn toàn bộ hệ thống giáo điển của Phật dạy. Dù cho chư Phật nào ra đời, tất cả cũng đều dạy như thế, nên nói là lời chư Phật dạy. Nếu y cứ vào bài kệ nói trên mà ứng dụng tu hành, thì chắc chắn hiện đời, chúng ta sẽ được an lạc giải thoát. Chỉ ác hành thiện, là người Phật tử luôn luôn ghi nhớ thật hành. Điều quan trọng là phải luôn giữ gìn tâm ý mình cho được thanh tịnh.
Hằng ngày, sở dĩ chúng ta đau khổ nhiều, là vì tâm ta luôn loạn động bất an. Con khỉ ý thức luôn luôn chuyền nhảy, không lúc nào nó chịu đứng yên. Muốn nó đứng yên, Phật dạy có nhiều cách để trị liệu nó. Tham thiền, niệm Phật, tụng kinh, trì chú v.v… tất cả cũng nhắm vào một mục đích chung là trị con khỉ ý thức nầy. Khi nó đứng yên, thì lúc đó tâm ta mới có được an định. Muốn được như thế, thì Phật dạy người tu phải thường xuyên nhìn lại mình. Có nhìn lại thật kỹ ở nơi mình mới thấy được sự hoạt động mạnh yếu của nó. Nếu chúng ta tu lơ là, không hành trì miên mật, thì thật khó được an định. Bởi vì tâm ta thường phan duyên theo trần cảnh. Nói rõ hơn là nó thích đuổi theo sáu trần, và đắm mê nơi ngũ dục. Đó là những món mồi ngon mà nó thường say mê tìm cầu thụ hưởng. Chính vì thế, mà câu kệ thứ 3 trên Phật dạy ta phải cố gắng chuyển hóa, gạn lọc tâm ý mình cho được thanh tịnh. Có thanh tịnh, thì sự tu hành của chúng ta mới có kết quả an lạc và giải thoát.
184. Chư Phật thường dạy Niết bàn là quả vị tối thượng, nhẫn nhục là khổ hạnh tối cao. Xuất gia mà não hại người khác, không gọi là xuất gia Sa-môn.
Enduring patience is the highest austerity. “Nibbana is supreme,” say the Buddhas. He is not a true monk who harms another, nor a true renunciate who oppresses others.
Kệ Tụng
Chư Phật thường giảng dạy:
“Nhẫn, khổ hạnh tối thượng
Niết bàn, quả tối thượng
Xuất gia không não người
Sa môn không hại người”.
Theo truyện tích, thì ba Pháp cú 183, 184, 185, là do Ngài A Nan thưa hỏi như trên đã lược qua, mà đức Phật dạy liên tiếp ba Pháp cú nầy.
Phật dạy Pháp cú nầy, ta nên chú ý những từ ngữ: Niết bàn, nhẫn nhục, và xuất gia. Về ý nghĩa của những từ ngữ nầy, chúng ta thấy rải rác trong các Pháp cú trước, Phật cũng đều có đề cập đến. Và chúng tôi cũng đã có giải thích qua. Ở đây, chúng tôi chỉ xin giải thích một cách ngắn gọn thôi.
Phật nói: Niết bàn là quả vị tối thượng, tối thượng đây ý nói là quả vị Niết bàn của hàng A la hán. Vì A la hán do nhân tu diệt hết phiền não mà đạt được Niết bàn vô sanh. Tức các Ngài nầy không còn sanh tử luân hồi nữa. Còn nếu nói bên Đại thừa, thì quả vị tối thượng là chỉ cho quả vị Niết bàn của Phật. Chỉ có Niết bàn của Phật mới được gọi là tối thượng.
Kế đến Phật dạy, người tu hành muốn đạt được quả vị đó, thì mỗi người phải cố gắng thật hành hạnh nhẫn nhục. Có nhẫn nhục mới vượt qua mọi chướng ngại thử thách. Nhẫn nhục với chính mình, nhẫn nhục với người và cảnh vật. Nhẫn nhục không phải là yếu hèn mà trái lại nó là một sức mạnh rất lớn. Nói chung, người tu phải thường xuyên thật hành hạnh nhẫn nhục mới có thể khắc phục chính mình và cảm hóa kẻ khác. Bằng trái lại, thì khó mong đạt thành sở nguyện.
Phật nói: “Xuất gia mà não hại người khác, không gọi là xuất gia Sa môn”. Bản nguyện của người xuất gia rất cao thượng. Vì muốn độ mình, độ người ra khỏi con đường sanh tử khổ đau mà xuất gia. Với một bản nguyện cao cả như thế, thì làm sao lại não hại người khác? Vì còn khởi ý niệm não hại đó là tâm ác độc. Tu hành theo hạnh xuất thế, mà còn nuôi dưỡng cái tâm ác độc đó, thì sao gọi là xuất gia? Vì xuất gia là phải ra khỏi ba cõi. Nói cách khác, người xuất gia là phải ra khỏi ba nhà. Mà cái nhà khó ra nhất, đó là nhà phiền não. Hằng ngày phải tâm nguyện ra cho khỏi nhà nầy. Tất cả pháp môn Phật dạy, mục đích, cũng đều muốn người xuất gia ra khỏi ngôi nhà nầy. Đã thế, thì làm sao còn có ác ý khởi tâm hại người? Nếu ai còn có cái tâm độc ác nầy, thì không phải là người xuất gia vậy.
185. Chớ nên phỉ báng, đừng làm não hại, giữ giới luật tinh nghiêm, uống ăn có chừng mực, riêng ở chỗ tịch tịnh, siêng tu tập thiền định. Ấy, lời chư Phật dạy.
Not despising, not harming, restraint according to the code of monastic discipline, moderation in food, dwelling in solitude, devotion to meditation – this is the teaching of the Buddhas.
Kệ Tụng
Chớ phỉ báng, não hại
Hãy hộ trì giới bản
Ăn uống có tiết độ
Sống tại nhàn tịnh xứ
Tâm chuyên tu thiền định
Ấy lời chư Phật dạy.
Lược giảng
Để hiểu Pháp cú nầy dễ hơn, chúng ta tạm chia ra thành 2 câu:
1. Phật dạy: “Chớ nên phỉ báng, đừng làm não hại, giữ giới luật tinh nghiêm”.
Phỉ báng là chê bai, bài xích, công kích, xuyên tạc, nói xấu v.v…Đây là loại ác ngữ mà người biết chút ít tu hành không ai sử dụng đến. Vì họ biết rõ, khi thốt ra những lời nầy là đã hại mình trước rồi. Nhất là lại phỉ báng người giữ giới luật tinh nghiêm. Dù người đó là xuất gia hay tại gia, chúng ta cũng không nên có ý niệm khinh thường chê bai. Chỉ có người ngu muội, ganh tỵ mới có ác ý chê bai như thế. Người hiểu rõ luật nhân quả, họ rất cẩn trọng ở nơi ý nghĩ, lời nói và việc làm. Họ là người khéo gìn giữ ở nơi ba nghiệp. Đã thế, thì làm sao họ dám buông lời nói nặng người giữ giới tu hành.
2. Phật dạy tiếp: “Uống ăn có chừng mực, riêng ở chỗ tịch tịnh, siêng tu tập thiền định”.
Uống ăn chừng mực, điều nầy rất có lợi cho sức khỏe. Vì người tu hành, thường phải ngồi thiền nhiều, nếu ăn no quá thì rất trở ngại cho việc hành trì. Ngoài việc lợi ích cho công phu bái sám ra, nó còn lợi ích cho sức khỏe của chúng ta rất lớn. Vì ngày nay, các bác sĩ thường khuyên chúng ta nên chăm sóc sức khỏe bằng cách ăn uống cho có điều độ chừng mực. Không nên lúc gặp thức ăn ngon, thì ăn nhiều quá độ, có hại cho bao tử. Ăn như thế, thì thật là có hại cho sức khỏe. Có người vì bận với công việc làm, nên họ ăn uống giờ giấc rất bất thường. Lúc thì ăn quá sớm, khi thì ăn quá trễ, cứ thế, sức khỏe khó được ổn định. Người xưa nói: “họa tùng khẩu xuất, bệnh tùng khẩu nhập”. Thiết nghĩ, lời nói nầy vẫn còn có giá trị muôn đời. Vì đây là kinh nghiệm của người xưa. Tất cả những chứng bệnh gây ra, phần nhiều là do ăn uống không đúng phép vệ sinh. Thế nên, thời Phật, Phật và các Thánh chúng mỗi ngày chỉ ăn có một bữa trưa, mà thân thể của các Ngài vẫn mạnh khỏe. Các Ngài ăn bằng tất cả sự có mặt của mình. Ăn trong chánh niệm, không suy nghĩ vẫn vơ như chúng ta. Chúng ta ăn trong hối hả, ăn mà không biết mình đang ăn. Ăn như thế, thật là tội nghiệp cho ta quá!
Nên nhớ, ăn ít, xuống cân, giữ chừng mực, đúng theo giờ giấc, đó là chúng ta khéo biết giữ gìn sức khỏe rồi vậy.
Nhờ ăn uống hợp vệ sinh như thế, nên việc ứng dụng ngồi thiền hay ngồi niệm Phật, hành giả cảm thấy rất an ổn thoải mái. Đói quá cũng khó ngồi yên tu, mà no quá óc ách, thì cũng ngồi tức bụng không tu được. Hành giả muốn ngồi thiền hay ngồi niệm Phật, thì cần phải tìm nơi yên tịnh, có thế, thì sự tu hành mới có kết quả cao.Trong nhà Phật có đề cập đến nhiều loại ăn. Ăn bằng vật chất, gọi là đoàn thực. Loại ăn nầy là để bồi dưỡng cơ thể. Còn ăn về tinh thần, có nhiều thứ. Nhưng có hai thứ mà người tu cần ăn, đó là: “Pháp hỷ thực và Thiền duyệt thực”.
Pháp hỷ là chúng ta ăn qua giáo pháp Phật Tổ dạy. Khi nghe pháp hay lúc đọc tụng kinh điển, mà chúng ta có niềm vui an thoát nhẹ nhàng trong tâm thức, thì đó gọi là pháp hỷ thực. Món ăn nầy rất cần thiết để di dưỡng tinh thần.
Thiền duyệt thực là ăn trong lúc hành giả tham thiền nhập định. Duyệt là vui vẻ tươi mát cả tâm lẫn thân. Đây là một món ăn tối thiết yếu để quân bình giữa thân và tâm. Có tham thiền quán tưởng, tâm mới an định. Tâm có an định thì cuộc sống của chúng ta mới có an lạc hạnh phúc vậy.
Về Đầu Trang Go down
https://triamquan.forumvi.com/
Tri Âm Quán
Thành Viên Tích Cực
Thành Viên Tích Cực
Tri Âm Quán


Tổng số bài gửi : 6340
Reputation : 2
Join date : 31/07/2013
Đến từ : Thị Trấn Chũ

Kinh Pháp Cú chú giải (tập 1) - Page 2 Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Kinh Pháp Cú chú giải (tập 1)   Kinh Pháp Cú chú giải (tập 1) - Page 2 EmptySun Nov 16, 2014 11:47 am

186-187. Giả sử mưa xuống bạc vàng cũng chẳng thỏa mãn được lòng tham dục. Người trí đã biết rõ ái dục vui ít mà khổ nhiều. Thế nên, dù sự dục lạc ở cõi trời, người cũng chớ sanh tâm mong cầu. Đệ tử đấng Giác Ngộ chỉ mong cầu diệt trừ ái dục mà thôi.
There is no satisfying sensual desires, even with a rain of gold coins. For sensual pleasures give little satisfaction and much pain. Having understood this, the wise man finds no delight even in heavenly pleasures. The disciple of the Supreme Buddha delights in the destruction of craving.
Kệ Tụng
Dầu mưa vàng mưa bạc
Khó thỏa mãn dục tình
Dục khổ nhiều vui ít
Kẻ trí hiểu như vậy.
Đệ tử bậc chánh giác
Không tìm cầu dục lạc
Dầu ở cõi chư thiên
Chỉ mong tham ái diệt
Lược giảng
Hai Pháp cú nầy Phật dạy tại tinh xá Kỳ Viên, có liên quan đến thầy Tỳ kheo bất mãn.
Sau khi gia nhập Tăng đoàn, thầy nầy rất tinh tấn tu học và làm tròn phận sự của một người xuất gia. Thầy đi tu không bao lâu, cha thầy lâm bệnh qua đời. Trước khi chết, cha thầy để lại 100 đồng cho người em và căn dặn nhớ đưa lại cho thầy. Khi nhận được tiền, thầy sanh tâm bất mãn sự tu hành. Thầy không muốn tiếp tục tu hành xuất gia kham khổ nữa. Thầy có ý định hoàn tục.
Từ lúc khởi ý định nầy, thầy bỏ bê mọi việc tu hành. Thấy thế, các Tỳ kheo khác trình bày với Phật và Phật gọi thầy để hỏi duyên do. Thầy cho biết là với số tiền nầy, thầy có thể ra ngoài đời sống được. Phật phân tích cho thầy thấy rõ 100 đồng không thắm vào đâu trong việc chi tiêu. Phật còn cho biết thêm, thời quá khứ, các ông vua Chuyển luân thánh vương chỉ vẫy tay là mưa tuôn châu báu xuống, vàng bạc đầy đất. Dù được như thế đó, mà các ông vua nầy khi chết vẫn không mãn ước nguyện. Thế thì, đối với 100 đồng của ông, thử hỏi làm được gì?
Tiền tài, danh lợi thật là nguy hiểm. Người tu hành bị những thứ nầy cám dỗ mà tổn giảm đạo hạnh rất nhiều. Vẫn biết, vật chất, tiền tài, danh vọng, chỉ là những thứ huyễn ảo, phù du không thật. Tuy không thật, nhưng con người còn chất chứa nặng lòng tham lam, thì chúng vẫn còn có hấp lực thu hút phi thường. Chính chúng gây ra lắm điều tai hại trong giới tu hành.
Qua câu chuyện lược dẫn trên, cho ta thấy, một thầy Tỳ kheo đang tu hành tinh tấn, sống chung trong Tăng đoàn, bên cạnh còn có sự giáo giới của đức Phật, thế mà chỉ vì có 100 đồng của người cha để lại, mà ông ta muốn bỏ ngang việc tu hành. Tiền tài vật chất thời Phật so với thời đại ngày nay, dĩ nhiên là phải thua kém rất xa. Ngày nay với thời đại khoa học kỹ thuật tiến bộ, có biết bao nhiêu thứ máy móc điện tử tinh vi, nhìn thấy chóa mắt, sức thu hút rất lớn, thế thì, thử hỏi làm sao lòng người không say mê đắm nhiễm cho được?
Đối với người xuất gia đã phát nguyện từ bỏ tất cả, không màng gì đến việc đời, xem tiền tài, danh lợi, vật chất như áng phù vân, như đôi dép bỏ, thế mà vẫn không giữ vững được tâm niệm tu hành trước sức mạnh cám dỗ của ma lực kim ngân. Thế mới biết, sự tu hành đạt được giải thoát không phải là chuyện dễ dàng. Cái gốc của người tu, dù xuất gia hay tại gia, Phật dạy phải chuyên cần gia công diệt trừ phiền não. Dù tu hành lâu năm đến đâu, mà gốc phiền não tham, sân, si, không trừ, thì người đó chưa phải thật sự tu hành.
Dục vọng tham ái là cội gốc của sự sanh tử khổ đau. Vì vô minh mới tham cầu, mới làm thỏa mãn cho dục vọng. Mới có 100 đồng thôi mà thầy Tỳ kheo kia đã muốn sang ngang rồi. Còn bao nhiêu thứ khác của ngũ dục lạc thế gian, liệu người tu có gìn giữ không ham muốn đắm nhiễm được không? Cho nên, theo lời Phật dạy, chỉ có hai con đường khổ vui. Nếu chúng ta chọn con đường khổ, thì tiếp tục làm nô lệ cho dục vọng sai khiến, để thỏa mãn dục tính. Ngược lại, nếu chúng ta muốn đi trên con đường hạnh phúc an vui, thì chúng ta phải đoạn trừ lòng dục vọng.
Bởi vì, vật chất không bao giờ làm thỏa mãn lòng ham muốn của con người. Nếu tiền tài vật chất làm cho con người được an vui hạnh phúc, thì các ông vua không bỏ ngai vàng đi tu. Bằng chứng như đức Phật, như vua Trần Nhân Tôn và các vị vua khác. Dù ở trên ngai vàng, điện ngọc, có biết bao nhiêu thứ dục lạc, để các Ngài vui hưởng lạc thú thỏa thích, thế nhưng các Ngài vẫn phải từ bỏ tất cả.
Tiền tài, danh vọng, địa vị, mỹ nhân, đối với các Ngài toàn là những thứ đau khổ. Chỉ có con đường chuyển hóa hết vô minh phiền não, mới thực sự là giác ngộ giải thoát mà thôi.
188-192. Vì sợ hãi bất an mà đến quy y thần núi, quy y rừng cây, quy y miếu thờ thọ thần (25), nhưng đó chẳng phải là chỗ nương dựa yên ổn, là chỗ quy y tối thượng. Ai quy y như thế khổ não vẫn còn nguyên.
Trái lại, quy y Phật, Pháp, Tăng, phát trí tuệ chơn chánh, hiểu thấu Bốn lẽ mầu: Biết khổ, biết khổ
________________
25 Thọ thần: Thọ chi đề (Rkkhacetya) là “ thọ miếu”, vị thọ thần của Ấn Độ tín ngưỡng, lấy cây làm đối tượng sùng bái, như đối với tháp miếu vậy.
nhân, biết khổ diệt, và biết Tám chi Thánh đạo (26) diệt trừ hết khổ não. Đó là chỗ quy y an ổn, là chỗ quy y tối thượng. Ai quy y được như vậy, giải thoát hết khổ đau.
Driven only by fear, do men go for refuge to many places – to hills, woods, groves, trees and shrines. Such, indeed, is no safe refuge; such is not the refuge supreme. Not bu resorting to such a refuge is one released from all suffering. He who has gone for refuge
to the Buddha, his Teaching and his Order, penetrates with transcendental wisdom the Four Noble Truths – suffering, the cause of suffering, the cessation of suffering, and the Noble Eightfold Path leading to the cessation of suffering. This indeed is the safe refuge, this is the refuge supreme. Having gone to such a refuge, one is released from all suffering.
Kệ Tụng
Loài người vì sợ hãi
Tìm nhiều chỗ quy y
Hoặc cảnh vườn rừng núi
Hoặc cây cối tháp đền.
Chẳng phải chỗ an ổn
Đâu phải chỗ tối thượng
_________________
26 Thánh đạo: Bát chánh đạo: Chánh kiến, Chánh tư duy, Chánh ngữ, Chánh nghiệp, Chánh mạng, Chánh tinh tấn, Chánh niệm, Chánh định.
Nương tựa các chỗ ấy
Không diệt mọi đau khổ.
Ai quy y Phật Đà
Chánh pháp và tăng già
Ai dùng chánh tri kiến
Thấy được bốn diệu đế.
Thấy khổ và khổ tập
Thấy cả sự khổ diệt
Thấy con đường bát chánh
Đưa đến diệt khổ não.
Thật nương tựa an ổn
Thật nương tựa tối thượng
Có nương tựa như vậy
Mới diệt mọi khổ đau.
Lược giảng
Phật dạy 4 Pháp cú trên tại tinh xá Kỳ Viên, có liên quan đến câu chuyện Bà la môn Aggidatta (A kỳ đạt đa).
Aggidatta là thầy tư tế của vua Mahàkosala, tức vua cha của Ba Tư Nặc. Sau khi vua cha băng hà, ông ta vẫn được vua Ba Tư Nặc trọng dụng. Về già, ông xuất gia tu theo đạo Bà la môn. Ông có số môn đồ rất đông. Phật muốn chuyển hóa ông, nên sai Ngài Mục Kiền Liên đến trước để hàng phục Long vương, vì Long vương là bạn chí thân của ông. Ngài Mục Kiền Liên vâng lời Phật dạy đến hàng phục Long vương. Hàng phục xong, các đồ đệ của Aggidatta đều hết sức bái phục quy kính Tôn giả Mục Kiền Liên.
Sau đó, Phật đến và hỏi Aggidatta dạy môn đệ như thế nào? Ông trả lời rằng ông dạy mọi người nương tựa nơi núi rừng, hang động, cây cối. Đó là những nơi nương tựa vững chắc. Nương tựa như vậy các ngươi sẽ thoát khổ đau.
Phật nói: “Không đúng! Nầy Aggidatta! Ai nương tựa vào những nơi ấy không thoát đau khổ. Chỉ có người quy y Phật, Pháp, Tăng mới hoàn toàn thoát khỏi vòng khổ đau”. Nhân đó, Phật nói 4 Pháp cú nầy. Nói xong, mọi người đều xin quy y theo Phật và không bao lâu Aggidatta chứng quả A la hán.
Từ ngàn xưa, con người đứng trước mọi hiện tượng thiên nhiên, họ đều sanh tâm sợ hãi. Họ cho rằng, mỗi một hiện tượng như: đất, đá, núi, rừng, trời, biển, cây cối, sấm sét v.v… mỗi mỗi đều có một vị Thần ngự trị. Do đó, muốn cho đời sống được yên ổn, họ phải cúng tế lo lót cho các vị Thần. Tức là họ không dám làm những điều sai trái sợ bị các vị Thần quở phạt.
Từ đó, họ hết lòng quy kính nương tựa. Đại biểu như Bà la môn Aggidatta đã dạy môn đệ phải quy kính nương tựa với các hiện tượng đó. May mắn thay! Aggidatta và các đồ đệ đã được đức Phật giáo hóa kịp thời, nên tất cả đều trở về với con đường Chánh đạo. Nhưng trước khi họ quy phục theo Phật, phải trải qua một cuộc trổ tài thi thố thần thông giữa Tôn giả Mục Kiền Liên và Long vương.
Từ trước, họ kính trọng tôn sùng Long vương rất mực. Vì Long vương hiện ra nhiều phép lạ thần thông mà họ chưa từng thấy. Nhưng sau khi qua cuộc đọ sức tranh tài, họ mới biết thần thông biến hóa của Long vương không qua nổi Tôn giả Mục kiền liên. Họ tự nghĩ, đệ tử Phật còn như thế, thì Phật còn cao hơn gấp mấy ngàn lần.
Do nghĩ thế, nên khi họ thấy Phật đến, tất cả đều bái kính xin quy y theo Phật. Đó cũng là một phương tiện giáo hóa thời Phật. Vì thời Phật có rất nhiều ngoại đạo, họ tu luyện theo tà giáo có nhiều phép lạ. Và họ rất tin tưởng vào các vị Thần linh. Nếu không sử dụng thần thông như thế, thì Phật không bao giờ nhiếp phục được họ.
Qua những câu Pháp cú trên, Phật đã minh định lập trường rất rõ, chỉ có nương tựa vào Tam Bảo con người mới thoát khỏi khổ đau. Bởi vì, nương tựa vào ngoại cảnh, tất cả đều sinh diệt vô thường. Không có một hiện tượng nào thoát khỏi định luật vô thường. Trong kinh Kim Cang Bát Nhã Phật dạy:
Nhứt thiết hữu vi pháp
Như mộng huyễn bào ảnh
Như lộ diệc như điển
Ưng tác như thị quán.
Ý nghĩa của bài kệ Phật dạy: mọi người phải thường xuyên quán sát các pháp hiện đời, những vật có hình tướng, thảy đều như chiêm bao, như bóng, như bọt, như lằn điện chớp, như sương mốc, không có gì là bền chắc. Như thế, nương tựa bám chặt vào những hiện tượng vật chất đó, thì không khổ sao được?
Phật dạy, chỉ có con đường thoát khổ là phải nương tựa với Tam Bảo bên ngoài và Tam Bảo tự tâm. Nghĩa là người Phật tử phải quy y cả “Sự” lẫn “Lý”. Sự là người Phật tử phải nương tựa vào Phật, vì Phật là một bậc Thầy giác ngộ hoàn toàn. Ngài chỉ cho chúng ta con đường giải thoát. Nương tựa vào Pháp, vì giáo pháp Phật dạy có công năng đưa chúng ta ra khỏi phiền não mê lầm. Nương tựa với Tăng, vì đó là những bậc tu hành chơn chánh hướng dẫn chúng ta đi theo con đường chánh lý Phật dạy.
Người Phật tử nên ý thức rằng, nương tựa với Tam Bảo bên ngoài là để làm sáng tỏ Tam Bảo tự tâm. Vì trong mỗi chúng ta, ai ai cũng có Phật, Pháp, Tăng. Chính Tam Bảo tự tâm mới cứu chúng ta thoát khỏi mọi đau khổ. Nếu chúng ta chỉ một bề ỷ lại vào Tam Bảo bên ngoài, thì muôn đời chúng ta vẫn bị trầm luân khổ hải, vì Tam Bảo bên ngoài không cứu được chúng ta. Chính mình mới cứu được mình.
Thí như mình ghiền cờ bạc hay say sưa hút xách, Phật, Pháp, Tăng, bên ngoài có cứu được mình không? Phật, Pháp, Tăng, chỉ dạy khuyên mình nên ý thức tai hại của sự nghiện ngập, không nên mê say đắm nhiễm. Mình không chịu nghe và làm theo, như thế thì thử hỏi làm sao Tam Bảo cứu mình nỗi?
Nếu mình nghe Phật dạy mà thật hành theo, quyết lòng cai bỏ, thì đó là mình đã tự cứu lấy mình rồi. Cho nên, Tam Bảo bên ngoài chỉ là trợ duyên tốt cho mình thôi. Tất cả khổ hay vui đều do mình định đoạt lấy. Hiểu và hành như thế, đó mới thực sự là người Phật tử chơn chánh học Phật. Bằng không, chỉ ỷ lại nương tựa vào Phật, Pháp, Tăng bên ngoài, thì đó là ta rơi vào mê tín. Tin và chạy theo bên ngoài như thế, thì đó chỉ là một việc làm hoài công vô ích! Vì các Ngài không cứu thoát được mình khỏi khổ đau.
Xin tất cả hãy nghe theo lời Phật dạy mà mỗi người hãy mạnh dạn đứng lên để tự cứu thoát lấy chính mình. Cứu thoát bằng cách nào? Bằng cách nương theo Tứ diệu đế: “Khổ, Tập, Diệt, Đạo”, nhất là phải chịu khó nghiên tầm học hỏi và thật hành Bát chánh đạo, tám con đường chơn chánh đưa chúng ta thoát khỏi khổ đau. Có áp dụng đúng theo lời Phật dạy như thế, thì chúng ta mới được an ổn lợi lạc trong hiện đời và mai sau vậy.
193. Rất khó gặp được bậc Thánh nhơn, vì chẳng phải thường có. Phàm ở đâu có vị Thánh nhơn ra đời thì gia tộc đó được an lành.
Hard to find is the thoroughbred man (the Buddha); he is not born everywhere. Where such a man is born, that clan thrives happily.
Kệ Tụng
Khó gặp bậc thánh nhân
Không phải đâu cũng có
Chỗ nào kẻ trí sanh
Gia đình tất an lạc.
Lược giảng
Pháp cú nầy Phật dạy tại tinh xá Kỳ Viên, có liên quan đến câu hỏi của Tôn giả A nan.
Một hôm, Ngài A nan thầm nghĩ, đức Phật từng dạy về dòng dõi của những loài voi, ngựa và bò quý. Phật nói: những con voi cao quý sanh ra từ giống Chaddanta hay giống Uposatha, còn ngựa cao quý thường phát sanh từ giốngValahaka là dòng ngựa chúa, và con báo cao quý thì sanh ra từ dòng giống Dekkan. Không biết con người cao quý xuất phát từ đâu? Nghĩ xong, Tôn giả liền đến đảnh lễ bạch trình hỏi Phật về vấn đề trên.
Phật dạy: “Người cao quý không thể sinh ra ở bất cứ nơi nào, mà phải sinh trong phạm vi đường kính 300 dặm, cùng chu vi 900 dặm của thủ đô một nước. Và không phải sinh ra ở bất cứ gia đình nào, mà phải là gia đình thuộc dòng Sát đế lỵ hay Bà la môn”. Dạy xong, Ngài liền nói Pháp cú nầy.
Cùng sanh ra đời, nhưng nghiệp báo của mỗi loài đều khác nhau. Cùng là đồng loại, nhưng nghiệp báo cũng sai khác nhau rất nhiều. Như trong phạm vi loài người, cùng là con người, nhưng tại sao có người vầy người khác? Kẻ thì thông minh, người thì đần độn. Người thì giàu sang, kẻ lại nghèo hèn. Kẻ thì sung sướng suốt đời, người thì cực khổ cháy da phỏng trán. Người thì cao lớn, đẹp đẽ, kẻ thì thấp lùn, xấu xí. Kẻ thì lành lặn, người lại tật nguyền v.v…
Tất cả sự sai khác nầy do đâu? Phật dạy, là do nghiệp nhân gây tạo từ trong quá khứ bất đồng. Cho nên sự có mặt của con người hiện nay là kết quả của nghiệp báo mà chúng ta đã gây tạo thiện hay ác từ nhiều kiếp trước. Đó là theo luật nhân quả. Trong khi thọ báo thân nầy, rồi tiếp tục tạo nghiệp lành dữ mà có quả báo sai khác tiếp nối đời sau.
Vấn đề nhân quả nghiệp báo, thiết nghĩ, chúng ta cũng đã biết qua. Ở đây, chúng tôi không muốn bàn nhiều.
Qua câu chuyện lược dẫn trên, cho chúng ta thấy, Phật đã trả lời câu hỏi của Ngài A nan về vấn đề cao quý của sự khác biệt giữa con người và con vật. Con vật dù có cao quý đến đâu, cũng chỉ trong phạm vi nghiệp báo của chúng nó mà thôi. Ngược lại, sự cao quý của con người khi sinh ra thì có khác. Nghiệp báo của loài người, dĩ nhiên, phải cao quý hơn loài vật nhiều. Cao quý về mọi phương diện. Tuy nhiên, trong tâm thức của mỗi con người, vẫn có tính xấu ác của con vật. Nếu nhơn tính của con người mất đi, thì thú tính sẽ hiện ra. Sở dĩ con người còn hơn con vật là vì con người còn giữ gìn được nhơn tính.
Sinh làm người đã là khó, mà được sinh ra ở nơi thủ đô cũng lại là điều khó, rồi được sinh trong dòng dõi vua chúa hay trong dòng quý phái vọng tộc, thế phiệt trâm anh, cũng không phải là chuyện dễ dàng. Nếu đời trước không có tu nhân tích đức, làm lành bố thí nhiều, thì đời nầy làm gì sinh ra đời được như thế? Vì người sinh ra giữa kinh đô ánh sáng, dĩ nhiên, có đời sống văn minh văn hóa cao, so với những người kém may mắn hơn. Có những người kém phước báo, nên họ sanh ra ở những nơi nước mặn đồng chua hay nơi khỉ ho cò gáy. Dĩ nhiên, mức sống và các thứ tiện nghi, cũng như kiến thức của họ ở những nơi nầy làm sao có thể so sánh được như người dân ở kinh đô. Cho nên sinh ra ở thủ đô phải là con người có gieo trồng phước đức mới có được. Đã thế mà được sinh trong gia đình có địa vị cao, giàu sang hơn người, thì lại càng có phước hơn. Câu chuyện trên, Phật so sánh cái phước báo có hơn kém là như thế. Phật dạy, người nào muốn có được như thế, thì phải gắng công lo tu tạo phước đức.
Pháp cú trên, Phật cho chúng ta thấy, sinh ra làm người không dễ gì gặp được bậc Thánh nhân ra đời. Vì Thánh nhân là người có đạo đức cao và luôn làm lợi ích cho mọi người. Nhờ thế, mà con người noi theo đức hạnh của vị Thánh nhân đó mà dốc chí tu hành sẽ được lợi lạc rất lớn. Nơi nào có những bậc cao đức dễ thương xuất hiện, thì nơi đó sẽ có được lợi lạc an vui rất nhiều.
Trong gia đình, nếu cha mẹ biết tu hành, khéo dạy dỗ con cái, thì gia đình đó ắt có hạnh phúc. Trong xóm làng, có người biết tự tu, có đức hạnh khá, hay làm lợi ích cho mình và người, thì xóm làng đó sẽ được an vui. Xã hội chúng ta đang sống, rất cần những hạng người cao đức đó xuất hiện.
Nếu mỗi người khéo biết chuyển đổi tâm thức hướng thiện, xây dựng nếp sống đạo đức từ bản thân đến gia đình và xã hội, thì mỗi người sẽ là một Thánh nhân nho nhỏ rồi. Thế là xã hội không muốn an bình cũng sẽ được an bình.
194. Hạnh phúc thay đức Phật ra đời; hạnh phúc thay diễn nói Chánh pháp; hạnh phúc thay Tăng già hòa hợp, hạnh phúc thay dõng tiến đồng tu.
Blessed is the birth of the Buddhas; blessed is the enunciation of the sacred Teaching; blessed is the harmony in the Order, and blessed is the spiritual pursuit of the united truth-seekers.
Kệ Tụng
Sướng thay! Phật ra đời!
Sướng thay! Pháp được giảng!
Sướng thay! Tăng hòa hợp!
Sướng thay! Chúng đồng tu!
Lược giảng
Pháp cú nầy Phật dạy tại tinh xá Kỳ Viên, có liên quan đến một số thầy Tỳ kheo.
Một hôm năm trăm Tỳ kheo ngồi ở pháp đường và bàn luận:
- Chư hiền, điều gì là hạnh phúc nhứt trên đời?
Người thì nói:
- Không có gì hạnh phúc bằng làm vua.
Người khác nói:
- Chỉ có tình yêu là hạnh phúc nhứt.
Còn có người nói:
- Chỉ có ăn ngon là hạnh phúc nhứt.
Đức Phật đi đến chỗ các thầy và nói:
- Các ông ngồi đây bàn tán về vấn đề gì?
Các Tỳ kheo kể lại, Phật dạy:
- Nầy các Tỳ kheo! Các ông nói thế nào? Tất cả các hạnh phúc các ông vừa kể đều nằm trong vòng luân hồi khổ đau.
Ngược lại, gặp Phật ra đời, được nghe chánh pháp, sống thanh tịnh và hòa hợp trong Tăng đoàn, những điều ấy là hạnh phúc nhất. Nhân đó Phật nói Pháp cú nầy. (Trích nguyên văn tích truyện Pháp Cú Tập II, Viên Chiếu, tr 369)
Qua câu chuyện trích dẫn trên, ta thấy, những thứ hạnh phúc mà các thầy Tỳ kheo nêu ra, Phật cho đó là những thứ hạnh phúc giả trá tạm bợ đưa con người vào vòng luân hồi đau khổ. Ở đời, có hai thứ uy quyền: uy quyền về tiền bạc và uy quyền về tâm linh. Uy quyền về tiền của vật chất, ăn sung mặc sướng, kẻ hầu người hạ, tiền hô hậu ủng, có lẽ trên đời không ai hơn ông vua, hay ông Tổng thống. Còn uy quyền về tâm linh, thì có lẽ không ai hơn những nhà thực sự chơn chánh tu hành, mong cầu thoát ly sanh tử. Vì đối với những vị nầy, họ coi tiền bạc vật chất, chẳng có ra gì. Đây là cái quyền uy chỉ có ở những con người có tâm hồn cao thượng, tự do phóng khoáng. Tất cả chỉ vì mục đích giác ngộ giải thoát mà thôi. Ngược lại, quyền uy của một ông vua, hay của những nhà tỷ phú, thực sự họ có sung sướng hay không? Hay tâm hồn của họ vẫn luôn bị đau khổ bất an, thua một người dân nghèo có nếp sống bình thường. Nếu so về tiền bạc, vật chất, thì họ không thể nào dám so sánh. Nhưng nếu so về đời sống hạnh phúc của tinh thần, thì ông vua hay tỷ phú, chưa chắc có đời sống an vui thoải mái như họ. Không có ông vua và nhà tỷ phú nào mà không có những nỗi khổ niềm đau bức xúc, khó thở. Có những nhà tỷ phú, họ chưa bao giờ có thời giờ rảnh rỗi, ngồi uống một chung trà thảnh thơi thoải mái như một người nông dân bình thường, chớ chưa nói đến một ông thầy tu chơn chánh đạo hạnh.
Được ăn những thứ sơn hào, cao lương mỹ vị, bên cạnh đó còn có mỹ nhân hầu hạ, người đời ai lại không thèm khát. Nếu những thứ đó thực sự là hạnh phúc, thì chắc chắn các ông vua không bỏ ngai vàng điện ngọc, vợ đẹp con ngoan đi tu? Và cũng không phải chịu sống kham khổ trong việc tu hành.
Ngày nay, những thức ăn càng ngon miệng, béo bổ nhiều chừng nào, thì con người càng gây ra nhiều chứng bệnh nan y chừng nấy. Và đưa đến cái chết như trở bàn tay. Thế thì ăn ngon, chỉ qua khỏi cổ là hết hạnh phúc rồi.
Tình yêu có thực sự là hạnh phúc không? Nếu thực sự là hạnh phúc, thì tại sao người ta lại ly hôn, ly dị nhiều quá. Đó là chưa nói, vì tình yêu mà người ta lại chán đời quyên sinh tự tử. Tình yêu, thoáng nhìn, người ta ngỡ rằng chắc là hạnh phúc lắm, nhưng khi nếm mùi rồi mới thấy muôn điều hệ lụy đắng cay. Bởi thế, mà nhà thơ Xuân Diệu mới than thở trong bài thơ Yêu:
Yêu, là chết trong lòng một ít
Vì mấy khi yêu mà chắc được yêu
Cho rất nhiều, song nhận chẳng bao nhiêu,
Người ta phụ hoặc thờ ơ chẳng biết.
Phút gần gũi cũng như giờ chia biệt
Tưởng trăng tàn, hoa tạ với hồn tiêu
Vì mấy khi yêu mà chắc được yêu!
Yêu, là chết ở trong lòng một ít !
Họ lạc lối giữa u sầu mù mịt
Những người si theo dõi dấu chân yêu:
Và cảnh đời là sa mạc cô liêu
Và tình ái là sợi dây vấn vít
Yêu, là chết ở trong lòng một ít !
Khi thốt lên lời than thở nầy, chắc là thi nhân đã nếm hương vị chua chát của tình yêu rồi!
Một thi nhân nào đó cũng đã nói:
Tình yêu sương khói giữa trời
Long lanh cát bụi gọi mời lầu mây
Thoáng qua hương thắm đông đầy
Sầu vương để lại một ngày nắng thơ.
Tình yêu rốt lại, chỉ còn là sương khói, lầu mây, sầu vương, tất cả đều là giả dối không thật. Thoáng qua, người ta cũng cảm thấy hương thắm ngọt ngào đông đầy lắm, nhưng cuối cùng chỉ để lại những u buồn, tủi hận, mất đi ngày đẹp nắng thơ rồi!
Thế thì, những thứ mà người đời đam mê tham đắm, cho là hạnh phúc đó, Phật nói tất cả đều là hệ lụy khổ đau. Vì tham đắm mà tạo nghiệp, nên chúng sanh đi mãi trong vòng sanh tử luân hồi.
Phật nêu ra những thứ hạnh phúc mà người đời khó được. Hạnh phúc trước nhất, là gặp Phật ra đời. Thật đây không còn thứ hạnh phúc nào bằng. Vì gặp Phật ra đời, nghe được những lời Phật dạy, sống trong một đoàn thể hòa hợp, thế thì còn gì hạnh phúc hơn! Ngày nay, đối với những thứ hạnh phúc nầy không phải là chúng ta không có. Nếu nói về Phật ứng thân ra đời, thì chúng ta không gặp được. Nhưng nếu là Phật pháp thân, thì người nào lại không có.
Khi nào tâm ta lắng đọng, mọi phiền não cáu bợn không có, thì ngay giây phút đó là ta gặp Phật ra đời rồi. Như vậy, trong giây phút mà ta không suy niệm gì hết, chỉ còn có cái “Biết” hiện tiền, đó không phải là hạnh phúc tuyệt vời lắm sao? Thế thì ta đi tìm hạnh phúc ở nơi đâu nữa chớ?
Nếu ta biết sống ngay trong giây phút hiện tại, thì ta sẽ tìm thấy hạnh phúc trong từng hơi thở và mỗi nhịp đập của trái tim cũng như trong mọi hành động, việc làm. Đó là ta đã có một niềm vui tràn đầy. Sống trong một đoàn thể ai nấy cũng hằng sống trong chánh niệm như thế, thì còn gì nói đến hòa hợp hay không hòa hợp? Vì thực chất đã là hòa hợp rồi kia mà! Nếu như mọi người ai nấy đều cố gắng tu tiến như thế, thì còn gì hạnh phúc cho bằng! Thử hỏi thế gian nầy có gì sánh kịp?
195-196. Kẻ nào cúng dường những vị đáng cúng dường, hoặc chư Phật hay đệ tử, những vị thoát ly hư vọng, vượt khỏi hối hận lo âu, công đức của người đã cúng dường các bậc tịch tịnh vô úy ấy, không thể kể lường.
He who reveres those worthy of reverence, the Buddhas and their disciples, who have transcended all obstacles and passed beyond the reach of sorrow and lamentation – he who reveres such peaceful and fearless ones, his merit none can compute by any measure.
Kệ Tụng
Cúng dường bậc đáng cúng
Chư Phật hoặc đệ tử
Vượt ngoài các ma chướng
Trừ diệt mọi ưu tư.
Cúng dường bậc như vậy
Bậc tịch tịnh, vô úy
Công đức thật vô lượng
Không gì so sánh kịp.
Lược giảng
Phật nói hai Pháp cú nầy có liên hệ đến câu chuyện ngôi đền vàng của Phật Ca Diếp.
Trên đường du hóa, Phật ghé lại làng Todeyya và Ngài vào trong tháp ngồi nghỉ chân. Gần đấy, có một Bà la môn đang cày bừa, Phật bảo Tôn giả A Nan mời ông ta đến. Khi vào, ông ta không chào hỏi Phật mà chỉ làm lễ ngôi đền. Phật hỏi duyên cớ, ông nói: vì ngôi đền nầy đã có từ lâu, nên ông luôn tôn kính. Phật khen ngợi ông làm rất đúng.
Sau đó, Phật dùng thần thông hiện ra một trái núi bằng vàng giữa không trung, nơi ấy hiện ra bảo tháp của đức Phật Ca Diếp cao một dặm.
Kế tiếp Phật dạy, trong thế gian có bốn hạng người đáng tôn kính: Phật, Bích Chi Phật, A la hán và Chuyển luân vương. Đây là bốn hạng người đáng xây tháp cúng dường. Rồi, Phật liền dạy hai Pháp cú nầy.
Nghe xong, người Bà la môn chứng sơ quả (Tu đà hoàn). Ngôi tháp vàng hiện trong bảy ngày và dân chúng trong làng kéo nhau đến chiêm ngưỡng kính bái cúng dường.
Cúng dường là một pháp tu của người Phật tử. Trong mười Đại nguyện của Bồ tát Phổ Hiền, nguyện thứ ba là “Quảng tu cúng dường”. Nghĩa là cúng dường rộng khắp không phân biệt thân sơ. Cúng dường khác với bố thí. Cúng dường mang ý nghĩa trân quý đối với đối tượng mình dâng cúng. Như nói cúng dường Tam Bảo hay cúng dường chư Tăng. Không ai nói bố thí Tam Bảo hay bố thí chư Tăng. Ngược lại, người ta hay nói bố thí cho những kẻ tàn tật cơ hàn, không ai nói cúng dường. Tuy nhiên, nói thế, không có nghĩa là đối tượng để mình bố thí không được trân kính. Vẫn kính trọng, nhưng so với nghĩa cúng dường, thì người cúng dường phải có tấm lòng tha thiết cung kính đối tượng mà mình trân quý cúng dường hơn. Đó là phân biệt đại khái sự sai khác ý nghĩa giữa cúng dường và bố thí.
Qua câu chuyện lược dẫn trên, ta thấy, Phật khen ngợi vị Bà la môn, khi gặp Phật, ông không chào hỏi Phật trước, mà ông lễ bái đền thờ trước. Họ xem đền thờ là linh hồn của họ, vì đã trải qua nhiều đời dân làng tôn kính. Hình ảnh đó nó đã gắn liền ăn sâu vào tâm thức của người dân. Họ rất cung kính trân quý bảo tồn đền thờ như mạng sống của họ. Nhìn bề ngoài, ta đánh giá như là họ mê tín, nhưng kỳ thật nhìn sâu vào ta mới thấy được khía cạnh của đời sống tâm linh. Họ trân quý bảo tồn những gì mà tổ tiên của họ đã dày công tạo dựng. Mất đền thờ là mất chỗ tựa nương linh hồn của họ. Nhờ đền thờ mà họ nối kết được tấm lòng yêu thương gắn bó trong tinh thần đoàn kết bảo vệ quốc gia dân tộc.
Cũng như ngôi chùa của quê hương ta đã trải qua mấy ngàn năm lịch sử, lúc nào cũng gắn bó thiết thân trong nếp sống hài hòa tình tự dân tộc. Bảo vệ ngôi chùa là bảo vệ tinh thần đoàn kết của dân tộc. Bởi vì:
Mái chùa che chở hồn dân tộc
Nếp sống muôn đời của tổ tông.
Thi Sĩ Vũ Hoàng Chương cũng đã nói:
… Dân tộc ta không thể nào thua
Đạo Phật ta đời đời sáng lạn
Dầu trải qua mấy phân ly tán
Nhưng vẫn còn núi còn sông
Còn chót vót mãi ngôi chùa.
Đó cũng là một nếp sống văn hóa sinh tồn thiết thân của người dân. Vì thế, mà Phật khen ngợi Bà la môn nầy.
Phật nói: trong thế gian nầy, có bốn hạng người được xứng đáng cho chúng ta cung kính cúng dường: Phật, Bích Chi Phật, A la hán và Chuyển luân vương. Trong bốn hạng người nầy, chỉ trừ Chuyển luân vương ra, còn ba vị kia đã hoàn toàn dứt hết phiền não lậu hoặc. Các Ngài đã được tự tại giải thoát. Riêng Chuyển luân vương, nói đủ là Chuyển luân thánh vương, vị vua nầy làm cho chánh pháp ngự trị ở thế gian, cai trị bốn châu thuộc núi Tu di. Cõi nước vị vua nầy giàu đẹp, nhân dân an lạc, vua đi xe báu có đầy đủ bảy báu. Vị vua nầy có công đức rất lớn là luôn luôn hộ trì Chánh pháp và truyền bá Chánh pháp. Cho nên, cũng xứng đáng được cung kính cúng dường.
Người Phật tử cúng dường đối với những bậc tu hành chơn chánh thanh tịnh thoát ly mọi dục vọng, thì được phước báo vô biên. Đó là nói cúng dường theo nghĩa sự tướng bên ngoài. Còn cúng dường theo nghĩa lý tánh bên trong, là lúc nào tâm ta được an tịnh, không có phiền não dấy khởi, chính lúc đó là ta đang cúng dường Tam Bảo tự tâm.
Cúng dường là hằng nuôi lớn pháp thân huệ mạng. Đây mới là nghĩa cúng dường mà Phật thường khuyến khích chúng ta. Người Phật tử có cúng dường cả hai: “Sự” và “Lý” như thế mới thực sự là cúng dường. Nếu chúng ta chỉ biết cúng dường bên ngoài không thôi, thì chưa đúng với ý nghĩa cúng dường Phật dạy. Cúng dường cả hai như thế, thì phước đức và công đức, cả hai mới được vẹn toàn vậy.
XV. PHẨM AN LẠC
(Sukhavagga)
197. Sung sướng thay chúng ta sống không thù oán giữa những người thù oán. Giữa những người thù oán, ta sống không thù oán.
Happy indeed we live, friendly amidst the hostile. Amidst hostile men we dwell free from hatred.
Kệ Tụng
Sướng thay nếu được sống
Không hận, giữa hận thù
Giữa những người thù hận
Ta sống không hận thù
Lược giảng
Duyên do Phật nói Pháp cú nầy cũng như hai Pháp cú liên tiếp 198 và 199, có liên quan đến câu chuyện tranh chấp giữa hai lân bang.
Dân cư trong thành Ca tỳ la vệ và dân cư trong thành Câu lợi (Koliya) có cùng một con sông. Hai bên vì tranh chấp nước trong con sông nầy mà sanh ra tranh giành ấu đả với nhau. Từ việc nhỏ giữa cá nhân, lan rộng đến dân làng và rồi đến cả hai quốc gia. Không ai chịu nhường nhịn ai. Thế là hai nước láng giềng định xua quân đánh nhau. Biết thế, Phật liền dùng thần lực đến can gián. Nhờ sự can thiệp của đức Phật kịp thời, nên hai bên mới chịu hòa giải nhau. Nhân đó, Phật dạy cho họ nghe về những Pháp cú nói trên.
Sống trong một thế giới đầy hận thù tranh chấp, mà ta sống không hận thù, đó là một hạnh phúc rất lớn. Đức Phật là một tấm gương sáng nêu cao tình thương, để mọi người noi gương. Phật thường khuyên dạy: “Chỉ có từ bi mới xóa tan hóa giải được mọi tranh chấp hận thù”.
Câu chuyện lược dẫn trên, chỉ vì tranh chấp với nhau một con sông mà đưa đến hai lân bang sắp sửa đánh nhau. Nếu không có bậc trí huệ sáng suốt như đức Phật kịp thời đến giảng hòa ngăn chặn, thì hậu quả sẽ xảy ra một cuộc chiến tranh tàn sát đẫm máu. Hai bên dân làng từ thương yêu nhau, trở thành đối nghịch thù hận nhau. Việc tuy nhỏ, nhưng không khéo giải quyết sẽ thành lớn chuyện.
Như hai nhà sống sát vách nhau, tương giao qua lại rất thâm tình, nhưng chỉ vì tranh chấp hơn thua với nhau có một tấm vách chung mà phải gây gổ cãi vã và rồi ấu đả nhau. Kết quả, kẻ thì vào nhà thương, người thì bị ngồi tù. Thế mới biết lòng sân hận của con người thật là ghê gớm!
Mới đầu khởi lên, chỉ như một đốm lửa nhỏ, nhưng nếu hai bên không khéo dập tắt, thì nó sẽ trở thành một đám cháy to. Mối thân tình gầy dựng với nhau rất lâu, chỉ trong phút chốc không dằn được cơn giận mà nó tan biến trở thành mây khói. Từ đó, hai nhà trở thành thù hận với nhau. Họ ra vô không ngó mặt nhau. Hận thù cứ mãi ngấm ngầm trong lòng mỗi người. Nó đốt cháy tàn phá ghê gớm!
Mỗi người ôm ấp một mối hận khổ mà không ai gỡ ra được. Ra vô không nhìn mặt nhau. Đó là thêm cái khổ oán ghét gặp nhau. Sống gần nhau làm sao tránh khỏi gặp nhau. Muốn hóa giải hận thù và tránh nỗi khổ đau đó, Phật dạy chỉ có một cách giải quyết là mỗi người trong cuộc nên chuyển hóa hạt giống sân hận, rộng lượng cởi mở tấm lòng, tìm hiểu rõ nguyên nhân xảy ra, rồi cùng nhau ngồi lại bàn giải, tìm cách giải quyết cho ổn thỏa êm đẹp. Ai gây ra lỗi trước thì thành thật xin lỗi. Và người kia cũng phải rộng lòng cởi mở tha thứ. Và mỗi người nên hiểu, thương yêu thông cảm nhau hơn.
Chỉ có thế, mới chấm dứt hận thù khổ đau mà thôi. Ngoài ra, không có một phép lạ nào khác. Chúng ta cột nhau lại, thì chính chúng ta cũng phải tự cởi ra. Không ai cột trói và mở ra cho mình được. Hơn ai hết, người Phật tử phải sống có trí huệ và tình thương. Đó là hai yếu tố xây dựng hạnh phúc cho nhau trong gia đình cũng như ngoài xã hội. Thiếu hai yếu tố nầy, đời sống của chúng ta thật là đau khổ.
Một khi lửa sân hận nổi lên, nhỏ thì đốt cháy cá nhân với cá nhân, lớn thì đoàn thể với đoàn thể, lớn nữa thì quốc gia với quốc gia. Hận thù không những xảy ra cho người đời không thôi, mà ngay cả trong lãnh vực tôn giáo vẫn xảy ra. Và xảy ra một cách rất thê thảm trầm trọng. Đó là chiến tranh tôn giáo mà lịch sử đã chứng minh. Một cuộc chiến tranh chỉ vì hận thù truyền kiếp mà gây ra cảnh tàn sát nhau khốc liệt. Cho đến nay, hận thù nầy vẫn còn âm ỉ cháy hoài và chưa biết đến bao giờ mới thực sự dập tắt hẳn.
Pháp cú trên, Phật dạy người Phật tử sống không nên gây thù oán. Sống không có thù oán là cuộc sống được an vui giải thoát. Đi đâu cũng không sợ ai hãm hại, vì mình không gây thù oán với ai. Lỡ gây ra làm phiền ai, bằng lời nói hay hành động, chúng ta lập tức xin lỗi hóa giải ngay. Không nên để trong lòng của mình và người có mầm mống phiền não không vui. Đó là ta khéo dùng trí huệ và tình thương để xóa bỏ hận thù.
Trong đời sống hằng ngày, ít nhiều gì ta cũng có gây ra cho người khó chịu. Ta chỉ cần khéo xử sự trong khi giao tiếp, thì mọi việc sẽ không gây ra tác hại. Đừng khinh thường việc ác nhỏ, chính nó sẽ gây ra lớn chuyện sau nầy. Nghe theo lời Phật dạy, ta cố gắng dẹp bớt lòng tự ái vị kỷ, để mở rộng tấm lòng bao dung, rộng lượng, thương người. Có hiểu, thương, mới có cảm thông nhau. Và như thế là ta đã gieo hạt giống hạnh phúc cho ta và người. Hãy tưới tẩm hạt giống tình thương, hỷ xả cho ta mỗi ngày mỗi thêm lớn. Có thế, thì ta mới thực sự có cuộc sống hạnh phúc. Rồi từ đó, ta mang hạnh phúc gieo rắc đến cho mọi người.
Về Đầu Trang Go down
https://triamquan.forumvi.com/
Tri Âm Quán
Thành Viên Tích Cực
Thành Viên Tích Cực
Tri Âm Quán


Tổng số bài gửi : 6340
Reputation : 2
Join date : 31/07/2013
Đến từ : Thị Trấn Chũ

Kinh Pháp Cú chú giải (tập 1) - Page 2 Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Kinh Pháp Cú chú giải (tập 1)   Kinh Pháp Cú chú giải (tập 1) - Page 2 EmptySun Nov 16, 2014 11:48 am

198. Sung sướng thay chúng ta sống không tật bệnh giữa những người tật bệnh. Giữa những người tật bệnh, ta sống không tật bệnh.
Happy indeed we live, unafflicted amidst the afflicted (by craving). Amidst afflicted men we dwell free from affliction.
Kệ Tụng
Sướng thay nếu được sống
Khỏe mạnh giữa ốm đau
Giữa những người tật bệnh
Ta sống không ốm đau.
Lược giảng
Bệnh là một thực trạng trong bốn nỗi thống khổ lớn của con người: Sanh, già, bệnh, chết, không ai thoát khỏi. Bệnh cũng là một nghiệp quả của con người. Có người từ khi sanh ra, cho đến khi nhắm mắt, không lúc nào được mạnh khỏe. Bệnh trầm kha cứ dây dưa mãi. Có người thì mắc phải chứng bệnh nan y. Đau nhức khổ sở trăm bề. Đi, đứng, nằm, ngồi không yên. Nói đến bệnh của con người thì có trăm ngàn thứ, kể sao cho xiết! Nhưng thứ nào ít nhiều gì cũng gây ra cho người ta khó chịu, đau khổ cả.
Người bệnh tật lúc nào họ cũng ôm ấp nhiều mặc cảm. Họ đâm ra chán đời, có đôi lúc họ không còn thiết tha gì đến sự sống. Sống thì không vui mà chết thì không được. Quả đúng là khổ khổ. Thế nên, trong Pháp cú trên Phật nói: “Sung sướng thay chúng ta sống không tật bệnh”. Người có được một cơ thể cường tráng, thì đó quả thật là hạnh phúc. Nhờ có sức khỏe, họ cảm thấy rất yêu đời. Họ rất vui vẻ trong cuộc sống. Đi đâu, ở đâu, họ cũng cảm thấy tươi vui. Họ ăn uống thụ hưởng vật chất bình thường. Được thế, là nhờ đời trước giữ giới không sát sanh hại vật. Đồng thời, cộng thêm cái nhân đời nay khéo giữ gìn phương pháp vệ sinh ăn uống đúng cách, nên mới được như thế.
Ngược lại, đối với người yếu đuối, bệnh tật, sức yếu, đi đâu họ cũng nơm nớp lo sợ. Ăn uống thì phải kiêng cử đủ thứ. Đối với món ngon vật lạ, họ cũng không thụ hưởng được chút nào. Bệnh tật, tuy là một nghiệp quả bất hạnh, nhưng nếu người khéo biết tu, thì không đến nổi phải buồn khổ. Biết mình nghiệp chướng nặng hơn người, thì chúng ta nên cố gắng tu hành để chuyển nghiệp. Thay vì ngồi đó buồn khổ khóc than, thì tại sao chúng ta không gắng công niệm Phật? Và tài bồi phước đức bố thí, phóng sanh nhiều hơn? Đôi lúc vì ỷ lại vào mạnh khỏe, mà người ta cứ mãi lo bay nhảy theo dục trần mà quên lo tu hành, thì đó là họa trong cái phước.
Ngược lại, người yếu đuối bệnh đau, nhưng nếu cố gắng lo tu niệm, thì họ tìm cái phước trong cái họa. Hiểu thế, thì chúng ta không có gì phải tự ty mặc cảm ôm ấp khổ sầu. Biết mình yếu đuối bệnh tật, nên cố gắng tu tạo phước đức cho nhiều. Bệnh hoạn là hình thức trả nghiệp. Như người vay nợ nhiều, thì phải trả sớm cho mau hết nợ. Trả hết nợ, thì không còn gì phải lo lắng, ưu tư phiền muộn nữa. Hiểu thế, thì chúng ta không có gì phải lo buồn.
Pháp cú trên, Phật muốn nhấn mạnh đến cái nghiệp báo do con người gây tạo. Ngày nay, ta được mạnh khỏe ít có bệnh đau, đó cũng do ta tạo nhiều nhân lành trong quá khứ. Như ta ít có sát sanh hại vật chẳng hạn. Chẳng những không sát sanh hại vật thôi, mà ta còn biết mãi vật phóng sanh nữa. Nhờ vào nghiệp nhân tạo phước đó, nên nay ta mới được cái quả báo tốt, ít bệnh đau. Biết thế, thì ta cố gắng tu tạo nghiệp nhân tốt nhiều hơn nữa. Chớ nếu ta ỷ vào sức khỏe mà không lo tu hành, thì đời sau ta sẽ phải khổ mà thôi. Đó là luật nhân quả như thế. Chúng ta cố gắng tạo nghiệp lành để tránh quả khổ đau về sau.
199. Sung sướng thay chúng ta sống không tham dục giữa những người tham dục! Giữa những người tham dục, ta sống không tham dục.
Happy indeed we live, free from avarice amidst the avaricious. Amidst avaricious men we dwell free from avarice.
Kệ Tụng
Sướng thay nếu được sống
Không tham, giữa tham ái
Giữa những người dục vọng
Ta sống không tham ái.
Lược giảng
Tham dục là nguồn gốc của mọi khổ đau. Trong Kinh Bát Đại Nhơn Giác, có một bài kinh nói về tham dục. Phật dạy: “Tham muốn nhiều là khổ, bao sinh tử nhọc nhằn, đều từ tham dục mà ra. Nếu ai ít muốn, vô vi, thân tâm được tự tại”. Con người đắm mê vật dục không bao giờ cùng. Suốt đời họ đắm chìm trong ngũ dục lạc.
Ai cũng ham muốn có tiền của nhiều, nhan sắc đẹp, ăn ngon, ngủ kỹ và mặc đẹp. Vì chìm sâu trong ngũ dục mà con người mãi trôi lăn chịu biết bao nỗi khổ đau trong đường sanh tử. Vì hễ tham muốn ngũ dục cho được sung túc, thì ngày đêm phải khổ thân mệt trí, vất vả cực khổ trăm bề. Có người cũng vì lòng tham lam quá độ, nên họ gây tạo nhiều nghiệp ác. Dục vọng càng nhiều thì khổ não tự nhiên cũng nhiều. Tô Đông Pha nói: “Lòng dục của con người không cùng, song vật có thể làm thỏa mãn lòng dục của ta lại có hạn”. Làm sao đáp ứng đầy đủ túi tham của con người. Tham nhiều khổ nhiều!
Biết thế, nhưng con người không dừng được lòng tham. Các ngành học thuật, một mặt thì cải thiện đời sống con người, nhưng mặt khác lại làm tăng thêm lòng dục vọng của con người. Ngày nay, người ta chạy đua tranh giành nhau về vật chất để cung ứng cho những nhu cầu của đời sống. Có người làm lụng vất vả, đầu tắt mặt tối, không có thời giờ đọc báo. Thậm chí, họ không có thời gian để dùng một bữa cơm chung đầm ấm với gia đình. Họ không biết gì đến vợ con. Họ say mê vùi đầu theo công việc nghề nghiệp của họ.
Thử hỏi cuộc sống như vậy, thì còn gì là hạnh phúc? Cả đời, họ chỉ biết làm nô lệ cho vật chất không thôi. Đến khi lâm trọng bệnh, ngã ra chết, thì than ôi! Mọi sự vật họ đều để lại cho đời! Rốt lại, tay trắng cũng hoàn lại trắng tay. Bao nhiêu những mùi phú quý vinh hoa ở đời có khác chi là Nam Kha giấc mộng?!
Giấc Nam Kha khéo bất bình
Bừng con mắt dậy thấy mình tay không.
Lúc còn sống, thì ham mê đủ thứ, sau khi chết rồi thì chẳng mang được gì theo.
Bởi thế, Pháp cú trên, Phật nói:“Sung sướng thay chúng ta sống không tham dục giữa những người tham dục; giữa những người tham dục, ta sống không tham dục”. Sống không tham dục là nếp sống ít muốn biết đủ. Ở đời, còn có sự sống, tất nhiên phải còn giải quyết ba cái nhu cầu: ăn, mặc, ở và còn những nhu cầu khác cho sự sống. Tuy nhiên, người biết tu, họ chỉ muốn giải quyết những nhu cầu vừa đủ mà thôi.
Ở đây, Phật muốn so sánh giữa hạnh phúc và đau khổ. Người có hạnh phúc là người ít ham muốn, biết đủ. Họ không bon chen đua đòi. Họ sống thật đơn giản. Mọi nhu cầu vật chất tạm đủ nuôi thân. Miễn sao no cơm ấm áo là được rồi. Họ biết rằng, cõi đời chỉ là quán trọ dừng chân. Mà mọi người có mặt ở đây đều là những lữ khách phong trần. Thế thì ham mê đua đòi chi cho khổ thân mệt óc. Chỉ cần ăn mặc giản dị và vui sống. Sống càng đơn giản chừng nào, họ càng cảm thấy an nhàn hạnh phúc nhiều chừng nấy.
Đó là nếp sống của một con người đi tìm nguồn vui với đạo. Họ khéo biết di dưỡng tinh thần. Họ bằng lòng với cuộc sống hiện tại mà họ đã tìm thấy hạnh phúc. Họ không màng đến dư luận khen chê. Miễn sao tâm hồn của họ được an nhàn thanh thoát là đủ rồi. Mặc cho thế sự thăng trầm hay vinh nhục, họ không cần quan tâm đến. Họ chỉ muốn bình an trong nếp sống mà thôi.
200. Sung sướng thay chúng ta sống không bị điều gì chướng ngại, ta thường sống với những điều hỷ lạc như những vị trời Quang âm 27.
Happy indeed we live, we who possess nothing. Feeders on joy we shall be, like the Radiant Gods.
Kệ Tụng
Sướng thay nếu được sống
Thoát mọi nghiệp triền chướng
Ta sẽ được hỷ lạc
Như chư thiên Quang Âm
Lược giảng
Pháp cú nầy Phật nói khi Ngài ở ngôi làng Bà la môn Pancasàlà, có liên hệ đến Ma vương.
Phật quán sát căn cơ của năm trăm cô gái trong làng Pancasàlà, Phật có thể độ cho họ chứng quả Tu đà hoàn. Quán sát xong, Phật đi đến gần làng ấy. Khi đó, nhằm ngày lễ hội, các cô gái đều đi tắm. Xong rồi, họ trang sức trở về làng. Trong lúc đó, Phật vào làng khất thực bị Ma vương khống chế dân làng, không một ai cúng dường.
______________
27 Quang Âm Thiên: Phạn ngữ: Abhàsvara. Pali: Abhassara. Một trong các tầng trời cõi Sắc, tức là tầng trời thứ ba của đệ nhị thiền, tầng trời nầy ở trên Vô Lượng Quang Thiên và ở dưới Thiểu Tịnh Thiên, chúng sanh cõi nầy không có âm thanh, do định tâm phát ra ánh sáng thay thế ngôn ngữ để truyền đạt ý nghĩa, nên gọi là Quang Âm Thiên.
Phật và Ma vương chạm mặt nhau. Ma vương muốn làm nhục Phật, bằng cách cho dân làng cười chế nhạo Phật. Khi đó, các cô gái về đến cổng làng gặp Phật, họ bèn đảnh lễ và đứng qua một bên. Ma vương nói với đức Phật:
- Bạch Thế Tôn, Ngài không xin được chút thức ăn nào, chắc đói bụng lắm.
- Nầy Ma vương, dù cho ngày hôm nay ta bị ngươi quấy rầy, Ta vẫn an lạc như cõi trời Quang Âm. Rồi Phật nói Pháp cú nầy.
Trên bước đường hành hóa, Phật gặp không biết bao nhiêu chướng nạn. Nhưng chướng nạn nào, Phật cũng vượt qua. Người hành đạo, muốn được giải thoát, không phải mọi việc đều được suông sẻ. Nếu thế, thì làm sao đánh giá được sức nhẫn nhục? Và nếu mọi việc suông sẻ như ý muốn, thì càng tăng thêm lòng cống cao ngã mạn. Có gặp chướng ngại thử thách, mới biết được ý chí tu hành. Giá trị của người tu là ở chỗ đó. Nếu gặp chướng ngại gian nguy thử thách, mà vẫn an nhiên không chùn bước, thì biết rằng đạo lực của người đó khá cao. Ngược lại, mới gặp chướng nạn sơ sơ thôi, mà chúng ta lại run sợ đầu hàng và thối bước, thì biết đạo lực của ta còn quá non kém. Có kiểm nghiệm như thế, thì ta mới cố gắng huân tu trau dồi đạo lực nhiều hơn nữa.
Dù xưa hay nay, trên bước đường hành đạo, không ai lại không bị Ma vương khuấy phá. Tùy sức vận dụng công phu tu hành cao thấp, mà hành giả sẽ bị khảo đảo nhiễu loạn nhiều hay ít. Thông thường, người tu không sợ nghịch cảnh lắm, mà chỉ sợ thuận cảnh. Vì nghịch cảnh dù có khó khăn, nhưng cũng dễ biết để đương đầu đối phó. Còn thuận cảnh, thì thật khó đề phòng.
Phần nhiều, người ta chết vì tiếng khen hơn là tiếng chê. Cũng như các ông vua thường chết vì bè lũ nịnh thần ton hót, hơn là chết dưới tay trung thần can gián. Vì trung thần là họ dùng lời ngay thẳng để khuyên can. Bởi thế, mà hay làm mất lòng vua. Lời ngay thì trái tai, làm sao ông vua chịu nổi? Vì chịu không nổi lời ngay, nên dễ mất ngai vàng như trở bàn tay.
Ngược lại, lời ton hót nịnh bợ lúc nào cũng ngọt ngào như rót đường mật vào, nghe rất êm tai. Thử hỏi ai lại không khoái thích? Lời ngon tiếng ngọt đó là thuận cảnh. Còn lời can gián bàn ra, không thuận theo ý vua, đó là nghịch cảnh. Thuận ý mình thì vui, nghịch ý mình thì buồn. Người ta chết vì thích ý đắc chí, hơn là chết vì không đắc chí như ý. Như lái xe, người ta chết vì tai nạn đường trường hơn là chết ở những con đường gồ ghề khúc khuỷu quanh co. Vì càng khó khăn nguy hiểm, người ta càng có sự chú ý cẩn thận chuẩn bị nhiều hơn, nên ít khi xảy ra tai nạn chết chóc.
Phật đối đầu với Ma vương, vì Phật biết Ma vương hại Phật. Ma vương dùng phép thuật khống chế dân làng không cho họ cúng dường đức Phật. Chẳng những thế, mà chúng còn muốn làm nhục Phật trước mặt dân làng. Thật là nham hiểm độc ác. Ma vương thường khuấy phá người tu là như thế.
Câu chuyện lược dẫn trên, cho chúng ta một bài học đáng nhớ. Đã là Phật, bậc thiên nhơn chi Đạo Sư, mà Ngài còn bị hết nạn nầy đến nạn khác. Còn chúng ta thì sao? Tu hành tới đâu mà không muốn gặp chướng nạn? Cho nên, mỗi khi gặp chướng nạn, ta liền nhớ đến Phật. Khi nhớ đến Phật và hết lòng niệm Phật, thì nạn nào cũng phải qua hết. Hết lòng nhớ đến Phật là tâm ta an định. Tâm an định, thì nạn nào chẳng qua.
Chỉ có điều khi gặp nạn mà ta không chí thành tha thiết niệm Phật đó thôi. Vì Phật có bao giờ thua Ma vương đâu. Dù Ma vương có hại Phật đến cỡ nào, cuối cùng rồi bọn chúng cũng phải đầu hàng khuất phục. Nhưng chúng ta hay bị cái bệnh, lúc gặp nạn, thì nhớ đến Phật, khi nạn chướng qua rồi, thì Phật cũng qua luôn. Lúc gặp yên xuôi, thì không còn thiết tha nhớ đến Phật nữa. Bởi thế, nên sự tu hành của chúng ta, khi thăng, khi trầm, khi trồi, khi sụt mãi là vậy.
Pháp cú trên là một chứng minh cụ thể. Phật nói: “Dù gặp chướng ngại, nhưng đối với Phật không có gì là chướng ngại. Khác nào như Phật ở cõi trời Quang Âm”. Nghĩa là, ý nói không có gì khuấy nhiễu làm rối loạn được Phật. Tâm Phật lúc nào cũng an lạc, vì Phật đã sạch hết vô minh phiền não rồi.
Ngược lại, chúng ta thì sao? Chúng ta, vì còn vô minh phiền não vọng động, nên khó được an lạc. Chỉ cần gặp một chướng ngại nho nhỏ thôi, là tâm ta lộn xộn bất an rồi. Bao nhiêu cấu nhiễm: tham, sân, si… liền hiện khởi. Vì thế, trên đường tu, chúng ta cần phải hết lòng cố gắng trau dồi đạo lực nhiều hơn nữa, vì biết chắc rằng đời tu của chúng ta sẽ gặp nhiều chướng nạn.
Tuy nhiên, chúng ta nên nhớ rằng, có chướng nạn thử thách mới trui luyện tâm ta được già dặn thêm. Và có như thế, thì sự tu hành của chúng ta mới mau thành tựu sở nguyện. Bằng không, thì rất khó thành công.
Dẹp chướng ngại hành trình luôn cất bước
Trải rộng lòng muôn chốn khắp nhơn gian
Nụ cười tươi trong ánh mắt chứa chan
Nguồn thơ đó thênh thang ngàn sao sáng.
Phải có tâm niệm như thế, thì khi gặp chướng ngại ta mới không thối chí nản lòng. Chúng ta cương quyết khắc phục vượt qua mọi khó khăn. Những khó khăn đó, có thể đến bất cứ từ đâu. Nếu mỗi ngày, chúng ta cố gắng dùng trí huệ thực tập đi sâu vào thiền quán, phải hằng quán chiếu thấy rõ năm uẩn là giả dối không thật, thì chắc chắn mọi chướng nạn thử thách nào cũng sẽ vượt qua. Bằng không, thì chúng ta vẫn còn đi trong đau khổ dài dài và không biết đến bao giờ mới thực sự được giải thoát.
201. Thắng lợi thì bị thù oán, thất bại thì bị đau khổ; chẳng màng tới thắng bại, sẽ sống hòa hiếu an vui.
Victory begets enmity; the defeated dwell in pain. Happily the peaceful live, discarding both victory and defeat.
Kệ Tụng
Thắng lợi sinh thù oán
Thất bại chịu khổ đau
Bỏ sau mọi thắng bại
Sống an bình, tịnh lạc.
Lược giảng
Pháp cú nầy Phật dạy tại tinh xá Kỳ Viên, có liên quan đến câu chuyện vua Ba Tư Nặc nước Kosala.
“Chuyện kể rằng, vua Ba Tư Nặc đánh nhau với A Xà Thế, gần làng Kàsika và ba lần bại trận. Trở về sau lần thất bại thứ ba, nhà vua nghĩ thầm: “Nếu không thắng được tên miệng còn hôi sữa ấy, ta sống làm gì”? Nhà vua bỏ ăn nằm dài trên long sàng. Tin tức bay đi khắp thành và tinh xá.
Các Tỳ kheo thuật lại chuyện cho đức Thế Tôn nghe:
- Bạch Thế Tôn, nhà vua sau ba lần chiến bại ở gần làng Kàsika, đã trở về bỏ ăn, nằm dã dượi trên giường, nói: “Nếu ta không thắng được tên vua trẻ tuổi kia, ta sống làm gì”?
Sau khi nghe kể, Phật dạy:
- “Nầy các Tỳ kheo, kẻ thắng bị oán ghét, người thua phải buồn rầu”. Nhân đó, Phật dạy Pháp cú nầy. (Trích nguyên văn tích truyện Pháp Cú Tập II, Viên Chiếu, tr 380 )
Thắng bại là chuyện thường tình ở thế gian. Trường đời là một trường tranh đấu. Đã có tranh đấu, tất nhiên phải có kẻ thắng người bại. Kẻ thắng thì lên mặt hống hách kiêu căng. Người thua, thì ôm hận đau sầu nuốt tủi. Lòng tự ái của con người không bao giờ chịu khuất phục ai.
Qua tích truyện dẫn chứng trên, ta thấy vua Ba Tư Nặc rất đau khổ vì thất trận liên tiếp ba lần. Lòng tự ái, tự cao, tự đại, không cho phép nhà vua phải chịu thua cuộc. Do đó, mà nhà vua mất ăn bỏ ngủ.
Chuyện đến tai đức Phật, đức Phật bảo: “Kẻ thắng thì bị oán ghét, người thua thì phải buồn rầu”. Thắng hay thua, cả hai đều đau khổ. Theo Phật, con người muốn cho thân tâm được an ổn, thì phải vượt lên trên ý niệm thắng và thua nầy. Vì thắng hay thua, mọi khổ đau đều bắt nguồn từ bản ngã mà ra. Thế nên, Phật nói: “Chẳng màng tới thắng bại, sẽ sống một đời hòa hiếu an vui”.
Thái độ vượt lên thắng bại, đó là thái độ của người khéo biết sống. Mình hơn người ở một phương diện nào đó, chắc chắn là mình không sao tránh khỏi bị người ta oán ghét, nói xấu. Ngược lại, nếu mình thua người ở một phương diện nào đó, tất cũng cảm thấy khó chịu. Tâm lý con người, muốn hơn chớ không ai muốn thua. Dù biết rằng, mình là kẻ kém tài, thiếu đức, nhưng thấy ai hơn mình, được mọi người trọng vọng, nể nang, thì lòng mình trào lên bao nỗi căm tức, ghét ganh người đó. Không mấy ai, có tâm tùy hỷ đối với những người hơn mình. Đó là một tật tánh xấu của con người. Gốc của nó từ bản ngã mà ra. Cho nên, muốn được hạnh phúc, ta phải cố gắng tập sống theo lời Phật dạy: “Phải vượt lên trên ý niệm thắng và bại”. Vì cả hai đều nằm trong phạm trù đối đãi. Còn thấy có hai, tất nhiên, ta còn so sánh hơn thua, và cứ như thế, thì ta còn bị đau khổ dài dài…
Câu nói: “Thắng làm vua thua làm giặc”. Đây là một câu nói ngầm chứa sự ác độc và đau khổ rất nhiều. Tâm niệm còn tranh chấp rất nặng. Được làm vua chắc gì an ổn sung sướng. Thắng và thua chỉ là một hiện tướng của tâm thức. Thật ra, với cái nhìn bằng tuệ giác của đạo Phật, thì trong cái thắng nó ngầm chứa cái thua trong đó rồi. Ngược lại cũng thế.
Kẻ thắng thì thường bị kẻ thua tìm cách trả thù. Như vậy, trong ý niệm thắng bên cạnh đó có ý niệm bị trả thù. Chính vì điểm nầy, nên Phật nói: “Kẻ thắng bị oán ghét”. Trong khi mình nói thắng, là ngay đó đã có cái ghét hay thù đến với mình rồi. Sống trong cõi đời tương đối, hễ có cái nầy, liền có cái kia xuất hiện. Chỉ có khi nào, lòng ta được an ổn vượt ngoài những ý niệm tranh chấp hơn thua đó, thì đời ta mới thực sự được an ổn hạnh phúc.
Trở lại câu chuyện trên, ta thấy, mặc dù vua A Xà Thế thắng trận, nhưng chắc gì ông ta an ổn. Lúc nào ông ta cũng nơm nớp lo sợ phòng thủ kẻ địch trả thù. Thế thì, lòng ông cũng bất an. Đó là chưa nói, kẻ đắc thắng kiêu căng, sanh ra nhiều tệ hại khác. Vì tham, sân, si, chúng luôn luôn đột xuất phá hại làm tan nát đời ta. Phật nói, chỉ có kẻ nào hay nhất là phải thắng cho được cái dục vọng trong lòng mình. Chính cái thắng đó, mới thực sự an vui hạnh phúc. Và mới khỏe khoắn nằm duỗi đôi chân ngủ.
202. Không lửa nào bằng lửa tham dục, không ác nào bằng ác sân hận. Không khổ nào bằng khổ Ngũ uẩn và không vui nào bằng vui Niết-bàn.
There is no fire like lust and no crime like hatred. There is no ill like the aggregates (of existence) and no bliss higher than the peace (of Nibbana).
Kệ Tụng
Lửa nào sánh lửa tham
Ác nào bằng ác hận
Khổ nào sánh khổ thân
Lạc nào bằng tịnh lạc.
Lược giảng
Pháp cú nầy Phật dạy tại tinh xá Kỳ Viên, có liên quan đến câu chuyện một cô gái dòng quý tộc.
“Chuyện kể rằng, vào ngày hôn lễ của con gái, cha mẹ cô mời đức Thế Tôn đến nhà cúng dường. Đức Phật cùng chúng Tỳ Kheo đến nhà cô thọ trai, cô dâu lăng xăng tới lui để tiếp đãi chúng Tăng. Khi đó, chú rể đứng nhìn cô chăm chăm và lòng khởi lên tham dục. Chú không thấy đức phật, cả đến tám mươi vị Trưởng lão. Chỉ nghĩ đến một điều duy nhất: “Ta muốn ôm choàng lấy nàng”.
Đức Phật biết được ý nghĩ của chàng, và Ngài làm cho chú rể không thấy cô dâu nữa, mà quay sang chiêm ngưỡng Thế tôn. Khi chàng trai đứng đấy, nhìn Phật chăm chăm, Ngài nói với chàng trai:
-“Nầy con, không lửa nào bằng lửa tham dục, không ác nào bằng lòng sân hận, không khổ nào bằng khổ uẩn, không vui nào bằng vui Niết bàn”. (Trích nguyên văn tích truyện Pháp Cú Tập II, Viên Chiếu, tr 381).
Để hiểu rõ Pháp cú trên, chúng ta tạm chia thành 4 câu:
1.Không lửa nào bằng lửa tham dục: Lửa vật lý, chỉ đốt cháy được vật thể bên ngoài. Nhưng dù có cháy đến đâu, người ta cũng còn có thể chạy chữa, dập tắt được. Còn lửa tham dục trong lòng người làm sao có thể chạy chữa dập tắt được đây? Ngọn lửa dục vọng, chẳng những nó đốt cháy trong lòng ta thôi, mà nó còn đốt cháy âm ĩ cả thế gian nầy. Nó đốt cháy mình và người luôn luôn đau khổ.
Trong Kinh Tứ Thập Nhị Chương, bài Kinh 25, Phật dạy: “Người ôm lòng ái dục, khác nào như kẻ cầm đuốc đi ngược gió, tất không tránh khỏi cái nạn cháy tay”. Có người, vì không dằn được lòng đam mê sắc đẹp, nên lân la vào nơi trà đình tửu điếm, để giải quyết cho thỏa mãn dục vọng. Cuối cùng, vướng bệnh nan y, ôm hận suốt cả cuộc đời, hại mình, báo người, thật là đau khổ. Có người vì không nén được lòng tham lam nổi lên, nên ra tay cướp của, giết người giữa ban ngày. Hậu quả, phải ngồi tù chịu khổ suốt đời. Bởi thế, sách Nho có câu nói:
Nhơn tham tài tắc tử
Điểu tham thực tắc vong.
Nghĩa là:
Con người vì tham lam mà phải chết.
Chim vì tham ăn mà phải bị mất mạng.
Kinh nói:“Ái dục do tư tưởng sanh, nếu tư tưởng không sanh thì ái dục không có”. Muốn dập tắt ngọn lửa tham dục trong lòng, không phải là chuyện dễ dàng. Chúng ta cần phải gia công quán chiếu cho thật sâu sắc, để nhận diện rõ bộ mặt thật của nó, rồi gấp lo diệt trừ. Có thế, thì mới mong một ngày nào đó tâm ta mới được an bình.
2. Không ác nào bằng ác sân si: Chúng ta vì si mê, không nhận rõ chân lý, chạy theo những giả tướng hư vọng của cuộc đời. Vạn vật ở trên đời không thật có, nhưng vì mê lầm ta cho là thật có. Từ mê lầm đó, ta mới khởi lòng tham muốn cướp đoạt của người. Vì không thỏa mãn được lòng tham, nên lửa sân hận nổi lên. Và từ đó, gây ra biết bao nhiêu nghiệp ác. Nhơn loại ngày nay, cũng bị ba thứ “độc tố” nầy mà gây ra đại loạn thế gian.
3. Không khổ nào bằng khổ ngũ ấm: Ngũ ấm là sắc, thọ, tưởng, hành, thức. Sắc thuộc về phần vật chất. Bốn thứ còn lại thuộc về tinh thần. Nói gọn dễ hiểu là vật chất và tinh thần. Thử hỏi trong đời có ai không khổ về vật chất và tinh thần hay không? Về vật chất, nói gần là xác thân nầy. Đã có cái thân nầy, khổ bao nhiêu thứ? Nào là: sanh, già, bệnh, chết, rồi thêm bốn nỗi khổ nữa: Oán ghét gặp nhau khổ; thương yêu nhau chia lìa khổ; mong cầu thứ gì không được vừa ý cũng khổ; năm ấm cường thạnh cũng khổ. Nói khổ năm ấm, tức thân bất an, tâm thì thoái hóa loạn động không dừng. Tóm lại, thân và tâm không lúc nào an ổn, nên nói là khổ về năm ấm.
4. Không vui nào bằng vui Niết bàn: Niết bàn là trạng thái tâm lý được an lạc hạnh phúc. Trong tâm ta không khởi lên những thứ phiền não. Nói gọn, mọi dục vọng vô minh phiền não không còn. Như thế, thì còn niềm vui nào hơn. Đây mới thực sự là cái vui nhẹ nhàng an thoát.
203. Đói là chứng bệnh lớn. Vô thường là nỗi khổ lớn; biết được đúng như thế, đạt đến Niết-bàn vui tối thượng.
Hunger is the worse disease, conditioned things the worst suffering. Knowing this as it really is, the wise realize Nibbana, the highest bliss.
Kệ Tụng
Đói khát, bệnh tối thượng
Các hành, khổ tối thượng
Hiểu chơn thực như vậy
Niết bàn, lạc tối thượng.
Lược giảng
Pháp cú nầy Phật dạy tại Àlavi, có liên quan đến một nam cư sĩ.
Một hôm, đức Phật quan sát căn cơ chúng sanh, Ngài thấy có một nông dân nghèo ở làng Àlavi, có thể độ cho anh nầy chứng quả Tu đà hoàn. Sau đó, từ hương thất, Ngài cùng với năm trăm Tỳ kheo đến làng đó để khất thực. Khi Phật và chúng Tăng đến, dân làng rất mừng rỡ. Họ dâng cúng thức ăn cho Phật và chúng Tăng. Trong khi đó, người nông dân nầy, vì mất bò, nên sáng sớm ông ta chạy vào rừng kiếm bò. Sau khi kiếm được bò, trời đã trưa, nhưng ông quyết để bụng đói đến nghe Phật thuyết pháp. Phật chờ ông đến mới nói pháp. Phật biết ông ta chưa ăn gì cả, nên Phật bảo các thầy Tỳ kheo lấy thức ăn còn dư của tín thí cúng để cho ông ta dùng. Ăn xong, Phật thuyết bài pháp Tứ Diệu Đế. Nghe xong, ông liền chứng quả Dự Lưu.
Trên đường trở về tinh xá, các Tỳ kheo thắc mắc thì thầm với nhau về việc Phật bảo mang thức ăn cho ông nông dân đó. Phật biết, liền nói cho các Tỳ kheo đó biết. Sở dĩ như thế, Phật chỉ vì muốn độ ông ta, nên phải trải qua ba mươi dặm đường. Phật nói, khi một người đang đói, dù có nói pháp hay đến đâu, người ta cũng không bao giờ để tâm nghe đến. Chỉ có khi nào no bụng, thì người ta mới chăm chú lắng nghe và lãnh hội được mà thôi. Nhân đó, Phật dạy Pháp cú nầy.
Qua chuyện lược dẫn trên, ta thấy lòng từ bi của Phật thật quá tràn trề. Chỉ vì muốn độ một người để họ được đắc quả Dự lưu, mà Phật phải đi bộ trải qua ba mươi dặm đường. Ba mươi dặm đường đâu phải là gần. Thế mà, Phật vẫn bất chấp mệt nhọc khó khăn. Quyết lòng độ cho được ông nông dân đó.
Một điểm nữa, ta thấy, Phật vô cùng tâm lý. Mặc dù đây là lần đầu tiên Phật phá lệ, Phật bảo rằng, muốn cho người ta lãnh hội được những gì mình nói, thì phải cho người ta ăn no bụng trước đã. Sau đó, mình nói họ mới yên dạ để lắng nghe. Nếu bụng đang đói cào lên, thì làm sao người ta có thể ngồi yên để nghe mình nói. Dù cho bài pháp thoại mình nói có hay đến đâu, người ta cũng không bao giờ quan tâm thu thập được. Người ta thường nói: “Có thực mới vực được đạo”.
Thật đây là một tâm lý rất thực tế mà ta cần phải lưu tâm học hỏi. Các thầy Tỳ kheo nầy, vì không hiểu được thâm ý của Phật, nên mới bàn tán xì xào nhỏ to với nhau. Các Ngài cho Phật làm một việc mà xưa nay chưa từng xảy ra. Phật không phủ nhận điều đó. Nhưng vì muốn độ cho một người thoát khổ, mà Phật phải làm như thế.
Điều nầy cho ta thêm một bài học, khi ra hoằng hóa độ sanh, ta cần nên linh động, uyển chuyển, không nên quá cố chấp. Miễn sao đạt được mục đích lợi người là được.
Ngày nay, nhơn loại còn gánh chịu biết bao nỗi khổ vì nghèo đói. Những người có phước thì được no cơm ấm áo. Còn những người vô phước, thì phải sống trong cảnh đói khát lầm than. Người thì quá dư dã thừa thải, kẻ thì quá thiếu thốn chết khô. Thế giới loài người vẫn còn cách biệt vật chất rất xa. Người ta khi khổ về vật chất, nó tác động ảnh hưởng đến tinh thần rất lớn. Có người khổ quá, khi hết sức chịu đựng, thì họ sẽ đâm ra nổi loạn, quậy phá lung tung.
Xã hội biết đến bao giờ mới được bình đẳng san sẻ vật chất cho nhau. Làm sao phá được ranh giới giai cấp giữa nghèo và giàu. Nếu luận theo nhân quả nghiệp báo, thì nghèo giàu, khổ vui, đều do con người tạo lấy. Đành là vậy, nhưng tình đồng loại, nghĩa đồng bào, chúng ta cũng phải yêu thương và san sẻ cho nhau. Đó cũng là thể hiện lòng vị tha nhân ái theo tâm hạnh của Bồ tát.
Có những người giàu lòng nhân ái, họ tình nguyện làm những việc từ thiện, mang tình thương đến an ủi cho những người bất hạnh. Họ vào làm việc ở những trại cùi hay những trại cô nhi khuyết tật v.v… Họ làm việc với tất cả tấm lòng yêu thương. Họ bất chấp nguy hiểm có thể gây tác hại cho họ. Quả họ là những Bồ tát đi vào cuộc đời, để xoa dịu nỗi khổ niềm đau cho mọi người. Đây là những tấm lòng vàng, mà xã hội loài người thật khó kiếm. Họ có niềm vui và họ cũng muốn san sẻ niềm vui đến cho mọi người. Xã hội rất biết ơn họ.
Tóm lại, Pháp cú trên Phật chỉ cho chúng ta thấy: nghèo đói là chứng bệnh lớn, mà nhơn loại xưa nay đều vướng phải. Ngoài khổ về nghèo đói ra, vô thường cũng là nỗi khổ lớn. Vì vô thường là hoại diệt, là bất an, là luôn luôn sanh diệt. Biết được bản chất của chúng rồi, người tu cần phải tìm phương trị liệu. Trị liệu bằng cách nhìn thẳng vào sự thật, và tìm nguyên nhân gây ra khổ đau, để từ đó tìm phương pháp diệt trừ. Có thế, thì mới đạt được Niết bàn an lạc.
Về Đầu Trang Go down
https://triamquan.forumvi.com/
Tri Âm Quán
Thành Viên Tích Cực
Thành Viên Tích Cực
Tri Âm Quán


Tổng số bài gửi : 6340
Reputation : 2
Join date : 31/07/2013
Đến từ : Thị Trấn Chũ

Kinh Pháp Cú chú giải (tập 1) - Page 2 Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Kinh Pháp Cú chú giải (tập 1)   Kinh Pháp Cú chú giải (tập 1) - Page 2 EmptySun Nov 16, 2014 11:50 am

204. Không bệnh là điều rất lợi, biết đủ là kẻ rất giàu, thành tín là nơi chí thân, Niết-bàn là vui tối thượng.
Health is the precious gain and contentment the greatest wealth. A trustworthy person is the best kinsman, Nibbana the highest bliss.
Kệ Tụng
Vô bệnh, lạc tối thượng
Biết đủ, tiền tối thượng
Thành tín, bạn tối thượng
Niết bàn, lạc tối thượng.
Lược giảng
Pháp cú nầy Phật dạy tại tinh xá Kỳ Viên, có liên quan đến vua Ba Tư Nặc.
Vua Ba Tư Nặc có thói quen ăn uống không điều độ, chừng mực. Có khi ông ăn no quá, tâm thần đâm ra ngầy ngật mệt mỏi, ngồi đâu muốn ngủ đó. Mỗi khi đến thăm Phật, ông tỏ ra mệt mỏi và muốn tìm chỗ ngủ nghỉ. Tuy thế, nhưng ông cũng ráng gắng gượng ngồi bên Phật. Thấy thế, Phật khuyên ông nên ăn uống có điều độ lại, thì tinh thần minh mẫn và thân thể ít bị mỏi mệt uể oải và sanh bệnh. Phật khuyên dạy ông nhiều bài kệ, nhưng vì buồn ngủ ông không nhớ hết câu kệ. Tuy vậy, ông bảo quân hầu, sau nầy khi đầu bếp nấu thức ăn cho ông, bảo họ nên giảm bớt đồ ăn lại. Từ đó về sau, nhờ ăn ít lại, nên thân thể nhà vua giảm cân và rất khỏe.
Nhân đó Phật dạy:“Sức khỏe là hạnh phúc lớn nhất mà mọi người mong muốn. Bằng lòng với những gì hiện có là giàu có nhất. Trung tín là điều tốt nhất khi giao hảo. Nhưng không có hạnh phúc nào có thể so sánh với Niết bàn”.
Ăn uống là một trong những nhu cầu thiết yếu nhất cho sự sống. Nhưng có người lại ham ăn uống quá độ. Họ coi trọng sự ăn uống. Khi ăn họ đòi hỏi đủ thứ món ngon vật lạ. Họ cho rằng ăn uống là một trong“tứ khoái”. Để thức nhắc những người quá coi trọng miếng ăn, nên người xưa có câu nói:
Miếng ăn là miếng tồi tàn
Mất ăn một miếng lộn gan lên đầu.
Câu chuyện lược dẫn trên, ta thấy vua Ba Tư Nặc là người rất thích ăn uống. Vì không biết tiết chế sự ăn uống, nên ông bị chứng bệnh mập phì. Do đó, thân thể của ông khi di chuyển đi, đứng, ngồi, nằm rất nặng nề chậm chạp. Tệ hơn nữa, là mỗi lần ông đến nghe Phật thuyết giảng, thì ông lại hay mệt mỏi buồn ngủ. Tức ông bị chứng bệnh hôn trầm ngủ gà ngủ gật. Đó là một tật bệnh mà đa số chúng ta thường mắc phải.
Nhơn loại ngày nay, bị nhiều chứng bệnh nan y, có thể nói, phần lớn cũng do ăn uống trái phép, không kiêng cử mà ra. Có những thức ăn hợp với cơ thể, nhưng cũng có những thức ăn không hợp với cơ thể. Đối với những người háu ăn uống, gặp những thức ăn nào khoái khẩu, thì họ ăn uống thả cửa vô độ. Ăn cho no phình bụng mới thôi. Ăn uống không điều độ như thế, thử hỏi làm sao không sanh bệnh?
Đến khám bệnh, các bác sĩ thường khuyên bệnh nhân nên giảm ăn để cho xuống cân. Khi xuống cân, thì mọi bệnh tật trong người cũng hạ thấp theo. Như các chứng bệnh thông thường mà đa số người ta hay mắc phải: áp huyết cao, cao mở trong máu, tiểu đường v.v… Ăn uống tiết chế, đúng pháp, hợp vệ sinh, là một trong những phương cách bảo vệ sức khỏe hữu hiệu nhất.
Đức Phật khuyên vua Ba Tư Nặc cần phải giữ tiết chế khi ăn uống, đó là điều rất tốt để bảo vệ sức khỏe. Bản thân đức Phật, Ngài đã thực hiện và thường khuyên đệ tử nên ăn uống có điều độ. Mỗi ngày, Phật và các chúng Tăng, chỉ ăn một bữa vào buổi trưa. Ngoài ra, các Ngài không ăn gì thêm cả. Điều nầy, được xem như là một quy luật bắt buộc ở thời Phật. Ăn như thế, mà sức khỏe của các Ngài vẫn bình thường và rất tốt.
Thế nên, Pháp cú trên, Phật dạy:“Vô bệnh là điều rất lợi, biết đủ là kẻ rất giàu”. Tại sao biết đủ lại rất giàu? Biết đủ là người sống hài hòa, không có tâm đua đòi mong cầu. Họ hạn chế bớt lòng tham dục. Họ giữ mức sống bình thường vừa đủ. Vì vậy, nên lòng họ lúc nào cũng cảm thấy an vui hạnh phúc. Ngược lại, người không biết đủ, thì họ không bao giờ có hạnh phúc.
Xưa kia, thời Phật, có một vị Bồ tát cư sĩ tên là Thuận Thiên. Một hôm, ông lượm được một cái chuông vàng. Cái chuông nầy có giá trị rất lớn. Ông bảo là ông sẽ tặng cho một người nào nghèo nhất trong nước. Ông hỏi mọi người biết ai là người nghèo nhất trong nước không? Không ai tìm ra được. Ông nói: chỉ có vua Ba Tư Nặc là người nghèo nhất trong nước.
Mọi người nghe nói thế, ai nấy đều rất ngạc nhiên và hỏi Bồ tát Thuận Thiên: tại sao vua Ba Tư Nặc lại là người nghèo nhất xứ? Bồ tát trả lời: Vì ông ta có bao giờ biết đủ đâu?! Ông là người có nhiều tham vọng mong cầu rất lớn. Ông không bao giờ hài lòng với những gì đang có. Như vậy, không phải ông là kẻ nghèo nhất xứ sao? Chỉ có người biết đủ và vui sống bằng lòng với những gì đang có, người như thế, mới thật là kẻ giàu nhất xứ.
Tiếp theo Phật nói: “Thành tín là nơi chí thân, Niết bàn là vui tối thượng”. Khổng Tử nói: “chí thành thông thánh”. Trong đạo hay ngoài đời, đức tánh chí thành hết sức quan trọng. Nhất là người tu, lúc nào cũng phải chí thành ở nơi chính mình. Chí thành là phải thành thật với chính mình. Mà thành thật với chính mình là phải thật tâm nhìn kỹ lại mình. Có nhìn kỹ lại mình mới thấy được lỗi lầm của mình để sửa đổi, chuyển hóa. Bằng không, thì trên đường tu khó được giác ngộ giải thoát.
Niết bàn là vui tối thượng, điều nầy, không ai có thể phủ nhận được. Niết bàn là tên khác của chân hạnh phúc vậy.
205. Ai từng nếm mùi độc cư, ai từng nếm mùi tịch tịnh, người ấy còn ưa nếm mùi pháp vị để xa lìa mọi tội ác, sợ hãi.
Having savoured the taste of solitude and peace (of Nibbana), pain-free and stainless he becomes, drinking deep the taste of the bliss of Truth.
Kệ Tụng
Ai nếm vị độc cư 28
Ai hưởng mùi nhàn tịnh
Không còn ác khổ đau
Nhờ mến ưa pháp vị.
Lược giảng
Pháp cú nầy Phật dạy, khi Phật đang ngụ tại Vệ xá ly (Vesàli ), có liên quan đến một thầy Tỳ kheo.
Khi nghe Phật tuyên bố, bốn tháng nữa Phật sẽ vào Niết bàn, các thầy Tỳ kheo ai nấy đều buồn lo. Chỉ trừ những vị A la hán, dứt hết phiền não, chứng nghiệm rõ lý vô thường, nên các Ngài không có bi ai. Còn lại, những vị khác đều ngậm ngùi bi lụy khóc than. Khi đó, thầy Tỳ kheo Tissa đi tìm chỗ thanh vắng ở một mình, không tiếp xúc với bất cứ ai. Thầy quyết tâm thiền quán để chứng quả A la hán khi Phật còn tại thế. Thấy vậy, các Tỳ kheo khác đến hỏi duyên do, thầy Tissa không nói, chỉ âm thầm lo chuyên tu đoạn trừ phiền não.
Những vị nầy đến bạch trình với đức Phật, Phật gọi thầy Tissa đến hỏi duyên cớ. Bấy giờ, thầy Tissa mới trình bày rõ ý nguyện của mình cho Phật nghe. Phật liền khen ngợi và nhân đó Phật nói Pháp cú nầy.
______________
28 Độc cư: ở một mình. Tìm chỗ thanh vắng và chỉ sống một mình để tu hành.
Khi hay tin Phật sắp vào Niết bàn, các Tỳ kheo chưa chứng Thánh quả, ai nấy đều đau buồn rơi lệ khóc than. Vì không ngăn được mối tình cảm thiêng liêng sâu đậm trong tình nghĩa Thầy trò trải qua bao nhiêu năm dài tháng rộng chung sống với nhau. Đó là một tâm lý tình cảm rất thường tình của một con người. Nhất là đối với đức Phật là một bậc Thầy gương mẫu cao thượng; một thâm ân quá lớn lao. Thử hỏi làm sao các Ngài có thể ngăn được đôi dòng lệ thảm? Thế nhưng, trong lúc mọi người than khóc buồn lo, thì thầy Tissa lại vượt hơn cái thường tình của một người đệ tử. Thay vì khóc lóc than thở bi ai, thì thầy lại đi tìm chỗ thanh vắng để quyết chí ẩn tu. Thầy quyết lòng đạt cho kỳ được Thánh quả A la hán, trước khi Phật vào Niết bàn. Sau khi biết rõ duyên do, Phật khen ngợi thầy hết lời.
Việc làm của thầy Tissa, mới nhìn qua, ta thấy thầy như không nghĩ gì đến thâm ân sâu dày của Phật dạy dỗ. Trước cảnh sắp chia ly tình nghĩa Thầy trò, thầy không tỏ ra một chút bi ai xúc động. Đã vậy, thầy còn đi tìm chỗ ở riêng một mình lánh xa Thầy bạn. Nhưng khi Phật khen ngợi việc làm của thầy, thì các nghi ngờ của các thầy Tỳ kheo khác không còn nghĩ quấy cho thầy Tissa nữa.
Thiết nghĩ, đây là một bài học thật đáng giá cho chúng ta noi gương. Báo ân Thầy Tổ, không phải chỉ có khóc than bi lụy mới gọi là báo ân thương Thầy. Là người đệ tử thực sự thương và muốn báo đáp thâm ân dạy dỗ của Thầy, tất nhiên ta phải làm tròn bổn phận của một người đệ tử, là phải hết lòng tu học cho có kết quả như ý Thầy mong muốn. Được như thế, thì người đệ tử đó mới thực sự là tri ân và báo ân Thầy. Và Thầy cũng rất vui mừng khi biết được người đệ tử của mình có chí hướng quyết tâm tu hành như thế.
Thầy Tissa đã biểu lộ một hành động vượt hơn thường tình rất xa. Biết đạo lực của mình còn yếu kém, nên thầy quyết chí nỗ lực tu hành đạt cho được kết quả, để đáp lại cái thâm ân mà bấy lâu nay vị Thầy của mình đã dày công giáo huấn. Phải đạt cho kỳ được trước khi Thầy nhập diệt. Có thế, thì Thầy mình mới vui và mình cũng không cảm thấy hổ thẹn với Thầy. Trong tâm tưởng của thầy Tissa, thầy nghĩ phải thực hiện cho kỳ được như thế. Và thầy đã quyết tâm thực hiện.
Trong khi đó, thì những vị khác lại tỏ ra bi lụy khóc than. Thử hỏi khóc than như thế, có lợi ích gì cho mình và cho Thầy mình không? Hơn nữa, mình là người đang đi trên con đường giác ngộ giải thoát, phải tỏ ra cho mọi người biết về lý vô thường mà mình đã được thụ huấn từ một bậc Thầy vĩ đại đã hết lòng truyền đạt cho mình. Có thế, thì Thầy mình mới cảm thấy thật không uổng công dạy dỗ. Người xuất gia phải thể hiện cho kỳ được cái tinh thần vô úy đó. Vì mình là người có trách nhiệm hướng dẫn tín đồ Phật tử tu học. Nếu mình không vượt qua nỗi cái thường tình bi lụy đó, thì mình đâu có gì hơn họ. Bởi thế, mà đức Phật khen ngợi thầy Tissa trước mặt các Tỳ kheo khác.
Chúng ta dù xuất gia hay tại gia, mỗi khi Thầy Tổ viên tịch, chúng ta quyết không bi lụy khóc than theo thói tình. Chỉ một lòng vâng theo lời Thầy dạy mà hết lòng gắng công tu học. Phải tu học cho có kết quả như ý Thầy mong muốn. Có thế, thì ta mới thực sự báo đáp lại phần nào thâm ân của Thầy đã dày công dạy dỗ cho mình.
Pháp cú trên, Phật cho chúng ta thấy lối sống độc cư là một lối sống trầm lặng xa lánh ồn náo. Đây là nếp sống mà bản thân Phật đã từng trải qua. Ngày xưa, trước thời Phật cũng như trong thời Phật, nếp sống độc cư trong núi rừng của các thầy Bà la môn đã có rồi. Vì vậy, sau khi xuất gia, Phật đi vào rừng sâu để hỏi đạo với các vị nầy. Có ở chỗ vắng vẻ, hành giả mới dễ dàng kiểm soát nhận diện vọng niệm. Đồng thời, cũng dễ tiến thân trau dồi đạo hạnh và đi sâu vào đời sống tâm linh hơn. Điều nầy, ta thấy các Thiền sư ở Trung Hoa cũng như ở Việt Nam, phần nhiều các Ngài hay lên núi tìm chỗ thanh vắng để ẩn tu. Và nhờ thế, mà sự công phu tu hành của các Ngài mới chóng đạt được kết quả tốt đẹp. Khi tâm an định, thì ta có một nguồn vui tràn đầy vô tận, nên nói là pháp hỷ sung mãn vậy. Đó là một sự thật, không ai có thể phủ nhận được.
206. Gặp được bậc Thánh nhơn là rất quí, vì sẽ chung hưởng sự vui lành. Bởi không gặp kẻ ngu si, nên người kia thường hoan hỷ.
Good it is to see the Noble Ones; to live with them is ever blissful. One will always be happy by not encountering fools.
Kệ Tụng
Lành thay gặp thánh nhân
Sống chung thường hưởng lạc
Không thấy các người ngu
Thường được hưởng an lạc.
Lược giảng
Pháp cú nầy và hai Pháp cú kế tiếp (207- 208) Phật dạy có liên quan đến trời Đế Thích.
Vào những ngày cuối đời, đức Phật bị bệnh kiết lỵ nên rất đau đớn. Bấy giờ trời Đế Thích nghĩ cách đến chăm sóc cho Phật. Ông đã bỏ thân hình cao lớn và mang thân hình trẻ trung đến xoa bóp chân Phật.
Phật bảo chư thiên không thể chịu được mùi của phàm nhơn, ông nên rời khỏi nơi đây. Mặc dù bị Phật từ khước, nhưng ông vẫn quyết lòng ở lại để phụng dưỡng săn sóc cho Phật. Ông hết lòng phụng sự không chút tỏ ra nhờm gớm, dù có lúc ông đội thùng phân trên đầu. Tuyệt đối, ông không cho một ai đến gần Phật để săn sóc. Thấy ông săn sóc cho Phật đắc lực như thế, mọi người rất thán phục ông.
Nhân đó, đức Phật cho biết là trời Đế Thích nhờ nghe Phật thuyết pháp mà chứng quả Tu đà hoàn, bỏ thân già nua và nhận thân Đế Thích trẻ trung đến chăm sóc cho Phật.
Phật nói tiếp: “Nầy các Tỳ kheo! Thật là hạnh phúc khi được sống gần gũi và chăm nom chư Phật, còn sống với người ngu chỉ đem lại đau khổ”.
Còn hạnh phúc nào hơn khi gần gũi phụng thờ bậc Thánh nhân. Nếu không có phước duyên lớn, thì làm gì ta được cái diễm phúc quá lớn lao nầy. Trời Đế Thích là vua cai quản cõi trời Đao Lợi, nghe Phật thuyết pháp, ông chứng quả Tu đà hoàn. Khi biết Phật bị bệnh, ông đích thân đến hầu cận và chăm sóc cho Phật. Dù là vua của một cõi trời, nhưng ông không quản ngại khi hầu cận săn sóc đức Phật. Ông bất chấp mọi thứ ô uế. Dù là đội thùng phân trên đầu, nhưng đối với ông vẫn không có gì tanh hôi nhơ uế. Đấy, cũng là một cách báo đáp phần nào thâm ân của Phật.
Qua câu chuyện lược dẫn trên, cho chúng ta một bài học thật quý giá về phương diện hầu Thầy. Khi được hầu cận phụng sự cho một bậc Thầy đức độ, thì đó quả là một hạnh phúc rất lớn lao cho ta. Nếu chúng ta không có một nhân duyên lớn đối với bậc Thầy cao đức đó, thì làm gì ta được hầu cận để chăm sóc phục vụ cho Ngài.
Nhất là những lúc Thầy đau yếu bệnh hoạn, rất cần đến sự chăm sóc của ta. Ta thấy, trời Đế Thích, dù bị Phật từ chối, không cho ông hầu cận, nhưng ông quyết lòng ở lại, không thay đổi ý nguyện. Đó là một tấm gương sáng mà ta cần bắt chước.
Đối với thời nay, ta rất khó gặp một bậc Thánh nhân cỡ lớn như Phật, đại Bồ tát, hay A la hán. Nhưng đối với những bậc Thầy cao đức dễ thương không phải là không có. Được gần gũi những vị nầy, thật cũng không phải dễ dàng. Nếu ta đủ phúc duyên gần gũi, thì đời ta thật là hạnh phúc. Vì ta sẽ có nhiều lợi lạc, khi được hầu cận bên Thầy. Ta có cơ hội học hỏi rất nhiều. Từ một nụ cười, một lời nói, một cử chỉ v.v… nhất cử nhất động đều là những bài học lớn cho ta. Được tiếp nhận những lời chỉ dạy của Thầy, thì chắc chắn đời tu của ta sẽ có cơ hội tiến bộ rất nhanh. Đó là một cơ duyên hy hữu rất lớn cho đời tu học của ta.
Ngược lại, nếu ta bất hạnh sống chung với những người thiếu đức hạnh, thì bồ đề tâm của ta rất dễ lui sụt. Thầy hiền bạn tốt, đối với ta rất cần. Vì môi trường sống rất quan trọng. Nếu chúng ta gặp môi trường tốt, trên có bậc Thầy đức độ chỉ giáo hướng dẫn, dưới có huynh đệ đồng tu đồng học, hết lòng thương yêu quý kính giúp đỡ cho nhau, thì còn có hạnh phúc nào hơn! Sống trong môi trường có quy cũ nề nếp tốt đẹp như thế, thì sự tu học của ta ngày càng thăng tiến vượt bực. Bằng trái lại, thì đời tu hành của chúng ta sẽ khó mong đạt thành sở nguyện. Thế nên, ta phải hết sức cẩn thận khi chọn Thầy và môi trường tốt để nương thân tu học.
207. Đi chung với người ngu, chẳng lúc nào không lo buồn; ở chung với kẻ ngu, khác nào ở chung với quân địch. Ở chung với người trí, vui như hội ngộ với người thân.
Indeed, he who moves in the company of fools grieves for long. Association with fools is ever painful, like partnership with an enemy. But association with the wise is happy, like meeting one’s own kinsmen.
Kệ Tụng
Thường thân cận người ngu
Luôn luôn bị lo buồn
Khổ thay gần người ngu
Như thường sống kẻ thù
Lành thay gần người hiền
Như sống với bà con.
Lược giảng
Pháp cú trên, ta tạm phân tách làm ba vấn đề để tìm hiểu:
1. Tại sao đi chung với người ngu, chẳng lúc nào không lo buồn?
Vì người ngu là người thiếu nhận định sáng suốt. Họ hành động theo bản năng sở thích của họ mà không cần phải đắn đo cân nhắc suy nghĩ kỹ càng. Khi giao tiếp chuyện trò với người đối diện, họ cũng không cẩn thận giữ lời. Họ phát ngôn bừa bãi, không sợ ai giận buồn. Họ ăn nói một cách cẩu thả lung tung và thường hay chọc ghẹo phá phách người nầy, gây chuyện người nọ, tạo thêm lắm điều phiền phức rắc rối. Họ không có một chút lịch sự tự trọng. Họ là người không biết gìn giữ ý tứ oai nghi. Thử hỏi đi chung với người như thế, bạn có bực mình hay không? Nếu bạn là người có học thức, tự trọng, lễ độ, ăn nói lịch sự khiêm cung, giao tiếp đàng hoàng, làm việc cẩn thận, thì bạn có thích đi chơi chung với hạng người ngu như thế hay không? Chắc là bạn không bao giờ muốn giao du với hạng người như thế. Vì càng gần họ, bạn càng thêm bực mình, chớ không có ích lợi gì. Đồng thời, nếu không khéo, thì bạn sẽ bị người ta đánh giá chê cười bạn là thứ “cá mè một lứa”. Như thế, bạn có chịu nổi không? Thế thì, tam thập lục kế, chỉ có một kế sách hay nhất là bạn phải tránh xa họ để khỏi phải gây ra tai họa lo buồn sau nầy.
2. Tại sao ở chung với kẻ ngu khác nào ở chung với quân địch?
Quân địch là kẻ thù, là người mà họ với ta không có cùng chí hướng. Họ với ta có ranh giới khác biệt rõ ràng. Người ta thường nói “kẻ thù bất cộng đái thiên”. Nghĩa là họ với ta không đội trời chung. Nơi nào có họ, thì nơi đó không có ta hay ngược lại cũng thế. Ở đây, Phật muốn so sánh giữa người ngu và người trí. Người trí mà sống chung với người ngu như sống chung với kẻ địch. Đã nói là kẻ địch, tất nhiên, hai bên khác nhau rất nhiều: khác về lập trường, về lý tưởng, về cách sống, về sở thích v.v…
Như thế, nếu bạn là người trí, thì làm sao bạn có thể thiết lập được sự cảm thông với họ? Sống chung với người ngu cũng như thế. Đã là ngu, thì dù bạn có nói những điều cao siêu hay ho đến đâu, chắc gì họ lại nghe theo bạn? Chẳng những thế, đôi khi họ còn làm cho bạn rất bực mình về thái độ thiếu lễ độ của họ. Hơn nữa, họ là mẫu người luôn luôn cố chấp bảo thủ những định kiến tri giác sai lầm. Họ không biểu đồng tình với bạn. Bạn muốn làm điều lành, điều phải, những gì hữu ích lợi mình lợi người, thì bạn sẽ bị họ phá rối cản trở. Họ cố tâm phá hoại kế hoạch xây dựng hướng tiến cao đẹp của bạn. Thử hỏi người ngu như thế, thì người trí làm sao sống chung cho được? Cho nên, Phật nói giữa người ngu và người trí như là kẻ địch, không thể sống chung với nhau được.
Đó là nói kẻ ngu và người trí ở bên ngoài. Còn nếu luận về ngu và trí trong tâm thức của mỗi người chúng ta, thì ai ai cũng sẵn có hai thứ hạt giống đó. Ngu là vô minh, là nghiệp thức phiền não nhiễm ô. Trí là trí huệ sáng suốt, là tánh giác thanh tịnh. Hai thứ nầy, nếu nói ở một phương diện thuộc giáo lý bất liễu nghĩa, thì quả chúng nó không thể ở chung một nhà, vì chúng là hai phạm trù đối nghịch nhau, như bóng tối và ánh sáng.
Bóng tối dụ như kẻ địch; ánh sáng dụ như người trí. Hễ có ánh sáng, thì không có bóng tối, hay ngược lại cũng thế. Thế nên, nếu chúng ta sống với vô minh, thì chẳng khác nào chúng ta tiếp nhận và sống chung với kẻ địch. Tất nhiên, là nó sẽ phá tan và gây ra biết bao đau khổ cho đời ta. Nếu như chúng ta không chịu loại trừ nó ra khỏi nhà, thì chắc chắn là chúng ta sẽ chuốc lấy những họa hại đau khổ hệ lụy dài dài…
3. Tại sao ở chung với người trí khác nào hội ngộ với người thân?
Người trí ở đây, Phật muốn nói là người hiểu biết sáng suốt và có đạo đức thanh cao. Họ nhận định biện biệt phải trái rõ ràng. Họ là người sống bằng lý trí hơn là nô lệ tình cảm. Họ không bao giờ hành động mà không có mặt trời ý thức soi sáng. Họ có tấm lòng rộng lượng hỷ xả bao dung. Họ không cố chấp bảo thủ tín điều. Khi có dịp giao tiếp với họ, ta cảm thấy lòng ta thực sự an vui tươi mát. Vì lúc nào, họ cũng nở nụ cười hoan hỷ tươi mát trên môi. Họ là người cấm sâu gốc rễ đạo đức vào mảnh đất tâm linh. Họ là mẫu người thích làm hơn thích nói. Học được điều gì hay, họ đem ra ứng dụng ngay trong đời sống hằng ngày. Họ không thích phô trương ba hoa khoác lác theo kiểu ngước mặt lên trời và cũng không thích làm một lý thuyết gia. Họ là người rất thực tế và rất giàu lòng vị tha nhân ái. Do đó, ai cũng quý mến yêu thương họ. Nếu ta sống chung với người như thế, thì còn hạnh phúc nào hơn! Vì giữa ta với họ không có phân chia ranh giới khác nhau. Ta rất kính mến yêu thương họ và họ cũng rất kính mến yêu thương ta. Gần gũi họ, ta cảm thấy ấm áp cõi lòng và ta học hỏi ở nơi họ rất nhiều những cái hay cái đẹp. Do đó, tình giao hảo giống như người thân. Ta không có gì phải lo âu sợ hãi. Bởi thế, Phật nói: “Ở chung với người trí khác nào hội ngộ với người thân”. Vì người thân xa cách nhau lâu, nay bỗng nhiên ta gặp lại, thì thật không có niềm vui sướng nào bằng. Ta được diễm phúc sống chung với người trí thì tâm trạng ta cũng như thế.
208. Đúng thật như vậy : Người hiền trí, người đa văn, người trì giới chân thành và bậc Thánh giả là chỗ nương dựa tốt nhất cho mọi người. Được đi theo những bậc thiện nhân, hiền huệ ấy, khác nào mặt trăng đi theo đường tinh đạo.
Therefore, follow the Noble One, who is steadfast, wise, learned, dutiful and devout. One should follow only such a man, who is truly good and discerning, even as the moon follows the path of the stars.
Kệ Tụng
Do vậy ...
Bậc hiền trí nghe nhiều
Bậc thánh nhơn trì giới
Hãy gần gũi nương tựa
Thiện nhơn, trí giả ấy
Như trăng theo đường sao.
Lược giảng
Pháp cú trên, Phật dạy khi tu học, muốn đạt được kết quả tốt đẹp, thì chúng ta cần phải nương tựa vào những bậc Thiện hữu tri thức hướng dẫn chỉ giáo. Bởi vì những bậc Thiện hữu tri thức nầy, họ có đủ tài đức trải nghiệm để khai thông con đường tuệ giác cho ta. Có tuệ giác, thì ta mới có đủ khả năng tiếp nhận Chánh pháp. Đây là con đường tối hệ trọng mà các bậc Hiền Thánh đã đi qua. Có gần gũi các Ngài, chúng ta mới có thể trau dồi thêm kiến thức và mới có sự thật hành bảo đảm vững chắc, không sai lệch rơi vào tà kiến.
Thế nên, là kẻ hậu học, chúng ta cần nên chọn lựa bậc Minh Sư để tu học. Vì bước đầu tìm Thầy học đạo là vấn đề tối hệ trọng đối với người xuất gia cũng như tại gia. Nếu chúng ta chọn sai lầm, thì thật là uổng phí cho đời tu học của ta. Do đó, khi bước vào đường đạo, ta cần nên dùng trí huệ để biện biệt chọn lựa kỹ càng. Không nên vì tình cảm mà ta đánh mất sự ích lợi trong việc tu học của đời ta.
Môi trường tu học để được tiến thân trên đường đạo thật là hệ trọng. Người tu học được thành công là nhờ họ khéo biết chọn môi trường. Nơi nào có tổ chức nghiêm trang, có quy chế tu học đàng hoàng và nhất là có bậc Thầy sáng suốt, đức độ lãnh đạo hướng dẫn tu học, thì ta nên tìm đến đó để tu học. Sự tu học giống như ta chọn đất gieo giống. Mặc dù ta có hạt giống tốt, nhưng nếu ta không khéo chọn đất tốt để gieo, thì hạt giống của chúng ta chắc chắn là sẽ lên không có kết quả tốt, nếu không muốn nói là quá èo uột và đi dần đến tàn rụi, vì chúng ta chọn lầm đất xấu, và chung quanh môi trường cũng không tốt. Thế là, kết quả, ta sẽ đi vào con đường tử lộ. Ngược lại, nếu ta đã có hạt giống tu học tốt mà ta chọn đúng đất tốt, môi trường chung quanh tốt, thì khác nào mặt trăng đi theo con đường tinh đạo. Nghĩa là tất cả nhân duyên, tăng thượng duyên đều tốt đẹp. Như thế, thì con đường tu học tiến đến thành công đối với chúng ta sẽ không còn là một ước mơ nữa, mà chính đó là một sự thật vậy.




MỤC LỤC
Trang
Lời nói đầu ………………………………………………….. 3 - 5
X - Phẩm Đao Trượng ………………………….. 6 - 67
XI - Phẩm Già ……………………….…………………. 68 - 111
XII - Phẩm Tự Ngã ………………….………………. 112 - 149
XIII - Phẩm Thế Gian ………………………………. 150 - 199
XIV - Phẩm Phật Đà …………………………………. 200 – 241
XV - Phẩm An Lạc ……………………….……….…. 242 - 282

CÚNG DƯỜNG PHÁP LÀ TỐI THƯỢNG NHẤT
The gift of truth surpasses all other gifts
***********
Phương Danh Ấn Tống
List of Virtuous Sponsors
******
Tổ Đình Phước Huệ
Chư Tăng Ni
850
SC Phước Lượng
57.5
Thầy Phước Độ
57.5
Thầy Minh Thông
300
Thầy Phước Thái
100
TT Thích Duy Tín
225
GĐ Viên Giác
100
SC Huệ Mãnh
50
Quincy Trí Việt
30
Diệu Ngọc
20
Nguyên Tâm
10
Chơn Huyền Hiền
20
Quảng Thanh
20
Ý Ngọc
20
Minh Quang
15
Diệu Thiện 1
20
Diệu Huệ 2
15
Hoàng Quý
10
Diệu An
20
Diệu Hoa 2
20
Tâm Thạnh
20
Yêm, Khiêm, Phương Minh
20
Diệu Trí 2
20
Diệu Thiện 2
20
Tâm An
20
Đức Ngọc
20
Tâm Đạt
20
Tâm Hiệp
20
Viên Linh
10
Diệu Hiền
20
Tâm Hoa
20
Trầm Thanh Thủy
20
Chùa Quang Minh
Tâm Trúc
50
Lu Huệ Dung
5
Diệu Liên 2
10
Tâm Chiếu
20
Tâm Tiên
30
Tâm Thanh
50
Diệu Nguyện 2
20
Lệ Báo
20
GĐ Thanh Liên
20
Tịnh Từ
50
Diệu Phi
20
Thúy Phượng
100
Nguyên Lạc
20
Diệu Huệ
10
Lệ Gấm
20
Diệu Lượng
20
Nguyên Hoàng
50
Tâm Bảo
20
Viên Hảo
50
Chân Mỹ Lộc
20
Diệu Nguyện 1
10
Diệu Châu
20
Tâm Thiện
20
Tâm Hải
50
Đồng Giỏi
10
Diệu Thông
10
Diệu Hiển
20
Diệu Ngọc 2
50
Chân Tâm Niệm
10
Diệu tuyết
20
Chơn Thừa
20
Chiếu Hoằng
20
Thanh Châu
20
Ẩn danh
5
Diệu Hải 2
20
Ẩn danh
5
Chân Mỹ Hóa
20
Minh Đức
20
Chân Hiền Đạo
20
Chiếu Thiện
20
Nguyên Phương
20
Diệu Thi
100
Từ Hương
50
Ẩn danh HH CHTT
50
Diệu Hương 2
20
Diệu châu 2
50
Tâm Đắc
20
Diệu Phước
20
Tuệ Anh
50
Viện Định
20
Diệu Lạc
30
Huệ Tịnh 2
30
Viên Hiệp
40
Viên Nguyện
20
Viên Thật
40
Thu Ngọc
20
Diệu Lạc
15
Hoa Lộc
5
Diệu Huệ 2
30
Viên Trực
10
Diệu Hạnh
30
Nguyên thuần
20
Tâm Đạo
20
Nguyệt Đạo
50
Hạnh Giác
10
Minh Thư
10
Lệ Ánh
10
Diệu Hải
20
Diệu Huệ 5
50
Thanh Thể
50
Nhật Thiện + GĐ
30
Thanh Nhơn
10
Thế Niên
30
Diệu Nghiêm
50
Diệu Viên
30
Thông Ngọc
30
Nguyên Dung
20
Huệ Hiền
25
Diệu Quang 2
10
Quảng Thọ
25
Lệ Tâm
20
Thiện Minh
30
Phước Ngọc
20
Đức Ngọc
30
Chân Mỹ Thu
50
Nguyệt Thiện
50
Nguyên Sơn
20
Quảng Đài
20
Diệu Pháp
20
Diệu Hóa
20
Viên Thành
10
Hạnh Thông
20
Nguyên Diệu
20
Từ Chánh
10
Tịnh Trang
20
Tô Ngọc Lan
10
Diệu Đức
20
Chân tâm Đạo
20
Diệu Từ
20
Diệu Huệ 5
10
Minh Bạch
20
Diệu Sương
30
Hạnh Hải
20
Chiếu Ngạn
5
Diệu Ngọc
20
Chí Phước
20
Diệu Quang
10
Diệu Lương
100
Chơn Trì
20
Tâm Thanh
20
Tâm Quảng
20
Nguyên Hồng
30
Diệu Nhàn
30
Viên Hảo
20
Ngọc Duyên
20
Duyên Ngọc
20
Tâm Thân
10
Như Nghinh
20
Nguyệt Phước
10
Diệu Đào
10
Nguyệt Điện
30
Viên Hoa
20
Diệu Nghĩa
20
Mẫn Liên
100
Tắc Hương
20
Tuân liên
100
Thanh Diệu
25
Hoa Quang
20
Trịnh Tam Kỳ
10
Trịnh Tam Bình
10
Trịnh Ngọc Thảo
10
Trịnh Ngọc Loan
10
Diệu Châu 1
20
Huệ Giải
50
Viên Như
50
HỒI HƯỚNG CÔNG ĐỨC
Nguyện đem công đức nầy
Trang nghiêm Phật Tịnh Độ
Trên đền bốn ơn nặng
Dưới cứu khổ ba đường
Nếu có ngườì thấy nghe
Đều phát lòng Bồ Đề
Hết một báo thân này
Sanh qua cõi Cực Lạc
Nam mô A Di Đà Phật
DEDICATION OF MERIT

May the merit and virtue
accrued from this work
adorn Amitabha Buddha’s Pure Land,
repay the four great kindnesses above,
and relieve the suffering of
those on the three paths below.
May those who see or hear of these efforts
generate Bodhi-mind,
spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
and finally be reborn together in
the Land of Ultimate Bliss.
Homage to Amita Buddha!
NAMO AMITABHA
KINH PHÁP CÚ

SONG NGỮ CHÚ GIẢI
TẬP 2

Biên soạn: Thích Phước Thái
Ấn hành lần thứ nhất
Chùa Quang Minh
2007
SÁCH ẤN TỐNG ĐỂ BIẾU TẶNG

KHÔNG ĐƯỢC BÁN

The book is strictly for free distribution, it is not for sale.

Printed by: ALL-VILLA PRINT Tel: 02 9724 7012

[1] Trượng : Cây gậy bằng gỗ, thời trước dùng để đánh người có tội bị xử phạt, như nói : đánh một trăm trượng v.v…
[2] Niết bàn: Nguyên tiếng Phạn là Nirvana, Trung Hoa phiên âm là Niết bàn. Niết bàn còn gọi là Nê hoàn hay Niết bàn na. Niết bàn có nhiều nghĩa: Diệt độ, Giải thoát, Tịch diệt, Bất sinh, Vô Vi, An lạc, Viễn ly v.v… Bởi có nhiều nghĩa, nên thường người ta để nguyên là Niết bàn mà không có dịch nghĩa. Có bốn loại Niết bàn. Niết bàn của Đại thừa gồm có hai: Vô trụ xứ Niết bàn và Tự tánh thanh tịnh Niết bàn. Niết bàn của Tiểu thừa gồm có hai: Hữu dư y niết bàn và vô dư y Niết bàn.
[3] Chúng sanh: Sattava (Thuật ngữ). Tiếng Phạn là Tát đóa, Bộc hô thiện na. Cách dịch mới là hữu tình, cách dịch cũ là chúng sinh. Chúng sinh có nhiều nghĩa: 1. có nghĩa là mọi người cùng sinh ra; 2. Các pháp giả hòa hợp mà sinh, cho nên gọi là chúng sinh; 3. Sự sống chết trải qua nhiều lần, cho nên gọi là chúng sinh. Không gọi là chúng tử, bởi vì có sống ắt có chết, cho nên chỉ nêu chữ sinh đại diện. (Từ Điển Phật Học Hán Việt trang 245)
[4] Nghiệp: Karma (Thuật ngữ). Nghiệp có nghĩa là một hành động tạo tác lặp đi lặp lại nhiều lần thành thói quen. Như thói quen hút thuốc, chơi cờ, đánh bài, uống rượu v.v… Nghiệp có nhiều loại. Tổng quát có hai loại nghiệp chính: nghiệp lành và nghiệp dữ. Ngoài ra, còn có Tích lũy nghiệp, Tập quán nghiệp, Cận tử nghiệp, Cực trọng nghiệp v.v…
[5] Địa ngục: naraka, niraya (cõi). Tiếng Phạn là Na lạc ca hay Nê lê. Tiếng Hán dịch là bất lạc, khả yếm, khổ cụ, khổ khí, vô hữu, chỉ nơi chẳng vui, đáng chán, đủ mọi cảnh khổ, chốn khổ cực. Đây là một cảnh giới tối tăm thật đau khổ.
[6] Tịch tịnh: Là vắng lặng, không có phiền não, là tên khác của Niết bàn.
[7] Phạm hạnh: Hạnh trong sạch. Người xuất gia tu phạm hạnh là hằng xa lìa dâm dục, nói chung là xa lìa mọi thứ dục vọng đều gọi chung là phạm hạnh.
[8] Tỳ kheo: Tỳ kheo hay Sa môn, chỉ cho những vị xuất gia thọ Đại giới, tức 250 giới. Tỳ kheo có ba nghĩa: Khất sĩ, bố ma và phá ác.
[9] Chế ngự: ngăn chặn tác hại và bắt phải phục tùng theo mệnh lệnh của tâm thiện. Như nói chế ngự những dục vọng cá nhân v.v…
[10] Tụ: nhóm họp lại thành một hình thể cụ thể.
[11] Tán: tan ra. Hễ có tụ lại thì có tan ra. Đây là nói lên cái lý duyên sinh vô thường không có gì tồn tại lâu dài.
[12] Luân hồi: luân là bánh xe; hồi là xoay tròn. Dùng hình ảnh bánh xe xoay tròn để nói lên mọi vật đều chịu chung một định luật Luân hồi. Tất cả vạn vật thiên hình vạn trạng, không một vật nào thoát khỏi luân hồi.
[13] Chánh đạo: Chánh là ngay thẳng; đạo là con đường. Chánh đạo là con đường chơn chánh đưa con người đến chỗ an lạc giải thoát hoàn toàn.
[14] Giáo hóa : giáo là lời dạy; hóa biến đổi. Giáo nghĩa là dùng những lời chánh lý để chuyển đổi tâm thức con người từ tối tăm đến sáng suốt, từ đau khổ đến an lạc, từ sanh tử đạt được niết bàn.
[15] Mang la: Tiếng Phạn là Maluva, tên một loại dây bìm. Cây Ta la khi bị leo quấn vào là khô héo chết ngay.
[16] Ta la tiếng Phạn là Sàla. Tên một loại cây cao lớn thuộc họ long não, sống ở các vùng nhiệt đới như Ấn Độ. Loại cây nầy, thân cao khoảng 32m, lá dài hình bầu dục, đầu lá nhọn, dài khoảng 16 đến 25 cm, rộng khoảng 10 đến 16 cm; hoa nhỏ màu vàng nhạt, gỗ rất cứng, có thể dùng làm vật liệu xây dựng, mủ có thể thay thế cho nhựa đường, hạt để ép dầu
[17] Cách tha: nói đủ là cách tha cách. Tiếng Phạn gọi là katthaka. Đây là một loại cây lau, có tên khác là Cách tha cách trúc (Velu-sankhata- kattha). Loại cây nầy, sau khi ra hoa kết trái rồi là chết.
[18] Ty liệt: yếu kém, thấp hèn.
[19] Tà thuyết: Những chủ thuyết chủ trương không phù hợp chân lý. Như các phái Thường kiến hoặc Đoạn kiến ngoại đạo. Phái Thường kiến cho rằng con người có một linh hồn bất tử. Ngược lại, phái Đoạn kiến cho rằng con người chết rồi là mất hẳn, không có luân hồi và quả báo đời sau.
[20] Tục trần: Tục nói cho đủ là thế tục, chỉ cho thói đời. Người ta thường nói: phàm phu tục tử. Ý nói, chỉ cho hạng người đang sống trong vòng vô minh vọng chấp, nếm đủ mùi đời thói hư tật xấu. Chữ trần nghĩa đen là bụi, nghĩa bóng là chỉ cho những thứ cáu bợn phiền não.
Tục trần ở đây, theo Tích Lan giải thích là luân hồi
[21] Lầu sò chợ bể: dịch nghĩa của cụm từ: thần lâu hải thị. Ngầm ý là chỉ cảnh huyễn hóa không thật. Những làn khí bốc lên trên mặt biển đụng phải ánh nắng, hoặc làn không khí mà hiện ra những bóng hình nhìn xa như lầu đài chợ búa. Người xưa tin những làn khí ấy là hơi của giống sò thần tự dưới đáy bể phun lên.
[22] Tứ thần túc: Bốn thần túc, gồm:
1. Tập định đoạn hành cụ thần túc.
2. Tâm định đoạn hành cụ thần túc.
3. Tinh tiến đoạn hành cụ thần túc
4. Ngũ định đoạn hành cụ thần túc.
[23] Nhất thừa hay Phật thừa (thuật ngữ). Giáo pháp duy nhất để thành Phật. Thừa là cỗ xe, ví với giáo pháp của đức Phật, giáo pháp có thể chỡ người đến bờ Niết bàn, nên gọi là Thừa. Kinh Pháp Hoa chuyên thuyết lý Nhất thừa nầy.
[24] Tu đà hoàn: Trung Hoa dịch là Thất lai hay Dự lưu. Thất lai, vì vị nầy còn bảy lần sanh lại nhơn gian. Nói Dự lưu, vì vị nầy đã dự vào dòng Thánh. Quả Tu đà hoàn đã dứt trừ được kiến hoặc. Tức những thấy biết sai lầm về lý. Họ tin chắc chắn vào chân lý nhân quả. Mọi tà kiến họ đều dứt sạch.


NHÀ XUẤT BẢN QUANG MINH
Published by:
Quang Minh Temple
18 Burke St, Braybrook,Victoria 3019 AUSTRALIA
Tel: 61 3 9312 5729
Fax: 61 3 9311 0278
Email: thichphuocthai@gmail.com
Website: http://www.quangminh.org.au
National Library of Australia Cataloguing-in Publication entry:
ISBN 978-0-9803726-1-8
KINH PHÁP CÚ SONG NGỮ CHÚ GIẢI Tập 2

Thích Phước Thái @ 2007
First edition 2007
1500 copies
**************************
Editor: Thích Phước Thái
Proof Reader: Minh Quang
Book Designer: Diệu Lương - Hồ Sĩ Trung

Cover Designer : Thích Phước Quảng
***************************

Chân thành cảm tạ Thầy Phước Thái & Thầy Phước Viên đã gởi tặng Trang Nhà Quảng Đức phiên bản điện tử tập sách này (T.Nguyên Tạng, 1-6-2014)
Về Đầu Trang Go down
https://triamquan.forumvi.com/
Tri Âm Quán
Thành Viên Tích Cực
Thành Viên Tích Cực
Tri Âm Quán


Tổng số bài gửi : 6340
Reputation : 2
Join date : 31/07/2013
Đến từ : Thị Trấn Chũ

Kinh Pháp Cú chú giải (tập 1) - Page 2 Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Kinh Pháp Cú chú giải (tập 1)   Kinh Pháp Cú chú giải (tập 1) - Page 2 EmptySun Nov 16, 2014 11:52 am

Kinh Pháp Cú chú giải (tập 3)
Thích Phước Thái 

Kinh Pháp Cú chú giải (tập 1) - Page 2 Kinh-phap-cu-tap-3

Phật lịch 2552
Dương lịch 2008 - Việt lịch 4887
THÍCH PHƯỚC THÁI
KINH PHÁP CÚ

SONG NGỮ CHÚ GIẢI
TẬP 3
NHÀ XUẤT BẢN QUANG MINH


Thành kính dâng lên với tất cả tấm lòng tri ân những bậc Giáo Thọ Ân Sư đã dày công giáo huấn.
Nhất là Hòa Thượng Bổn Sư thượng Phước hạ Huệ đã chứng minh và từ bi chỉ giáo.

Thành kính tri ân:
Sách nầy được hình thành là nhờ công ơn của:
- Các dịch giả của các dịch phẩm như đã nêu ra ở
phần đầu sách.
- Thượng Tọa Thích Phước Tấn đã tận tình hỗ trợ.
- Quý học chúng Tăng, Ni tại Tổ Đình Phước Huệ.
- Quý Đại Đức Thích Phước Viên, Thích Phước
Quảng, Sư cô Thích Phước Thanh và các đạo hữu:
Hồ Sĩ Trung, Minh Quang, Diệu Lương, Tâm
Kiên, đã tận tình giúp cho phần đánh máy, kỹ
thuật trình bày và sửa bản in.
- Chư tôn đức Tăng Ni, quý liên hữu của hai đạo tràng: Quang Minh và Phước Huệ cùng chư Phật tử xa gần đã phát tâm ủng hộ hỷ cúng tịnh tài ấn tống.
Xin tất cả nhận nơi đây lòng tri ân chân thành của soạn giả.
Nguyện đem công đức pháp thí nầy hồi hướng cho quý ân nhân cùng pháp giới chúng sanh đều trọn thành Phật đạo.
Thích Phước Thái.
Kinh Pháp Cú
Song Ngữ Chú Giải

Lời đầu sách

Kinh Pháp Cú là những câu nói ngắn gọn do Đức Phật nói ra tùy theo từng trường hợp. Những lời dạy nầy nhằm mục đích thức nhắc đương cơ lưu tâm để áp dụng tu hành cho có kết quả tốt đẹp. Những lời dạy nầy về sau đã được chư Tổ kết tập lại thành Kinh gọi là Kinh Pháp Cú. Mỗi lời dạy đều có ghi rõ lý do xuất xứ.

Toàn Kinh gồm có 26 phẩm và có tất cả là 423 câu. Kinh nầy nằm trong Tiểu bộ (Khuddaka- Nikaya) của tạng Kinh Pali và đã được dịch ra nhiều thứ tiếng ở Á Châu và Âu Mỹ. Đại Đức Narada đã dịch ra bản chữ Anh, xuất bản tại Tích Lan. Một bản chữ Anh khác của giáo sư C.R Lanman, do Đại học đường Haward tại Mỹ quốc xuất bản; bản chữ Nhật của Phước đảo Trực Tứ Lang xuất bản tại Nhật và các bản Hán dịch rất cổ với danh đề là Pháp Cú Kinh, Pháp tập yếu tụng v..v

Kinh nầy rất được phổ cập tại các nước Phật giáo Nguyên Thủy như Tích Lan, Miến Điện v..v.. Có thể nói Kinh nầy như là một quyển Kinh nhật tụng của giới Tăng già và cư sĩ ở các quốc gia đó. Họ coi như là một quyển kinh gối đầu giường. Đại đa số đều nhớ nằm lòng. Họ thường xuyên đem ra áp dụng vào đời sống thực tế hằng ngày. Kết quả rất có lợi ích.
Riêng những bản chữ Việt, chúng tôi thấy có một vài bản dịch ra Việt văn như sau:
1. Bản dịch của Hòa Thượng Thích Thiện Siêu do nhà xuất bản Phú Lâu Na ấn bản tại Hoa Kỳ Phật lịch 2546 - 2002.
2. Kinh Lời Vàng Dhammapada do Hòa Thượng Thích Minh Châu dịch từ nguyên bản Pali theo thể văn kệ.
3. Bản dịch của các Ni sinh thuộc thiền viện Viên Chiếu dịch theo bản chữ Anh của học giả Eugène Valson Buxlingame. Nhà học giả nầy đã căn cứ trên nguyên tác Pháp Cú sơ giải bằng tiếng Pali, do nhà xuất bản Thành Phố Hồ Chí Minh ấn hành năm 1999. Đặc biệt bản dịch nầy, sau mỗi câu Kinh đều có nêu rõ điểm xuất xứ Phật dạy và có kèm theo sau đó là một mẫu chuyện, nêu rõ lý do chính yếu Phật nói ra câu Kinh đó.
4. Bản dịch của luật sư Đinh Sĩ Trang dịch đề là Lời Phật Dạy ấn hành tại Úc năm 1997. Ngoài ra, còn những quyển nào khác nữa, thì chúng tôi chưa được biết đến.
Nay chúng tôi y cứ vào bản dịch Việt ngữ của Hòa Thượng Thích Thiện Siêu làm tài liệu chính để giảng giải cho Tăng, Ni và chúng tôi cũng có thêm phần Kệ tụng do Hòa Thượng Thích Minh Châu dịch. Đồng thời, chúng tôi cũng có thêm phần đối chiếu Anh ngữ trong quyển DHAMMAPADA của dịch giả Àcharya Buddharakkhita. Tác phẩm đã ấn hành vào ngày 16 tháng 10 năm 1986. Sở dĩ chúng tôi cho thêm phần Anh ngữ nầy, với mục đích là muốn giúp cho quý Tăng, Ni sinh tại Phước Huệ Công Đức Tòng Lâm tiện đối chiếu học hỏi. Đồng thời sau mỗi câu Kinh chúng tôi có thêm phần chú thích từ ngữ và lược giảng.
Tài liệu biên soạn nầy, nhằm mục đích hướng dẫn, giúp thêm tài liệu cho quý Tăng Ni sinh tu học trong khóa an cư kiết đông tại Tổ Đình Phước Huệ 2008. Việc biên soạn nầy, dù có cố gắng đến đâu, chúng tôi cũng không tránh khỏi những thiếu sót sai lầm. Kính mong chư Tôn Đức cùng các bậc thức giả từ bi chỉ giáo, chúng tôi xin chân thành đa tạ.
Tổ Đình Phước Huệ
Ngày đầu an cư 20 /05/2008
Nhằm ngày 16/04 âm lịch năm Mậu Tý.
Thích Phước Thái

Kinh Pháp Cú Tập 3

XVI. PHẨM HỶ ÁI
(Piyavaggo)
209. Chuyên tâm làm những việc không đáng làm, nhác tu những điều cần tu, bỏ việc lành mà chạy theo dục lạc, người như thế dù có hâm mộ kẻ khác đã cố gắng thành công, cũng chỉ là hâm mộ suông[1].
Giving himself to things to be shunned and not exerting where exertion is needed, a seeker after pleasures, having given up his true welfare, envies those intent upon theirs.
Kệ tụng
Làm việc, không đáng làm,
Không làm, việc đáng làm,
Bỏ lợi, theo hỷ ái,
Ghét bỏ kẻ tự lực
Lược giảng
Pháp cú này Phật dạy tại tinh xá Kỳ Viên, có liên quan đến ba người đệ tử.
Theo truyện tích kể lại, tại Xá Vệ, có một gia đình sanh ra duy nhứt có một người con trai. Người con trai này được cha mẹ thương yêu nuông chiều như trứng mỏng. Hai ông bà trông giữ đứa con không cho đi ra ngoài. Ông bà là người Phật tử rất sùng mộ kính ngưỡng tin tưởng Phật pháp.
Một hôm, ông bà thỉnh chúng Tăng đến tư gia để cúng dường ngọ trai. Thọ trai xong, chư Tăng tụng một bài kinh hồi hướng công đức. Cậu con trai nghe thấy thế, liền phát tâm hâm mộ và có ý muốn đi xuất gia. Nhưng cậu ta biết rõ, nếu xin cha mẹ đi công khai, thì chắc chắn cha mẹ cậu sẽ ngăn cản không cho đi. Cậu ta suy nghĩ, chỉ có cách duy nhứt là phải tìm phương cách trốn đi. Thế là, cậu ta liền thực hiện theo ý định bằng cách nói dối gạt mẹ, để đi đến tinh xá xin Phật xuất gia. Cậu ta được Phật hứa khả chấp nhận cho xuất gia và nhập vào hàng ngũ tăng chúng tu học.
Khi biết được, người cha đến tinh xá, thấy con đã xuất gia mặc y vàng, ông cha liền nghĩ, con ta đã xuất gia, vậy ta còn ở ngoài đời làm gì. Thế là ông cũng xin Phật xuất gia luôn. Đến khi bà mẹ, không thấy chồng về, đi đến tinh xá tìm kiếm. Thấy cả hai đều xuất gia, bà mẹ cũng đi đến bên tinh xá chư Ni xin xuất gia. Tuy cả nhà đều xuất gia, nhưng tình thân thuộc quyến luyến vẫn còn, cả ba người thường hay tìm cách ngồi chung nhau để bàn chuyện. Thấy thế, Phật liền quở trách và nhân đó, nên Phật nói Pháp cú này. (Hết phần lược dẫn cốt chuyện)
Qua câu chuyện lược dẫn trên, cho chúng ta thấy, cả ba vị đệ tử này, tuy thân đã xuất gia, nhưng tình thân thuộc luyến ái trong gia đình vẫn còn. Họ hay tìm cách gần gũi để chuyện trò với nhau. Điều này, nếu đứng về phương diện xuất thế mà nói, thì trái với hạnh nguyện của người xuất gia. Vì cội gốc của sanh tử luân hồi là do lòng ái dục mà ra. Nên có câu nói: “Niệm bất nhứt bất sanh Tịnh Độ, ái bất nhiễm, bất sanh Ta bà”.
Vì thế, trong Pháp cú trên, Phật dạy: “chuyên làm những việc không đáng làm”. Việc không đáng làm là sao? Là người xuất gia, lẽ ra, là phải đoạn dục khử ái, cần siêng năng nhìn lại nội tâm để tư duy quán chiếu nguồn tâm, tìm lại cái chân thật của chính mình. Đằng này, ngược lại, đã là người xuất gia tu hạnh xuất thế mà còn đam mê theo ái dục, còn nhiễm trước chạy theo dòng đời, thì Phật cho đó là: “biếng tu những điều cần tu”. Những điều cần tu, đối với người xuất gia, phải thường xuyên quán chiếu nội tâm để chuyển hóa vô minh phiền não. Có thế, thì mới mong thoát khỏi khổ đau của sự ràng buộc trong vòng luân hồi trầm luân sanh tử. Tuy nhiên, nếu đứng về mặt phát tâm xuất gia tu hành, đối với thế gian mà nói, thì ta thấy cũng rất hiếm có gia đình nào được như thế. Cả ba người trong gia đình đều bỏ tục vào đạo. Nếu không có gieo trồng hạt giống sâu dày với Phật pháp nhiều đời, thì làm gì cả gia đình đều phát tâm vứt bỏ trần duyên mà xuất gia theo Phật như thế.
Điều đáng nói ở đây là, thật đáng khen cho cậu con trai. Điều này cũng đủ chứng minh cho chúng ta thấy rằng, cậu ta đã gieo trồng hạt giống Phật pháp trong nhiều đời, nên chỉ nghe qua lời tụng kinh chú nguyện công đức của chư tăng một lần, cậu liền phát tâm bỏ nhà trốn đi xin Phật xuất gia. Dù biết trước cha mẹ không cho, nhưng cậu ta đã quyết chí lén cha mẹ trốn đi. Đó là một sự phát tâm rất dõng mãnh. Đứng về mặt thế gian thường tình, thì người ta sẽ cho cậu ta là người con bất hiếu. Vì cha mẹ không cho mà bỏ nhà trốn đi tu. Điều này, đối với xã hội hiện nay, ta cũng thường thấy xảy ra. Nhưng có thể tâm cảnh của mỗi người khác nhau. Đó là xét theo thường tình. Còn đứng về mặt xuất thế mà nói, thì việc làm của người con thật đáng khâm phục. Phải là người có chí khí cương quyết mới được. Chúng ta nên nhớ rằng, cậu ta là đứa con trai duy nhứt của gia đình. Nhờ đó mà vô tình cậu ta đã chuyển hóa được cha mẹ của cậu cả hai đều đi vào con đường thánh thiện cả. Song có điều dù đã xuất gia, nhưng duyên trần tình ân ái vẫn chưa dứt hết. Do đó, nên cả ba người đều bị Phật quở trách.
Người tu mà còn để tâm hướng ngoại tìm cầu, đắm nhiễm theo dục tình, ái nhiễm, thì làm sao tương ưng với hạnh nguyện xuất thế? Nếu mình không tự khắc chế lòng dục vọng tham muốn của mình, thì dù mình thấy kẻ khác tu hành có đạt được kết quả cao, rồi đem lòng hâm mộ quý mến, nhưng nhìn lại mình thì là kẻ trống rỗng không có được chút lợi lạc gì! Như thế, thì Phật nói: “sự hâm mộ đó chỉ là hâm mộ suông vô ích mà thôi!”
210. Chớ kết giao với người đáng ưa, chớ kết giao với người không đáng ưa. Không gặp được người thương yêu là khổ, gặp người cừu oán cũng khổ.
Seek no intimacy with the beloved and also not with the unloved, for not to see the beloved and to see the unloved, both are painful.
Kệ tụng
Chớ gần gũi người yêu
Trọn đời xa kẻ ác
Yêu không gặp là khổ
Oán phải gặp cũng đau
211. Thế nên chớ đắm yêu, vì đắm yêu bị biệt ly là khổ. Nếu không còn những niệm yêu ghét, thì không điều gì ràng buộc được.
Therefore, hold nothing dear, for separation from the dear is painful. There are no bonds for those who have nothing beloved or unloved.
Kệ tụng
Do vậy chớ yêu ai
Ái biệt ly là khổ
Những ai không yêu ghét
Không thể có buộc ràng
Lược giảng
Hai pháp cú trên, Phật nêu ra và nhấn mạnh sự đau khổ vì mối hệ lụy ràng buộc của tình cảm. Trong đời sống, không ai lại không có tình cảm. Nhưng có thứ tình cảm thương yêu cao thượng, và cũng có thứ tình cảm yêu thương bi lụy thấp hèn. Tình yêu cao thượng, chỉ có, đối với những con người, mà họ có trái tim rộng mở bao dung tha thứ, luôn thiết tha muốn làm đẹp cho mình và cuộc đời. Đó là thứ tình yêu xả kỷ, mở rộng cõi lòng vị tha nhân ái.
Ta có tình yêu rất đượm nồng
Yêu đời yêu vật lẫn non sông
Tình yêu chan chứa trong hoàn vũ
Không những riêng yêu khách má hồng
Nếu khách má hồng muốn được yêu
Thì trong tâm trí hãy xoay chiều
Hướng về phụng sự cho nhơn loại
Sẽ gặp tình ta trong khối yêu
Ta đã đa mang một khối tình
Dường như thệ hải với sơn minh
Tình yêu mà chẳng riêng ai cả
Yêu khắp muôn loài lẫn chúng sinh
(Đức Huỳnh Phú Sổ)
Ngược lại, là thứ tình yêu thấp hèn vị kỷ, chỉ biết có lợi cho mình, mà không nghĩ thương tưởng đến ai. Dẫu cho họ có tỏ ra thương yêu người khác, nhưng kỳ thật, cũng chỉ vì bản ngã của họ mà thôi. Đây là thứ tình yêu vị kỷ đau khổ, luôn luôn héo mòn tàn tạ và trái tim của họ mãi khô cằn và rồi chết dần chết mòn theo năm tháng.
Pháp cú 210, tại sao Phật dạy chúng ta không nên kết giao với người đáng ưa? Và cũng không nên kết giao với người không đáng ưa? Thông thường, người ta thích giao du qua lại với người mà mình có cảm tình ưa thích. Nhưng tại sao ở đây, Phật bảo chớ nên kết giao với họ? Điều đó có chống trái với thói đời xã giao thường tình hay không?
Mới xét qua, ta thấy việc khuyên bảo của Phật điều đó, dường như có hơi khắt khe quá đáng, Nhưng, nếu bình tâm xét kỹ, thì chúng ta thấy Phật rất thấu hiểu tâm lý tình cảm của con người. Vì thương hay ghét đó là hai phạm trù đối nghịch, nằm trên bình diện tình cảm xử thế bề ngoài của thế nhân. Người mình ưa thích, tất nhiên, mình sẽ bị dính kẹt hệ lụy vào họ rất nhiều. Đối xử tử tế làm vừa lòng họ, thì họ vui, bằng trái lại thì họ ghét. Nếu hôm nay, họ đối xử với mình tốt, thì mình có cảm tình ưa thích giao du tới lui với họ. Ngược lại, nếu vì một lý do nào đó, họ làm mình buồn phiền, khó chịu, tất nhiên, là mình sẽ tức giận và rồi sẽ đi đến xa nhau. Thế là, tình cảm giữa hai người sẽ bị rạn nứt sứt mẻ ngay. Và nếu không khéo đối xử, có đôi khi trở thành thù hận. Bạn thân trở thành thù, đó là chuyện thường tình ở thế gian. Vậy, tốt hơn hết, là ta nên ứng dụng bốn câu này:
“Đã biết có thương thì có ghét,
Thà rằng đừng ghét cũng đừng thương.
Mong sao giữ tánh không thương ghét,
Mới thoát ra ngoài cái ghét thương”.
Cho nên, sự thương ghét ở đời, nó thay đổi như trở bàn tay. Yêu nên tốt, ghét nên xấu. Thuở xưa, Di Tử Hà rất được vua nước Vệ yêu dùng. Theo luật, ai trộm xe vua phải tội thì sẽ bị chặt chân. Thế mà, khi hay tin mẹ đau nặng, nửa đêm, Di tử Hà lấy xe vua đi, vua biết được khen Di tử Hà là người con chí hiếu. Biết tội chặt chân mà vẫn lấy. Lần khác, Di tử Hà theo vua dạo chơi ngoài vườn, đang ăn quả đào ngon, còn nửa trái dâng cho vua. Vua khen, đang ngon mà nhường ta.
Về sau, khi vua hết tin dùng, không còn yêu thương nữa, liền hài tội và rồi truyền lệnh trị tội Di tử Hà về những tội khi quân trước kia. Cho hay, thói đời là như thế. Thương ghét của con người giống như thời tiết, nóng lạnh bất thường. Khen chanh thì chanh ngọt, chê hồng thì hồng chua.
Nếu mình không muốn hệ lụy phiền toái rối rắm trong lòng, thì tốt hơn hết là mình không để cho tình cảm của mình bị người khác lợi dụng làm lung lạc. Đừng để cho họ dễ sai khiến mình. Vì người mình ưa thích, thường là mình hay tỏ ra chiều chuộng họ. Mãi lo sợ làm mất lòng, mà tình thân bị sứt mẻ. Kinh nghiệm xử sự ở đời cho chúng ta thấy, người nào mà mình quá tỏ ra thương yêu chiều chuộng họ nhiều, là chắc chắn, mình sẽ khổ lụy với người đó nhiều. Chi bằng, tốt hơn hết, là ta cứ xử sự ở mức độ bình thường. Nên tránh tình trạng “thương nhau cho lắm, thì cắn nhau đau”.
Khi mình nặng lòng thương ai, thì mình hay sanh ra cái tâm ganh tỵ, khi thấy người mình thương có đệ tam nhân xen vào. Càng ganh tỵ, thì càng làm cho người mình thương, họ cảm thấy bực bội khó chịu, vì bị tổn thương lòng tự ái, tự trọng của họ và như thế rất dễ xa nhau. Thôi thì, dù người đó có đáng ưa cách mấy, ta cứ giữ ở mức độ tình cảm qua lại chừng mực bình thường. Không nên lúc đầu thấy có cảm tình rồi ta ra mặt tỏ tình xử tốt, dồn dập vội vã quá, mà sau nầy phải chuốc lấy ân hận. Cứ xử sự qua lại bình thường mà tình bạn được lâu dài. Chúng ta đừng quên câu nói này: “món nợ lớn nhứt của đời người là tình cảm”.
Ở đây, Phật muốn khuyên dạy cho chúng ta có một đời sống nội tâm an vui, hạnh phúc. Muốn thế, thì ta cần phải vượt lên trên hai phạm trù đối nghịch: “ưa hay không đáng ưa này”. Vì trong cái ưa thích, nó đã chứa sẵn cái mầm mống không ưa thích. Nếu chúng ta chịu khó nhìn sâu xét kỹ, thì chúng ta sẽ thấy rất rõ điều đó. Thế thì, người mà ta ưa thích, thì ta cũng khổ mà không ưa thích, thì cũng khổ. Đó là nói sự xã giao thường tình là như thế.
Nếu tiến sâu hơn một bước nữa qua lãnh vực tình yêu nam nữ, thì ta thấy, yêu mà không gặp gỡ nhau, thì quả thật rất là đau khổ. Ở đời, có biết bao cặp thanh niên nam nữ, vì không thỏa mãn được sự gặp gỡ của tình yêu, nên đã tự kết liễu đời mình bằng cái chết rất thương đau, vì sự ngang trái ngăn cách éo le bẽ bàng chua chát nào đó! Mà cả hai không vượt qua được sự ngang trái đắng cay này.
Thanh Trì có một bài thơ “Chớ Vội Yêu” để nhắn gởi thức nhắc cùng những người bạn trẻ, nên cẩn thận khi bước chân vào địa hạt của tình yêu. Ông khuyên các bạn trẻ không nên vội yêu cẩu thả, bốc đồng, thiếu sự suy nghĩ, cân nhắc, đắn đo kỹ lưỡng. Các bạn cần phải tìm hiểu chín chắn đối tượng người mà mình đã thực sự gởi trọn trái tim tin yêu, nếu không, thì sau này sẽ phải tự chuốc lấy khổ hận.
Chớ vội yêu
Hởi những kẻ tâm hồn còn trong trắng
Còn trinh nguyên trọn vẹn tuổi ngày xanh
Còn vui ca khúc nhạc mãi trong lành
Xin chớ vội bước vào đường yêu đau khổ
Có lắm kẻ đặt tình yêu không đúng chỗ
Mà vẫn yêu mang nặng khổ thương tâm
Một lần yêu dở bước lỡ sai lầm
Tim tắt lịm rét căm buồn áo não
Đừng giỡn mặt ái tình chơi kiêu ngạo
Đường tình yêu hung bạo lắm ai ơi!
Phút sa chơn là ân hận cả cuộc đời
Chuốc khổ lụy ngập trời đau nhức nhối
Đời con gái nhẹ lòng nhiều nông nổi
Nghe lời đường mật ngọt dễ tin yêu
Cho thật nhiều nhưng nhận chẳng bao nhiêu
Khi biết rõ bội tình tiêu thân xác
Trang tình sử chứng minh nhiều bi đát
Bởi khi yêu trao trọn cả cuộc đời
Chuyện yêu đương không phải chuyện trò chơi
Xin chớ vội trách trời cao chẳng ngó
Biết bao kẻ bị người yêu ghét bỏ
Phải âm thầm gạt lệ suốt đêm thâu
Trên trường tình lắm kẻ đã vùi đầu
Chôn thể xác trong vạn sầu thương nhớ
Cũng đừng trách tình duyên nhiều cắc cớ
Nhiều éo le ngang trái bẽ bàng chua
Vì tình yêu không phải chuyện chơi đùa
Vui một phút cay chua trong muôn thuở
Biết bao kẻ sa lầy tay nham nhở
Bước phiêu lưu dang dở cả cuộc đời
Thuyền lênh đênh giữa bão tố bể khơi
Sống dở sống chết không ra người chi hết
Lê kiếp sống trong bụi đời đầy chán mệt
Nghe lòng đau quặn thắt mấy tầng mây
Đừng trách người tàn nhẫn lắm đã gây
Mà phải trách lại mình nhiều nông nổi
Yêu là chết, yêu là càng gây thêm tội
Vì đã yêu lặn lội để gặp nhau
Một lần yêu nghe chết cả tế bào
Nghe vũ trụ không gian ngừng nhịp thở
Xin nhắn gởi tuổi ngây thơ đừng hăm hở
Nếu chưa yêu xin chớ vội tìm yêu
Để tâm hồn bình thản tuổi xuân kiều
Hưởng trọn vẹn ngày xuân tươi trẻ đẹp.
Trong tình yêu chân thật, khi yêu ai người ta đều có ước muốn là phải hiểu, cảm thông và chia sẻ nhau những vui buồn cho đến trọn đời. Cho nên, ta cần phải xét đoán thật cẩn thận, đừng vì đam mê nghe theo lời đường mật của buổi ban đầu gặp gỡ, mà ta lại vội bước vào một cuộc phiêu lưu đầy mạo hiểm và sẽ sa lầy trong niềm chua cay khổ hận sau này. Đó là điều mà các bạn trẻ nên cẩn thận dè dặt khi đặt chân vào lãnh vực tình yêu. Vì tình yêu không phải là chuyện chơi đùa. Có lắm người bạn trẻ mới lớn lên, vì nông nổi, chưa có kinh nghiệm trong trường tình, nên đã vội yêu mà không cần có sự tìm hiểu cặn kẽ chín chắn. Kết quả, sau đó là một sự đổ vỡ tan nát buồn khổ thật lắm tang thương bi đát.
Khi thương nhau, mà không gặp nhau thì khổ đã đành, ngược lại, nếu gặp lại kẻ mình ghét, thì cũng khổ. Đây gọi là oán tắng hội khổ. Thế nên, Phật nói, con người có rất nhiều nỗi thống khổ. Ngoài cái khổ oán ghét gặp nhau, còn có cái khổ thương yêu mà phải xa lìa. Đây là hai nỗi khổ, trong tám thứ khổ lớn của kiếp sống con người. Sống trong cuộc đời tương đối vô thường sanh diệt, tất nhiên, không một ai tránh khỏi những nỗi thống khổ buồn đau hệ lụy này.
Thế nên, hai pháp cú trên, Phật dạy chúng ta cần phải cẩn thận trong lãnh vực tình cảm. Vì yêu hay ghét, cũng đều khổ như nhau. Khổ là vì tâm ta phiền muộn bất an. Người tu là muốn cho tâm an. Mà tâm an, thì đó là an vui hạnh phúc. Như thế, Phật muốn cho chúng ta có được sự an lạc hạnh phúc trong đời sống thực tế hằng ngày. Vì thương hay ghét đều gây ra rắc rối bận lòng ta cả. Do đó, Phật khuyên chúng ta không nên có những ý niệm yêu ghét, và như thế thì sẽ không còn điều gì ràng buộc được ta cả.
212. Từ hỷ ái sinh lo, từ hỷ ái sinh sợ ; xa lìa hết hỷ ái, chẳng còn lo sợ gì.
Về Đầu Trang Go down
https://triamquan.forumvi.com/
Tri Âm Quán
Thành Viên Tích Cực
Thành Viên Tích Cực
Tri Âm Quán


Tổng số bài gửi : 6340
Reputation : 2
Join date : 31/07/2013
Đến từ : Thị Trấn Chũ

Kinh Pháp Cú chú giải (tập 1) - Page 2 Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Kinh Pháp Cú chú giải (tập 1)   Kinh Pháp Cú chú giải (tập 1) - Page 2 EmptySun Nov 16, 2014 11:54 am

Therefore, hold nothing dear, for separation from the dear is painful. There are no bonds for those who have nothing beloved or unloved.
Kệ tụng
Tình ái sinh ưu tư
Tình ái sinh sợ hãi
Ai giải thoát tình ái
Không ưu không sợ hãi.
Lược giảng
Pháp cú này, Phật dạy tại tinh xá Kỳ Viên, có liên quan đến một vị đệ tử cư sĩ.
Theo truyện tích, có một vị cư sĩ, vì thương đứa con trai mới chết, nên ông ta thường lui tới nơi chỗ hỏa táng buồn khóc thảm thiết không nguôi. Sau khi quán sát căn cơ chúng sanh, Phật biết, ông cư sĩ đó có khả năng chứng Thánh quả. Thế là, khất thực xong, Phật cùng với một vị thị giả liền đi đến nhà ông. Sau khi thưa hỏi, ông mời Phật vào trong nhà. Phật hỏi duyên cớ, ông trình bày cho Phật biết nỗi buồn của ông. Nhân đó, Phật khuyên ông không nên buồn khổ vì cái chết của đứa con, và rồi Phật nhắc lại chuyện quá khứ của ông, bằng một bài kệ:
Như rắn lột bỏ da
Người đi về cõi khác
Bỏ lại sau thân xác
Thân thể đã chết rồi
Đâu còn biết buồn vui
Trong lúc ngọn lửa bốc
Thiêu rụi thân mình đó
Hắn đâu nghe tiếng khóc
Tiếng than của bà con
Vì thế ta đâu còn
Khổ buồn vì hắn chết
Hắn đã đi, và đến
Tới nơi hắn phải đi.
Sau khi nghe qua Phật kể lại chuyện tiền thân, ông ta bừng tỉnh và những nỗi khổ niềm đau trong lòng của ông ta từ bấy lâu nay, nó tan biến một cách rất nhanh chóng. Từ đó, ông nỗ lực tu hành và chẳng bao lâu, ông đã chứng được Thánh quả. (Hết phần lược dẫn cốt chuyện)
Ái dục là cội gốc của khổ đau và của mọi thứ lo âu sợ hãi. Nỗi lo sợ lớn nhứt của con người là sợ chết. Nhưng dù có lo sợ đến đâu, cuối cùng cái chết cũng phải đến. Chết là một hiện tượng xa lìa người thương. Một sự chia ly vĩnh viễn không có ngày tái ngộ. Nhưng, theo đạo Phật, chết không có nghĩa là mất hẳn như người đời lầm tưởng. Mà chết chỉ là một hiện tượng đổi thay từ cảnh này sang cảnh khác. Tùy theo nghiệp thiện ác đã gây tạo, mà con người chiêu cảm quả báo có khổ vui khác nhau mà thôi. Như mây tan, chuyển qua một trạng thái khác là mưa. Mưa là sự tiếp nối biểu hiện của mây. Hạt mưa tùy duyên mà biểu hiện qua nhiều hình thái khác. Cứ thế mà chuyển biến không ngừng trong định lý tương duyên sinh khởi. Hiểu thế, thì con người sẽ không còn gì phải lo âu sợ hãi trước cái chết nữa.
Đối với những người đạt đạo, họ coi cái chết như trò đùa. Có người hỏi Tuệ Trung Thượng sĩ về việc sanh tử như thế nào. Ngài trả lời bằng hai câu thơ:
Trường không túng sử song phi cốc
Cự hải hà phòng nhứt điểm âu.
Hai câu thơ trên ngầm ý nói rằng, giữa bầu trời rộng lớn bao la so với hai vầng nhật nguyệt (dụ cho sanh tử) phỏng có nghĩa lý gì. Cũng thí như giữa biển nước mênh mông bao la không bờ bến, đâu có ngại gì một bọt nước nhỏ xíu nổi trôi trên bể cả. Bọt nước là dụ cho sanh tử.
Thói thường, chúng ta chỉ thấy hai vầng nhật nguyệt mà quên mất bầu trời thênh thang rộng lớn. Cũng như chỉ nhận bọt nước nhỏ xíu mà quên mất đi bể cả bao la. Bể cả và bầu trời là dụ cho tánh giác hay bản tâm chơn thật thanh tịnh sáng suốt của chúng ta. Còn bọt nước hay nhật nguyệt là dụ cho sự sanh tử của con người. Bầu trời và bể cả thì không sanh không diệt. Còn bọt nước hay mặt trời, mặt trăng thì có sanh có diệt. Nhận cái thân tâm sanh diệt mà cho đó là mình, thì Phật cho đó là si mê điên đảo.
Qua câu chuyện lược dẫn trên, cho ta thấy, đó là nỗi khổ đau thống thiết của nỗi lòng ân ái biệt ly. Ông cư sĩ khóc buồn vì con chết, mà quên ăn bỏ ngủ, thương tiếc không nguôi. Thử hỏi trên đời này, có mấy ai không buồn đau vì người thân thương yêu ruột thịt của mình đã mất? Nhưng nỗi buồn đau đó, khi ông gặp được Phật an ủi giải bày cặn kẽ, thì không mấy chốc nỗi buồn nó tan biến ngay. Và từ đó, ông không còn bi lụy đau khổ nữa. Bởi vì đã có sanh tất phải có tử. Đó là một định luật chung, không một ai tránh khỏi.
Chết là định luật xưa nay
Mấy ai tránh khỏi, mấy loài thoát ra.
Chi bằng niệm Phật Di Đà
Cầu cho người mất, vượt qua khổ nàn.
Sanh già bệnh chết trần gian
Diệt sanh, sanh diệt vẽ đàng trò chơi.
Diệt sanh, sanh diệt chỉ là hiện tượng giả dối không thật. Khác nào như hoa đốm giữa hư không, hay như bóng chớp chiều tà, như vẽ một lằn chơi trên mặt nước. Tất cả đều là ảo hóa hư huyễn. Sanh tử cũng thế. Chỉ là vẽ đường trò chơi mà thôi! Hiểu thế, thì ta không có gì phải bận tâm lo âu sợ hãi hay thương tiếc. Bởi vì có thương tiếc cho lắm, thì hoa cũng vẫn rụng. Vì thực chất của hoa là vô ngã, do nhân duyên giả hợp, vô thường. Do đó, nên hoa sanh rồi hoa rụng, đó là lẽ thường nhiên. Việc sanh tử còn mất của con người cũng thế, không khác gì đóa hoa kia. Có loài hoa nào nở ra mà không tàn. Có người nào sanh ra mà không chết. Khi hoa tàn biến thành rác, chính rác kia lại làm phân bón hữu cơ để trở lại nuôi dưỡng cho hoa lá sinh trưởng tốt tươi. Như vậy, nhìn rác, ta có thể thấy được hình ảnh đóa hoa tiềm tàng trong rác, hay nhìn hoa ta cũng có thể thấy được rác đang tiềm ẩn trong hoa. Rác tức là hoa mà hoa cũng tức là rác. Đó là lý sắc không của bát nhã. Nhìn sự vật bằng tuệ giác như thế, thì thử hỏi còn gì mà không giải thoát?
Chúng ta hay có thói quen nhìn sự vật theo lăng kính “Biến kế sở chấp”, nên mới có nhiều tri giác sai lầm. Nhìn sự vật, bị kẹt mắc trên sự tướng, nên ta không thấy được cái vô tướng của sự vật. Thấy hình tướng của hoa, mà ta không thấy được cái vô tướng của hoa. Bởi nhìn mắc kẹt trên sự tướng như thế, nên khi hoa rơi rụng, ta cứ ngỡ là hoa mất hẳn đi, rồi ta đâm ra sầu khổ bi lụy khóc than, nhưng ta không thấy được cái trở thành rác của hoa. Như vậy, thì hoa nào có mất đi đâu. Chỉ là một sự chuyển biến từ hình thái này qua hình thái khác của hoa mà thôi.
Khi trở thành rác thì rác lại tùy duyên mà biểu hiện ra những đóa hoa hay những loài thực vật khác. Đã thế, thì ta có gì phải lo âu sợ hãi hay buồn tủi khóc than. Bóng đèn xài lâu, tất nhiên phải bị đứt bóng. Nhưng nguồn điện lực kia thì làm gì có đứt? Bởi vì điện không hình tướng, nên không hệ thuộc vào luật vô thường, sanh diệt chi phối. Ngược lại, bóng đèn vì có hình tướng, nên có sanh có diệt, bị luật vô thường chi phối hủy diệt. Điện lực là dụ cho nguồn sống miên viễn của muôn loài. Cái nguồn sống đó trong khế kinh thường gọi là Phật tánh, hay pháp tánh, tức là thể tánh bản nhiên của mọi sự vật. Điện chỉ tùy duyên mà phát sanh và biểu hiện ở một hình thái khác thôi. Kỳ thật điện không bao giờ mất.
Nếu nói một cách nghiêm khắc hơn, thì “mọi hiện tượng trên đời này không có cái gì mất đi mà cũng không có cái gì tồn tại”. Tất cả đều phải chịu chung một luật tắc hệ thuộc vào lý duyên sinh vô ngã, nhân quả luân hồi. Sống hay chết, chỉ là một hiện tượng được biểu hiện trên bề mặt của dòng sống mà thôi. Có thiền quán sâu sắc như thế, ta mới không còn lo âu sợ hãi và sẽ vượt thoát mọi hệ lụy khổ đau trói buộc của cuộc đời.
213. Từ tham ái sinh lo, từ tham ái sinh sợ ; xa lìa hết tham ái, chẳng còn lo sợ gì.
From affection springs grief, from affection springs fear. For him who is wholly free from affection there is no grief, whence then fear?
Kệ tụng
Luyến ái sinh ưu tư
Luyến ái sinh sợ hãi
Ai giải thoát luyến ái
Không ưu, không sợ hãi.
Lược giảng
Pháp cú này, Phật dạy tại tinh xá Kỳ Viên, có liên quan đến nữ thí chủ Tỳ Xá Khư.
Bà Tỳ Xá Khư thường nhờ cậy cô cháu gái tên Dattà, chăm sóc các Tỳ kheo khi bà vắng nhà. Ít lâu sau Dattà chết. Bà Tỳ Xá Khư hỏa táng thi hài cháu gái xong, quá buồn khổ bà đi đến chỗ Phật đảnh lễ và lui ngồi một bên. Phật hỏi:
Này Tỳ Xá Khư! Có việc gì ngươi ngồi đây đầy vẻ buồn khổ, rơi nước mắt khóc than?
Tỳ Xá Khư kể chuyện:
- Bạch Thế Tôn, đứa cháu gái thân yêu rất thật thà và trung tín của con vừa qua đời. Con sẽ không còn thấy lại nó.
- Này Tỳ Xá Khư, có bao cư dân trong thành Xá Vệ này?
- Bạch Thế Tôn, con có nghe Ngài nói khoảng 70 triệu.
- Giả sử tất cả những người này đều là người thân yêu của ngươi như Dattà, ngươi có thích không?
- Thưa vâng, thích.
- Có bao nhiêu người ở Xá Vệ chết trong một ngày?
- Bạch Thế Tôn, rất nhiều.
- Trong trường hợp đó, chắc chắn người sẽ không đủ thời giờ than khóc, ngày đêm ngươi sẽ chẳng làm gì ngoài việc khóc lóc, kể lể.
- Thưa Thế Tôn, đúng vậy. Con đã hiểu.
- Tốt lắm, đừng ưu sầu. Ưu sầu hay sợ hãi chỉ khởi lên từ ái luyến. (Trích nguyên văn Tích Truyện Pháp Cú tập II, Viên Chiếu, tr 402)
Qua truyện tích dẫn chứng trên, cho chúng ta thấy rằng, bà Tỳ Xá Khư tuy là một Phật tử thuần thành, tu học khá, nhưng trước cảnh cháu gái của bà chết, bà cũng không ngăn được giọt lệ ai bi sầu thảm. Đó là do tập khí tham ái của bà quá sâu nặng. Chứng tỏ, sức huân tu của bà còn rất yếu kém. Bà chưa có đủ tuệ giác quán chiếu sâu vào sự chết hay lý vô thường. Cho nên, khi vô thường xảy đến, nhứt là người thân thương yêu ruột thịt của mình mất, bà không thể chế ngự được tình cảm xúc động khóc than bi lụy.
Phần nhiều người ta kêu gào khóc than kể lể, thật ra, đó chưa phải là họ thật thương yêu người chết, mà đó chỉ là một sự biểu hiện toát ra từ cõi lòng hối hận thống trách cùng cực của họ mà thôi. Vì khi người chết lúc còn sống, họ không biết trân quý sự có mặt của người đó. Chẳng những thế, mà đôi khi họ còn làm khổ cho người thân của họ rất nhiều.
Ngược lại, có những người họ không than khóc kể lể, không phải là họ không thương người thân yêu của họ, nhưng vì họ đã đối xử tử tế và hết lòng trân quý đối với người thân của họ khi còn sống, nên bây giờ, họ cảm thấy không có gì phải hối tiếc. Vì khi sống, họ hết lòng quý kính, chăm sóc và phụng dưỡng, nên khi chết, thì họ chỉ thành tâm hết lòng cầu nguyện. Như thế, mới thực sự là thương yêu. Chớ không phải khóc nhiều mới là thương yêu. Đây là thứ tâm trạng không phải chỉ riêng bà Tỳ xá khư, mà đa số chúng ta đều mắc phải.
Khi người thân còn sống, thì ta đối xử với họ một cách quá tệ bạc, không chút trân kính yêu thương, đến khi chết thì ta lại than khóc nhỏ lệ dầm dề. Chứng tỏ cho mọi người đều biết là mình hết lòng thương yêu quý kính. Nhưng kỳ thật, đó chỉ là thứ tình thương yêu xúc động giả dối bề ngoài, chỉ mua lấy được tiếng khen mà thôi.
Song có điều, bà Tỳ Xá Khư được phước duyên rất hy hữu, là bà gặp Phật và được Phật chỉ dạy, dẫn dụ cho bà nhận thức rõ về sự vô thường sanh tử trước cảnh chia ly. Nhờ đó, mà bà liền tỉnh ngộ và hết ưu sầu.
Hầu hết chúng ta, khi mất người thương, ta rất buồn tủi, vì không biết rõ người mình thương đi đâu? Kẻ ở lại buồn nhớ thương người chết đã đành. Còn người chết, thì ra đi cũng rất đơn độc. Một cuộc hành trình mù mịt tối tăm, không biết sanh về đâu! Dù người có tu hay không tu, thì ai ai cũng đều có nỗi lo sợ như nhau. Tuy nhiên, đối với người biết tu hành chút ít, nghĩa là hiện đời họ không gây nhiều nghiệp ác, thì khi nhắm mắt lìa đời, họ không đến nỗi phải lo lắng sợ hãi nhiều. Dù sao, họ cũng biết là họ không đến đổi phải thác sanh vào những cảnh giới tối tăm khổ đau sâu nặng. Đó là nhờ họ khéo biết tài bồi tích lũy nghiệp lành của họ nhiều trong đời sống thường nhựt.
Ngược lại, nếu là người hiện đời tạo nhiều nghiệp ác, thì khi nhắm mắt lìa đời, họ rất lo âu, sợ hãi bấn loạn, vì không biết mình sẽ thác sanh đọa lạc vào cảnh giới nào?! Đó là tâm trạng buồn khổ cả hai, kẻ ở cũng như người ra đi đều có những nỗi ưu tư khắc khoải buồn khổ lo lắng như nhau. Song có điều, với con mắt nhục nhãn, chúng ta không nhìn thấy được sự khổ đau hay vui sướng của người thân mình đã chết. Chỉ có tuệ nhãn của Phật hay Bồ tát mới nhìn thấy rõ mà thôi.
Nỗi buồn của người còn lại, thì ai cũng thấy biết. Nhưng không ai thấy biết được nỗi buồn của người thân mình đã chết ra sao! Thực tế, cuộc chia ly nào, cả hai cũng đều có những nỗi buồn thương đau thắm thiết cả. Vì đó là nghiệp lực của mỗi người. Tuy nhiên, nếu chúng ta thật thương người thân của mình ra đi, thì ta không nên tỏ ra đau thương bi lụy khóc than cho lắm, vì như thế, chỉ làm cho người ra đi càng thêm bịn rịn nhớ thương, chớ thật không có ích lợi gì.
Do đó, nếu thật thương, thì những người thân trong gia đình chỉ nên hết lòng niệm Phật và nhắc nhở người thân yêu của mình trong lúc hấp hối nhớ Phật niệm Phật, để cho sự ra đi của họ được nhẹ nhàng an thoát mà thôi. Đó mới thật sự là thương. Còn như chúng ta khóc lóc kể lể, chỉ gây thêm làm động tâm niệm người sắp chết, luyến ái duyên trần không đi được, thì đó quả là ta đã vô tình thương hại, chớ không phải là thật thương. Nếu chúng ta là người Phật tử, nên khéo nghe theo lời Phật Tổ chỉ dạy, mà cố gắng dằn lòng xúc động, để hết lòng tụng niệm cầu nguyện cho người mình thương được ra đi an ổn, nhẹ nhàng. Như thế, chúng ta mới thật là người biết thương yêu thân nhân ruột thịt của mình.
Lời chỉ dạy thức nhắc của Phật, không những chỉ cho bà Tỳ xá khư, mà đây là lời cảnh tỉnh thức nhắc chung cho tất cả chúng ta rất lớn. Pháp cú trên, Phật luôn nhấn mạnh đến lòng tham ái của con người. Vì tham ái là cội nguồn của sanh tử luân hồi. Còn tham ái dù chỉ một hào tơ, chắc chắn chúng ta vẫn còn phải tái sanh. Chỉ khi nào dứt hết tham ái, thì chúng ta mới thật sự chấm dứt vòng luân hồi đau khổ. Và khi đó mới thật sự là hết buồn lo sợ hãi. Hiểu được như thế, thì kẻ còn người mất, cả hai đều được lợi lạc cả. Bằng trái lại, thì cả hai: kẻ còn và người mất đều có chung một mẫu số là đau khổ như nhau.
214. Từ tham dục sinh lo, từ tham dục sinh sợ ; xa lìa hết tham dục, chẳng còn lo sợ gì.
From attachment springs grief, from attachment springs fear. For him who is wholly free from attachment there is no grief, whence then fear?
Kệ tụng
Hỷ ái sinh ưu tư
Hỷ ái sinh sợ hãi
Ai giải thoát hỷ ái
Không ưu, không sợ hãi.
Lược giảng
Pháp cú này, Phật dạy tại tinh xá gần Vệ Xá Ly (Vesàli), có liên quan đến hoàng thân dòng Lệ Xá.
Theo truyện tích kể lại, vào một ngày hội, các hoàng tử Lệ Xá trang điểm đỏm đáng với đủ kiểu đồ trang sức, ra khỏi thành phố đến chỗ hội hè. Khi Phật đi vào thành khất thực, gặp họ trên đường, Ngài chỉ cho các Tỳ kheo:
- Này các Tỳ kheo! Hãy nhìn theo các hoàng tử Lệ Xá! Ai chưa từng thấy chư thiên cõi trời Ba mươi ba, hãy nhìn những hoàng tử này thì biết.
Trên đường đến chỗ lễ hội, các hoàng tử gặp một kỹ nữ, và mang cô theo. Trước người đẹp, họ ganh tài nhau, đi đến đánh nhau gây thương tích, máu chảy dường thành sông. Dân chúng phải xúm khiêng các công tử về hoàng cung.
Đức Phật và chư Tăng thọ trai xong, trở về tinh xá, bắt gặp cảnh tượng đó. Các Tỳ kheo bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Hồi sáng sớm, các hoàng tử Lệ Xá rời thành lộng lẫy như chư thiên, vậy mà bây giờ chỉ vì một cô gái họ trở nên thảm hại thế đấy.
Phật dạy:
- Này các Tỳ kheo! Ở đâu có tham dục, ở đó có buồn khổ, lo âu. (Trích nguyên văn Tích Truyện Pháp Cú tập II, Viên Chiếu, tr 403)
Tham dục là nguyên nhân gây ra đau khổ. Chuyện dẫn, chỉ vì một cô gái xinh đẹp, mà các hoàng tử, từ thân thương trở thành thù hận. Họ tranh giành đánh nhau chí tử. Đây là một tâm lý thường tình của con người. Xưa nay, trước sắc đẹp, họ không còn nghĩ gì đến đạo đức tình người. Thời xưa đã thế, thời nay thì sao? Thời xưa ở vào thời đại có Phật ra đời, là thời của chánh pháp, mà lòng dục vọng ham muốn của con người trước sắc đẹp vẫn còn say mê đắm đuối, nên mới xảy ra cớ sự như thế. Đối với thời nay, cách Phật rất xa, là thời mạt pháp, ma vương lộng hành, đạo đức suy vi, trách gì không xảy ra những tệ nạn tranh giành chém giết lẫn nhau vì sắc đẹp! Thế mới biết, bất luận thời nào, con người thiếu phẩm chất đạo đức tình người, đều gây ra nhiều tác hại đau thương cho đồng loại.
Kinh nói, dục có hai thứ: tạp nhiễm dục và thiện pháp dục. Tạp nhiễm dục là trong tâm thì phiền não cấu uế, luôn luôn bất tịnh. Ngoài thì tham đắm danh lợi ngũ dục lục trần. Lòng tham muốn của con người không bao giờ thỏa mãn. Người nào càng tham muốn nhiều thì khổ lụy nhiều. Ngược lại, người ít có lòng tham muốn sống biết đủ, thì ít bị khổ đau. Người có tâm nguyện mang lý tưởng phục vụ làm những việc thiện nguyện giúp đời, như những công tác phúc lợi xã hội, tất cả nhắm vào một mục đích duy nhứt là làm lợi ích cho tha nhân, không nghĩ gì đến sự lợi ích cho riêng mình, đó cũng là dục mà là dục thiện. Xã hội rất cần đến loại dục thiện này. Đó là nói ở bình diện xã hội. Còn nếu dục mang tính cao hơn như mong muốn thành tựu đạo quả hay cầu sanh về thế giới tịnh độ của đức Phật A Di Đà. Đó là thiện pháp dục.
Pháp cú trên, Phật nhằm khuyên nhủ nhắn gởi đến mọi người, muốn có cuộc sống an vui hạnh phúc cho bản thân, gia đình và xã hội, thì mỗi người nên ý thức hạn chế bớt lòng tham dục. Và người nào muốn chấm dứt khổ đau, thì Phật dạy, phải xa lìa hẳn lòng ái dục. Như thế, thì không còn gì phải ưu tư lo sợ nữa.
215. Từ lạc dục sinh lo, từ lạc dục sinh sợ ; xa lìa hết lạc dục, chẳng còn lo sợ gì.
From lust springs grief, from lust springs fear. For him who is wholly free from lust there is no grief, whence then fear?
Kệ tụng
Dục ái sinh ưu tư
Dục ái sinh sợ hãi
Ai giải thoát dục ái
Không ưu, không sợ hãi.
Lược giảng
Pháp cú này, Phật dạy tại tinh xá Kỳ Viên, có liên quan đến câu chuyện của chàng trai Anitthigandha Kumàra.
Theo truyện tích, Kumàra từ cõi trời Phạm thiên tái sanh trong một gia đình quyền quý ở thành Xá Vệ. Cậu bé này, từ lúc chào đời cho đến lúc trưởng thành, chàng ta không thích gần phụ nữ. Đã nhiều lần, cha mẹ khuyên chàng cưới vợ, nhưng chàng ta đều từ khước. Có lần, chàng bảo những người thợ kim hoàn đúc cho chàng một pho tượng thiếu nữ thật xinh đẹp.
Khi cha mẹ chàng dùng mọi cách bắt ép chàng ta phải lập gia đình, thì chàng chỉ vào pho tượng và nói: “nếu có cô thiếu nữ nào xinh đẹp như pho tượng này, thì con mới chịu kết hôn”.
Vì để thuận theo ý con, cha mẹ chàng đã cho người mang pho tượng đi khắp nơi để tìm kiếm. Khi người ta đặt pho tượng bên hồ tắm, không ngờ có người bảo: pho tượng này giống hệt cô chủ của họ. Họ liền tìm đến, quả thật có một cô gái nhan sắc kiều diễm tuyệt đẹp, nàng ta đẹp còn hơn pho tượng nữa. Được tin, có người con gái đẹp hơn pho tượng, chàng Kumàra có ý mừng thầm và mong sớm gặp được cô gái đó. Nhưng không may, trên đường đi đến nhà chàng, thì cô gái đã ngã bệnh và chết.
Thế là niềm hy vọng mong mỏi của chàng ta phút chốc đã tan tành trở thành mây khói. Chàng ta rất đau khổ! Phật biết, có thể độ cho chàng này mau chứng thánh quả, nên Phật đến nhà chàng và được người nhà mừng rỡ cúng dường thức ăn. Sau đó, Phật dùng nhiều lời khuyên bảo Kumàra. Cuối cùng Phật nói một câu nói ngắn gọn:
- Này Kumàra! Vì ái sinh sầu muộn, sầu muộn và sợ hãi phát sinh từ ái.
Nghe xong, Kumàra chứng quả Tu đà hoàn. (Hết phần lược dẫn cốt chuyện)
Người ta đau khổ héo mòn thân xác và tinh thần, cũng chỉ vì không thỏa mãn lòng tham ái. Kumàra là chàng trai từ nhỏ đã không ưa thích gần gũi phụ nữ. Dù con nhà giàu có và được cha mẹ thương yêu nuông chiều rất mực, đã nhiều lần, cha mẹ của chàng khuyên chàng nên tìm người sớm lập gia đình, để nối dõi tông đường. Nhưng cứ mỗi lần khuyên là mỗi lần bị chàng ta cự tuyệt chống đối quyết liệt.
Để tránh cái cảnh cha mẹ khuyên ép hoài, nên chàng ta nghĩ cách tạo thành pho tượng nữ thần cực kỳ mỹ lệ xinh đẹp. Chàng ta đinh ninh rằng, trên thế gian này sẽ không có người con gái nào đẹp giống như pho tượng này. Không ngờ lại có người đẹp hơn. Thế là, khi hay tin có người con gái đẹp hơn pho tượng, bấy giờ, chàng ta như bị một tiếng sét ái tình đánh mạnh vào tim chàng, nên chàng tương tư rất mơ ước mong mỏi được gặp nàng. Nhưng cuối cùng, chàng ta bị thất vọng não nề, vì người mình mong đợi đã vĩnh viễn từ giả cõi đời.
Thật là chua chát! Chàng ta đâm ra đau khổ ngút ngàn. Chỉ mới nghe tin thôi, chớ chưa gặp mặt, mà chàng ta phải thương yêu đau khổ đến thế. Thế mới biết sức mạnh mãnh liệt của tình yêu. Nói rõ hơn là sự khao khát thèm muốn của lòng ái dục. Một lượn sóng dục tình có sức mạnh nhận chìm con người còn hơn một cơn đại hồng thủy. Tình yêu sôi nổi, nồng nàn, cuồng nhiệt, thật là lãng mạn, như nhà thơ Xuân Diệu, ông hoàng của thơ tình yêu đã diễn tả:
Như kẻ hành nhân quáng nắng thiêu
Ta cần uống ở suối thương yêu
Hãy tuôn âu yếm lùa mơn trớn
Sóng mắt, lời môi, nhiều thật nhiều…
Trời cao trêu thử chén xanh êm
Biển đắng không nguôi nỗi khát thèm
Nên lúc môi ta kề miệng thắm
Trời ơi, ta muốn uống hồn em.
Cũng may cho chàng Kumàra, trong lúc chàng ta đang đau khổ tràn ngập như thế, thì được đức Phật xuất hiện, như một vị cứu tinh đời chàng. Nghe lời Phật dạy phân tích về sự tai hại của lòng ái dục, Kumàra liền thức tỉnh và chứng quả ngay.
Ngày nay, có biết bao chàng trai cũng mê say đắm đuối, khổ sầu bi lụy vì người yêu. Yêu đến nổi như muốn uống và nuốt luôn cả hồn em. Nhưng có điều không được cái may mắn như Kumàra là được có người khuyên giải an ủi cứu thoát khỏi sóng tình nhận chìm. Thời đại này, rất cần đến những trái tim khéo biết lắng nghe những tiếng kêu than đau khổ khóc hận vì tình, để kịp thời chạy chữa, cứu thoát. Đó là hạnh nguyện lắng nghe của Bồ tát Quán Thế Âm. Chỉ có tấm lòng từ bi cam lộ của Bồ tát mới thực sự chịu khó lắng nghe, và mới có khả năng cứu thoát con người khỏi cảnh đọa đày hệ lụy của lòng tham đắm mê say sắc dục mà thôi. Pháp cú trên, Phật nhằm cảnh giác khuyên bảo mọi người, nên xa lìa mọi thứ dục lạc, vì mọi thứ dục lạc ở thế gian chỉ đem lại cho con người thêm đau khổ, lo lắng, sợ hãi mà thôi.
216. Từ ái dục sinh lo, từ ái dục sinh sợ ; xa lìa hết ái dục, chẳng còn lo sợ gì.
From craving springs grief, from craving springs fear. For him who is wholly free from craving there is no grief; whence then fear?
Kệ tụng
Tham ái sinh ưu tư
Tham ái sinh sợ hãi
Ai giải thoát tham ái
Không ưu, không sợ hãi.
Lược giảng
Pháp cú này Phật dạy tại tinh xá Kỳ Viên, có liên quan đến một người Bà la môn.
Theo truyện tích, có một người Bà la môn tà kiến, thường ngày ông làm ruộng ngoài đồng. Khi gặp Phật, ông không cung kính chào hỏi. Thấy thế, Phật hỏi:
- Này Bà la môn! Ông đang làm gì thế?
- Tôi đang dọn đất, Cồ Đàm!
Cứ thế Phật hỏi ông nhiều lần, mỗi khi Phật đi ngang qua và tùy theo câu hỏi mà ông ta trả lời. Sau nhiều lần hỏi đáp, ông có cảm tình với Phật và ông kết thành bạn. Ông còn hứa khi nào lúa chín, ông sẽ chia phần cho Phật. Nhưng không may cho ông, khi sắp gặt, thì bị một trận bão làm tan nát cả đám ruộng, không gặt được một cọng lúa nào. Buồn quá! Ông nằm dài không ăn chẳng nói, vì ông đã thất hứa với Phật.
Biết thế, Phật đi đến nhà ông. Người nhà cho biết, ông mừng quá vội vã chạy ra gặp Phật. Ông trình bày cớ sự rằng, ông sầu khổ vì thất hứa với Phật. (Hết phần lược dẫn cốt chuyện). Nhân đó, Phật khuyên ông và rồi Phật nói pháp cú trên.
Qua câu chuyện lược dẫn trên, ta thầm khen cho ông Bà la môn này. Mặc dù lúc đầu, ông tỏ ra bất kính với Phật. Nhưng sau đó, được Phật gợi chuyện hỏi han ông và từ đó ông có cảm tình với đức Phật. Đây cũng là cách nhiếp hóa của Phật. Tùy căn cơ mà hành xử hóa độ.
Sau khi có cảm tình, ông bèn hứa với Phật, tới mùa lúa chín, ông sẽ chia cho Phật một ít. Nhưng vì bị thiên tai bão lụt, nên ruộng lúa ông đều bị tiêu tan hết. Bấy giờ, ông đâm ra sầu khổ lo buồn vì cái tội thất hứa.
Ở đây, ta nhận ra được cái tấm lòng quý giá của ông ta. Dù là người nông dân chất phác chân lấm tay bùn, nhưng một khi đã hứa với ai điều gì, thì ông không bao giờ nuốt lời mình hứa. Ông buồn khổ, không phải vì mùa màng thất bát không có lúa ăn, mà ông buồn rầu chỉ vì đã lỡ thất hứa với đức Phật. Thật là tội nghiệp! Đó mới thật là một con người hiền hòa đạo đức thật hiếm có.
Thánh Gandhi lúc còn nhỏ, có lần ông phạm lỗi lầm về cái tội ăn cắp một vài chỉ vàng của kẻ khác, nhưng sau đó, lòng ông hối hận bức rứt không nguôi. Vốn là người con có hiếu, nên ông cảm thấy, hành động phi pháp đó rất có lỗi với người cha. Dù biết phạm lỗi nặng, nhưng ông không có đủ can đảm trực tiếp để thố lộ bày tỏ nỗi lòng hối hận của mình với người cha. Trong lúc cha ông bệnh nặng thập tử nhứt sanh, nằm liệt trên giường, ông chỉ viết một lá thư với nội dung là ông thú tội xin cải hối lỗi lầm với người cha và hứa nguyện từ nay về sau, không bao giờ tái phạm. Người cha xé thơ ra xem, đang nằm bỗng gượng ngồi dậy và rồi ông không dằn được cơn xúc động đành phải để cho những giọt nước mắt chảy dài trên đôi má. Thế rồi, hai cha con ôm chầm lấy nhau trong nỗi nghẹn ngào xúc cảm khóc lóc. Và từ đó mãi cho đến ngày nhắm mắt, ông luôn nhớ giữ lời hứa, không bao giờ phạm phải lần thứ hai.
Khi đối trước Tam bảo quy y, người Phật tử đã phát nguyện hứa trước Tam bảo và hiện tiền chư tôn đức Tăng Ni chứng minh, là không bao giờ phạm những giới luật mà mình đã lãnh thọ. Đó là một lời hứa thật tối hệ trọng suốt cả cuộc đời mình. Thế mà, có đôi khi vì vấn đề mưu sinh, phải vật lộn bon chen với đời để kiếm sống, mà người Phật tử lại quên đi những điều mà mình đã hứa trước Tam bảo. Gây ra phạm nhiều lỗi lầm, mà người Phật tử không hay biết. Dẫu có biết, nhưng cũng vẫn tiếp tục phạm phải. Chẳng những không ăn năn cải hối, mà còn tìm cách biện hộ cho những lỗi lầm của mình. Đó là điều mang trọng tội thất hứa với chính mình và với Tam bảo vậy.
Nghèo khổ, không nghĩ đến sự đói kém cho bản thân, gia đình, mà buồn ăn mất ngủ chỉ vì một lời hứa. Trên đời này, thật khó tìm được một con người biết tự trọng như thế. Phật biết ông đau buồn, nên tìm đến để an ủi khuyên lơn ông. Quả thật, khi gặp lại Phật, bao nhiêu nỗi lo buồn của ông, đều tan biến hết. Chỉ cần nghe Phật nói một câu nói, lòng ông cảm thấy thật nhẹ nhàng như trút đi một tảng đá nặng ngàn cân.
Người ta sinh ra lo sợ, dù có nhiều nguyên nhân, nhưng nguyên nhân chính vẫn là ái ngã. Vì mọi sự lo lắng, buồn khổ trên đời, cũng do lòng ái dục quá yêu thương mình mà ra. Đó là do lòng ích kỷ nảy sanh ra bao nhiêu thứ tệ hại. Vì ái tự ngã, nên không muốn ai hơn mình và cái gì cũng muốn đem về mình. Đó là nỗi khổ lớn của nhơn loại xưa nay.
Qua những pháp cú trên, ta thấy, Phật lặp đi lặp lại về những vấn đề tham ái. Tại sao Phật phải lặp đi lặp lại nhiều lần như thế? Lời khuyên dạy đó có thừa lắm không? Thật không có dư thừa chút nào. Vì sao? Vì tính chất của nó quá quan trọng trong sự tu hành thoát khổ. Bởi mọi sự khổ đau trên đời, đều do lòng tham ái chấp trước của con người mà ra. Do đó, nên Phật nhắc đi nhắc lại, để cho mọi người phải ghi nhớ khắc sâu, ý thức đến sự khổ đau mà lo diệt trừ lòng tham ái.
Câu hỏi được đặt ra ở đây là phải diệt trừ nó bằng cách nào? Bằng cách chống lại nó ư? Coi nó là kẻ thù không đội trời chung của chúng ta ư? Chắc chắn Phật không dạy chúng ta phải chống diệt nó bằng cách đó. Vì chống tham dục cũng vẫn lại là tham dục. Coi chừng không khéo chúng ta lại bày ra một bãi chiến trường chém giết nhau trong tâm thức của chúng ta. Như thế, thì ta thực sự chưa hiểu lời Phật dạy.
Tham dục nó không phải là đối tượng để ta tiêu diệt. Bởi nó cũng khởi lên từ tâm thức của ta. Khác nào như sóng khởi lên từ nước. Chả lẽ, nước lại đi tiêu diệt sóng sao? Mà tiêu diệt làm sao được? Khi một niệm tham dấy lên, ta chỉ cần có chánh niệm nhận diện nó. Ta nên lưu ý, nhận diện khác hơn đàn áp. Đàn áp hay đè ép, đó không phải là biện pháp hay. Vì đó tạo thành một đối tượng tiêu diệt.
Thí dụ, như một niệm giận nổi lên, ta dùng câu thần chú, hay câu hiệu Phật hay bất cứ đề mục nào khác, để ta trấn áp nó. Phương pháp này, khác nào như chúng ta lấy đá đè cỏ. Dùng sức mạnh để trấn áp, biện pháp đó, chưa đủ sức để làm cho nó an ổn. Nghĩa là không thể phục hồi cho nó trở lại như lúc chưa khởi lên cơn giận.
Theo tôi, chỉ có biện pháp hay nhứt là chúng ta cần phải thắp sáng ngọn đuốc chánh niệm lên. Vì chánh niệm là một năng lượng, có mặt hoàn toàn của ta trong giây phút hiện tại. Chúng ta đừng quên rằng, cơn giận nổi lên, nó cũng là năng lượng một phần của tâm. Có nghĩa là nó cũng chính là một phần của ta biến ra. Do vọng tưởng hay tri giác sai lầm mà ta mới có ra sân hận. Năng lượng chánh niệm có khả năng nhận rõ cơn giận. Khi nhận biết rõ nó, ta cần thương yêu vỗ về nó, hơn là đàn áp chống đối, như bà mẹ thương yêu vỗ về an ủi đứa con đang tức giận khóc la. Với hành động ý thức thương yêu của bà mẹ, tất nhiên, là đứa bé sẽ từ từ êm dịu trở lại.
Cũng thế, khi có mặt chánh niệm nhận rõ ôm ấp vỗ về xoa dịu chuyển hóa cơn giận, tất nhiên, là cơn giận sẽ dịu lại và từ từ nó sẽ tan biến ngay. Khi nó tan biến, là ta đã thành công. Vì ta không còn khổ đau bởi do nó hoành hành dắt dẫn ta nữa. Nếu như ta đánh mất chánh niệm, không kịp thời nhận diện, mà chúng ta theo nó hành động, thì hậu quả xảy ra sẽ không thể nào lường trước được.
Khi nhận biết nó rồi, thì nó không thể nào có cơ hội lộng hành, tác oai tác quái dẫn ta theo nó được. Đó là cách xoa dịu vỗ về chuyển hóa hay nhứt. Nếu cần, chúng ta cũng nên lập tức trở về với hơi thở, theo dõi hơi thở ra vô và nhận diện rõ ràng. Chúng ta phải thiết thực nhận diện và giữ thật yên lặng vài ba phút. Được vậy, thì cơn giận sẽ bị khắc chế điều phục và chúng ta sẽ lấy lại sự tỉnh táo an bình ngay. Bạn cứ thử thực tập một cách thiết thiệt, thì bạn sẽ thấy sự kỳ diệu của nó. Điều này là một chứng nghiệm chớ không phải nói ngoa. Mong bạn cố gắng thực tập và để tâm sâu sắc về vấn đề này.
Về Đầu Trang Go down
https://triamquan.forumvi.com/
Tri Âm Quán
Thành Viên Tích Cực
Thành Viên Tích Cực
Tri Âm Quán


Tổng số bài gửi : 6340
Reputation : 2
Join date : 31/07/2013
Đến từ : Thị Trấn Chũ

Kinh Pháp Cú chú giải (tập 1) - Page 2 Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Kinh Pháp Cú chú giải (tập 1)   Kinh Pháp Cú chú giải (tập 1) - Page 2 EmptySun Nov 16, 2014 11:55 am

217. Đầy đủ giới hạnh và chánh kiến, an trú Chánh pháp, rõ lý Chơn thường, viên mãn các công hạnh, ấy mới là người đáng ái mộ.
People hold dear him who embodies virtue and insight, who is principled, has realized the truth, and who himself does what he ought to be doing.
Kệ tụng
Đủ giới đức trí đức
An trú Pháp, chân lý
Tự làm tròn bổn phận
Là người đáng kính mến.
Lược giảng
Pháp cú này, Phật dạy tại tinh xá Trúc Lâm, có liên quan đến câu chuyện năm trăm thanh niên.
Theo truyện tích, trên đường vào thành Vương Xá khất thực, đức Phật và Thánh chúng gặp năm trăm thanh niên, trên vai họ mang bánh đi đến chỗ lễ hội. Khi đó, họ chỉ khẻ chào Phật và tiếp tục đi. Họ không mời Phật và các vị Tỳ kheo ăn bánh.
Bấy giờ, Phật bảo các vị Tỳ kheo, tuy họ không cúng bánh cho chúng ta, nhưng không lâu, chúng ta sẽ hưởng được những quả bánh này, vì có người sẽ bảo họ dâng cúng. Thật vậy, trong khi Phật và thánh chúng đang ngồi nghỉ dưới gốc cây, thì cả bọn thanh niên này đến dâng bánh cúng dường cho Phật và chúng Tăng. Sở dĩ họ dâng cúng, là vì họ nghe theo lời chỉ dạy của Ngài Ca Diếp đi phía sau Phật.
Thấy thế, các vị Tỳ kheo tỏ ý bất bình, nhân đó, Phật nói:
- Này các Tỳ kheo! Một Tỳ kheo như Đại Ca Diếp rất được trời người kính mến, đối với vị như vậy họ rất hân hạnh được dâng cúng tứ sự và rồi Phật nói pháp cú này. (Hết phần lược dẫn cốt chuyện)
Pháp cú trên, Phật nêu rõ người đáng được kính mến, phải là người có đầy đủ giới hạnh và chánh kiến, rõ lý chơn thường và viên mãn các công hạnh. Trong hàng thập đại đệ tử của Phật, Tôn giả Đại ca diếp là có biệt hạnh đầu đà đệ nhứt. Ngài nổi tiếng về sự tu khổ hạnh. Giới đức của Ngài không thua gì Phật, nên Phật đã nhiều phen khen ngợi Ngài. Tuy được Phật tán dương khen ngợi về đức hạnh, nhưng Ngài không lấy đó làm kiêu hãnh, mà trái lại, Ngài rất hạ mình khiêm cung với các bạn đồng tu.
Đối với người xuất gia, Phật không tán dương về học lực, vì đó chỉ là phần phụ, mà Phật luôn ca ngợi tán thán về đức hạnh. Vì đức hạnh là căn bản phải có của người tu. Mà muốn có đức hạnh, thì người tu phải gìn giữ giới luật trang nghiêm. Có nghiêm trì giới luật, thì người tu mới có đức hạnh. Phật dạy, người xuất gia phải luôn hành trì ở nơi Tam đức. Tam đức là: “Đoạn đức, Trí đức và Ân đức”. Ba đức này là uy quyền của con đường đạo đức tâm linh. Người tu, thiếu một trong ba đức này, thì chưa tròn phẩm hạnh ở nơi chính mình và như thế sẽ không làm sao cảm hóa kẻ khác.
Đoạn đức, có khả năng chặt đứt hết cội rễ vô minh. Mà hiện tướng của nó là những thèm khát, những đam mê, những dục vọng đòi hỏi tha hóa trụy lạc…Có chặt đứt hết cội rễ của nó, thì mới đem lại sự an vui hạnh phúc cho mình và tha nhân. Mà muốn chặt đứt như thế, tất người tu cần phải có trí huệ, đó là trí đức. Nhờ có mặt trời trí huệ soi sáng mới phá tan được bóng tối si mê. Bóng tối si mê không còn, thì ngay đó thể tánh thanh tịnh sáng suốt hiện bày. Tất nhiên, là sẽ chấm dứt mọi khổ đau hệ lụy. Ân đức là nói lên đức tánh chấp nhận rộng lượng bao dung và chuyển hóa, tha thứ. Người tu phải có tấm lòng từ bi vị tha khắp cả muôn loài. Đó là con đường hóa giải mọi tranh chấp hận thù và đưa con người sống trở lại đầu nguồn của cuộc sống tươi mát gần nhau hơn.
Chánh kiến là con đường dẫn vào chánh pháp. Có chánh kiến thì mọi nhận định sai lầm sẽ không còn. Người ta đau khổ nhiều là bởi do những tri giác sai lầm. Câu chuyện thương tâm giữa thiếu phụ Nam Xương và chàng Trương là một chứng minh cụ thể cho việc nhận định của tri giác sai lầm này. Vì nghe lời đứa trẻ thơ con mình kể chuyện về cái bóng, mà chàng Trương hiểu lầm tưởng là vợ mình ở nhà ngoại tình với người đàn ông khác. Từ đó, chàng Trương âm thầm ôm hận ghen tuông mà không một lời thố lộ. Chính cái thái độ đối xử lạnh lùng nghiêm khắc của chàng ta, mà làm cho thiếu phụ Nam Xương cảm thấy thật vô cùng bực mình áy náy khó chịu và nàng cũng không hiểu lý do tại sao. Từ thương yêu trở nên thù hận. Bởi cả hai người đều ôm nặng mặc cảm, âm thầm chịu đựng. Không ai chịu mở lời để thiết lập truyền thông cởi mở tìm hiểu rõ nguyên nhân của vấn đề. Do đó, người thiếu phụ xấu số kia đành phải âm thầm nuốt tủi gạt lệ khóc thầm mà quyên sinh kết liễu đời mình. Nàng từ giả vĩnh viễn cõi đời mang nặng nỗi niềm uất hận nghẹn ngào không một lời giải tỏa.
Về sau, khi nghe đứa bé chỉ vào cái bóng của chàng Trương, nói rằng đó là ba nó, bấy giờ chàng Trương mới vỡ lẽ hiểu ra là mình đã hiểu lầm và chính mình là nguyên nhân hành hạ đưa đến cái chết cho vợ mình. Đó là hậu quả quá thương đau vì lòng ghen tức căm thù không nói nên lời. Khi hiểu ra, hối hận, thì chuyện đã rồi! Thế là, chàng ta đành ôm nặng nỗi lòng ăn năn hối hận ray rứt cho đến ngày nhắm mắt lìa đời. Đó là một bài học rát bỏng về những tri giác sai lầm mà ta cần phải lưu tâm để ý.
Hiện tại, có biết bao cặp vợ chồng, ông bà, cha mẹ, con cái trong gia đình vướng mắc cái chứng bệnh u uất hiểu lầm này. Mỗi người giữ thái độ im lặng âm thầm ghìm nhau mà căm hận. Vì tự ái tràn ngập nên không ai chịu mở lời trước để thiết lập truyền thông cởi mở giải bày cho nhau. Cuối cùng, đưa đến cái hậu quả lắm tang thương là gia đình tan nát đổ vỡ. Có đôi khi đưa đến cái chết tức tưởi như nàng thiếu phụ Nam Xương. Ôi! thật là đáng tiếc biết bao! Khi hối hận thì mọi việc đã quá muộn màng. Chi bằng ta nên thông cảm cởi mở tìm cách giải quyết cho nhau. Được thế, thì còn gì quý giá đẹp đẽ cho bằng. Đó là phương thuốc thần diệu để bảo tồn mái ấm hạnh phúc gia đình.
Trở lại vấn đề nói trên, bởi do nhìn đời bằng những cặp kính màu “Biến kế” chủ quan, nên từ đó nhơn loại đã gây ra biết bao cảnh tang thương làm khổ đau cho nhau. Muốn hết khổ đau, con người phải mau gấp rút tháo gỡ những cặp kính màu “nhị nguyên đối đãi” xuống. Hãy nhìn sự vật đúng theo lẽ thật của nó. Đó là nhận rõ lý chơn thường của vạn pháp. Nhìn đời không vọng tưởng phóng đại, không vẽ rắn thêm chưn, thì mọi ý niệm tương tranh sẽ lập tức chấm dứt ngay. Chừng đó, con người sẽ chung sống trong một thế giới an lạc hòa bình hạnh phúc.
218. Khát cầu pháp ly ngôn, sung mãn tâm cứu xét, không đắm mê dục lạc, ấy là bậc thượng lưu[2].
One who is intent upon the Ineffable (Nibbana), dwells with mind inspired (by supramundane wisdom), and is no more bound by sense pleasures – such a man is called “One Bound Upstream”.
Kệ tụng
Khát cầu pháp ly ngôn
Tâm xúc cảm thượng quả
Không đắm say ái dục
Thật xứng bậc thượng lưu.
Lược giảng
Pháp cú này, Phật dạy tại tinh xá Kỳ Viên, có liên quan đến một vị trưởng lão đắc quả A na hàm.
Một ngày kia, các đệ tử của vị trưởng lão hỏi thầy mình như sau:
- Bạch thầy, thầy đã đạt Thánh quả chưa?
Vị trưởng lão nghĩ: “Ngay cả hàng tục gia cư sĩ cũng có thể chứng Tam quả (A na hàm) . Để đợi khi ta chứng Tứ quả rồi sẽ nói với chúng”. Và vì ngượng thầy không nói chi. Không bao lâu, thầy viên tịch và tái sanh lên cõi trời Ngũ Na hàm. Các đệ tử của thầy khóc lóc than thở, đi đến chỗ Thế Tôn, cúi lạy lui ngồi một bên, cũng còn than khóc. Phật hỏi:
- Vì sao các ông khóc?
- Thầy chúng con đã mất, bạch Thế Tôn!
- Không sao cả, các ông chớ buồn, đó là luật vô thường.
- Thưa vâng, chúng con biết điều ấy. Nhưng chúng con đã hỏi người chứng quả hay chưa, mà người mất, không trả lời chúng con. Vì thế chúng con buồn.
- Này các Tỳ kheo, các ông chớ lo lắng, thầy các ông đã chứng Tam quả và nghĩ rằng: “Ngay cả hàng tục gia cư sĩ cũng có thể chứng Tam quả. Khi nào chứng Tứ quả, ta sẽ nói với chúng”. Vì ngượng nên ông ấy không nói. Khi mất, ông ấy tái sinh vào cõi Ngũ Na hàm thiên. Các ông hãy vui mừng, thầy các ông đã thoát ngũ dục. (Trích nguyên văn Tích Truyện Pháp Cú tập II, Viên Chiếu, tr 415)
Pháp ly ngôn là pháp không còn bị hạn cuộc trong phạm trù nhân duyên đối đãi. Pháp nầy, không thể dùng lời nói để suy nghĩ luận bàn. Nó thoát ra ngoài mọi danh ngôn sắc tướng. Ngôn ngữ chỉ diễn tả được những gì có hình tướng. Đến chân lý tuyệt đối, thì ngôn ngữ phải đầu hàng. Người tu dù xuất gia hay tại gia, mục đích chính cũng đều nhắm đến pháp ly ngôn này. Nói cách khác cho dễ hiểu là pháp gốc hay bản tâm chơn thật của mọi người. Pháp này ai ai cũng đều sẵn có. Đó là một thực thể sáng suốt, là bản nhiên thanh tịnh tiềm tàng trong mọi vật thể. Thực thể này, đối với
các loài hữu tình, thì gọi là Phật tánh. Đối với các loài vô tình, thì gọi nó là pháp tánh.
Pháp ly ngôn ở đây, Phật muốn ám chỉ cái thể tánh Niết bàn của A la hán. Niết bàn này là đồng nghĩa với vô sanh. Vì vô sanh nên tự thể của nó là ly khai mọi ý niệm vọng chấp. Đến đây, bặt dứt ngôn ngữ diễn tả luận bàn. Nên nói, nó là pháp ly ngôn. Thiền sư Ngộ Ấn đời Lý (1019- 1088) thuộc dòng thiền Vô Ngôn Thông, trước khi thị tịch, Ngài có để lại bài kệ thị chúng như sau:
Diệu tánh hư vô bất khả phan
Hư vô tâm ngộ đắc hà nan
Ngọc phần sơn thượng sắc thường nhuận
Liên phát lô trung thấp vị càn
Dịch nghĩa:
Diệu tánh rỗng không chẳng thể vin
Rỗng không tâm ngộ việc dễ tin
Tươi nhuần sắc ngọc trong núi cháy
Lò lửa hoa sen nở thật xinh
(Thiền sư Thích Thanh Từ)
Người tu, muốn đạt được Niết bàn này, Phật vạch bày ra nhiều con đường, hay nhiều pháp môn. Con đường theo hệ giáo lý Nguyên Thủy, thì hành giả phải theo con đường mòn: “Niệm, Định, Tuệ”. Niệm là sự có mặt của cái biết hiện tiền. Cái “Biết” tinh sáng thuần túy không xen lộn với bất cứ tạp niệm nào khác. Cái biết tràn đầy mà Phật nói là: “sung mãn tâm lự sát”. Niệm là bước khởi đầu của Định. Định là dừng tất cả mọi vọng tưởng nghĩ suy tính toán. Như nước đã lóng trong đứng yên, không dao động. Khi đã có định, tất nhiên sẽ phát huệ. Huệ là trí sáng nhận rõ từng niệm vọng khởi hiện tiền. Biết rõ những gì hiện có mặt và đang xảy ra. Đến đây, hành giả không còn đắm mê mọi dục lạc. Tất sẽ đạt được Niết bàn an lạc, mà ở đây gọi là bậc “thượng lưu”.
Người tu hành chơn chánh không đặt thành vấn đề chứng hay không chứng. Vì tu hành mà còn thấy có chứng, có đắc, thì đó không phải là bậc chơn tu. Tại sao? Vì còn có bốn tướng: “ngã, nhơn, chúng sanh và thọ giả”. Mà tự thể bản nguyên của sự vật vốn là ly khai tất cả tướng. Kinh Lăng Nghiêm Phật dạy: “Ly nhứt thiết tướng, tức nhứt thiết pháp”. Kinh Kim Cang Phật nói: “Phàm sở hữu tướng giai thị hư vọng. Nhược kiến chư tướng, phi tướng, tức kiến Như Lai”. Như Lai là thể tánh thanh tịnh sáng suốt bất sanh bất diệt. Còn tướng là còn sanh diệt. Thế thì, sao gọi là chứng đắc? Thế nên, câu chuyện trên, vị trưởng lão, khi được các đệ tử hỏi thầy mình về quả vị chứng đắc, ông không trả lời, cũng bởi lý do đó.
219. 220. Người khách ly hương lâu ngày, từ phương xa trở về an ổn, được bà con thân hữu đón mừng như thế nào, thì người tạo phước nghiệp cũng vậy, khi từ cõi đời nầy sang cõi đời khác, phước nghiệp của họ là kẻ thân hữu đón mừng họ.
When, after a long absence, a man safely returns home from afar, his relatives, friends and well-wishers welcome him home on arrival.
As kinsmen welcome a dear one on arrival, even so his own good deeds will welcome the doer of good who has gone from this world to the next.
Kệ tụng
Khách lâu ngày ly hương
Từ viễn xứ về làng
Bà con cùng thân hữu
Hân hoan đón chào mừng
Cũng vậy các phước nghiệp
Đón chào người làm lành
Đời nầy đến đời kia
Như thân nhân chào đón.
Lược giảng
Hai pháp cú này, Phật dạy tại Lộc Uyển có liên quan đến Nandiya.
Nandiya là một thanh niên con của một gia đình Phật tử rất thuần thành ở thành Ba la nại. Vì là người hiền hậu có nhiều đức tánh tốt, nên chàng ta được gia đình cho làm thị giả chư Tăng. Khi đến tuổi trưởng thành, cha mẹ chàng quyết định cho chàng kết hôn với một cô gái tên là Revati, nhà đối diện. Nhưng chàng ta không chịu, vì nàng này không có lòng tin kính Phật pháp.
Bà mẹ chàng thấy thế, mới chỉ vẻ bày cách cho Revati để chinh phục lòng chàng. Kết quả, chàng ta đồng ý và làm lễ thành hôn. Từ đó, Revati trở nên một cô gái hiếu thảo và rất tin kính cúng dường Phật và chúng Tăng. Sau thời gian sống chung, hai người cho ra đời hai đứa con trai kháu khỉnh. Cả hai đều sống rất hạnh phúc. Không bao lâu, cha mẹ chàng đều lần lượt qua đời để lại gia tài giàu có cho hai người cùng hưởng.
Cả hai đều hết lòng cúng dường Phật và Thánh chúng thường xuyên. Ngoài ra, Nandiya còn bố thí vật thực cho những người nghèo khổ. Chàng còn xây cất tinh xá cho Phật và chúng Tăng trú ngụ. Nhờ công đức cúng dường mà chàng ta được phước đức rất lớn. Nghĩa là, trên cõi trời Ba mươi ba có nhiều cung điện sang trọng dành riêng cho Nandiya. Khi Tôn giả Mục kiền liên du hành ở cõi trời này đã chứng kiến tận mắt và sau đó trở về bạch lại cùng với đức Phật.
Phật nói rằng, những tòa lâu đài cung điện đó, sẽ được đón tiếp Nandiya sau khi chàng ta bỏ thân này và sanh lên đó. Chư thiên đón tiếp như một người thân yêu rời xa quê hương nay đã được trở về quê hương với biết bao niềm vui sướng mừng rỡ. Họ tranh nhau đón tiếp một cách chân tình nồng hậu vậy. (Hết phần lược dẫn cốt chuyện)
Phước hay tội đều do chúng ta tạo ra từ ở nơi ba nghiệp: thân, miệng và ý. Nếu hiện đời, chúng ta gây tạo nhiều phước đức, thì chẳng những sau khi chết, chúng ta sẽ hưởng quả báo tốt đẹp an vui, mà còn ngay cả hiện đời này, chúng ta cũng gặt hái những quả báo tốt lành. Đó là theo luật nhân quả nghiệp báo không sai.
Quả báo có được thù thắng hay không, còn tùy thuộc vào cái nhân mà chúng ta đã gây tạo phưóc đức nhiều hay ít. Và khi tạo phước, điều quan trọng là ở nơi tâm ý. Nếu chúng ta cúng dường hay bố thí, hoặc giúp đỡ người nghèo khổ v.v… tất cả đều tùy thuộc ở nơi tấm lòng của chúng ta có thành tâm hay không. Phước nhiều hay ít là ở nơi cái tâm, chớ không phải ở nơi đồ vật dâng cúng hay bố thí nhiều ít. Nếu chúng ta làm phước với cái tâm bất kính, ngạo mạn khinh người, thì chắc chắn cái quả báo mà ta hưởng sẽ không có bao nhiêu. Chẳng những thế, mà đôi khi còn trở nên có tội nữa không chừng. Cho nên, khi làm phước ta nên cẩn trọng ở nơi tâm ý. Phải có tấm lòng cung kính thương yêu. Có thế, thì việc làm phước của ta mới có ý nghĩa và mới được lợi ích lớn. Bằng ngược lại, thì chỉ thêm mang trọng tội mà thôi!
Qua câu chuyện lược dẫn trên, ta thấy, Nandiya sở dĩ được phước báo lớn lao như thế, là vì chàng ta cúng dường bố thí bằng tất cả tấm lòng cung kính ở nơi Phật và chúng Tăng. Ngược lại, nàng Revati, thì không có cái tâm cung kính đó. Và cuối cùng, nàng ta bị chuốc lấy một hậu quả lắm tang thương là rơi vào địa ngục. (Theo trong chú giải Vimàna- Vatthu kể lại, sau khi Nandiya sanh thiên, Revatì thôi không cúng dường chúng Tăng, mắng chửi Tỳ kheo và bị ném vào địa ngục lúc còn sống).
Có người khi làm phước giúp đỡ cho ai, thì hay kể công lao hoặc có tâm khinh mạn. Hết chê trách người này, đến mạt sát kẻ kia, tưởng như thế là chứng tỏ mình có công lao ngon lành lắm. Nhưng họ không biết rằng, chính cái thái độ ngã mạn, cống cao hách dịch lòe thiên hạ đó, thật là một hậu quả tai hại rất lớn lao! Hiện tại, họ không được người ta quý kính nể nang, tương lai, họ lại rơi vào con đường tối tăm đau khổ. Cái nhân như thế, thì bảo cái quả phải tốt đẹp sao cho được?! Cứ nhìn vào cái bóng của mình thì biết rõ. Hễ mình ngồi, thì bóng mình cũng ngồi. Mình đi thì bóng mình cũng đi… Nhân quả trả vay như bóng theo hình, một mãy may không hề sai chạy.
Là Phật tử, chúng ta nên hết sức cẩn trọng, không nên có tâm khinh thường nhân quả mà chuốc lấy khổ lụy vào thân. Chừng đó, dẫu mình có ăn năn hối hận thống trách, thì cũng đã muộn màng lắm rồi! Không ai cứu thoát cởi trói cho mình được đâu! Hãy tự mình thắp sáng ngọn đuốc trí huệ lên mà đi. Nhưng phải thắp lên với chánh pháp.

XVII. PHẨM PHẪN NỘ
(Kodhavaggo)
221. Xả bỏ lòng giận dữ, trừ diệt tánh kiêu căng, giải thoát mọi ràng buộc, không chấp trước danh sắc[3], người không có một vật chi ấy, sự khổ chẳng còn theo dõi được.
One should give up anger, renounce pride, and overcome all fetters. Suffering never befalls him who clings not to mind and body and is detached.
Kệ tụng
Xả bỏ lòng giận dữ
Trừ bỏ tánh kiêu căng
Vượt ngoài mọi ràng buộc
Không chấp trước danh sắc
Người chẳng còn một vật
Khổ không sao theo dõi.
Lược giảng
Pháp cú này, Phật dạy tại rừng Banyan, có liên quan đến Rohinì, một thiếu nữ Sát lợi.
Theo truyện tích, một hôm, Tôn giả A nậu lâu đà trở về thành Ca tỳ la vệ với năm trăm Tỳ kheo tùy tùng. Được tin mọi người trong hoàng tộc đều đến tinh xá đón chào, ngoại trừ cô em Rohinì.
Nhìn không thấy cô em gái, Tôn giả liền hỏi duyên do, mọi người cho biết Rohinì vì bị bệnh mụn nhọt đầy người, nên hổ thẹn khi ra ngoài. Tôn giả ra lệnh bảo phải đến. Thế là Rohinì, không thể ẩn mặt, phải đến gặp Tôn giả.
Sau khi hỏi han vấn đáp qua lại, Tôn giả bảo Rohinì nên bán hết đồ nữ trang của nàng để xây dựng tinh xá, thỉnh Phật và chúng Tăng đến cúng dường. Rohinì vâng lời làm theo và sau khi hoàn thành, nàng thỉnh Phật và chư Tăng đến, bỗng nhiên bệnh mụn nhọt của nàng tan biến hết.
Cúng dường xong, Phật nói rõ nguyên nhân mà nàng đã phải mang chứng bệnh mụn nhọt đó. Phật nói, chính do lòng sân hận gây nên. Nghe Phật nói thế, nàng ta thắc mắc hỏi Phật. Phật kể lại chuyện tiền thân quá khứ của nàng.
Xưa kia, chính nàng là hoàng hậu, chỉ vì lòng ganh tỵ với một cô vũ nữ, mà nàng đã nhẫn tâm làm hại cho cô đó phải mang bệnh ghẻ nổi khắp mình. Do nguyên nhân đó, nên nay nàng phải trả cái quả báo xưa kia đã gây. Đó là do lòng sân hận ganh tỵ mà ra. Tuy nhiên, Phật lại nói tiếp cho chúng ta biết, vì nhờ tấm lòng chân thành phát khởi tín tâm cúng dường của nàng, nên sau khi mạng chung, nàng được sanh lên cõi trời Ba mươi ba để hưởng nhiều phước lạc. Khi sanh lên đây, nàng có thân tướng rất đẹp. Sắc đẹp của nàng kiêu sa lộng lẫy, đến nổi tứ thiên vương phải tranh nhau. Cuối cùng, nàng về tay của Thiên chủ đế thích và từ đó, nàng ta vui hưởng một cuộc đời tràn đầy an lạc hạnh phúc. (Hết phần lược dẫn cốt chuyện)
Sân hận là một tánh xấu thuộc căn bản phiền não. Nó có gốc rễ rất sâu dầy, thật khó trừ, khó đoạn. Nó là thứ lửa dữ, đốt cháy cả mình và người.
Chuyện lược dẫn trên, cho ta thấy, hậu quả của lòng sân hận. Rohinì là một cô gái bị bệnh mụn nhọt nổi đầy mình. Thử hỏi một cô gái đang tuổi xuân xanh, mà mắc phải chứng bệnh như thế, thì có nỗi đau khổ nào bằng! Suốt ngày, nàng không dám bước chân ra ngoài, vì sợ người ta nhìn thấy chê cười. Nhưng nỗi khổ đó, không phải tự nhiên mà có. Phật kể lại chuyện tiền kiếp của nàng. Nếu Phật không nói, chắc không ai biết được.
Bài học này cho ta thấy, bất cứ việc gì xảy ra cho ta và người trong hiện tại, đều có nguyên nhân của nó. Vì lòng sân hận ganh tỵ tìm cách hại người, tưởng rằng như thế là không có gì, nhưng nhân đã gây, thì khó tránh khỏi cái quả báo. Dù hiện đời không trả, đời sau cũng phải trả.
Hiện trạng của xã hội ngày nay, đã xảy ra biết bao cảnh tang thương bi đát, vì lòng sân hận này. Trong gia đình, cha có thể hại con, con có thể giết cha, chồng có thể giết vợ, vợ có thể hại chồng, mẹ có thể hại con, con nhẫn tâm giết mẹ, bà con thân thuộc cấu xé tàn hại lẫn nhau v.v… rộng ra là cả quốc gia xã hội, rồi đến thế giới, tất cả, cũng chỉ vì không hóa giải được lòng sân hận mà ra. Do đó, nên mới có biết bao thảm trạng hệ lụy khổ đau. Sân hận là một thứ tập khí rất nguy hiểm. Một thứ hạt giống không được tưới tẩm bởi giọt nước cam lộ từ bi, nên càng ngày nó càng phát triển mạnh theo chiều hướng ác nghiệp.
Khi có chuyện bất bình trong gia đình, người ta không chịu tìm hiểu nguyên nhân để tìm cách hóa giải. Cứ mỗi lần xảy ra là mỗi lần dồn nén đưa nó vào trong vô thức hay tiềm thức, lâu ngày hạt giống sân hận càng mạnh, đương nhiên đến một lúc nào đó, thì nó sẽ bộc phát mạnh mẽ dữ dội, có thể cầm dao hay súng bắn giết người mà không một chút gớm tay.
Ta nên nhớ rằng, sân có ra là từ lòng tham. Mà gốc của nó là từ si mê. Vì si mê, nên mới buông lung tâm ý thất niệm. Vì thất niệm, (tức không có mặt của cái biết trong giây phút hiện tại, để nhận diện những gì đang xảy ra cho ta và người), nên mới gây ra khổ đau cho nhau. Đó là chuyện thường tình của con người xưa cũng như nay. Đó là vì chúng ta thiếu tu. Người có tu là tất có an lạc hạnh phúc. Ngược lại, nếu chúng ta thiếu tu, không có chánh niệm, thiền quán, hằng quán niệm hơi thở, thì chúng ta sẽ chuốc lấy khổ đau tràn ngập vậy.
Pháp cú trên, Phật bảo chúng ta phải xả bỏ lòng giận dữ, trừ diệt tánh kiêu căng, giải thoát mọi ràng buộc, không chấp trước danh sắc, người không một vật chi ấy, sự khổ chẳng còn theo dõi được. Nếu nói ngược lại, sở dĩ chúng ta khổ là vì chúng ta còn giận dữ, kiêu căng, chấp trước ở nơi thân tâm (danh sắc). Bởi do những nguyên nhân đó, nên chúng ta chưa được giải thoát. Muốn giải thoát, thì chúng ta phải không còn mang nặng một vật chi ấy, phải buông tất cả mọi gánh nặng chấp trước ở nơi thân, tâm cũng như ngoại cảnh, nói gọn là hằng chiếu kiến ngũ uẩn giai không, như thế, thì mới mong vượt qua mọi khổ ách vậy.
222. Người nào ngăn được cơn giận dữ nổi lên, như dừng được chiếc xe đang chạy mạnh, mới là kẻ chế ngự giỏi, ngoài ra chỉ là kẻ cầm cương hờ mà thôi.
He who checks rising anger as a charioteer checks a rolling chariot, him I call a true charioteer. Others only hold the reins.
Kệ tụng
Ai chận được cơn giận
Như dừng xe đang lăn
Ta gọi người đánh xe
Kẻ khác, cầm cương hộ[4].
Lược giảng
Pháp cú này, Phật dạy tại tinh xá Aggàlava, có liên quan đến một thầy Tỳ kheo.
Theo truyện tích, kể từ khi Phật cho phép các thầy Tỳ kheo sống ngoài tinh xá, các vị trưởng giả ai nấy đều lo xây cất những ngôi thất cho các thầy. Có một thầy Tỳ kheo ở Àlavi tự đốn cây để xây cất. Thầy đốn một cây mà trên cây đó có một vị nữ thọ thần, bà ẩm đứa con nhỏ của mình hiện ra trước thầy năn nỉ. Nhưng sự năn nỉ của bà vô hiệu quả, vì thầy đã quyết chọn cây này không còn cây nào khác. Thấy lời năn nỉ của mình không được, bà liền nghĩ cách là đưa đứa bé lên cành cây để ngăn lại, nhưng không ngờ lỡ tay thầy Tỳ kheo đã chặt đứt một cánh tay của đứa nhỏ. Thấy thế, nữ thọ thần nổi giận định vặn chết thầy Tỳ kheo, nhưng bà ta kịp thời dừng tay lại. Bà nghĩ, thầy Tỳ kheo này là bậc hiền thiện, nếu giết chết ông, thì ta sẽ rơi vào địa ngục. Chi bằng, tốt hơn hết là ta nên tìm đến bậc thầy của ông ta để giải quyết. Thế là bà ta tìm đến đức Phật.
Sau khi nghe bà thuật lại đầu đuôi câu chuyện, Phật liền khen ngợi :
- Lành thay! Lành thay! Ngươi đã cư xử rất tốt khi kềm hãm cơn giận như thắng chiếc xe lao nhanh.
Phật liền nói kệ, nghe xong, nữ thần chứng được sơ quả và cả hội chúng đều được lợi ích.
Nhưng sau đó, nữ thần vẫn đứng khóc. Phật hỏi duyên do vì sao? Nữ thần bạch Phật là không còn nhà cửa để trú ngụ. Phật bảo, ngươi hãy đến trú ngụ ở một cái cây gần hương thất của ta, nơi đây, chắc chắn là sẽ yên ổn, vì không có ai dám đến khuấy rầy nhà ngươi nữa. Nhân đó, Phật liền chế giới cho các thầy Tỳ kheo “không được chặt đốn cây cối”. (Hết phần lược dẫn cốt chuyện)
Thắng chế ngự được lòng sân hận đang trào dâng lên, thật đó không phải là chuyện dễ làm. Nếu không thắng kềm hãm được, thì lập tức hậu quả sẽ xảy ra không thể lường được. Chuyện lược dẫn kể trên, cho ta một bài học rất lớn về sự chế ngự lòng sân hận. Giả như nữ thần kia, không chận đứng dập tắt được ngọn lửa sân hận trong lòng, thì hậu quả sẽ rơi vào địa ngục như tên bắn. Bởi thế, người xưa nói: “Nhẫn nhứt thời chi khí, miễn bá nhựt chi ưu”. Nghĩa là chỉ cần nhẫn nhịn trong một hơi thở thôi, mà tránh khỏi lo sợ khổ não cả trăm ngày.
Muốn chế ngự được lòng sân hận, Phật dạy chúng ta phải tập huân tu hạnh từ bi. Vì có tình thương chân thật, chúng ta mới không bực tức nổi giận. Mà muốn có tình thương yêu, tất nhiên, chúng ta cần phải có sự tìm hiểu. Hiểu là nền tảng vững chắc để xây dựng tình thương. Thiếu yếu tố “Hiểu” này, chúng ta sẽ không bao giờ có được tình thương. Có hiểu ta mới cảm thông. Có cảm thông, ta mới dễ rộng lượng tha thứ. Mỗi người ai cũng có biệt nghiệp. Hai hạt giống xấu và tốt ai ai cũng đều sẵn có. Nhưng hạt giống xấu thì nhiều mà tốt thì ít.
Sở dĩ nổi sân là vì chúng ta không hài lòng với người nào đó qua lời nói, thái độ hoặc hành động của họ. Khi ta hiểu rõ tật tánh của họ rồi, thì ta không còn buồn giận họ nữa. Khi nghe một lời nói trái ý, lập tức ta hãy thiết lập trở về với chánh niệm hơi thở ngay. Hơi thở là nhịp cầu thiết yếu để ta lấy lại sự bình tĩnh. Khi an trú vào hơi thở chánh niệm, cơn giận tức của ta sẽ từ từ lắng dịu lại. Nó không còn có cơ hội bộc phát mạnh bạo nữa.
Thử hỏi có bao giờ ta nổi cơn thịnh nộ lôi đình với một người đang mắc phải chứng bệnh tâm thần nặng không? Chỉ có người điên mới giận kẻ khùng. Còn người tỉnh táo ai lại giận người mê. Người thức mà chửi mắng kẻ ngủ, thì hóa ra người đang thức kia cũng trở thành là kẻ đang ngủ mê. Nghĩ thế, thì ta là người tỉnh, không lý do gì, ta lại đi nổi giận ăn thua đủ với người mê. Do quán chiếu thường xuyên như thế, thì hạt giống sân hận trong tâm thức của chúng ta sẽ từ từ suy yếu giảm lần cường độ rất nhiều.
Muốn làm người chế ngự giỏi hay làm người thắng xe giỏi, không phải tự nhiên mà làm được. Tất nhiên, ta cần phải học cách chế ngự và cách thắng. Học không chưa đủ, mà ta còn phải huân tu thật hành mỗi ngày. Ta phải tập rà thắng thường xuyên chính bản thân ta, mỗi khi ta thốt ra lời nói hay hành động. Ta nên ý thức rằng, một niệm sân giận nổi lên, thì ngàn cửa nghiệp chướng đau khổ mở rộng chờ ta. Đừng khinh thường một niệm sân nhỏ. Một tàn thuốc có thể đốt cháy cả khu rừng. Đó là chuyện rất bình thường. Thế thì, để có được một đời sống an ổn hạnh phúc cho ta và người, Phật dạy chúng ta phải là kẻ chế ngự, thắng xe giỏi. Ngoài ra, chỉ là kẻ cầm cương và thắng hờ mà thôi. Xin mọi người chớ nên lơ là khinh thường cái giây cương, tay thắng giới luật và chánh niệm của chính mình.
223. Lấy không giận thắng giận, lấy lành thắng chẳng lành, lấy cúng dường thắng xan tham, lấy chơn thật thắng hư ngụy.
Overcome the angry by non-anger; overcome the wicked by goodness; overcome the miser by generosity; overcome the liar by truth.
Kệ tụng
Lấy Từ thắng Nóng giận
Lấy Thiện thắng Ác hung
Lấy Thí thắng Xan tham
Lấy Chơn thắng Hư ngụy
Lược giảng
Pháp cú này, Phật dạy tại tinh xá Trúc Lâm, sau khi thọ trai tại nhà Uttarà, có liên quan đến nữ cư sĩ Uttarà.
Punna là một người nghèo khổ, làm thuê cho trưởng giả Sumana. Chàng có một vợ và một người con gái tên là Uttarà. Cả hai đều làm nô tỳ cho ông trưởng giả Sumana này.
Những người làm thuê cho ông trưởng giả đều nghỉ lễ thời gian bảy ngày. Riêng Punna thì vẫn đi làm như thường lệ. Sáng sớm, hắn dắt bò ra đồng đi cày. Trước khi ra đồng, Punna nói với người vợ, là nàng đem cơm cho chàng vào buổi trưa.
Hôm ấy, sau khi quán sát căn cơ chúng sanh, Tôn giả Xá Lợi Phất nghĩ thầm, ta nay nên độ cho Punna, vì ông ấy có duyên với ta. Thế là, Tôn giả mang bát đi ngang qua cánh đồng mà Punna đang cày. Tôn giả dừng chân đứng yên. Thấy thế, Punna nghĩ thầm, chắc là Ngài cần tăm xỉa răng. Punna liền đem tăm xỉa răng đảnh lễ dâng lên Ngài. Tôn giả trao đãy lược nước và bình bát cho Punna. Punna múc đầy nước trong bát dâng lên cho Tôn giả.
Đến trưa, người vợ mang cơm ra đồng cho chồng, thấy Tôn giả, bà liền dâng cúng thức ăn cho Ngài Xá Lợi Phất. Và Tôn giả đã cầu nguyện hồi hướng công đức cho bà.
Trong khi đó, Punna quá đói bụng mà không thấy vợ đem cơm ra. Chàng ta ngồi nghỉ trông đợi. Bà vợ về nhà nấu phần ăn khác. Bà biết chồng quá đói bụng, nên khi mang thức ăn ra, bà ta nói thật cho chồng biết là phần cơm trước đã cúng dường cho Tôn giả Xá Lợi Phất. Nghe xong, Punna chẳng những không tỏ ra buồn giận mà chàng còn vui vẻ tùy hỷ việc làm của vợ. Chàng ta còn nói, hồi sáng này chính chàng ta đã dâng tăm xỉa răng và nước uống cho Tôn giả.
Vì quá đói ăn vào mệt, nên chàng ta gối đầu lên chân vợ và ngủ. Bấy giờ, tất cả đất cày lên từ sáng đã biến thành vàng. Được vàng quá nhiều, Punna liền mang hết dâng lên cho vua. Khi vua nhận được vàng, mọi người liền nói, đây là tài sản của vua. Lập tức tất cả vàng đều biến trở lại thành đất hết. Mọi người tâu lên vua, nhà vua kinh ngạc, bảo phải nói lại: đây là tài sản của Punna. Lập tức tất cả đất đều biến trở lại thành vàng. Mọi người đều chở vàng về cung điện. Nhà vua trao hết số vàng và tặng cho Punna một cây lộng báu. Punna không nhận, chỉ xin một chỗ trú ngụ. Nhà vua liền cấp cho Punna một khoảnh đất rộng rãi xinh đẹp. Xây cất nhà xong, Punna làm lễ khánh thành và cúng dường trai tăng bảy ngày.
Sau đó, Punna gả con gái mình là Uttarà cho con trai ông trưởng giả. Uttarà sau khi về nhà chồng không có cơ hội cúng dường Phật và nghe pháp, nàng ta rất buồn. Uttara tìm cách dùng tiền mướn Sirima, một cô gái kỹ nữ về phục vụ cho chồng để nàng được có thời giờ làm việc phước.
Một hôm, nhìn thấy người chồng mỉm cười với Uttara, Sirima bắt gặp và nổi cơn ghen với Uttara. Sirima lấy nước bơ nóng tưới lên đầu Uttara. Thấy thế, các gia nhân xúm lại đánh đập Sirima. Uttara khuyên ngăn và đở Sirima dậy. Đồng thời, nàng không trách móc mà còn cám ơn Sirima lo cho chồng để nàng có thời gian đi làm phước. Sirima cảm thấy tủi hổ và xin lỗi Uttara. Uttara nói, nàng hãy đến xin sám hối với đức Thế Tôn, bao giờ được đức Thế Tôn tha lỗi, thì nàng sẽ tha thứ.
Sirima nghe lời và làm theo. Biết được cớ sự, đức Phật rất khen ngợi:
- Lành thay! Lành thay! Uttara! Đó là cách đúng nhất để dập tắt cơn giận. Từ bi có thể xóa sạch hận thù. Dùng không mắng chửi để thắng mắng chửi, dùng bố thí thắng xan tham, dùng thật ngữ thắng vọng ngữ. (Hết phần lược dẫn cốt chuyện )
Người có một tấm lòng bao dung rộng mở tha thứ, phải là người có sức huân tu đạo lực khá. Phải hằng thực tập tu hạnh từ bi. Có tấm lòng hiểu thương người, mới thực sự biết tha thứ. Uttara là một cô gái đã thật hành hạnh tu từ bi. Bị người vũ nữ mướn về để phục vụ lo lắng cho chồng, mà có thái độ ghen tuông ngược lại, dùng nước bơ nóng tưới lên đầu, thế mà nàng ta không nổi giận trách mắng hành phạt. Trong khi đó, thì những gia nhân nổi tức xúm lại đánh đập Sirima. Uttara cản ngăn và nàng còn an ủi tha thứ lỗi lầm.
Với thái độ hành xử rộng lượng bao dung từ ái đó của Uttara, Sirima cảm thấy thật vô cùng hổ thẹn áy náy khó chịu. Sirima cảm thấy đau đớn trong lòng còn gấp hơn ngàn lần bị những tên gia nhân đánh đập. Thà bị đánh đập, mà nó chỉ đau đớn về thể xác bên ngoài. Còn hơn là bị đau đớn ray rứt trong tâm. Bị thương tích đau đớn ngoài da, người ta dùng thuốc xoa bóp trị liệu rồi cũng hết. Nhưng cái đau đớn thương tích trong lòng mới là cái nhức nhối dai dẳng khó chịu vô cùng.
Sirima đến xin lỗi Uttara, thay vì Uttara tha thứ, nàng ta bảo hãy đến bạch trình với đức Phật. Đó là điều mà nàng ta muốn có sự chứng minh và xác nhận của đức Phật, cho tấm lòng rộng lượng tha thứ bao dung của nàng ta, đúng theo hạnh từ bi mà Phật đã thường khuyên dạy. Đó là một cách hành xử thật vô cùng khôn khéo của Uttara.
Giả như Uttara lấy uy quyền của một người vợ cả, hành hạ đánh đập Sirima, thì hậu quả sẽ ra sao? Tất nhiên là nó sẽ chồng chất cao thêm hận thù. Một hành động tha thứ như thế, đối với chúng ta thật không phải là chuyện dễ làm. Nhờ vào lòng từ bi nhân ái tha thứ của Uttara, mà Sirima mới hết lòng cảm phục và hổ thẹn. Đó là Uttara đã thực sự hóa giải hận thù. Quả đúng là “lấy cái không giận để thắng cái giận”. Từ đó chúng ta suy ra, lấy thiện thắng bất thiện, lấy bố thí thắng xan tham, lấy chơn thắng hư ngụy, đều là như thế cả.
Người ta đối xử với mình không tốt, thì mình vẫn lấy cái tốt, cái thiện đối xử lại với họ. Tất nhiên là ta phá vỡ được cái tâm lý gây sự bất an xung đột ngăn cách giữa hai người. Một người giận, người kia không giận, lấy cái không chọi lại cái có, tất nhiên, là cái có sẽ biến thành cái không. Cũng như ta đưa tay đánh mạnh vào hư không, thử hỏi có gây thương tích gì cho hư không không? Và cái cú đánh của ta đó, quả thật là vô nghĩa lý. Chẳng những thế, mà nó còn phản tác dụng ngược lại, là ta vô cùng hối hận cho cái cú đánh vô nghĩa lý của ta. Đánh mà không có đối tượng để nhận cái cú đánh đó. Đốt lửa vào hư không, chỉ là việc làm vô lý buồn cười mà thôi. Như thế, ta thấy những lời Phật dạy trong pháp cú trên, nếu ta cố gắng tu tập như Uttara, thì đời sống của ta thật là an vui hạnh phúc vô cùng.
Punna và người vợ, tuy nghèo khổ sống cực khổ bằng nghề làm thuê ở mướn. Nhưng cả hai đều có một tấm lòng rất tốt. Cả hai người đều hết lòng kính tin Tam bảo. Bằng chứng là cả hai đều phát tâm cúng dường thức ăn cho Tôn giả Xá Lợi Phất. Nhờ vào lòng thành tâm cúng dường, không chút hối tiếc, nên mới được cái phước đức lớn lao như thế. Đất biến thành vàng, đó là chuyện hy hữu ở thế gian. Điều này, nói lên cái tấm lòng vàng của hai vợ chồng nghèo. Cúng dường là bằng tất cả tấm lòng, chớ không phải ở nơi vật chất nhiều ít.
Phưóc ai nấy hưởng. Vàng chở đến cung điện dâng lên cho vua, nói là tài sản của vua, ngay đó, vàng liền biến trở lại thành đất. Thấy thế, nhà vua nói: “đây là tài sản của Punna”. Lập tức đất biến lại thành vàng. Chuyện như hoang đường, nhưng ý nghĩa thật là lý thú. Nhân ai gây người đó hưởng. Không thể người này ăn, mà người khác lại no. Đó là trái với luật nhân quả. Chứng minh rằng, luật nhân quả một mãy may không hề sai chạy. Làm lành được phước báo hiện tiền. Ngược lại, làm ác cũng thế. Đây là bài học lý thú để chúng ta noi theo mà cố gắng gây tạo nghiệp lành.
224. Nói chân thật, không giận hờn, san sẻ cho người xin[5]; đó là ba việc lành đưa người đến cõi chư Thiên.
Speak the truth; yield not to anger; when asked, give even if you only have a little. By these three means can one reach the presence of the gods.
Kệ tụng
Nói thật không nóng giận
Bố thí người đến xin
Nhờ ba việc lành nầy
Đưa người gần thiên giới
Lược giảng
Pháp cú này, Phật dạy tại tinh xá Kỳ Viên, có liên quan đến Tôn giả Mục Kiền Liên.
Theo truyện tích, một hôm, Ngài Mục Kiền Liên lên cung trời dạo chơi, bất thần, Ngài thấy một vị trời có thần lực rất lớn đang đứng trước cung điện của mình.
Sau khi chào hỏi, Ngài Mục Kiền Liên muốn tìm hiểu về cái oai thần lực này. Đôi lần hỏi, nhưng vị thần đó từ chối không chịu trả lời. Cuối cùng, vị thiên thần đó mới nói:
- Thưa tôn giả, tôi không có làm việc phước đức chi, “chỉ có nói thật mà thôi”.
Tôn giả đi sang qua một vài cung điện khác, thấy các thiên nữ đang vui chơi, ngài hỏi một vị thiên nữ. Vị thiên nữ không thể che giấu, thưa thật với Tôn giả là chỉ “không hờn giận ai”, khi bị người khác la rầy chửi mắng. Do đó, nên được phước báo như thế này.
Tôn giả hỏi đến một vài vị khác, họ đều trả lời là nhờ “công đức cúng dường chúng Tăng”, nên mới được phước báo như thế này.
Sau đó, Tôn giả trở về bạch trình hỏi Phật về những duyên do: có phải vì nói thật, vì chế ngự cơn giận, vì cúng dường chút ít phẩm vật mà được phước báo sanh thiên như thế chăng?
Phật nói: vì sao ông hỏi ta điều ấy? Tất cả thiên thần không kể rõ cho ông biết sao?
Tôn giả trả lời: thưa vâng, con tin rằng chỉ vài điều thiện nhỏ như thế cũng đủ sanh thiên.
Phật dạy:
- Này Mục Liên, chỉ với lời nói thật, chỉ với việc chế ngự cơn giận, hay tặng một quà nhỏ, người được sanh thiên. (Hết phần lược dẫn cốt chuyện). Nhân đó Phật nói pháp cú này.
Đời có quá nhiều gian xảo giả dối. Trong khi giao tiếp qua lại giữa người với người, người ta không ngần ngại dùng mọi mánh khóe xảo quyệt để lường gạt lừa bịp lẫn nhau. Mục đích cũng chỉ vì quyền lợi riêng tư nào đó, mà người ta muốn chiếm đoạt.
Trên thương trường hay chính trường, nói láo trở thành một thói quen trên đầu môi chót lưỡi của những nhà ngoại giao. Sự nói láo tráo trở lật lọng này, không phải ai cũng có thể nói được. Họ nói có lý luận, thủ đoạn rất tinh vi, đánh mạnh khai thác vào tâm lý người nghe. Không ai biết họ là người đang nói dối. Đó là một thủ thuật cao cấp của những chiến lược ngoại giao. Bạn cứ hứa hẹn đi, để chinh phục lòng người, thủ lợi trước mắt, còn mọi việc sẽ tính sau. Miễn sao chiếm hữu vị thế thượng phong bắt người ta tùng phục nghe theo mình là được.
Đức Phật đã thấy rõ cái tai hại của sự nói dối này. Từ một đứa trẻ thơ cho đến người cao tuổi, không một ai là không nói dối. Vì đó là hạt giống sẵn có. Có mặt ta là đã có nó. Do đó, người mà suốt đời không nói dối, không phải là chuyện dễ làm. Chính vì điểm này, nên Tôn giả Mục kiền liên thấy một vị thiên thần có nhiều oai lực, hỏi ra mới biết là họ không có tu tạo phước đức gì khác, chỉ giữ gìn có một điều duy nhứt là:“suốt đời chỉ nói toàn sự thật”.
Khi nghiên cứu về cuộc đời của Đức Phật, nhứt là trong lãnh vực ngôn từ, Tiến sĩ S. Radhakrishman đã hạ bút viết: “ Không một lời thô bạo nào được thấy thốt ra từ nơi Đức Phật trong cơn tức giận, chưa từng có một lời nói thô bạo được thấy trên môi Đức Phật kể cả trong lúc tình cờ”. (There was never an occasion when the Buddha flamed forth in anger, never an incident when an unkind word escaped his lips) .
Không giận hờn lại là điều khó hơn. Giận người đã đành, có đôi khi tự mình lại giận tức lấy mình. Người làm trái ý nghịch lòng, thì mình giận. Còn mình giận mình thì sao? Khi làm một điều gì mà chính bạn cảm thấy không hài lòng với chính bạn, bạn cũng đâm ra có sự giận tức. Như vậy, mới thấy lòng sân hận của con người thật quá mạnh bạo tràn trề. Chúng như là những quả bom nặng ký đã gài sẵn. Chỉ cần một đóm lửa nhỏ châm vào là chúng sẽ bùng nổ ngay. Năng lực của chúng tàn phá rất ghê gớm dễ sợ. Do đó, người chế ngự được lòng sân hận đã là khó lắm rồi, chớ nói chi đến chuyện không giận.
Nhưng nếu bạn muốn có hạnh phúc, tất nhiên, bạn phải cần học hỏi cách tháo gỡ những quả bom sân hận trong tâm bạn. Phương pháp tháo gỡ không có gì khác hơn, là mỗi khi bạn nổi giận lên, thì lập tức bạn phải có chánh niệm để nhận diện cơn giận của bạn ngay. Phương pháp nhận diện để tháo gỡ này chúng tôi đã có nói đến ở pháp cú 216.
Theo kinh nghiệm của Hòa Thượng Thích Nhất Hạnh cho chúng ta biết về phương pháp trị liệu này. Vì đây là một vấn đề rất hệ trọng, cho việc bảo vệ hạnh phúc cá nhân cũng như gia đình. Muốn có hạnh phúc, không gì khác hơn là mỗi người phải tự chuyển hóa khổ đau. Chuyển hóa bằng cách chịu khó thực tập hai nguyên tắc: “ái ngữ và lắng nghe”. Phải cố gắng thực tập hạnh nguyện cứu khổ của Bồ tát Quán Thế Âm. Mục đích là để thiết lập truyền thông trong sự giải bày nỗi khổ niềm đau để tạo niềm hòa khí thông cảm với nhau.
Trong tác phẩm “Giận” (do nhà Xuất Bản Văn Hóa Sài Gòn ấn hành năm 2007) có đoạn Hòa Thượng viết như sau: “Một người mà lời nói đầy sân hận, căm hờn là vì người ấy đang vô cùng đau khổ. Vì đau khổ mà người ấy nói ra những lời chua chát, cay đắng, trách móc khiến cho ta khó chịu và tìm cách xa lánh. Muốn thấu hiểu và chuyển hóa cơn giận thì phải học cách thực tập hạnh lắng nghe với tâm từ bi và sử dụng ái ngữ. Có một vị Bồ tát có khả năng lắng nghe với tâm từ bi rộng lớn, đó là Bồ Tát Quán Thế Âm. Chúng ta phải thực tập hạnh lắng nghe sâu như Ngài thì mới có thể hướng dẫn một cách cụ thể khi một người đầy sân hận tìm đến xin giúp đỡ để tái lập truyền thông”.
Bố thí là hiện thân của tấm lòng Bồ tát. Bồ tát thì không có phân biệt về tình thương thân sơ. Trải rộng lòng thương ra, thì bạn sẽ thấy tươi mát cõi lòng hơn. Khi nổi giận lên, là bạn đã đánh mất sự tươi mát trong lòng bạn rồi. Người đến xin mình, đó là điều kiện tối thiết yếu để mình có cơ hội làm phước. Không có người đến xin, hay bất cứ đối tượng nào khác, thì thử hỏi làm gì bạn có cơ hội tạo phước để bạn hưởng. Như vậy, bạn phải tỏ ra mang ơn rất nhiều cái đối tượng mà bạn ban cho. Nhờ đó, mà lòng bạn cảm thấy vui tươi an lạc hơn. Hạnh phúc không tìm đâu xa, chính nó nằm sẵn trong trái tim của bạn. Nếu bạn khéo mở rộng trái tim ra, là bạn sẽ có rất nhiều niềm an vui hạnh phúc tuyệt vời đến với bạn rồi.
Ba việc lành Phật nói trên, nếu chúng ta cố gắng thật hành áp dụng vào đời sống thực tế hằng ngày, thì hiện đời ta được lợi lạc biết bao nhiêu. Chắc chắn tương lai, chúng ta cũng sẽ tiếp tục hưởng được cái quá báo lành này.
225. Không làm hại người thanh tịnh, thường chế phục thân tâm, thì đạt đến nơi bất tử chẳng còn ưu bi.
Those sages who are inoffensive and ever restrained in body, go to the Deathless State, where, having gone, they grieve no more.
Kệ tụng
Không hại người thanh tịnh
Thường chế ngự thân tâm
Đạt được cảnh bất tử
Đến đây, không sầu bi.
Lược giảng
Pháp cú này, Phật dạy trong thời gian Phật ở Anjanavana gần Sàketa, có liên quan đến câu hỏi của chư Tỳ kheo.
Theo truyện tích, một hôm Phật và chư Tăng đi vào Sàketa khất thực, thì có một người Bà la môn đến ôm chân Phật kêu lên:
- Con thân yêu! Sao lâu quá con không về nhà để cho cha mẹ ngày nhớ đêm trông. Con hãy về nhà thăm mẹ con đi. Phật lặng lẽ âm thầm theo ông lão về nhà. Bà vợ ra đón chào và xưng mẹ với Phật. Đồng thời kêu các con ra chào Phật. Cả nhà đều mừng rỡ cúng dường thức ăn và khẩn cầu đức Phật nên thọ trai ở đây suốt đời.
Đức Phật nói, chư Phật không bao giờ thọ trai một nơi cố định. Họ yêu cầu Phật cho biết những ai mời Phật thọ trai để họ mang thức ăn đến dâng cúng. Kể từ đó, nếu không có ai mời, thì Phật dùng bữa tại nhà ông. Nhờ công đức cúng dường và nghe pháp, không bao lâu cả hai ông bà đều chứng Tam quả (A na hàm).
Nhân chuyện này, các Tỳ kheo bàn tán về cách xưng hô gọi Phật bằng con của hai ông bà này. Đức Phật biết được sự thể liền giải thích cho chúng Tăng biết về nhân duyên mối giây liên hệ tình phụ mẫu trong nhiều kiếp giữa Phật và hai ông bà Bà la môn này.
Suốt thời gian ba tháng ở Sàketa, Phật thường lui tới thọ trai tại nhà của hai ông bà và không bao lâu cả hai đều đắc quả A la hán và nhập Niết bàn. Khi hỏa táng thi hài hai người, mọi người tỏ vẻ ưu sầu và rất kính trọng, vì họ biết hai ông bà này là cha mẹ nhiều đời của đức Phật.
Nhân đó, Phật nói bài kệ như sau:
Đời sống thật ngắn ngủi
Một trăm năm chưa qua
Người ta đã phải chết
Dù ai có sống lâu
Rồi cũng sẽ chết già
Các Tỳ kheo thắc mắc hỏi Phật về việc tái sanh của họ. Phật cho biết:
- “Này các Tỳ kheo, trường hợp của các A la hán thánh nhân như họ không có kiếp sau. Họ đã đến Đại niết bàn, cõi bất tử, vĩnh hằng”. (Hết phần lược dẫn cốt chuyện) Và nhân đó, Phật nói pháp cú này.
Người tu, đôi khi chỉ vì một việc nhỏ xưng hô, cũng gây ra lắm nỗi phiền muộn bất an trong lòng. Khi nghe hai ông bà Bà la môn này gọi Phật bằng con, các thầy Tỳ kheo đã có ý bất bình. Trong khi đó, Phật vẫn yên lặng. Vì Phật đã biết rõ nhân duyên tiền kiếp nhiều đời giữa Phật và họ có mối quan hệ thâm tình phụ tử. Do đó, Phật khéo léo tùy duyên độ họ và cả hai đều chứng Thánh quả.
Tu hành, còn nặng lòng chấp ngã theo danh tướng, nên khi bị người ta đối xử xưng hô thiếu lễ độ với mình, thì mình cũng dễ nổi sân giận họ. Tuy đây là việc nhỏ nhặt, nhưng nếu chúng ta thiếu sự thực tập huân tu chánh niệm già dặn, thì cũng dễ gây ra tai hại cho mình và người. Tuy rằng, tên gọi chỉ là giả danh, nhưng nếu chúng ta còn bị dính kẹt ở nơi ngã tướng sâu nặng, tất nhiên cũng dễ nổi cáu, bất bình. Thế mới biết, đánh giá sự tu tập của mỗi người, không cần phải cao siêu hay ở đâu xa, chỉ cần một việc nhỏ nhặt đó, người ta cũng có thể biết được sự khắc phục hành trì tu tập của mình tới đâu. Do đó, là người tu hành, chúng ta nên cẩn thận chớ có khinh thường việc nhỏ nhặt này. Hãy noi gương đức Phật mà hành xử với mọi người, dù họ gọi mình bằng thứ gì cũng được. Người ta không chết vì những việc lớn lao, mà lại chết vì những chuyện nhỏ nhặt, tầm thường. Chúng ta nên cố gắng học cách chế ngự ở nơi thân tâm, qua cách hành xử của Phật.
Với cái nhìn cục bộ theo nghiệp thức, thì làm sao chúng ta có thể biết được nhân duyên nhiều đời trong quá khứ? Một việc xảy ra trên đời có liên hệ với ta và những người chung quanh. Phật nói, tất cả đều có nhân duyên chằng chịt với nhau nhiều kiếp trong quá khứ. Trong vòng lục đạo luân hồi, chúng ta đã trải qua nhiều đời trôi nổi xuống lên. Cứ mỗi đời đều có gây nhân thọ quả, ân oán chồng chất lên nhau, thử hỏi làm sao chúng ta biết được? Chỉ có Phật mới thấu suốt được tất cả. Chúng ta là những người tập tu, đang đi trên con đường giác ngộ, noi theo dấu chân Phật Tổ mà nỗ lực tu tâm sửa tánh hành thiện, thì chúng ta nên cố gắng nhứt quyết không làm hại ai. Ta hằng quán chiếu nhìn kỹ lại mình để chuyển hóa vô minh phiền não và quyết đạt cho kỳ được quả vị giải thoát Niết bàn an lạc.
Về Đầu Trang Go down
https://triamquan.forumvi.com/
Tri Âm Quán
Thành Viên Tích Cực
Thành Viên Tích Cực
Tri Âm Quán


Tổng số bài gửi : 6340
Reputation : 2
Join date : 31/07/2013
Đến từ : Thị Trấn Chũ

Kinh Pháp Cú chú giải (tập 1) - Page 2 Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Kinh Pháp Cú chú giải (tập 1)   Kinh Pháp Cú chú giải (tập 1) - Page 2 EmptySun Nov 16, 2014 11:56 am

226. Những người thường giác tỉnh, ngày đêm chuyên tu học, chí hướng đến Niết bàn, thì mọi phiền não dứt sạch.
Those who are ever vigilant, who discipline themselves day and night, and are ever intent upon Nibbana – their defilements fade away.
Kệ tụng
Những người thường giác tỉnh
Ngày đêm siêng tu tập
Chuyên tâm hướng Niết bàn
Mọi lậu hoặc được tiêu
Lược giảng
Pháp cú này, Phật dạy tại núi Linh Thứu, có liên quan đến Punna, đầy tớ gái của trưởng giả thành Vương Xá.
Theo truyện tích, Punnà vì mang thân phận của người ở đợ, nên nàng đã phải giã gạo làm quần quật từ sáng tới tối mà không được ngủ nghỉ. Có lần, nàng thấy các thầy Tỳ kheo, đi theo ngọn đuốc cháy sáng của vị thần Dabba the Malla dẫn đường. Nhân thấy ánh sáng, nàng thầm nghĩ: “cớ sao những thầy Tỳ kheo kia không chịu ngủ mà phải đi trong đêm khuya như thế? Có phải các vị đó đau ốm hay là bị rắn cắn chăng”?
Hôm sau, trên đường đi ra sông tắm, nàng mang theo thức ăn và nước uống để dùng. Giữa đường bỗng gặp Phật, nàng dâng hết thức ăn bánh nướng và nước uống đơn sơ để cúng dường cho Phật. Phật nhận thức ăn và rồi nàng quỳ xuống đảnh lễ Phật. Nàng mong phật ban phước cho nàng. Phật nhận lời và chú nguyện chúc phúc cho nàng.
Nàng thầm nghĩ, dù Phật đã nhận thức ăn, nhưng chắc Ngài không dùng, vì Ngài sẽ chê dở và quăng nó cho các loài chim thú ăn. Phật biết ý nghĩ của nàng, nên Phật ngồi xuống bên đường và dùng thức ăn của nàng. Ăn xong, Phật liền quở Punna.
- Nầy Punna, tại sao ngươi phỉ báng đồ đệ của ta.
- Bạch Thế Tôn, con đâu có.
- Vậy ngươi nói gì khi thấy họ?
- Bạch Thế Tôn, con chỉ nghĩ đơn giản là có thể một vài vị bị bệnh hoặc rắn cắn chi đây?
Phật bảo:
- “Này Punnà, trường hợp ngươi khổ sở vì không được ngủ. Nhưng các đệ tử của ta luôn luôn tỉnh giác nên không ngủ”. (Hết phần lược dẫn cốt chuyện) Nhân đó, Phật liền nói pháp cú này.
Tỉnh giác là điều tối ư quan trọng của hành giả tu theo đạo Phật. Tỉnh giác đồng nghĩa với chánh niệm. Có tỉnh giác hành giả mới nhận diện được những gì đang xảy ra trong giây phút hiện tại. Khi nhìn đóa hoa hồng tươi thắm, người tỉnh giác là biết mình hiện có mặt đang ngắm hoa. Nếu có ý niệm khen chê hoa hồng, thì ta đã đánh mất chánh niệm rồi. Đó là thất niệm. Thất niệm đồng nghĩa với vọng tưởng loạn động. Khi thất niệm, là ta đã trở thành kẻ bị động nô lệ cho đóa hoa hồng. Ta không còn có mặt thực sự với sự mầu nhiệm của đóa hoa hồng kia nữa. Như thế, là ta đã đánh mất thực tại.
Người tu chỉ hơn nhau ở chỗ có tỉnh giác hay không tỉnh giác mà thôi. Dù cho ta có tu lâu bao nhiêu năm không biết, nhưng nếu ta luôn để mất chánh niệm, thì chưa có thể đánh giá ta là người thực sự tu hành. Hạnh phúc của người tu chỉ có, khi nào người đó hằng sống trong tỉnh giác. Vì tỉnh giác hay giác ngộ là cốt lõi của đạo Phật. Mất đi yếu tính này, thì đạo Phật không còn là đạo Phật nữa.
Chùa to, Phật lớn, địa vị cao, quyền uy, danh vọng v.v… chưa phải là an lạc hạnh phúc. Nếu không khéo, ta sẽ bị những thứ đó khống chế ràng buộc làm cho ta mất hết tự do giải thoát. Đời sống của đức Phật thật đơn giản. Ngài ăn uống, ngủ nghỉ đơn sơ, đạm bạc. Ai cúng gì ăn nấy, không đòi hỏi cầu kỳ. Dù người dâng cúng thức ăn, đó là một kẻ hèn hạ làm thuê ở mướn, nhưng Ngài vẫn thọ nhận không chối từ. Và để được vui lòng người tín cúng, Phật không ngần ngại ngồi ngay bên vệ đường thọ thực. Một nếp sống thật cực kỳ đơn giản và hạnh phúc. Đó là một hình ảnh an lạc giải thoát mà ta cần phải chiêm nghiệm, học hỏi noi theo.
Người tu hành thời nay, nhìn lại, thật không đơn giản như vậy. Thực tế, là ta đã bị không biết bao nhiêu thứ khống chế trói buộc. Thậm chí, ta không còn có đủ thời giờ để thiền quán. Ta đã bị cuốn hút vào vòng hệ lụy trần ai, bởi những cơn trốt vật chất thời đại. Vì đáp ứng theo nhu cầu đổi mới xã hội, đời sống tâm linh của ta càng ngày càng bị xa gốc, héo úa khô cằn. Phải thành thật mà nói, ta đã đánh mất năng lượng chánh niệm của ta quá nhiều so với thời Phật. Ta thiếu sự chuyển hóa làm mới. Dù có biện minh dưới hình thức nào, ta chỉ là người tự lường gạt với chính ta mà thôi. Vì đó là sự thật. Ta phải thật lòng nhận diện điều đó.
Hiện nhơn loại đang đứng trên bờ vực thẳm của nền văn minh kỹ thuật vật chất. Nhiều nhà văn hóa cho đó là một nền văn minh mất gốc. Đạo đức đang trên đà tuột dốc thê thảm. Đời sống tâm linh thay vì, đóng vai trò chủ đạo, nay lại bị nhơn loại khinh thường đưa xuống hàng thứ yếu.
Chính vì thế, nên có biết bao tệ nạn xã hội ngày càng xảy ra với tốc độ thê thảm khốc liệt trầm trọng. Nếu như nhơn loại chỉ biết một bề chạy đua hơn thua tranh nhau đọ sức về khoa học kỹ thuật nguyên tử năng, thì chắc chắn nhơn loại sẽ chuốc lấy một thảm họa khổ đau chưa từng thấy. Vì càng chạy đua hơn thua tranh đoạt, con người càng rơi vào vòng khổ đau không lối thoát. Bằng chứng, là những thảm họa nhơn tai do con người gây ra: chiến tranh, khủng bố, phạm pháp, tù đày, trộm cướp, băng đảng, hút xách xì ke ma túy v.v…Họ bắn giết thanh toán nhau đã và đang xảy ra hằng ngày khắp nơi trên thế giới. Nhơn loại sống không có ngày yên. Thế thì, làm sao nhơn loại có được đời sống an bình hạnh phúc đây? Câu hỏi này, xin để mọi người, mọi giới sẽ tự tìm phương giải đáp thích đáng cho chính mình và cho xã hội nhơn loại hiện nay.
227. A Đa La[6] nên biết: đây không phải chỉ là chuyện đời nay, mà đời xưa đã từng nói: làm thinh bị người chê, nói nhiều bị người chê, ít nói cũng bị người chê; làm người mà không bị chê thực là chuyện khó có ở thế gian nầy.
O Atula! Indeed, this is an ancient practice, not one only of today: they blame those who remain silent, they blame those who speak much, they blame those who speak in moderation. There is none in this world who is not blamed.
Kệ Tụng
A Tu La nên biết
Chẳng phải chuyện đời nay
Đời xưa cũng từng nói :
« Làm thinh bị người chê
Nói nhiều bị người chê
Nói ít cũng bị chê
Làm người không bị chê
Thật chuyện khó đời nầy »
228. Toàn bị người chê cả, hay toàn được người khen cả, là điều quá khứ chưa từng có, hiện tại tìm không ra, và vị lai cũng không dễ gì thấy được.
There never was, there never will be, nor is there now, a person who is wholly blamed or wholly praised.
Kệ tụng
Xưa nay và tương lai
Đâu có sự kiện nầy
Người hoàn toàn bị chê
Người hoàn toàn được khen.
229. Cứ mỗi buổi mai thức dậy, tự biết phản tỉnh, hành động không tỳ vết, trí tuệ hiền minh, giới hạnh thanh tịnh, đó là người đáng được kẻ trí tán dương.
But the man whom the wise praise, after observing him day after day, is one of flawless character, wise, and endowed with knowledge and virtue.
Kệ tụng
Mỗi buổi mai phản tỉnh
Hạnh vô cấu, sáng suốt
Đầy đủ giới định huệ
Kẻ trí khen người ấy.
230. Phẩm chất đúng loại vàng diêm phù[7], thì ai chê bai được? Đó là hạng Bà la môn, được chư Thiên tán thưởng.
Who can blame such a one, as worthy as a coin of refined gold? Even the gods praise him; by Brahma, too, is he praised.
Kệ tụng
Hạnh sáng như vàng ròng
Ai dám chê vị ấy
Chư thiên cũng tán dương
Phạm thiên cũng khen thưởng
Lược giảng
Đức Phật nói những pháp cú trên tại tinh xá Kỳ Viên, có liên quan đến nam cư sĩ Atula (Tu lại)
Theo truyện tích, Atula là một thiện nam sống ở Xá Vệ cùng với một nhóm bạn năm trăm Phật tử. Một hôm, ông cùng nhóm bạn này đến tinh xá nghe pháp. Đầu tiên, ông đến gần bên Tôn giả Ly bà đa, nhưng Tôn giả lặng thinh không nói một lời. Họ thất vọng, mới cùng nhau đến Tôn giả Xá lợi phất, cung kính trình bày về việc họ đã bất mãn khi đến gặp ngài Ly bà đa không giảng nói một lời.
Khi ấy, Ngài Xá lợi phất bảo họ ngồi xuống và Ngài thuyết giảng cho họ nghe về giáo lý A tỳ đàm. Ngài thuyết giảng thao thao bất tuyệt tràng giang đại hải, A tu la và cả bọn họ nghe không hiểu chi cả, nên bực mình liền kéo đến hội kiến với Tôn giả A nan. Sau khi cung kính chào hỏi, A tu la liền trình bày những việc đã xảy ra khi gặp Ly bà đa và Tôn giả Xá lợi phất cho ngài A nan nghe.
Ngài A nan liền giảng một bài pháp ngắn gọn cho họ nghe, nhưng họ vẫn không hài lòng, bực tức, liền kéo đến gặp Phật. Sau khi đảnh lễ Phật, họ liền bày tỏ cho Phật biết những việc bất bình của họ. Họ chê Ngài Ly bà đa chỉ biết lặng thinh, Tôn giả Xá lợi phất thì nói quá dong dài, Ngài A nan thì nói quá ngắn gọn.
Nghe xong, Phật quở trách bọn họ rằng, trên đời này từ xưa tới nay, không ai mà không bị khen chê, kể cả Như Lai cũng bị khen chê. Phật dạy tiếp: “Lời khen chê của người ngu không quan trọng. Nhưng khi người học thức, thông minh khen hay chê, đó mới là đích thực”. (Hết phần lược dẫn cốt chuyện) Nhân đó, Phật dạy những pháp cú trên.
Qua câu chuyện lược dẫn và những lời Phật dạy trên, cho chúng ta một bài học quý giá về việc thị phi khen chê của người đời. Ca dao có câu:
Ở sao cho vừa lòng người
Ở rộng người cười, ở hẹp người chê.
Cao chê ngỗng, thấp chê lùn
Béo chê béo mập béo tròn
Gầy chê xương sống xương sườn lòi ra.
(Ca dao)
Chê người không nghĩ lại ta
Lương mà chê lịch cũng là giống nhau
Chân mình bùn lắm xiết bao
Không lo tẩy rửa cho mau sạch bùn
Nhà mình rác rến lung tung
Mà đi lo quét nhà cùng kế bên
Chuyện ta lo liệu cho nên
Mặc ai xuyên xỏ vững kiềng ba chân.
Đến như trời đất vô tư, không hề thiên vị một ai, vậy mà cơn mưa nắng cũng còn có kẻ ưa người ghét thay ! Trời đất mặc nhiên tĩnh lặng không nói gì, và cũng không biết tỏ ra thương, hay ghét, dèm pha hay nịnh bợ với bất cứ một ai, thế mà vẫn còn không tránh khỏi cái miệng chê khen của người đời, nói chi đến con người đầy nghiệp chướng, thì thử hỏi làm sao tránh khỏi cái luận điệu khen chê?
Trời là cao mà miệng thế còn bia
Cơn mưa nắng kẻ ưa người trách
Đời trăm tuổi đố ai giữ sạch ?
Khổng Thánh còn bị Đạo Chích chê bai
Kẻ thì ưa tiếng ngắn tiếng dài
Người thì chịu lời chân lời thật
Ai nhẫn nhục bằng Tiên bằng Phật
Mà Đề Đạt Đa hại rất nhiều phen
Ai hiền lành bằng nhẫn nhục Tiên
Mà vua Ca Lợi chặt tan thân thể
Trang hiền đức Châu Văn Vương ai chẳng nể
Mà còn mang câu vũ lý chi tù
Xét ở đời có kẻ trí với người ngu
Cũng khó nổi lấy ngao mà lường biển
Nín thời dại, nói ra thời nhiều chuyện
Gẫm con người cái miệng rất nhiều lời
Cơ hàn quần áo tả tơi
Thì họ cho rằng đồ thất nghiệp
Giàu có đủ trên dù dưới dép
Thì họ cho rằng làm phách kiêu căng
Thấy kẻ nghèo đáng bác gọi thằng
Xem người giàu có đáng con mà kêu cậu
Gẫm con người hữu nhãn vô châu...
Lặng thinh như Tôn giả Ly bà đa cũng bị bọn Atula chê cười. Nói nhiều như Tôn giả Xá lợi Phất, cũng bị bọn họ không thích. Nói ngắn gọn hay nói ít như Tôn giả A nan, cũng bị bọn họ không vui. Thế thì làm sao cho họ vừa lòng hết đây? Những vị này là những bậc thầy đáng kính, phần lớn, các Ngài đã không còn phiền não ghét thương, thiên vị, như thói đời. Thế mà, các Ngài cũng vẫn còn bị người ta không ưa thích nói xấu. Thậm chí đến như đức Phật, Ngài đã hoàn toàn không còn một chút xíu vi tế vô minh phiền não, ấy thế mà, Ngài cũng vẫn còn bị kẻ thương, người ghét.
Những ai phỉ báng nhạo cười chê
Phải trái nào ai tránh khỏi hề!
Khổng Thánh kia còn bao kẻ biếm
Phật đà bị hại xiết bao ghê!
Khi thương trái ấu cho tròn trịa
Lúc ghét bồ hòn vẫn méo chê
Thế sự tình đời sao nói hết
Xét mình vui đạo chẳng buồn tê!
(Thích Phước Thái)
Nghĩ đến các Ngài còn bị tiếng dư luận khen chê của người đời, còn đối với chúng ta là những con người phàm tục, phiền não nhiểu nhương còn dẫy đầy, thế mà chúng ta muốn không có sự khen chê, thử hỏi như thế có được không? Hẳn chúng ta sẽ không bao giờ có được ý muốn hoàn toàn như thế.
Thế mới biết, khen hay chê là chuyện thường tình của thế nhân. Từ ngàn xưa mãi đến ngàn sau, bất luận thời nào và bất luận con người nào, không ai hoàn toàn được khen hay hoàn toàn bị chê. Do đó, Phật khuyên chúng ta khi bị chê không nên khởi tâm bực tức giận hờn. Chúng ta cần phải học cho được cái hạnh nhẫn nhục của trời đất. Có nhẫn nhục, thì mọi việc sẽ được an ổn. Ngược lại, khi chúng ta được khen, cũng không nên lấy đó làm hãnh diện, để cao thêm bản ngã. Càng được người khen, ta phải biết hạ mình và cẩn trọng xét lại việc ta làm. Không nên vì tiếng khen mà ta thay đổi tâm tánh, tự cao, tự đại, khinh người. Đó là một họa hại cho ta. Có đôi khi, ta không chết vì tiếng chê, mà ta lại chết vì tiếng khen. Người ta chết vì thuận cảnh nhiều hơn là chết vì nghịch cảnh. Trên bước đường tu học hành đạo, ta cần phải lưu ý đến những cái thuận duyên xảy ra cho ta.
Ta cần noi gương Phật Tổ, cứ an nhẫn tu hành. Ta không nên nặng lòng vì việc khen chê của thiên hạ. Nếu mình tu không ra gì, mà dẫu thiên hạ có khen, thử hỏi mình có xứng đáng với tiếng khen của họ không? Ngược lại, mình tu hành đàng hoàng, dẫu cho có bị thiên hạ chê cười nói xấu đủ điều, mình cũng cảm thấy không có gì xấu hổ. Và coi những lời chê bai phê bình chỉ trích của họ, là những lời cảnh giác thức nhắc cho mình tránh những điều xấu ác. Nghĩ thế, lòng mình không có gì phải tức giận khó chịu. Không ai biết rõ mình bằng chính mình tự biết mình. Mình đang làm gì? nói gì? nghĩ gì? tự mình mình biết, tự mình mình hay. Không ai biết rõ mình bằng mình. Người ta có khen, thì mình cũng không tăng thêm kí lô thịt nào, mà người ta có chê, thì mình cũng không bị giảm mất một miếng thịt nào. Người xưa nói: “Ai khen ta mà khen phải, thì đó là thầy ta. Ai chê ta mà chê phải, thì đó là bạn ta”.
Vâng! chỉ có người bạn tốt hết lòng trung thực với mình, họ mới thật tình dám nói lỗi phê bình những khuyết điểm của mình. Cả hai hạng người khen chê trên, mình đều cám ơn họ. Vì nhờ họ mà mình mới thăng tiến trên bước đường hành xử tu niệm. Ngoài ra, những kẻ vuốt ve nịnh bợ mình, hãy đề phòng coi chừng hạng người đó. Mình có làm sai, họ cũng nói mình phải. Mình có dở thậm tệ, họ cũng cho mình hay. Đó là hạng người chỉ biết ton hót tâng bốc nịnh bợ mình, vì họ đã có một chủ ý mưu đồ tư lợi riêng. Đó là hạng người mà ta cần phải tránh. Họ sẽ là người giết chết mình mà không cần đến vũ khí, một khi mình đã hết thời bị sa cơ thất thế.
Thường người ta thích nghe tiếng khen, chớ không ai chịu nghe tiếng chê. Vì lời nói thẳng bao giờ nghe cũng trái với cái lỗ tai. Nhưng ta nên nhớ rằng, ruồi chết vì mật ngọt, chim chết vì mồi ngon, người chết vì lời khen. Lời chê, tuy nó có bộc chất đắng thiệt, nhưng chính nó lại là làm cho mình thăng tiến hết bệnh. Nhưng ở đời, có mấy ai thích đắng đâu! Toàn là thích ngọt cả. Ấy thế mới chết!
Cứ ôn lại chuyện xưa, tích cũ, từ cổ chí kim, có ông vua nào chết vì tay trung thần can gián hay không? hay là phần nhiều họ chết vì những tay nịnh thần. Những ông quan nịnh thần, lúc nào cũng tỏ ra khéo biết nịnh bợ chiều chuộng để được lòng vua. Cứ một bề cong lưng uốn gối vâng vâng dạ dạ, thì thử hỏi có ông vua nào mà lại không thích ? Nhưng chúng ta đừng quên rằng, cái ngai vàng bị mất là chính do những ông quan lại nịnh thần này. Lịch sử xưa nay, đã chứng minh rất nhiều, nhưng rất tiếc, người ta vẫn chưa sáng mắt học thuộc lòng bài học này.
Đối với người tu hành, Phật dạy, chúng ta phải vượt lên trên hai thứ khen chê này. Vì hễ còn dính kẹt vào thứ nào, thì lòng ta cũng vẫn bất an, cũng vẫn đau khổ cả. Ta nên nhớ rằng :
Có tài phải chịu cái tai
Nếu mình ngu dại có ai nói gì
Ngày nào chẳng có thị phi
Tai không nghe đến cũng thì như không
Nhiều nước thì mới thành sông
Nhiều người phỉ báng mới nên công tu hành.
Luận về hạnh giải thoát, trên thế gian này không ai giải thoát bằng Phật. Vì Phật đã dứt sạch hết vô minh phiền não. Thế mà trên bước đường hành hóa, đức Phật đã gặp rất nhiều chướng nạn. Chướng nạn từ trong nội bộ Tăng đoàn cho đến các hàng ngoại đạo. Trong nội bộ, thì có Đề bà đạt đa đã âm mưu hại Phật rất nhiều phen. Thậm chí, ông ta còn dã tâm cấu kết với thái tử A xà thế để hại Phật. Nhưng tất cả, ông đều bị thất bại. Mọi âm mưu hãm hại của ông, đều phơi bày và đã được đức Phật hóa giải tất cả.
Ngoài Đề bà đạt đa ra, bên cạnh đó còn có nhóm lục quần Tỳ kheo cũng luôn gây phá rối bất an trong Tăng đoàn. Rồi đến hàng ngoại đạo, vì lòng vị kỷ, ganh tỵ hẹp hòi, nên họ luôn tìm đủ mọi phương cách để hại Phật và Tăng chúng. Nhưng tất cả, họ đều bị thất bại. Rốt lại, họ tự chuốc lấy tai họa vào thân mà thôi. Quả đúng với câu : « hại người trở lại hại mình ». Kẻ ác hại người hiền, có khác nào như kẻ cầm đuốc đốt trời. Trời không đốt được mà chính họ lại bị nạn phỏng cháy tay. Hay như kẻ ngước mặt lên trời mà phun nước miếng, nước miếng không lên tới trời, mà trở lại rớt vào mặt mình. Kẻ ác tâm hại người tu hành hiền lương cũng lại như thế.
Người tu hành, muốn được yên thân tu học, Phật dạy chúng ta cần phải luyện tâm như tứ đại. Nghĩa là phải học cho được hạnh nhẫn nhục của đất, nước, gió, lửa.
Ngày xưa, đức Phật đã từng dạy cho ngài La hầu la học và thật hành về những đức nhẫn này. Và chính Ngài Xá lợi phất nghe Phật dạy và Ngài cũng đã tập hành sự như thế. Một hôm, có một thầy Tỳ kheo có tâm ganh tỵ ác ý muốn hại Tôn giả Xá lợi phất, bằng cách vu khống cho rằng, Ngài đã nhẫn tâm ác ý xô thầy ấy bị té rồi bỏ đi không một lời xin lỗi. Chuyện xảy ra đến tai đức phật và đức Phật họp chúng lại rồi Ngài nêu ra vấn đề này trước đại chúng. Nhân đó Ngài Xá lợi Phất mới trình bày về những điều mà Ngài đã thật hành bắt chước theo đức nhẫn nhục của đất, của nước, của lửa và của gió (không khí) cho Phật và mọi người nghe và chính bản thân Ngài đã thành công.
Thế nào là học hạnh nhẫn nhục của đất ? Vì đất, ngoài đức tánh dày dặn, rộng lớn, bao la ra, đất còn có khả năng thu nhận và chuyển hóa. Người thật tâm tu hành phải trải rộng lòng thương bao la như đất. Đất dung nạp tất cả. Dù bạn có đổ nước thơm hay bất cứ thứ ô uế nhơ bẩn hôi thúi gì, thì đất vẫn thản nhiên thu nhận và chuyển hóa. Đất không bao giờ tham đắm, giận hờn, hay tỏ ra nhờm gớm ghê tởm gì cả. Thế nên, chúng ta nên thực tập học và hành sự nhẫn nhục như đất.
Thế nào là học hạnh nhẫn nhục của nước ? Vì tánh của nước cũng bao la, lưu chuyển mềm mại chặt không đứt, bứt không được. Lực dụng của nước đem lại sự tươi mát làm lợi ích cho muôn loài. Công dụng của nước để cho người ta tiêu xài phục vụ cho đời sống như : tắm rửa, giặt giũ, nấu nướng v.v... Song có điều, khi chúng ta giặt rửa những chất thơm tho hoặc những thứ dơ bẩn trong nước, nước cũng không cảm thấy tham đắm, buồn nản hoặc chán chường. Nước vẫn luôn luôn lưu chuyển và cuốn trôi đi những thứ ô uế đó. Nước mang hai đặc tánh nổi bật mà chúng ta cần học hỏi, đó là : « hóa giải và gạn lọc ». Hằng ngày, chúng ta hãy cố gắng thực tập quán niệm cho thân tâm mình phải gạn lọc và hóa giải giống như nước. Đó là chúng ta hành sự như nước.
Thế nào là học hạnh nhẫn nhục của lửa ? Vì tánh của lửa cũng bao la cùng khắp tất cả. Tánh chất của lửa là nóng. Lửa có công năng đem lại nguồn sống cho muôn loài. Nếu không có lửa (năng lượng nhiệt độ), thì muôn loài sẽ không thể nào sinh tồn được. Tuy thế, nhưng lửa không bao giờ thấy mình có công lao mà khinh thị mọi loài. Lửa còn có công năng đốt cháy mọi thứ : đẹp, xấu, nhơ, sạch v.v... Nhưng không vì thế, mà lửa tỏ ra tham đắm, buồn giận, tủi nhục hay chán chường. Lửa có năng lực thiêu đốt gạn lọc và hóa giải mọi thứ phiền não nhiễm ô. Chúng ta hãy để tâm cố gắng thực tập thiền quán học cho được đức tánh khiêm cung nhẫn nhục của lửa. Đó là chúng ta khéo biết hành sự như lửa.
Thế nào là học hạnh nhẫn nhục của gió ? Vì tánh của gió (không khí) cũng bao la cùng khắp tất cả. Tánh chất của gió hay không khí là loại thể hơi tươi mát trong lành. Không khí có công năng đem lại nguồn sống cho muôn loài. Sự sống nếu thiếu không khí là chết. Vạn vật sinh thành tồn tại cũng nhờ hít thở không khí mà sống. Sự vận hành của không khí tạo thành gió. Gió có công năng thổi đi tất cả những mùi thơm tho hoặc hôi thúi. Tuy thế, nhưng gió không bao giờ cảm thấy tham đắm hoặc tủi nhục, buồn giận hay chán chường. Gió có năng lực thổi đi tất cả những vọng chấp nội kết ưu phiền. Nói chung là thổi tan những niềm ưu bi tục lụy, những thứ phiền não cáu bợn gây ra làm cho chúng ta đau khổ. Gió có khả năng giải tỏa, gạn lọc và hóa giải mọi thứ. Nhưng không vì thế, mà gió lại cống cao ngã mạn tỏ thái độ khinh thị bất cứ ai. Chúng ta hãy cố gắng gia công thực tập cho kỳ được hạnh nhẫn nhục của gió. Đó là chúng ta khéo biết hành sự như gió.
Người tu hành khéo biết rèn luyện thân tâm học tập bốn đức tánh nhẫn nhục của bốn đại nói trên, thì chắc chắn đời tu của chúng ta sẽ có nhiều tiến bộ và lợi lạc rất lớn vậy.
Về Đầu Trang Go down
https://triamquan.forumvi.com/
Tri Âm Quán
Thành Viên Tích Cực
Thành Viên Tích Cực
Tri Âm Quán


Tổng số bài gửi : 6340
Reputation : 2
Join date : 31/07/2013
Đến từ : Thị Trấn Chũ

Kinh Pháp Cú chú giải (tập 1) - Page 2 Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Kinh Pháp Cú chú giải (tập 1)   Kinh Pháp Cú chú giải (tập 1) - Page 2 EmptySun Nov 16, 2014 11:57 am

231. Giữ thân đừng nóng giận, điều phục thân hành động, xa lìa thân làm ác, dùng thân tu hạnh lành.
Let a man guard himself against irritability in bodily action; let him be controlled in deed. Abandoning bodily misconduct, let him practise good conduct in deed.
Kệ tụng
Giữ thân đừng nóng giận
Chế thân khéo điều phục
Xa lìa thân làm ác
Dùng thân làm hạnh lành.
232. Giữ lời đừng nóng giận, điều phục lời chơn chánh, xa lìa lời thô ác, dùng ý tu hạnh lành.
Let a man guard himself against irritability in speech; let him be controlled in speech. Abandoning verbal misconduct, let him practise good conduct in speech
Kệ tụng
Giữ lời đừng nóng giận
Chế lời khéo điều phục
Xa lìa lời thô ác
Dùng lời nói điều lành.
233. Giữ ý đừng nóng giận, điều phục ý tinh thuần, xa lìa ý hung ác, dùng ý tu hạnh lành.
Let a man guard himself against irritability in thought; let him be controlled in mind. Abandoning mental misconduct, let him practise good conduct in thought.
Kệ tụng
Giữ ý đừng nóng giận
Chế ý, khéo điều phục
Xa lìa ý độc ác
Dùng ý nghĩ hạnh lành.
234. Người trí điều phục thân, cũng điều phục ngôn ngữ, điều phục luôn tâm ý, cả ba nghiệp thảy điều phục.
The wise are controlled in bodily action, controlled in speech and controlled in thought. They are truly well-controlled.
Kệ tụng
Kẻ trí điều phục thân
Điều phục luôn lời nói
Điều phục cả tâm tư
Ba nghiệp thảy tự điều.
Lược giảng
Phật dạy những pháp cú trên tại tinh xá Trúc Lâm, có liên quan đến nhóm Lục quần Tỳ kheo.
“Ngày nọ, nhóm Lục quần Tỳ kheo mang guốc gỗ, hai tay cầm gậy khua lóc cóc, đi lên đi xuống rầm rầm trên một phiến đá. Phật nghe tiếng lốp bốp, mới hỏi Ngài A Nan:
- Nầy A Nan! Tiếng gì thế?
Tôn giả A Nan thưa:
- Bạch Thế Tôn, Lục quần Tỳ kheo mang guốc đi tới đi lui nên gây ra tiếng ấy.
Nghe thế, Phật dạy:
- Một Tỳ kheo phải kiểm soát tư tưởng, lời nói, và hành động của mình”. Do đó, nên Phật nói những pháp cú này. (Trích nguyên văn Tích Truyện Pháp Cú Tập III, Viên Chiếu, tr 43)
Qua bốn pháp cú trên, ta thấy, đức Phật đã nêu lên và nói rõ về những hành động ở nơi ba nghiệp: thân, miệng, ý. Về ba nghiệp này, trong các kinh điển, ta thấy Phật thường nhắc đi nhắc lại. Bởi vì nó rất quan trọng trong sự tu hành. Trong đời sống hằng ngày, nếu ta chịu khó, bình tâm xét kỹ, không có điều lành hay điều dữ nào, mà có thể vượt ra ngoài ba nghiệp. Khổ đau hay hạnh phúc cũng do ba nghiệp của chúng ta tạo tác mà ra.
Khi tư tưởng ta nghĩ đến điều lành, như có ý muốn giúp đỡ ai, thì bấy giờ ta cảm thấy lòng ta thật tươi mát dễ chịu. Mặc dù điều nghĩ lành đó, ta chưa thể hiện ra bằng hành động hay lời nói. Nhưng cái kết quả đem lại cho ta, là ta cảm thấy ấm áp an vui hạnh phúc rồi. Chẳng hạn, khi ta nhớ tới những người thân của ta, như cha, mẹ hay chồng, vợ, cháu, con v.v…ta thấy họ có những bức xúc, buồn giận, vướng phải một nội kết đau thương nào đó, mà tự họ chưa tháo gỡ ra được. Ta liền quán chiếu sâu vào và tìm cách giúp họ để tháo gỡ những gút mắc nội kết đó. Khi ta thật tâm quán chiếu tư duy như thế, ta thấy trong tâm ta như có một năng lượng hiểu, thương và cảm thông đang trào dâng lên trong tâm tưởng của ta đang hướng về họ. Đó là một năng lượng ấm áp trùm khắp của lòng từ bi phát khởi.
Từ đó, ta liền thực hiện bằng hành động hoặc lời nói theo dòng năng lượng hiểu thương đó. Đó là ta đang chế tác một năng lượng thiện nghiệp rất quý giá tốt đẹp ở nơi ba nghiệp của ta. Giống như một cây cam, tự nó có khả năng chế tác ra những lá cam, bông cam và trái cam. Một sự chế tác đem lại kết quả an vui hạnh phúc ngay trong hiện tại. Ngược lại, cũng ở nơi ba nghiệp mà nếu như chúng ta chế tác những điều ác, thì chúng ta sẽ gặt hái những quả báo ác. Quả báo đó không phải đợi đến về sau mới chín, mà nó có thể chín ngay trong đời sống hiện tại này. Giống như ta chế tác một cây ớt, thì nó cũng sẽ cho ta một kết quả là những trái ớt cay hiện tiền.
Một ý niệm xấu ác vừa dấy khởi, nếu chúng ta thiếu cảnh giác không nhận diện được nó, chẳng những không nhận diện rõ bộ mặt thật của nó, mà ta còn tiếp tay đồng lỏa với nó, thì trách gì ta không gặt hái quả khổ. Bởi vì ta nuôi dưỡng nó để rồi ta theo nó mà hiện tướng ở nơi thân như trộm cướp, hãm hiếp, giết người v.v… Còn ở nơi miệng, thì ta thốt ra toàn những lời dao búa ác ngữ, nói dối, lường gạt, mạ lụy, vu khống, chụp mũ, chửi mắng v.v… Thế là ta sẽ chuốc lấy sự đau khổ vào thân tâm của ta rồi. Phật cho đó là ta không khéo bảo vệ phòng thân, phòng khẩu, và phòng ý. Ta sống hoàn toàn buông lung thô tháo ở nơi ba nghiệp, không một chút cẩn trọng phòng hộ giữ gìn. Do đó, nên ta phải chịu lãnh lấy quả báo khổ đau.
Ngược lại, Phật dạy, nếu là người trí, thì ta phải chế ngự khắc phục chuyển hóa ở nơi ba nghiệp không cho gây tạo nghiệp ác. Đó là người khéo biết hoán cải và luôn ứng dụng Giới, Định, Huệ để chuyển hóa ba nghiệp ác thành ba nghiệp lành. Nếu ba nghiệp được thanh tịnh, thì chẳng những hiện đời, ta hết khổ mà đời sau, ta cũng được mãi mãi an vui hạnh phúc.
XVIII. PHẨM CẤU UẾ
(Malavaggo)
235. Ngươi đã giống như ngọn lá khô, Diêm ma sứ giả (tử thần) ở sát bên mình. Ngươi đang đứng trước ngưỡng cửa chết, bước lữ hành ngươi thiếu hẳn lương thực.
Like a withered leaf are you now; death’s messengers await you. You stand on the eve of your departure, yet you have made no provision for your journey!
Kệ tụng
Ngươi nay giống lá khô
Diêm sứ đang chờ ngươi
Ngươi đứng trước cửa chết
Đường trường thiếu tư lương.
236. Ngươi hãy tự lo tạo lấy cho mình một hòn đảo an toàn, gấp rút tinh cần làm kẻ khôn ngoan, gột sạch phiền não trần cấu, để bước lên thánh cảnh hàng chư Thiên[8].
Make an island for yourself! Strive hard and become wise! Rid of impurities and cleansed of stain, you shall enter the celestial abode of the Noble Ones.
Kệ tụng
Hãy tự tạo hòn đảo
Tinh cần và sáng suốt
Trừ cấu uế, thanh tịnh
Ngươi đạt chứng thánh địa.
237. Đời sống ngươi sắp lụn tàn, người đang dịch bước đến gần Diêm vương, giữa đường không nơi ngơi nghỉ, bước lữ hành ngươi thiếu hẳn lương thực.
Your life has come to an end now; you are setting forth into the presence of Yama, the king of death. No resting place is there for you on the way, yet you have made no provision for your journey!
Kệ tụng
Đời ngươi sắp lụn tàn
Tiến gần đến Diêm vương
Giữa đường không nơi nghỉ
Đường trường thiếu tư lương.
238. Ngươi hãy tạo lấy cho mình một hòn đảo an toàn, gấp rút tinh cần làm kẻ khôn ngoan, gột sạch phiền não trần cấu, chớ trở lui đường sanh lão nguy nan.
Make an island for yourself! Strive hard and become wise! Rid of impurities and cleansed of stain, you shall not come again to birth and decay.
Kệ tụng
Hãy tự làm hòn đảo
Tinh cần và sáng suốt
Trừ cấu uế, thanh tịnh
Chẳng trở lại sanh tử.
Lược giảng
Bốn pháp cú trên Phật dạy tại tinh xá Kỳ Viên, có liên quan đến một tên đồ tể mổ bò.
Theo truyện tích, có một anh đồ tể ở Xá Vệ chuyên sống bằng nghề mổ bò trên năm mươi lăm năm. Anh ta giết hại không biết bao nhiêu con bò. Mỗi khi xẻ thịt, anh ta lấy phần thịt ngon để ăn, còn lại phần khác thì đem bán. Tuy nhà anh ở gần tinh xá nơi Phật trú ngụ, nhưng suốt thời gian đó, anh ta chưa hề biết cúng dường cho Phật và chúng Tăng bất cứ vật gì, dù chỉ là một muỗng cháo, cũng không có.
Có lần, sau khi bán hết thịt, ông ta chỉ chừa lại một miếng và bảo vợ nấu bữa ăn tối. Ông ta đi ra ao tắm. Bất chợt, có người khách đến năn nỉ nài mua. Bà vợ bảo: thịt đã bán hết, chỉ còn duy nhứt một miếng mà ông ấy bảo tôi nấu cho ổng. Nghe xong, ông khách không cần nghĩ gì thêm, liền lén xách miếng thịt đi. Thế là, bữa cơm tối hôm đó, anh đồ tể không có thịt ăn. Ông ta nổi giận không ăn, quát la vợ một hồi, rồi bỏ đi ra ngoài. Ông ta kéo lưỡi một con bò đang đứng và cắt đứt lưỡi của nó. Xong, ông trở vào nhà rồi dùng than nướng lưỡi đó ăn với cơm.
Thật lạ thay! Ông ta vừa để miếng thịt vào miệng, thì lưỡi ông ta bị đứt làm hai và rớt xuống dĩa cơm. Máu từ trong miệng của ông vọt tuôn ra và ông bò xung quanh nhà la rống lên như bò sắp chết. Ông giãy chết và đọa vào địa ngục A tỳ. Đó là một quả báo hình phạt ghê gớm! Đứa con trai của ông thấy vậy, vì quá sợ hãi nên bỏ nhà ra đi qua làng khác sinh sống. Nó làm thuê cho ông chủ và học làm nghề thợ bạc.
Nhờ siêng năng làm giỏi, nên hắn được ông chủ gả con gái cho. Từ đó, họ sanh con đẻ cháu nối nghiệp nhà. Nhưng những đứa con trai (tức cháu của ông đồ tể) của ông, trở về Xá Vệ, bỏ nghề thợ bạc hành nghề khác và quy y theo Phật. Chúng trở thành những người Phật tử rất thuần thành. Trong khi đó, thì cha của chúng không tin kính Phật pháp. Chúng thấy thế, nghĩ cách dâng thức ăn cúng dường cho Phật và kính mong Phật cầu nguyện cho cha ông ta hồi tâm chuyển ý tu hành.
Cảm lòng hiếu thảo, đức Phật khuyên ông cha:
- “Này ông lão, ông đã già nua, thân thể ông như lá héo úa, ông không tạo việc lành để làm tư lương cho đời sau. Hãy tạo cho mình một chỗ an trụ. Hãy làm người khôn ngoan, đừng làm kẻ si mê”. Nhân đó, Phật dạy những pháp cú trên.
Sau khi nghe xong, ông cụ liền chứng Sơ quả. Tất cả hội chúng cũng đều được lợi ích rất lớn. (Hết phần lược dẫn cốt chuyện)
Phẩm này có tên là cấu uế. Cấu uế là nhơ bẩn, bởi do năm thứ triền cái (tham, sân, hôn trầm, thùy miên, trạo hối, nghi) làm cho tâm ta bị nhơ nhớp cấu uế. Chúng ta cần phải cố gắng dứt trừ chúng. Muốn dứt trừ, chúng ta cần phải thật hành thiền định. Phải dùng năm thứ thiền chi (tầm, tứ, hỷ, lạc, nhất tâm) để dứt trừ năm món triền cái. Chữ cái là che đậy. Do năm thứ này, nó che ngăn làm mờ tánh giác sáng suốt sẵn có của chúng ta.
Đời người nếu không biết tu làm tươi mát ở nơi thân tâm, thì Phật cho đó khác nào như chiếc lá héo khô. Lá từ héo rồi dần đến khô. Lá héo là vì thiếu nước từ bi trí tuệ tưới tẩm. Khô là già nua, gần với cái chết. Phật nói đó là Diêm sứ giả (tử thần) đang chờ đón. Khô ở đây, Phật muốn ám chỉ khô cả hai: “khô về thể xác lẫn tinh thần”. Về thể xác, chúng ta không biết cách làm cho thư dãn thân. Nên có những cơn đau nhức về thân. Những tế bào ngày càng teo lại, nên thân thể người già dễ khô héo sanh bệnh hoạn đau nhức. Thế nên, ta cần phải thực tập phương pháp thiền niệm thân. Niệm thân là ta khéo biết chăm sóc ở nơi thân. Chăm sóc bằng cách là đem tâm về có mặt ở nơi thân. Khi đi, đứng, ngồi, nằm, nói chung là mọi động tác thi vi, ta đều có ý thức buông thư về thân. Nhờ đó, mà những cơ bắp toàn thân ta dễ co dãn và khỏe mạnh hơn.
Về tâm, ta phải học cách thức thiền định, để làm cho tâm ta tươi mát hơn. Tất cả pháp môn Phật dạy: Thiền, Tịnh, Luật, Mật v.v…đều nhằm mục đích chính yếu là trị tâm bệnh. Nghĩa là để cho tâm ta được an định. Có Định Huệ, thì đó là giải thoát. Những khổ đau trong tâm, nếu không dùng pháp dược của Phật trị liệu, thì người Phật tử chưa biết tu. Hình ảnh lá khô héo Phật dạy pháp cú trên, Phật còn báo động cho ta phải ý thức cảnh giác cao độ về lý vô thường.
Ta nên biết rằng, cái chết gần kề, cần nên tạo cho mình có nhiều tư lương để chuẩn bị chu đáo hơn cho cuộc hành trình tiếp nối. Tùy mỗi pháp môn tu mà người tu chuẩn bị cho mình có những món tư lương khác nhau. Như người tu Tịnh độ, thì ba món tư lương hay hành trang lên đường về cõi Phật là: “Tín, Hành, Nguyện”. Tùy hành giả chọn lựa, tư lương nào cũng tốt. Điều quan trọng là phải chọn tư lương đúng theo chánh pháp Phật dạy. Miễn sao hành giả tiến thẳng trên đường giác ngộ giải thoát là được.
Pháp cú 236, Phật đặc biệt nhấn mạnh cho chúng ta thấy tầm quan trọng của một hòn đảo an toàn. Hòn đảo này phải chính do bàn tay ta tự tạo lấy. Ta không nên có tâm ỷ lại van xin cầu khẩn bên ngoài. Phật bảo mỗi người phải gấp rút tạo cho mình một hòn đảo. Đó là hòn đảo thiền định. Muốn có hòn đảo thiền định này, điều tiên quyết ắt có, là chúng ta phải gột sạch phiền não trần cấu. Gạn lọc phiền não có nhiều cách. Nhưng cách nào dù thấp hay cao, dù sâu hay cạn, mục đích chính cũng phải dứt trừ phiền não. Phiền não tuy nhiều, nhưng không ngoài hai loại: “Căn bản và chi mạt”. Căn bản là những thứ có gốc rễ sâu dầy, khó trừ, khó đoạn. Chi mạt, hay còn gọi là tùy phiền não, là những thứ cành nhánh, nên dễ trừ hơn. Nhưng thứ nào nó cũng làm cho tâm mình bất an cả. Muốn tâm an, Phật khuyên chúng ta phải làm kẻ khôn ngoan, phải từ khước mọi tham ái trong thế gian, chuyên cần tinh tấn hằng sống có chánh niệm. Từ chánh niệm dần dần hành giả mới có được chánh định. Có chánh định, bấy giờ, hành giả mới thực sự bước lên hòn đảo thánh cảnh của hàng chư Thiên. Thánh cảnh của hàng chư Thiên nói ở đây là chỉ cho năm cõi trời: Tịnh Cư (Panca Anđhvassabhumi),Vô Phiền (Aviha), Vô Nhiệt (Atappa), Thiện Hiện (Suđani), Thiện Kiến (Suddassi), Sắc Cứu Cánh (Akanittha), đó là năm chỗ ở của hàng A na hàm.
Pháp cú 237, Phật nhắc lại cho chúng ta nhớ về kiếp sống của con người thật mỏng manh vô thường tạm bợ. Cứ mỗi phút giây trôi qua là ta xê dịch gần kề với cái chết. Thấy đó rồi mất đó. Sống ở phút này, không ai dám bảo đảm tồn tại ở phút sau. Vì thế, Phật nói: “Đời sống ngươi sắp lụn tàn, ngươi đang dịch bước đến gần Diêm vương”. Lời dạy đó, cảnh tỉnh chúng ta phải ý thức rằng, mỗi người sanh ra đời ai ai cũng mang sẵn bản án tử hình. Chẳng qua tòa án Diêm vương đem ra xét xử tử hình có mau chậm khác nhau mà thôi.
Thử ngẫm lại, đời ta từ khi sanh ra cho đến khi nhắm mắt lìa đời, nhìn lại khoảng đường qua, có khác gì là giấc mộng nam kha. Tất cả chỉ là một thoáng qua. Nên Phật nói: “Giữa đường không nơi ngơi nghỉ”. Đó là nói đời sống của một đời người trong khoảng thời gian hiện tại. Nếu luận xa hơn, thì trên con đường sanh tử luân hồi, trải qua nhiều kiếp, chúng ta chưa từng có nơi ngơi nghỉ. Cứ tiếp tục hành trình đi mãi. Mất thân này, thọ thân khác. Ta đi lang thang như một lữ khách phong trần trôi nổi bồng bềnh trong sáu đường. Thật đau đớn chua xót lắm thay! một cuộc hành trình mà Phật cho đó là thiếu hẳn lương thực. Vì thế, mà chúng ta phải cam chịu đói khát khổ đau trăm bề trong đường sanh tử, và không biết đến bao giờ mới thực sự được thoát ra!
Pháp cú 238, một lần nữa, Phật nhắc lại và nhấn mạnh cho chúng ta nhớ, là mỗi người nên tạo cho mình một hòn đảo an toàn. Muốn thế, Phật khuyên chúng ta phải gia công nỗ lực tinh cần tu tập. Phải làm kẻ khôn ngoan, không nên để những thứ phiền não khuấy động làm ta đau khổ. Phải luôn trau dồi trí huệ, gạn trừ gột sạch những cáu bợn phiền não. Phật khuyên chúng ta: “nên thẳng một đường đi tới, không nên trở lui đường sanh tử nguy nan”.
Qua chuyện lược dẫn trên, ta thấy một hiện tượng nhân quả ác lai ác báo hiện tiền thật đáng ghê sợ. Tên đồ tể dùng dao cắt lưỡi một con bò còn sống rồi đem nướng trên bếp than hầm, vừa đưa miếng thịt vào liền đó lưỡi ông ta bị đứt làm hai và rớt xuống dĩa cơm. Máu tuôn vọt ra và giãy chết. Ông bị đọa vào ngục A tỳ, tức vô gián địa ngục. Vì sự sống của mình, mà hành động tàn ác, gây khổ đau lên sự sống của loài khác, thật đó là điều tàn nhẫn mà ta cần nên tránh. Chỉ vì không nhịn được miếng ăn cho ngon miệng béo bổ, mà tên đồ tể này đã hành động một cách rất dã man. Cắt đứt lưỡi của một con bò đang còn sống. Ta nên nhớ rằng:
Ngỡ rằng ngon miệng béo thân
Nào ngờ sa đọa chẳng cần lâu xa
A tỳ địa ngục hiện ra
Lưỡi kia đã đứt phải sa ngục hình
Ai ơi! Thương xót sinh linh
Có cùng mạng sống hữu tình biết đau
Chẳng qua nghiệp thức khác nhau
Tham sanh úy tử loài nào khác đâu
Từ bi hằng quán cho sâu
Lột da xẻ thịt máu đào đỏ tươi
Một lòng thương vật thương người
Nhân nào quả nấy ta thời khắc ghi.
239. Hết sát na nầy đến sát na khác, người trí lo gột trừ dần những cấu uế nơi mình, như người thợ vàng cần mẫn gột trừ cặn bã khỏi chất vàng ròng.
One by one, little by little, moment by moment, a wise man should remove his own impurities, as a smith removes the dross from silver.
Kệ tụng
Người trí theo tuần tự
Từng sát na trừ dần
Những cấu uế nơi mình
Như thợ vàng lọc quặng.
Lược giảng
Pháp cú này phật dạy tại tinh xá Kỳ Viên, có liên quan đến một người Bà la môn.
Theo truyện tích, một hôm, có một Bà la môn thấy các vị Sa môn thường đứng ở chỗ có cỏ mọc cao rậm rạp để khoác y vào. Khi đắp y, chéo y quét qua cỏ, dính sương đẫm ướt. Thấy thế, ông liền dọn sạch cỏ nơi đó.
Lần sau, ông đến chỗ đó quan sát, thấy những lá y của các thầy Tỳ kheo khoác vào, chéo y quét trên đất dính bụi. Thấy thế, ông rải cát làm sạch bằng phẳng nơi đó.
Hôm sau, trời nóng bức, ông thấy các thầy Tỳ kheo, khi khoác y vào mồ hôi đổ giọt. Thấy thế, ông liền suy nghĩ, nên cất một cái trại nơi đây.
Khi khác, trời đổ mưa, ông thấy các thầy Tỳ kheo bị tạt ướt, ông nghĩ, nên cất cái nhà mới được. Sau khi xây cất nhà hoàn tất, ông tổ chức lễ khánh thành và thỉnh Phật cùng chư Tăng đến để cúng dường. Thọ trai xong, ông trình bày mọi việc mà ông đã làm cho Phật nghe. Nghe xong, Phật nói:
- “Này Bà la môn, người trí làm việc lành cũng vậy, hết lúc này đến lúc khác, từng việc một, dứt bỏ những nghiệp xấu”. (Hết phần lược dẫn cốt chuyện). Nhân đó Phật nói pháp cú này.
Việc làm lành hay tu niệm, chúng ta cần phải biết đầu tư phước đức tùy cảnh duyên qua mọi thời gian và nơi chốn. Việc lành tuy nhỏ, nhưng đối với người khéo biết tu tích lũy nghiệp lành, thì không việc lành nhỏ nhặt nào mà họ không làm. Một giọt nước tuy ít, nhưng nếu chúng ta tiếp tục nhỏ nhiều giọt vào ly, thế nào rồi cũng sẽ đầy ly. Ông Bà la môn này, thật khéo biết đầu tư phước đức. Thấy y của các vị Tỳ kheo bị dính dơ, liền âm thầm tìm cách làm cho khỏi bị dính dơ nữa. Một việc tuy nhỏ nhặt, nhưng đó phải là người có tâm hướng thiện và bền tâm kiên nhẫn mới có thể làm được. Làm mà không cần ai biết đến. Làm mà không phô trương khoe danh, đó mới là điều rất quý giá thật đáng thán phục.
Đến khi hoàn tất công việc được yên ổn, ông mới tỏ bày cho Phật biết. Nghe qua, Phật cho đó là việc làm của người có trí. Người trí khi hành thiện, họ loại bỏ những điều xấu ác, mà không cần ai biết đến họ. Ngược lại, người thiếu trí huệ khi làm việc thiện, họ rất háo danh, phô trương, khoe khoang. Họ làm phải có tên tuổi, phải cho mọi người biết đến khen ngợi nể phục họ. Phật cho đó là hạng người hành thiện cầu danh. Dĩ nhiên, là phước đức sẽ không nhiều. Người như thế, Phật không tán dương khen ngợi lắm.
Pháp cú trên, Phật dạy khi tu hành, chúng ta cần phải vận dụng trí huệ để thanh lọc phiền não làm cho thân tâm của chúng ta được trong sạch tươi mát. Trí huệ là một năng lượng có khả năng tháo gỡ những gút mắc, khó khăn, bức xúc, nội kết trong tâm. Mỗi khi có phiền não dấy khởi như buồn, giận chẳng hạn, thì ta cần đến năng lượng của chánh niệm. Năng lượng này có khả năng chế tác ôm ấp xoa dịu những nỗi buồn giận của ta.
Giận hờn là một trong nhiều thứ phiền não dấy khởi từ tâm. Nó không phải là một đối tượng ngoài tâm ta. Mà nó là một phần nhỏ của tâm. Đó là hiện tướng phiền não, như sóng là hiện tướng của nước. Vậy thì, ta cần phải dùng năng lượng chánh niệm để soi sáng làm cho cơn giận tức của ta sẽ được lắng dịu lại. Như bà mẹ ôm vào lòng đứa con, khi đứa con đang tức giận la khóc. Hành động ôm ấp vỗ về xoa dịu của người mẹ, nó có một năng lượng truyền đạt thẳng vào thân tâm của đứa con và chính năng lượng đó làm cho đứa con cảm thấy ấm áp và cơn giận tức la lối sẽ hạ thấp dịu bớt dần. Đó là cách chuyển hóa phiền não của người tu.
Nói gột trừ, đó chỉ là một cách nói. Thật ra, thì phiền não tự nó không phải là đối tượng để chúng ta đàn áp tiêu diệt chúng. Nếu không khéo là chúng ta tạo thành bãi chiến trường ở trong tâm ta. Và như thế là chúng ta sẽ không bao giờ có an ổn.
Phật cho chúng ta một hình ảnh qua thí dụ của một người thợ bạc cần mẫn lọc trừ quặng bã khỏi chất vàng ròng. Vì có vàng ròng, nên mới có quặng bã. Vì có bản giác nên mới có ra bất giác. Bất giác là vô minh phiền não cấu uế, dụ như là quặng bã. Khi gạn lọc, đòi hỏi chúng ta cần phải có những yếu tố: “cần mẫn, dụng cụ và phương pháp”. Dụng cụ tốt, phương pháp hay, người siêng năng giỏi, đó là những yếu tố tối cần thiết cho công việc gạn lọc. Dụng cụ tốt có thể là một câu hiệu Phật, một câu thần chú, hay hơi thở v.v…. Phương pháp là tập trung tâm ý vào một đối tượng để thiền quán sâu hơn. Hành giả hãy thắp sáng ngọn đuốc trí huệ lên chiếu thẳng vào vọng tưởng phiền não. Khi chánh niệm có mặt trong giây phút hiện tại, thì lập tức tâm ta sẽ được an định ngay. Mà có an định thì sẽ không rơi vào hai đầu của ngục tù quá khứ và vị lai. Như thế, thì hành giả sẽ đạt được Niết bàn an lạc.
240. Như sét do sắt sinh ra rồi trở lại ăn sắt, ác nghiệp do ngươi gây ra rồi trở lại dắt ngươi đi vào cõi ác.
Just as rust arising from iron eats away the base from which it arises, even so, their own deeds lead transgressors to states of woe.
Kệ tụng
Như sét do sắt sinh
Trở lại ăn thân sắt
Ác nghiệp tự mình tạo
Dẫn mình đến cõi ác.
Lược giảng
Pháp cú này Phật dạy tại tinh xá Kỳ Viên, có liên quan đến câu chuyện của thầy Tissa.
Theo truyện tích, thầy Tissa là một thanh niên trẻ con nhà quyền quý đi xuất gia. Thầy được một thí chủ trong thành Xá Vệ cúng dường cho thầy một tấm vải thô dài tám thước. Sau khi mãn hạ, thầy về nhà đưa tấm vải cho người chị xem. Người chị thấy thế cho tấm vải thô xấu xí, liền dệt lại thành tấm vải mới đẹp hơn.
Vài hôm sau, thầy Tissa dẫn thêm một vài thầy Tỳ kheo về nhà để may y. Thầy bảo người chị đưa lại tấm vải hôm trước. Người chị đưa tấm vải mịn tốt dài chín mét. Thầy Tissa từ chối và đòi lại tấm vải cũ. Người chị kể lại việc dệt lại tấm vải. Nghe xong, thầy đem vải về tinh xá và tìm người may y. May xong, thầy rất thích và định ngày mai sẽ đắp vào mình. Nhưng không may, thầy bị bội thực và chết. Vì quá thích chiếc y mới đẹp, nên thầy tái sanh làm con rận ở trong chiếc y mới.
Sau khi hỏa táng, các thầy Tỳ kheo khác định chia chiếc y này cho tăng chúng. Con rận nổi giận la hoảng:
- Các thầy tước đoạt tài sản của tôi. Vừa kêu la nó vừa bò quanh chiếc y. Đức Phật biết rõ duyên cớ, liền bảo tăng chúng dời việc chia y lại bảy ngày sau. Cuối ngày thứ bảy, con rận chết và nó được tái sanh lên cõi trời Đâu Suất.
Qua ngày thứ tám, Tăng chúng bàn tán việc chia y. Họ thắc mắc tại sao Phật phải dời lại đến ngày thứ tám mới chia? Phật giải thích: vì Tissa quá thương tiếc chiếc y sanh làm con rận, nếu các ông chia, thì con rận kia nổi giận và sẽ đọa địa ngục ngay. Do đó, nên ta phải dời lại. Bây giờ con rận đã chết và Tissa đã sanh lên cõi trời Đâu Suất, nên ta cho các ông chia phần. Phật dạy thêm cho các thầy Tỳ kheo:
- “Tham ái thật là vấn đề lo lắng lớn của chúng sanh trên quả đất, rỉ sét phát sanh từ sắt, trở lại ăn mòn sắt, tham ái phát sanh từ chúng sanh và đưa chúng sanh xuống địa ngục”. (Hết phần lược dẫn cốt chuyện). Nhân đó, Phật nói pháp cú này.
Sự khổ đau của con người phát sanh từ nghiệp. Nghiệp có ra từ tâm thức. Nếu tâm tưởng điều lành, thì thúc đẩy thân và miệng làm và nói điều lành. Ngược lại, thì tạo điều ác. Khi tạo ác, bởi do nghiêp bất thiện, rồi chính nghiệp bất thiện đó lôi kéo con người vào cảnh khổ đau. Thế nên, Phật nói: “như sét do sắt sinh ra, rồi chính chất sét rỉ trở lại ăn sắt”. Như vậy, sắt bị tiêu hoại, không phải do cái gì khác, mà chính do từ nó sinh ra rồi trở lại hại nó. Vì sắt không khéo tự bảo vệ, nên sinh ra sét. Rồi chính sét gây tác hại lại cho sắt. Phật nêu một thí dụ thật hết sức cụ thể.
Chúng sanh bị trôi lăn trong Tam đồ: địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh, đâu có do ai tạo ra cho mình phải chiêu cảm vào quả báo khổ đau đó, mà chính do mình gây tạo ác nghiệp, nên chiêu cảm thọ báo. Như một người bị giam vào lao tù, thử hỏi ai là người gây ra cho họ? Chính họ gây ra tội phạm, như cướp của, giết người, buôn bán nha phiến v.v…nên họ bị thọ khổ trong cảnh nhà lao. Đó là do lòng si mê tham dục của họ sai sử, mà gây ra cảnh đau khổ như thế. Khác nào như sắt sanh ra sét, rồi chính sét trở lại làm tiêu hoại sắt.
Chuyện lược dẫn trên, cho ta thấy, thầy Tissa chỉ vì khởi lòng tham luyến một chiếc y mới đẹp, mà khi chết phải tái sanh làm con rận nằm trong chiếc y. Mới chỉ có một chiếc y mới đẹp thôi, hơn nữa, lại là người xuất gia sống gần Phật, còn luyến ái như thế, thử hỏi đối với những vật quý giá thời nay lại cách xa Phật thì sao? Tuy thầy Tissa bị đọa lạc như thế, nhưng thầy cũng còn phước duyên là được Phật cứu thoát. Nếu không nhờ Phật kịp thời ngăn cản việc các thầy Tỳ kheo định chia y cho chúng Tăng, thì không biết thầy Tissa sẽ sa đọa đến như thế nào?! Dù đã tái sanh làm con rận, nhưng khi biết được các thầy Tỳ kheo định chia y, thì con rận liền nổi giận. Phật biết được liền ngăn lại và đợi sau bảy ngày, con rận chết sanh lên cõi trời Đâu Suất, thì Phật mới cho chia.
Phật có tuệ nhãn nên biết rõ sự việc, cứu thoát được thầy Tissa, còn đối với chúng ta ngày nay thì sao? Nếu như lúc nhắm mắt khởi tâm tham luyến hay sân hận một sự vật nào đó, thì thử hỏi ai là người biết được để cứu thoát ta đây? Nghĩ thế, thật đáng lo sợ cho cận tử nghiệp của ta quá! Nếu người tu không khéo thiền quán buông xả mọi duyên trần, đến khi sắp chết còn tham ái bất cứ vật gì cũng đều là tai hại cả. Và chính cận tử nghiệp này nó sẽ dắt dẫn chúng ta đi thọ sanh tùy theo cái ác nhân mà nó sanh khởi. Do đó, nên pháp cú trên Phật dạy: “Ác nghiệp do người ta gây ra rồi trở lại dắt người ta đi vào cõi ác”.
241. Không tụng tập là vết nhơ của sự học kinh điển, không siêng năng là vết nhơ của nghiệp nhà, biếng nhác là vết nhơ của thân thể và nơi ăn chốn ở, phóng túng là vết nhơ của phép tự vệ.
Non-repetition is the bane of scriptures; neglect is the bane of a home; slovenliness is the bane of personal appearance, and heedlessness is the bane of a guard.
Kệ tụng
Không tụng, làm nhớp kinh
Không siêng, làm bẩn nhà
Biếng nhác làm nhơ thân
Phóng dật làm tâm uế.
Lược giảng
Pháp cú này Phật dạy tại tinh xá Kỳ Viên, có liên hệ đến câu chuyện của thầy Udàyi.
Theo truyện tích, tại Xá Vệ có khoảng năm mươi triệu Phật tử thường đến tinh xá cúng dường thức ăn và rồi nghe pháp. Họ thường ca tụng hai Tôn giả Xá lợi phất và Mục kiền liên thuyết pháp rất hay. Nghe thế, thầy Ưu đà di ganh tỵ liền nói với họ: hai vị đó nói pháp làm sao hay hơn tôi.
Thế là hôm sau, họ liền thỉnh Ưu đà di thuyết giảng. Thầy nhận lời. Sau khi thăng tòa, thầy chỉ phe phẩy quạt mà không nói được lời nào. Thầy bảo với họ là thầy sẽ đọc bài chú, còn việc thuyết pháp sẽ thỉnh thầy khác. Cứ thế, trải qua bốn lần, thầy Ưu đà di chỉ hẹn với họ như vậy mà không đọc được bài chú nào.
Thính chúng quá tức giận, họ ném đất, đá, gậy gộc vào thầy và nhiếc rằng: thầy chỉ làm thinh không nói được gì, mà lại ganh tỵ với hai Tôn giả Xá lợi phất và Mục kiền liên. Thầy không phải là người tốt. Họ vừa mắng nhiếc vừa ném đất đá, thầy Ưu đà di bỏ chạy. Họ rượt theo và thầy té xuống một hầm phân. Nhân đó, các thiện tín bàn tán nhỏ to với nhau về việc thầy Ưu đà di. Phật biết được sự thể xảy ra, liền bảo với các thầy Tỳ kheo: đây không phải là lần đầu tiên, Ưu đà di té xuống hầm phân mà trong quá khứ thầy ta cũng đã như thế.
Có lần, giữa con heo và con sư tử thách đấu nhau. Trước ngày đấu, heo nằm lăn trong đống phân khiến cả mình mẩy đều hôi hám. Nhờ đó mà heo thắng được sư tử, vì sư tử không dám đến gần. Phật nói: heo chính là thân đời quá khứ của Ưu đà di và sư tử là thân đời quá khứ của Xá lợi phất.
Kể chuyện quá khứ xong, Phật liền bảo các thầy Tỳ kheo:
- “Này các Tỳ kheo, Ưu đà di chỉ học được một câu kinh, nhưng không bao giờ đọc tụng là một lỗi lớn”. (Hết phần lược dẫn cốt chuyện). Nhân đó Phật nói pháp cú này.
Tại sao Phật dạy: “không tụng tập là vết nhơ của kinh điển”? Đọc tụng kinh điển có lỗi gì? Câu này, nếu không khéo chúng ta dễ hiểu lầm. Kinh điển thì không có vết nhơ. Vì kinh là lời Phật nói. Phật nói để cho chúng ta y cứ vào đó mà học hỏi ứng dụng tu hành. Có tu hành thì chúng ta mới được lợi ích thoát khổ. Cái lỗi mà Phật muốn nói ở đây là, chúng ta không tụng tập. Nghĩa là kinh điển thì có đó, nhưng vì chúng ta để tâm mãi say mê chạy theo các thứ dục lạc thế gian, mà không chịu khó đọc tụng lời Phật dạy. Nói rộng ra là chúng ta không chịu học hỏi tu tập.
Do không chịu đọc tụng tu tập, nên chúng ta không thông suốt được đường lối tu hành. Khi thật hành, thì chúng ta sẽ không thật hành đúng theo chánh pháp Phật dạy. Do đó, nên chúng ta dễ bị rơi vào con đường tà ngoại. Khi đã rơi vào con đường tà kiến, thì đó là vết nhơ, là tai hại. Vết nhơ Phật nói ở đây là do chúng ta không để tâm chịu khó học tập kinh điển cho thông suốt. Như trường hợp Ưu đà di, dù đã xuất gia, mà không chịu nghe pháp học hỏi, lại có tật tánh xấu là hay ganh tỵ đố kỵ đối với người giỏi hơn mình. Do đó, nên ông không nói được lời gì.
Kế tiếp Phật nói: “không siêng năng là vết nhơ của nghiệp nhà”. Tại sao thế? Hai chữ “nghiệp nhà” ở đây, chúng ta có thể hiểu qua hai phương diện: đời và đạo. Về đời, nếu người Phật tử không siêng năng học hỏi, tu tập, sống theo chánh pháp, xây dựng phát triển kinh tế gia đình, thì thử hỏi nghiệp nhà làm sao đứng vững cho được? Muốn nghiệp nhà được phát triển thịnh vượng, có nền tảng hướng tiến vững chắc, thì mỗi thành viên trong gia đình phải cố gắng siêng năng trau dồi học hỏi phát triển vươn lên không ngừng về mọi mặt. Nhưng theo đạo Phật, thì hướng tiến phát triển đó, người Phật tử phải đặt định trên cơ sở đạo đức trí tuệ và từ bi. Có thế, thì mới đem lại lợi ích thiết thực cho gia đình trong chiều hướng tốt đẹp. Và như thế, thì mỗi cá nhân và gia đình mới thực sự có hiểu, thương và hạnh phúc an lạc. Bằng ngược lại, thì chỉ làm thiệt hại cho mình và gia đình mà thôi. Đó là vết nhơ mà Phật dạy người Phật tử cần phải tránh.
Về đạo, Phật muốn chỉ cho việc hoằng pháp lợi sanh của người xuất gia. Nên mới có câu nói: “hoằng pháp thị gia vụ”. Muốn nghiệp nhà Phật pháp được hưng thạnh, không có vết nhơ, thì Phật dạy người xuất gia phải để tâm siêng năng cầu tiến tu học. Nếu không siêng năng tu học, hành trì, thì việc lợi mình còn không có nói chi đến việc lợi người. Đó là nói nghiệp nhà mang tính lợi tha rộng lớn. Còn nếu nói nghiệp nhà ở nơi tâm, tức tự lợi, thì người xuất gia phải lấy trí huệ làm sự nghiệp. Mà muốn có trí huệ, tất nhiên, là phải tinh cần tu học theo con đường: “Giới, Định, Huệ”. Đó là con đường rộng lớn mà chúng ta cần phải để tâm nghiên cứu học hỏi tu tập.
Đối với thân thể cũng như nơi ăn chốn ở, Phật dạy chúng ta cần phải siêng năng chăm sóc sức khỏe và ăn ở hợp vệ sinh. Nếu chúng ta sống buông thả không có giới luật kềm thúc ở nơi thân tâm, cũng như làm sạch và xanh ở môi trường sống chung quanh, thì Phật cho đó là vết nhơ của con người sống phóng dật. Thế nên, chúng ta cần phải cẩn trọng bảo hộ giữ gìn thân, tâm, ăn ở đúng phép vệ sinh và phải ý thức bảo vệ môi trường cho sạch sẻ. Có thế, thì bản thân ta cũng như người và cảnh vật chung quanh, tất cả đều được lợi ích vậy.
242. Tà hạnh là vết nhơ của người đàn bà, xan lẫn là vết nhơ của sự cúng dường. Đối với cõi nầy hay cõi khác, thì tội ác lại chính là vết nhơ.
Unchastity is the taint in a woman; niggardliness is the taint in a giver. Taints, indeed, are all evil things, both in this world and the next.
Kệ tụng
Tà hạnh nhơ đàn bà
Xan tham nhớp kẻ thí
Tội ác là vết nhơ
Đời nầy và đời sau.
Lược giảng
Pháp cú này Phật dạy tại tinh xá Trúc Lâm, có liên quan đến câu chuyện một thanh niên quý tộc.
“Khi đức Thế Tôn ở tại Trúc Lâm, có một thanh niên dòng quý tộc kết hôn với một thiếu nữ đồng giai cấp. Sau đó không lâu, người vợ ngoại tình. Xấu hổ vì chuyện này, người thanh niên không dám gặp ai. Đến phiên chàng vào hầu Phật, chàng đến đảnh lễ Thế Tôn, lui ngồi một bên, Phật hỏi:
- Này con, sao lâu nay con vắng mặt?
Chàng kể lại chuyện cho đức Phật nghe. Ngài bảo:
-“ Ngay trong thời quá khứ, Ta đã bảo con rằng: “Đàn bà thay đổi như dòng sông, và người trí chớ có hơi đâu mà giận họ”. Nhưng vì luân hồi tái sanh che mờ tâm trí con, con đã quên điều này”.
Chàng thanh niên yêu cầu Phật kể lại chuyện trước (Jàtaka 65 ), Ngài nói kệ:
Như dòng sông, con đường, quán rượu, phòng hội, nhà kho.
Đàn bà trên thế gian đều như thế, không bao giờ biết được thời tiết của chúng.
Ngài dạy tiếp:
- “Như thế, dâm ô là uế trược của đàn bà, bỏn sẻn là uế trược của người bố thí, ác nghiệp là uế trược của chúng sanh ở đời này và đời sau, nhưng trong tất cả uế trược, vô minh là uế trược nhất”. (Trích nguyên văn Tích Truyện Pháp Cú tập III, Viên Chiếu, tr 59)
Hạnh phúc là ước muốn duy nhất của con người. Không ai lại không muốn gia đình mình được êm ấm hạnh phúc. Muốn gia đình được êm ấm hạnh phúc, thì mỗi cá nhân trong gia đình phải khéo biết bảo vệ hạnh phúc. Sống trong gia đình, không sao tránh khỏi sự va chạm bất hòa. Người xưa nói: “chén úp trong sống thì làm sao tránh khỏi tiếng khua”. Khua ít hay nhiều là tùy ở nơi người khéo biết úp hay vụng về. Nếu khéo biết úp cẩn thận nhẹ tay, thì ít bị khua, hoặc có khua, thì cũng nhẹ thôi. Ngược lại, nếu ta vụng về, vụt chạt thô tháo úp mạnh tay, thì sẽ khua lớn tiếng và dễ bị bể.
Cái sống chén là dụ cho gia đình, mỗi cái chén ở trong sống chén là dụ cho mỗi thành viên trong gia đình. Mái ấm hạnh phúc gia đình chỉ có, là khi nào vợ chồng, con cái, phải hiểu và thật tâm thương yêu nhau. Mỗi người phải có ý thức bảo vệ cái sống chén. Vì cái sống chén nó có cái công năng là để bảo vệ những cái chén. Cũng thế, mỗi người cần phải ý thức bảo vệ mái ấm gia đình. Vì gia đình là mái ấm che chở bảo bọc mọi người. Thế nên, mỗi người phải khéo biết cư xử nhường nhịn nhau. Không nên dùng uy quyền hiếp đáp với nhau. Phải khéo biết tôn trọng ý kiến trao đổi trong mối quan hệ gia đình.
Nhứt là đối với chồng hoặc vợ không được có tư ý ngoại tình. Nếu một người ngoại tình, thì điều đó chứng tỏ là tình yêu thương đã bị rạn nứt sứt mẻ. Và chắc chắn mái ấm hạnh phúc gia đình sẽ không còn. Muốn bảo vệ hạnh phúc gia đình êm ấm, thiết nghĩ, ta nên noi theo tấm gương thủy chung một lòng với vợ của Án Tử. Án Tử (Án Anh) là một tướng lãnh tài ba của vua Cảnh Công. “Vua Cảnh Công có cô con gái yêu, muốn gả cho Án Tử, thấy vợ Án Tử, nhà vua liền hỏi:
- Phu nhân đấy phải không?
- Án Tử thưa : Vâng, phải đấy.
- Vua nói: ôi! người trông sao vừa già, vừa xấu! Quả nhân có đứa con gái trẻ và đẹp, muốn cho về hầu khanh nghĩ sao?
- Án Tử đứng dậy thưa rằng: “nội tử tôi nay thật già và xấu; nhưng lấy tôi và cùng tôi ăn ở đã lâu, kể từ lúc còn trẻ và đẹp. Xưa nay đàn bà lấy chồng lúc trẻ cốt để nhờ cậy lúc già, lúc đẹp lấy, cốt để nhờ cậy lúc xấu. Nội tử tôi thường nhờ cậy tôi mà tôi cũng đã nhận sự nhờ cậy ấy. Nay nhà vua tuy muốn ban ơn, chắc cũng không nỡ để cho tôi ăn ở bội bạc với những điều nội tử tôi đã nhờ cậy tôi bấy lâu nay. Nói đoạn Án Tử lạy hai lạy, xin từ không lấy”. (Cổ Học Tinh Hoa, quyển nhì, tr 87)
Đó là mối tình thủy chung rất cao đẹp. Tuy là một bậc anh tài được vua yêu chuộng, muốn gả con gái cho, đây là cơ hội ngàn vàng để Án Tử leo lên nấc thang danh vọng quyền uy tột bực, thế mà ông ta lại khiêm hạ lựa lời khéo léo từ chối. Dù biết rằng, sự từ chối đó có thể có ảnh hưởng đến tánh mạng và địa vị của mình, nhưng ông ta cương quyết không phụ bạc người mình yêu. Thế mới biết, Án Tử là người vượt hơn thói đời thường tình: “giàu đổi bạn, sang đổi vợ”.
Pháp cú trên, Phật nói rõ về việc không khéo bảo vệ hạnh phúc của người đàn bà. Phật cho việc tà hạnh, đó là một vết nhơ xấu mà chúng ta cần phải tránh. Mỗi người sanh ra đời có mỗi biệt nghiệp khác nhau. Biệt nghiệp của mỗi người có nặng nhẹ khác nhau. Đó là do sự huân tập của nhiều đời hoặc hiện đời. Đối với phái nữ, biệt nghiệp của họ là tình cảm sâu nặng. Nếu khéo biết sử dụng tình cảm trong lãnh vực yêu thương chánh đáng, làm tròn bổn phận của một người mẹ, người vợ đối với chồng con, thì quả thật đó là điều đáng quý kính thán phục. Vì đó là chất keo gắn bó để bảo vệ hạnh phúc gia đình. Bằng trái lại, thì hạnh phúc gia đình sẽ dễ bị tan vỡ.
Giới không tà dâm là giới thứ ba trong năm giới cấm mà đức Phật đã chế ra ngăn cấm người Phật tử tại gia. Nếu cả hai người vợ và chồng đều gìn giữ giới này, thì bảo đảm gia đình sẽ không đổ vỡ vì chuyện lang chạ ngoại tình. Bởi tình yêu, không ai muốn san sẻ chia bớt cho ai. Nhứt là phái nữ, rất ích kỷ và luôn muốn bảo vệ tình yêu. Thế nên, mình biết tôn trọng bảo vệ hạnh phúc tình yêu của mình, thì tại sao mình lại nhẫn tâm phá hại gia cang người khác? Do đó, nên Phật ngăn cấm cả hai phái, khi đã lập gia đình, thì không được tư tình lang chạ làm việc tà hạnh với người khác phái.
Kế tiếp, Phật nói xan tham là vết nhơ của sự bố thí. Bố thí là biểu hiện tấm lòng rộng rãi, bao dung thương người và vật. Bố thí là chất liệu san sẻ tình thương, đem đến sự an vui cho con người. Thương và cứu giúp người, đó là hành động phát xuất từ tấm lòng cao quý từ bi. Đó là một nghĩa cử cao quý của việc thể hiện tình người. Nguyên lý đạo đức của con người là ở chỗ đó. Có bố thí là không có xan tham. Đó là hai phạm trù đối nghịch nhau. Xan tham là ích kỷ, là hèn hạ chỉ biết lợi mình, ai chết mặc ai. Phật nói đó là vết nhơ, người biết tu cần phải tẩy trừ. Tội ác là một vết nhơ rất xấu. Vết nhơ này, gây ra xáo trộn bất an cho bản thân, gia đình và xã hội.
Qua câu chuyện dẫn chứng trên, ta thấy tình yêu của cặp vợ chồng đồng quý tộc, bị tan vỡ vì người vợ ngoại tình. Giàu sang nhiều tiền của, chưa hẳn đủ sức để bảo vệ hạnh phúc. Khi biết được người vợ ngoại tình, chàng ta rất xấu hổ, chớ không phải theo kiểu “ông ăn chả bà ăn nem”. Ở vào địa vị của người sang trọng giàu có, nên chàng ta rất xấu hổ mặc cảm không dám gặp mặt ai. Chàng đem chuyện này trình bày với đức Phật. Đức Phật bảo: “Đàn bà thay đổi như dòng sông, và người trí chớ hơi đâu mà giận họ”. Sự thay đổi tánh tình hay giận dỗi hờn mát của phái nữ, Phật nói giống như thời tiết mưa nắng bất thường. Chính vì thế, mà đôi khi làm cho các đấng mày râu phải nhức đầu bể óc, vì sự thay đổi đột ngột như thời tiết này. Biết thế, thì chỉ còn có cách là Phật khuyên các ông “hơi đâu mà giận họ”. Người trí không ai lại tức giận thời tiết bao giờ! Biết đâu, đó là quý bà rèn luyện cho quý ông có thêm đức tánh kiên nhẫn chịu đựng.
Xưa kia, nhà hiền triết Aristote, đã bao phen bị bà vợ đối xử tệ bạc, nhưng ông vẫn vui cười. Có lần, ông vừa từ trong nhà đi ra với một người bạn, ông bị bà vợ đứng trên lầu cao tạt nước ướt ông hết. Người bạn bực tức tỏ ra khó chịu. Ông tươi cười bảo: “có gì đâu mà ông bạn phải buồn giận! Bà ta thương tôi nên mới tắm cho tôi đó thôi! Trời hết cơn gầm sét thì lại mưa. Đó là chuyện bình thường ở đời, không có gì mình phải quan tâm bực tức”.
Thật là một đức nhẫn khó nhẫn. Nhờ đó, nên ông mới trở thành một nhà hiền triết Hy Lạp lưu danh hậu thế. Thế thì, quý ông muốn làm người trí như Phật nói, thì thiết nghĩ, quý ông nên cám ơn quý bà. Ngược lại, quý bà cũng không nên thay đổi tánh tình như “dòng sông” hay như “thời tiết mưa nắng bất thường” để làm khổ cho quý ông.
Nói tóm lại, qua hai pháp cú trên, đức Phật nêu ra tám pháp cấu uế của tâm.
Không đọc tụng kinh sách là cấu uế của kinh điển.
Không thức dậy là cấu uế của nhà cửa.
Biếng nhác là cấu uế của dung sắc.
Phóng dật là cấu uế của phòng hộ.
Tà hạnh là cấu uế của đàn bà.
Xan tham là cấu uế của bố thí.
Pháp ác là cấu uế của đời này và đời sau.
Vô minh là cấu uế trọng đại nhất.
Về Đầu Trang Go down
https://triamquan.forumvi.com/
Tri Âm Quán
Thành Viên Tích Cực
Thành Viên Tích Cực
Tri Âm Quán


Tổng số bài gửi : 6340
Reputation : 2
Join date : 31/07/2013
Đến từ : Thị Trấn Chũ

Kinh Pháp Cú chú giải (tập 1) - Page 2 Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Kinh Pháp Cú chú giải (tập 1)   Kinh Pháp Cú chú giải (tập 1) - Page 2 EmptySun Nov 16, 2014 11:58 am

243. Trong các nhơ cấu đó, vô minh cấu là hơn cả. Các ngươi hãy trừ hết vô minh mới trở thành Tỳ kheo thanh tịnh.
A worse taint than these is ignorance, the worst of all taints. Destroy this one taint and become taintless, O monks!
Kệ tụng
Trong hàng cấu uế ấy
Vô minh, nhơ tối thượng
Hãy trừ bỏ nhơ ấy
Thành Tỳ kheo, vô cấu.
Lược giảng
Vô minh là cội gốc của sanh tử luân hồi khổ đau. Nó là mắc xích đầu của 12 nhân duyên. Vì si mê nên con người có những nhận định tri giác sai lầm. Mọi khổ đau hệ lụy ràng buộc trong cuộc đời, tất cả đều từ si mê mà ra. Vô minh không còn, thì hành giả sẽ chấm dứt con đường sanh tử khổ đau. Do đó, nên Phật nói: “trừ hết vô minh mới trở thành hàng Tỳ kheo thanh tịnh”
Vô minh tuy là động cơ chính tạo thành ác nghiệp. Nhưng thực thể của nó vốn là không. Vì bản chất của nó là không, nên hành giả mới có thể chuyển hóa nó được. Trong Chứng Đạo Ca Ngài Vĩnh Gia Huyền Giác nói: “Vô minh thật tánh tức Phật tánh”. Nghĩa là thật tánh của vô minh là Phật tánh. Như chúng ta nói, thật tánh của nước đục chính là nước trong. Nếu nước không có sẵn tánh chất nước trong, thì làm sao chúng ta có thể lóng hết cặn cáu, để nó trở thành nước trong cho được. Dù bản chất của nước là trong, nhưng vì bị cặn cáu làm đục, nên cần phải lóng.
Lóng là tu, là công phu thiền định. Nhờ công phu thiền định mà vô minh sẽ lần lần diệt hết. Cặn cáu nước đục là dụ cho vô minh. Bản chất nước trong là dụ cho tánh giác sáng suốt sẵn có. Thế thì, vô minh và tánh giác đồng thời có từ vô thủy. Nhưng vô minh thì vô thủy mà hữu chung. Còn tánh giác, thì vô thủy mà vô chung. Một cái thì có hết, còn một cái thì hằng hữu miên viễn bất sanh bất diệt. Chính vì thế, nên Phật nói hết vô minh là tánh giác sáng suốt thanh tịnh hiện bày.
244. Sống không biết xấu hổ, lỗ mãng như quạ diều, sống chê bai kẻ khác, sống đại đởm khoa trương, sống ngạo mạn tà ác, sống như thế chẳng khó khăn gì.
Easy is life for the shameless one who is as impudent as a crow, is backbiting and forward, arrogant and corrupt.
Kệ tụng
Sống không biết tàm quý
Sống lỗ mãng như quạ
Sống chê bai khoác lác
Sống ngạo mạn nhiễm ô
Dễ thay, đời sống ấy.
245. Sống biết hổ thẹn, sống thường cầu thanh tịnh, sống không đam mê dục lạc, sống khiêm tốn, trong sạch và dồi dào kiến thức ; sống như thế mới thực khó làm.
Difficult is life for the modest one who always seeks purity, is detached and unassuming, clean in life, and discerning.
Kệ tụng
Sống biết lẽ tàm quý
Sống thường cầu thanh tịnh
Sống vô cấu, khiêm tốn
Sống trong sạch, sáng suốt
Khó thay, đời sống ấy.
Lược giảng
Hai pháp cú này Phật dạy tại tinh xá Kỳ Viên, có liên quan đến Culla Sàri ở chung với Tôn giả Xá lợi phất.
“Một ngày nọ, thầy Tỳ kheo đó làm khán bệnh, thầy nhận được thức ăn bổ dưỡng. Trên đường đi thầy gặp một Tôn giả đang khất thực, bèn mời:
- Tôn giả, tôi có ít thức ăn thượng vị được bệnh nhân cúng dường, không dễ gì có, xin mời Tôn giả ăn. Lần khác nếu tôi nhận được, tôi sẽ mang cho Tôn giả.
Tôn giả kia nghe nói, nhưng cứ đi không trả lời. Các Tỳ kheo đem câu chuyện đó bạch Phật. Phật dạy:
- “Này các Tỳ kheo, người nào không biết xấu hổ, trơ trẻn, bất lịch sự thì sống thoải mái. Người nào thành thật và sợ từng lỗi nhỏ, thì sống dè dặt”. Nhân đó, Phật nói pháp cú này. (Trích nguyên văn Tích Truyện Pháp Cú tập III, Viên Chiếu, tr 61)
Sống phóng túng hành động cẩu thả theo ý muốn, không chút hổ thẹn, không biết tự trọng, lịch sự hay tự phụ, kiêu căng, khinh người, sống theo ác pháp như thế, thì Phật cho đó là sống rất dễ. Đó là nếp sống lỗ mãng như quạ diều.Vì nếp sống đó, không có gì kềm thúc ở nơi thân tâm. Muốn lộng hành tác oai tác quái như thế nào cũng được. Đó là nếp sống sa đọa trụy lạc đi vào con đường của hố sâu tội lỗi.
Ngược lại, người nào sống đời sống khiêm tốn, nhúng nhường hạ mình, sống trong sạch, xa rời các thứ dục nhiễm, thực hành các thiện pháp, thường hay lấy giới luật câu thúc, không buông lung, sống có trí huệ chỉ đạo, người sống như thế mới thật là khó. Như vậy, khó hay dễ rốt lại ở nơi tâm ta. Nếu chúng ta sống có ý thức qua từng ý nghĩ, lời nói, hành động, cẩn thận từng lỗi nhỏ, thì chắc chắn chúng ta sẽ có một đời sống đảm bảo an vui hạnh phúc.
Nhận được thức ăn bổ dưỡng, thay vì mình tận hưởng cho khoái khẩu, nhưng thầy Tỳ kheo lại không ăn. Thầy đem thức ăn thượng vị đó cúng dường cho một thầy Tỳ kheo khác. Nhưng vị này làm thinh mà đi không trả lời trả vốn chi cả. Phật cho hành động đó là mất lịch sự, là không biết hổ thẹn. Nhận hay không nhận, ít ra mình cũng phải tỏ thái độ bằng cử chỉ hay lời nói nhã nhặn lịch sự cho người ta biết. Đó là người có chút tự trọng và lịch sự. Đằng này, chỉ lặng lẽ làm thinh đi, như thế, đó là thái độ bất kính thiếu lễ độ và khinh thường người có lòng tốt với mình. Đứng về phương diện xử thế, thì hành động này không ai có thể chấp nhận được. Đối với trong đạo, thì đây là hạng người thiếu lễ độ khiêm cung, chứng tỏ người đó không có chút oai nghi đạo đức.
246 – 247. Trong thế gian nầy, ai hay sát sinh hay nói dối, hay lấy cấp, hay phạm dâm, hay say đắm rượu chè ; ai có các hành vi đó, tức là đã tự đào bỏ thiện căn của mình ngay ở cõi đời nầy.
One who destroys life, utters lies, takes what is not given, goes to another man’s wife, and is addicted to intoxicating drinks – such a man digs up his own root even in this very world.
Kệ tụng
Ai sống hại sinh linh
Nói láo trong đời này
Lấy của người không cho
Qua lại với vợ người
Lại rượu chè say sưa
Người sống đời sống ấy
Tất chính ngay đời này
Tự đào bỏ thiện căn.
248. Các ngươi nên biết: “Hễ không lo chế ngự tức là ác”. Vậy chớ tham, chớ làm điều phi pháp, để khỏi sa vào thống khổ đời đời.
Know this, O good man: evil things are difficult to control. Let not greed and wickedness drag you to protracted misery.
Kệ tụng
Vậy người hãy nên biết
Chế ác chẳng dễ gì
Chớ tham làm phi pháp
Ma chướng khổ lụy thân.
Lược giảng
Ba pháp cú này Phật dạy tại tinh xá Kỳ Viên, có liên quan đến năm trăm tín đồ.
“Có năm trăm tín đồ, người này chỉ giữ giới bất sát, người khác chỉ giữ một giới khác… Ngày kia họ bàn tán, người nào cũng cho rằng giới của mình khó giữ, việc của mình khó nhất…và họ đến chỗ Phật kể lại câu chuyện. Phật dạy:
- “Không có giới nào là quan trọng ít, giới nào là quan trọng nhiều, tất cả các giới đều khó giữ. Nhân đây, Phật nói ba pháp cú này”. (Trích nguyên văn Tích Truyện Pháp Cú Tập III, Viên Chiếu, tr 61)
Giới luật là nền tảng căn bản để xây dựng đạo đức con người. Giới luật Phật chế nhằm đưa con người đến chỗ tự do giải thoát. Giới luật không mang tính ràng buộc, mà trái lại, người giữ giới rất được tự do. Như người Phật tử giữ giới không sát sanh, nói rõ hơn là không giết người, thì chắc chắn người Phật tử đi đứng rất tự do thoải mái, không sợ ai báo thù hay lo sợ bị pháp luật bắt bớ giam cầm. Từ đó suy ra, gìn giữ bốn giới kia cũng đều như thế cả.
Theo Edmond Holmes cho rằng, “năm giới cấm Phật chế cho thấy năm hướng chính người Phật tử tự mình kiểm soát để tri hành. Đó là: giới thứ nhất răn người Phật tử kềm chế nóng giận; giới thứ hai kềm chế tham đắm vật chất; giới thứ ba, kềm chế nhục dục; giới thứ tư, kềm chế sự khiếp nhược và ác ý (nguyên nhân không chân thật) và giới thứ năm, kềm chế lòng ham muốn các sự kích thích nhơ bẩn”. (There five precepts indicate five arterial directions in which the Buddhist self control is to be exercised. Thus, the first rule calls upon him to control the passion of anger, the second, the desire for material possessions, the third, the lust of the flesh, the fourth, cowardice and male violence (the causes of untruthfulness), the fifth, the craving for unwholesome excitement).
Người Phật tử không giữ giới, khác nào như ngựa không giây cương, mặc tình buông lung phóng túng, không có gì câu thúc. Nếu thế, thì quả đó là một tai hại vô cùng. Tai hại chẳng những cho bản thân, mà còn tác hại cho gia đình và xã hội nữa. Năm giới cấm Phật chế cho người phật tử tại gia gìn giữ, nó có công năng ngăn ngừa những điều xấu ác, sái quấy. Cho nên giới luật gọi là: “phòng phi chỉ ác”. Nghĩa là ngăn ngừa những điều phi pháp, bất thiện. Muốn cho bản thân, gia đình mình được an vui hạnh phúc, Phật dạy, người Phật tử tại gia cần phải nghiêm trì những giới luật đã thọ. Nếu không, thì đừng mong có sự an vui hạnh phúc.
Hiện nhơn loại đang sống trong một thời đại văn minh tân tiến, toàn cầu hóa, kỹ nghệ hóa, có biết bao nhiêu thứ tiện nghi vật chất máy móc rất tinh vi làm cho con người chóa mắt. Những thứ này có tác dụng lớn là luôn kích động làm gợi lòng tham muốn đam mê của con người. Và từ đó, làm cho con người, nhứt là giới trẻ thanh thiếu niên nam nữ dễ sanh ra nhiều tệ nạn hư hỏng, mất gốc đạo đức. Phải công nhận đại đa số giới trẻ hiện nay đang trên đà tuột dốc rơi vào những hố sâu tội lỗi, hết phương chạy chữa. Đó là những vấn nạn: hút xách xì ke ma túy, rượu chè bài bạc, buôn bán nha phiến, băng đảng, dâm ô, cướp giựt, giết người, tự tử v.v… Những thảm trạng này đã và đang xảy ra hằng ngày trên thế giới.
Nhìn vào con số thống kê của nhiều quốc gia hiện nay, mà chúng ta thấy khiếp đảm kinh hồn chóng mặt. Các nhà lãnh đạo, các nhà tôn giáo, các nhà văn hóa, các nhà giáo dục đạo đức, các nhà xã hội, các nhà tâm lý trị liệu v.v… nếu không có những biện pháp chế tác chữa trị hữu hiệu thích đáng, thì tình trạng suy thoái đạo đức và những tệ nạn này càng ngày sẽ càng tồi tệ hơn và rồi không biết tương lai giới trẻ sẽ đi về đâu?!!!
Theo thiển nghĩ của chúng tôi, thì ngoài năm giới cấm của Phật chế ra, không còn biện pháp nào chế tác hay hơn nữa để chữa trị tình trạng suy đồi đạo đức của xã hội hiện nay. Cứ thử kiểm nghiệm lại bản thân và gia đình thì chúng ta sẽ thấy rõ. Nếu một người cứ mãi say mê nghiện ngập hút chích xì ke ma túy, rượu chè, bài bạc, thử hỏi bản thân và gia đình của người đó sẽ ra sao? Có được an vui hạnh phúc không? Hoặc người vợ hay chồng có ý ngoại tình, thương yêu người khác, như thế, thử hỏi gia đình người đó sẽ như thế nào? Mái ấm gia đình của họ có còn êm ấm hạnh phúc nữa không? hay tất cả đều tan nát đổ vỡ? Cứ thế mà suy ra hậu quả tai hại của các giới khác cũng như thế. Như vậy, giới luật Phật chế ra, là nhằm bảo vệ hạnh phúc cho mỗi cá nhân và gia đình, nói rộng ra là cho cả thế giới loài người.
Hai pháp cú 246 - 247, Phật đã nêu rõ: “Trong thế gian nầy, ai hay sát sanh, hay nói dối, hay lấy cắp, hay phạm dâm, hay rượu chè say sưa; ai có các hành vi đó tức đã đào bỏ thiện căn của mình ngay ở cõi đời này”.
Qua năm điều Phật nêu ra, chúng ta thấy, đó là một thực trạng của xã hội ngày nay. Vì mỗi cá nhân không gìn giữ, sống buông thả, nên xã hội luôn luôn đảo điên thác loạn, bất an. Đối với năm điều này, nếu chúng ta khinh thường, thì muôn đời chúng ta sẽ không bao giờ có được một cuộc sống an ổn thực sự. Muốn cho xã hội an bình, thì mỗi cá nhân phải cẩn trọng gìn giữ năm điều giới cấm nói trên. Bằng trái lại, thì con người sẽ không còn có phẩm cách đạo đức làm người. Nhân cách đạo đức làm người đã mất, thì con người làm sao có được nếp sống an bình hạnh phúc? Và xã hội loài người sẽ đi về đâu?
Pháp cú 248, Phật nói rõ: “Hễ không lo chế ngự tức là ác”. Chế ngự là chế ngự lòng tham dục. Nếu chúng ta không chế ngự được lòng tham dục, tất nhiên, lòng ta sẽ bất an. Từ đó, có thể tạo ra nhiều tội ác phi pháp, bởi do lòng tham dục mưu cầu lợi dưỡng mà ra. Thử hỏi lòng tham muốn đòi hỏi vật chất của chúng ta biết mấy cho vừa? Thế nên, Phật nói: “Chớ tham, chớ làm điều phi pháp, để khỏi sa vào thống khổ đời đời”. Muốn khỏi sa vào nỗi thống khổ đó, chỉ có cách duy nhứt là chúng ta phải ngăn bớt lòng dục vọng và luôn sống đời sống bằng những nhu cầu đơn giản, giảm thiểu, ít muốn, biết đủ. Đó là cách sống hay nhứt để có được đời sống thực sự tươi mát an vui hạnh phúc.
249. Vì có tâm tin vui nên người ta mới cúng dường, trái lại kẻ có tâm ganh ghét người khác được ăn, thì ngày hoặc đêm kẻ kia không thể định tâm được.
People give according to their faith or regard. If one becomes discontented with the food and drink given by others, one does not attain meditative absorption, either by day or by night.
Kệ tụng
Do tín tâm, hỷ tâm
Loài người mới bố thí
Ai có tâm ganh ghét
Người khác được ăn uống
Ban ngày hoặc ban đêm
Không thể nào tâm định.
250. Những kẻ nào đã đoạn được, nhổ được, diệt được tâm tưởng ấy, thì ngày hoặc đêm, kẻ kia đều được định tâm.
But he in whom this (discontent) is fully destroyed, uprooted and extinct, he attains absorption, both by day and by night.
Kệ tụng
Ai cắt được, nhổ được
Diệt được tâm tư ấy
Ban ngày hoặc ban đêm
Tất chứng được định tâm.
Lược giảng
Hai pháp cú này Phật dạy tại tinh xá Kỳ Viên, có liên quan đến chú Sa di Tissa.
Theo truyện tích, Sa di Tissa có tật tánh xấu là hay bươi móc phê bình chỉ trích nói xấu những lỗi lầm của các nhà thí chủ dâng cúng các thứ phẩm vật cho Phật và chúng Tăng. Từ những phẩm vật tầm thường của dân chúng, cho đến những thứ vật phẩm thắng diệu của các nhà trưởng giả, hay vua chúa, tất cả, đều bị chú Sa di Tissa nêu ra từng thứ để chỉ trích phê bình. Chú ta nói xấu đủ điều. Nhưng đối với những bà con thân thuộc của chú, thì chú thường khen ngợi những phẩm vật mà họ cúng dường. Đồng thời, chú lại khoe khoang nói khoác về gia cảnh quý tộc của chú.
Nhưng kỳ thật, chú không phải thế. Chú ta xuất thân từ con của một người gác cổng, rồi theo những người thợ mộc lên Xá Vệ, xin Phật xuất gia.
Để hiểu rõ hơn về gia cảnh và thân thế của chú, nên các thầy Tỳ kheo đến tận làng chú ở để tìm hiểu sự thật. Hỏi ra, mới biết thân phận của chú chỉ là một người dân giả thấp hèn. Thế mà, sau khi xuất gia chú lại hết chỉ trích người này, đến phê bình nói xấu người khác. Do đó, các thầy Tỳ kheo đến bạch Phật và được Phật dạy:
-“Đây không phải lần đầu tiên Tissa hay cằn nhằn và nói khoác, đời quá khứ chú cũng đã khoe khoang khoác lác như thế”.
Phật dạy tiếp:
- “Này các Tỳ kheo, người nào hay than phiền về vật thực cúng dâng ít quá hay nhiều quá, ngon hay dở, hoặc không cúng dường ta mà cúng dường người khác, người ấy không bao giờ chứng quả”. (Hết phần lược dẫn cốt chuyện)
Thông thường, lòng ích kỷ ganh tỵ của con người, không muốn ai hơn mình. Thấy người ta có điểm gì vượt trội hơn mình, là mình liền sanh tâm tật đố ganh ghét. Ganh tỵ đố kỵ đủ mọi phương diện. Từ địa vị, uy quyền, nhan sắc, cho đến sự ăn mặc, giàu sang, học lực, hay việc làm v.v… không có thứ gì mà người ta muốn cho kẻ khác hơn mình. Hơn mình thì ganh, mà thua mình thì khi dễ. Đó là lòng ích kỷ nham hiểm ác độc của con người.
Chuyện dẫn trên cho ta thấy, chú Sa di Tissa, thấy mọi người cúng dường các thứ vật thực cho các thầy Tỳ kheo, thì chú sanh tâm đố kỵ, bất bình nói xấu. Chú không xét lại mình. Tại sao người ta không dâng cúng cho mình? Mình có đủ đức độ để thọ dụng không? Về giới đức mình có bằng các vị Tỳ kheo không? Vì thiếu sự suy xét nhìn lại mình, nên chú mới có những ý niệm không tốt đối với các vị thí chủ. Chẳng những thế, mà chú còn vướng phải cái bệnh nói khoác hay khoe khoang với mọi người. Phật cho cả hai đều là tật tánh xấu. Người biết tự trọng, chân thật tu hành không nên có thái độ đố kỵ ganh tỵ nói xấu chỉ lỗi người.
Mau bỏ dứt đi tánh tỵ hiềm
Thấy người hay giỏi phải khen thêm
Hoặc ai xinh đẹp càng thương mến
Giàu có danh cao chớ tỵ hiềm
Kẻ đức hơn mình, mình kính nể
Người tài xin học, học hay thêm
Chớ nên hiềm tỵ hay ganh ghét
Là hạnh người tu phải gắng kềm
(Hòa Thượng Thích Giác Nhiên –
Diệu Lý Pháp Đăng )
Người tu cần phải tập cho mình có cái tâm tùy hỷ. Tâm tùy hỷ là tâm hạnh tốt của Bồ tát, mà chúng ta cần phải gia công tu tập trau dồi, tài bồi. Thấy người làm việc thiện hay có những điều hay đẹp hơn mình, thì mình nên để tâm khen ngợi học hỏi làm theo. Tuyệt đối, không nên sanh tâm đố kỵ. Vì khi mình khởi tâm ganh ghét người ta, tức mình tự hại lấy mình trước rồi. Hại ở chỗ là lòng mình phiền não bất an. Phật dạy, người nào sanh tâm tùy hỷ với công việc thiện nguyện của người khác làm, thì người đó được công đức ngang nhau. Ngang nhau ở chỗ là cả hai đều bỏ được cái lòng ích kỷ. Cả hai đều có tấm lòng tốt thương người như nhau. Chớ không phải ngang nhau ở nơi vật chất bố thí, mà ngang nhau ở nơi tấm lòng rộng lượng buông xả của hai người. Người tùy hỷ là không có lòng tật đố ganh tỵ. Đó là bỏ được cái tâm vị kỷ xấu ác. Người bố thí của cải, thì cũng bỏ được cái tâm tham lam ích kỷ xấu ác. Phật nói, công đức ngang nhau là ở chỗ đó. Nghĩa là cả hai đều bỏ được cái tánh xấu ác vậy.
251. Không lửa nào dữ bằng lửa tham dục, không cố chấp nào bền bằng tâm sân hận, không lưới nào trói buộc bằng lưới ngu si, không dòng sông nào đắm chìm bằng sông ái dục.
There is no fire like lust; there is no grip like hatred; there is no net like delusion; there is no river like craving.
Kệ tụng
Không lửa nào bằng tham
Không chấp nào bằng sân
Không lưới nào bằng si
Không sông nào bằng ái.
Lược giảng
Pháp cú này Phật dạy tại tinh xá Kỳ Viên, có liên quan đến năm người thiện tín.
Theo truyện tích, khi Phật giảng pháp cho năm thiện tín nghe, Ngài không phân biệt họ thuộc chủng tộc, giai cấp nào. Giáo pháp Ngài giảng dạy đều bình đẳng như nhau. Nhưng trong năm thính giả, chỉ có một người chú ý theo dõi nghe Phật giảng. Còn bốn người kia, không một ai chú ý. Kẻ ngủ gục, người bươi đất, kẻ nhìn trời, người vin cành cây. Thấy thế, Tôn giả A Nan bạch Phật và muốn biết lý do vì sao?
Phật bảo: Người ngủ gục là do trải qua năm trăm kiếp làm rắn, luôn ngủ say nên đời này làm người hay ưa ngủ. Người dùng tay bươi đất đã trải qua năm trăm kiếp làm côn trùng chui trong đất, nên bây giờ tuy làm người nhưng tập khí bươi đất vẫn còn. Người nhìn lên trời, trải qua năm trăm kiếp làm chiêm tinh gia, cứ mãi nhìn ngó lên trời. Người vin lay cành cây đã năm trăm kiếp làm khỉ mãi chuyền cây. Tất cả đều quen theo tập khí cũ mà không ai chú ý nghe Phật giảng nói. Còn người chăm chú lắng nghe, là trải qua năm trăm kiếp làm Bà la môn tụng đọc kinh Vệ đà, nên hôm nay chăm chú lắng nghe như đang đọc Mật thư.
Phật nói tiếp: giáo pháp của Phật không phải ai cũng có thể nghe được. Nếu không có gieo trồng chủng duyên Phật pháp nhiều đời, thì không thể nào nghe và lãnh hội được.
Tôn giả A Nan lại hỏi Phật lý do vì sao mà họ không thể nghe pháp? Phật cho biết: “vì tham ái, sân hận và si mê. Trên thế gian không lửa nào bằng lửa tham ái. Không kìm kẹp nào bằng sân hận, không lưới nào băng si mê và không sông nào bằng sông ái dục”. (Hết phần lược dẫn cốt chuyện). Nhân đó, Phật nói pháp cú này.
Tham lam ích kỷ, lợi mình hại người, đó là đặc tánh cố hữu của con người. Xã hội tốt đẹp hay xấu xa, thế giới có an bình hay hổn loạn, tất cả đều do lòng tham lam ích kỷ của con người mà ra. Bởi do lòng tham chấp của con người quá sâu nặng, nên ai cũng muốn chiếm hữu tất cả về mình. Như núi non, đất đai, biển cả, cồn đảo v.v… là do thiên nhiên tạo ra. Thế mà, ai cũng muốn chiếm đoạt về mình. Họ dựa vào thế lực sức mạnh của vũ khí, của binh hùng tướng mạnh, của kinh tế phồn thịnh, để rồi chiếm đoạt tranh giành. Nếu họ nuốt trọn được êm xuôi thì thôi, bằng có sự ngăn chận, thì lửa sân hận của họ sẽ bộc phát đốt cháy lan ra dữ dội.
Ngọn lửa tham sân lúc đầu, chưa bốc cháy cao, thì người ta còn tỏ ra thương nghị tranh luận tương đối hòa dịu với nhau. Nhưng, chúng ta nên nhớ rằng, kẻ có thế lực mạnh bao giờ họ cũng đòi hỏi ở thế thượng phong, kèo trên. Nếu đấu võ mồm dàn xếp không xong, thì kế đến là họ phải giải quyết với nhau bằng võ lực. Họ có thể sử dụng mọi thứ vũ khí tối tân hạng nặng để đọ sức tranh tài cao thấp với nhau. Chừng đó, hậu quả sẽ ra sao? Câu hỏi nầy, trong quá khứ đã chứng minh rất rõ.
Cứ nhìn lại những nước đã từng bị chiến tranh thì chúng ta sẽ thấy rất rõ. Đó là một thảm họa đại thống khổ của kiếp nhơn sinh. Hiện nay, một vài quốc gia Trung Đông, chiến tranh vẫn còn ầm ĩ bốc cháy ngày đêm, không biết đến bao giờ mới thực sự chấm dứt! Nếu lòng người còn nuôi dưỡng những ngọn lửa “Tham, Sân, Si”, thì than ôi! Nhơn loại sẽ không có ngày nào thực sự được sống an bình hạnh phúc!
Các nhà lãnh đạo của các quốc gia trên thế giới hiện nay, họ cũng đang điên đầu nát óc. Một mặt, thì họ lo chạy chữa phòng bị ngăn ngừa về mặt thiên tai họa hại đang đe dọa ngày đêm. Họa hại nầy do đâu? hẳn cũng do con người gây ra. Hằng ngày họ cho thải ra không biết bao nhiêu chất khí dơ làm ô nhiễm môi sinh. Nếu người ta không có biện pháp ngăn chận thích đáng hữu hiệu, thì một ngày nào đó, chắc chắn nhơn loại sẽ vắng bóng trên hành tinh này. Đó là chuyện có thật chớ không phải hù dọa. Mặt khác, thì họ lại đi xâm chiếm gây hấn chiến tranh. Họ không muốn cho nhơn loại sống yên. Họ muốn làm khổ đau cho nhau.
Chúng ta đừng quên rằng, một khi trâu bò húc nhau, thì ruồi muỗi cũng phải chết. Dù kẻ thắng hay người bại, dân chúng vô tội cũng đều bị chung số phận chết chóc khổ đau. Xưa nay, có một cuộc chiến tranh nào mà không tàn phá, gây ra bao thảm trạng tàn sát, nhà tan cửa nát hay không? Thử hỏi mầm mống của chiến tranh nầy là do đâu? Ai cũng biết, là do ba động cơ chính gây ra, đó là: “Tham, Sân, Si”. Từ tham vọng mới gây ra tranh chấp hơn thua. Có tranh chấp là có sân si. Từ đó, mới đưa đến gây ra cảnh chiến tranh đổ máu sát hại lẫn nhau. Nhơn loại muốn tránh khỏi tai họa này, chỉ có một con đường duy nhứt là diệt trừ cội gốc vô minh. Hết vô minh thì con người sẽ không còn gây khổ đau cho nhau nữa.
Qua câu chuyện lược dẫn trên, Phật cho chúng ta biết về sự sai biệt căn cơ và tập khí của mỗi người. Khi nghe pháp, không phải người nào cũng lãnh hội hiểu biết như nhau. Có người thì họ rất chăm chú lắng nghe. Nên biết, hạng người nầy thiện căn của họ rất sâu dầy. Ngược lại, có người thì ngủ gục, có người thì dáo dác nhìn trời hiu quạnh, có người thì cầm viết vẽ chơi v.v… Họ không chú ý gì đến thời pháp thoại. Tâm họ tán loạn chạy nhảy lung tung còn hơn con khỉ. Phật nói, đó là do những tập khí cũ của họ trải qua nhiều đời. Mặc dù, tất cả đều có gieo nhân duyên ít nhiều với Phật pháp, nhưng khi tu học, nghe pháp, thì mỗi người nhận thức sâu cạn khác nhau. Đồng ngồi trong pháp hội như năm thiện tín nói trên, nhưng mỗi người lại hiện bày tập khí do nhiều đời huân tập khác nhau. Do đó, mà sự lợi ích nghe pháp và lãnh hội của mỗi người rất là sai biệt.
252. Thấy lỗi người thì dễ, thấy lỗi mình thì khó. Lỗi người ta cố phanh tìm như tìm thóc lẫn trong gạo ; còn lỗi mình ta cố che giấu như kẻ cờ gian bạc lận thu giấu quân bài.
Easily seen is the fault of others, but one’s own is difficult to see. Like chaff one winnows another’s faults, but hides one’s own, even as a crafty fowler hides behind sham branches.
Kệ tụng
Thấy lỗi người thì dễ
Thấy Lỗi mình mới khó
Lỗi người ta phanh tìm
Như tìm trấu trong gạo
Còn lỗi mình thì dấu
Như thợ săn dấu mình.
Lược giảng
Pháp cú này Phật dạy khi Phật ở Jàtiyàvana gần thành Bạt đề (Bhaddiya) có liên quan đến trưởng giả Ram.
Theo truyện tích, có lần Phật du hành qua xứ Anguttaras, Ngài nhận thấy có thể độ cho những người trong gia đình của ông trưởng giả Ram đều chứng quả Dự lưu. Gia đình của ông gồm có năm người: Ông bà trưởng giả, con trai, con dâu và người giúp việc.
Về quá khứ, có một thời gian, ông này rất có phước báo và quyền lực. Vì gia đình ông toàn làm những việc phước báo, như cúng dường chư Phật và bố thí cho những người nghèo khổ. Nhờ duyên phúc gieo trồng phước báo nhiều đời, nên trong kiếp hiện tại, ông vẫn là người rất giàu có. Khi hay tin Phật đến thành, ông liền đi đến thăm Phật. Trên đường đi, ông gặp một nhóm ngoại đạo ngăn cản. Dù bị họ dùng nhiều lời lẽ thuyết phục, chống đối, nhưng ông vẫn cương quyết đến gặp Phật. Sau khi đảnh lễ và nghe Phật thuyết pháp xong, ông liền thuật lại lời chống đối, kích bác, phỉ báng chê bai của nhóm ngoại đạo này cho Phật nghe. Phật dạy:
- “Này trưởng giả, những người ấy không thấy lỗi của mình dù là lỗi lớn, còn người khác không lỗi, họ cũng cố gắng kẻ vạch, như quạt thóc tìm trấu”. (Hết phần lược dẫn cốt chuyện). Nhân đó, Phật nói pháp cú này.
Pháp cú này, Phật chỉ thẳng vào căn bệnh nặng nề trầm kha của chúng ta. Xưa nay, người ta ai cũng thích muốn vạch bày lỗi người, hơn là nhìn lại lỗi mình. Vì nói lỗi người thì rất là dễ, còn thấy lỗi mình thì rất là khó. Dù rằng lỗi mình đầy trời, nhưng người ta vẫn cố che giấu. Cho nên mới có câu nói: “ẩn ác dương thiện”. Nghĩa là tốt khoe, xấu che. Người ta thích phô trương cái hay, cái tốt, cái đẹp của mình. Không bao giờ người ta phơi bày cái xấu, cái dở tệ của mình ra. Đây là tật tánh xấu cố hữu của con người.
Lỗi người dù có nhỏ nhiệm sâu kín đến đâu, họ cũng cố tìm vạch bày ra cho kỳ được. Phật nói, đó là: “phanh tìm như tìm thóc lẫn trong gạo” . Nếu như trường hợp không có thóc, thì họ cũng cố làm ra cho có thóc. Đó là họ thêu dệt vẽ vời lắm chuyện cho có lỗi để họ chỉ trích nói xấu, với lý do đơn giản là vì họ ganh ghét người đó. Họ có thể dựng đứng đặt điều câu chuyện để nói xấu phê bình. Đó là hạng người có ác ý vu khống chụp mũ. Họ không thích ai, thì họ cho người đó đội nón cối, hoặc cái mũ to. Vấn đề này, nói không biết bao giờ cùng.
Thế giới ngày nay, người ta hay phê bình chỉ trích nói lỗi với nhau rất thậm tệ. Tất cả cũng chỉ vì quyền lợi cá nhân của họ mà thôi. Dù ở giai tầng nào, quyền cao chức lớn, có học hay thất học, trình độ cao hay thấp, tất cả cũng đều có chung một căn bệnh là: “tốt khoe, xấu che” như nhau. Chẳng qua cái cường độ chỉ trích bêu xấu nhau, nó có thô tế, nặng nhẹ khác nhau đó thôi. Ngoại trừ những bậc tu hành chân chánh, đạo đức thâm hậu, họ mới dẹp được cái tật tánh xấu ác này. Ngoài ra, tất cả đều vướng mắc cái bệnh trầm trọng này cả.
Hễ còn nặng lòng chấp ngã là vẫn còn chỉ lỗi nói xấu nhau. Thậm chí, có khi hai chị em ruột lấy chung một chồng, bình thường, bề ngoài thì không nói gì, mặc dù trong lòng họ vẫn ngấm ngầm ấm ức ganh tức khó chịu, chờ đến khi có dịp xích mích giận hờn nhau, thì họ không một chút do dự ngần ngại, cả hai đều nặng lời chửi bới, nói xấu nhau thậm tệ. Những chuyện riêng tư thâm cung bí sử ở trong nhà, họ đều lột trần vạch bày ra hết. Quả thật, họ thuộc hạng người vạch lưng cho người ta xem thẹo nhơ xấu của mình. Thật là xấu hổ ! Chỉ vì một phút si mê, giận tức, họ không kềm chế được cơn giận, nên vô tình họ lại làm trò cười cho khách bàng quan thiên hạ.
Qua chuyện lược dẫn trên là một chứng minh cụ thể về tật tánh xấu ác này. Vốn có ác cảm ganh tỵ với Phật, nên nhóm ngoại đạo họ dùng mọi lời lẽ công kích chỉ trích nói xấu Phật đủ điều để ngăn cản trưởng giả Ram, họ không muốn cho ông này đến gặp Phật. Bất luận người nào, hạt giống xấu ác này cũng đều sẵn có tiềm tàng trong kho A lại da thức. Khi hiện hành mạnh hay yếu còn tùy thuộc vào sức huân tu chuyển hóa sâu cạn của người đó. Nếu người nào chuyển hóa khá, thì hạt giống xấu ác này không có cơ hội bộc phát mạnh mẽ. Cho nên, chúng ta thấy người nào khéo tu tập chuyển hóa, thì người đó họ tránh được cái lỗi này. Và dĩ nhiên, tâm hồn họ rất là an lạc hạnh phúc.
253. Nếu thấy lỗi người thì tâm ta dễ sanh nóng giận mà phiền não tăng thêm, nếu bỏ đi thì phiền não cũng xa lánh.
He who seeks another’s faults, who is ever censorious – his cankers grow. He is far from destruction of the cankers.
Kệ tụng
Ai thấy rõ lỗi người
Thường sanh lòng nóng giận
Lậu hoặc ắt tăng trưởng
Rất xa lậu hoặc diệt
Lược giảng
Pháp cú này Phật dạy tại tinh xá Kỳ Viên, có liên quan đến Tôn giả tên là người tìm lỗi Ujjhànasannì.
Theo tuyện tích, « Tôn giả này thường dòm dỏ lỗi của các Tỳ kheo, thầy nói:
- Thầy này đắp thượng y thế này, thầy kia đắp hạ y như thế kia.
Các Tỳ kheo đến bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn, Tôn giả ấy cứ như thế, như thế.
Phật dạy:
-“Này các Tỳ kheo, người nào làm tròn bổn phận của mình và khuyên người khác như thế, người đó không thấy lỗi ai. Người nào có ý nhìn lỗi người, tìm lỗi người, và đi rêu rao lỗi người, hạng người này không bao giờ đạt được chút xíu giác ngộ, chỉ có sự ô nhiễm tăng trưởng trong họ”. Nhân đó, Phật nói pháp cú này. (Trích nguyên văn Tích Truyện Pháp Cú tập III, tr 80)
Pháp cú trên, Phật nói, người nào hay tìm thấy lỗi người, thì tâm mình đã sanh phiền não trước. Mình phun máu vào người, thì miệng mình đã dính dơ trước rồi. Người nói xấu chỉ lỗi người cũng thế. Đức Lục Tổ Huệ Năng có dạy:
Bằng thật người tu đạo
Không thấy lỗi thế gian
Nếu thấy lỗi thế gian
Thì lỗi mình đã đến bên.
Người thật sự tu hành, họ chỉ nhìn thấy lỗi họ hơn là nhìn thấy lỗi người khác. Vì có nhìn lại, thì mình mới thấy lỗi mình để sửa. Đó là người khéo biết tu và sẽ có tiến bộ trên đường tu. Như thế, là tránh được nhiều lỗi thị phi. Nếu mình chỉ trích nói xấu chê bai người khác, tất nhiên, là sẽ gây ra lắm chuyện phiền phức cho mình và người. Chắc chắn là lòng mình sẽ có nhiều nỗi phiền muộn bất an. Khi thấy lỗi người thì lòng mình dễ sanh nóng giận, bực bội, khó chịu. Như thế thử hỏi có lợi ích gì? Người chơn tu là muốn được tâm an vui trong từng giây phút. Họ cẩn thận giữ gìn quán chiếu từng vọng niệm dấy khởi. Họ luôn luôn giữ gìn chánh niệm trong từng bước đi và từng hơi thở.
Khi có chánh niệm là họ không còn phiêu lưu trong thế giới ảo tưởng. Vì họ hoàn toàn có mặt trong giây phút hiện tại. Họ khéo quán niệm hơi thở thật kỹ để đem tâm về với thân, gọi là thân tâm nhất như. Đã như thế, thì thử hỏi họ còn thời giờ rảnh rỗi đâu để mà nói xấu, chê bai, chỉ trích lỗi lầm người khác? Đó mới thật là người chơn chánh tu hành. Ngược lại, những ai chuyên dòm ngó lỗi người để mỉa mai châm biếm nói xấu, thì quả thật người đó chẳng có tu hành gì cả. Dù người đó đang khoác vào mình chiếc áo nhà tu. Dưới con mắt của người tu hành chơn chánh, họ xem người đó không dính dáng ăn nhập gì đến sự tu hành diệt trừ phiền não cả.
Nếu thấy lỗi để chỉ bày xây dựng, đó là điều rất tốt. Chúng ta cần biện biệt rõ điểm này. Không khéo dễ hiểu lầm. Người có trách nhiệm hướng dẫn đại chúng tu học, đương nhiên là họ có bổn phận theo dõi để chỉ lỗi sửa đổi. Vấn đề này khác xa với sự nói lỗi với tâm ác hại. Một bên, vì xây dựng tốt đẹp mà nói. Một bên, vì ác ý ganh tỵ phá hoại mà nói. Đó là hai thái độ khác xa nhau như trời vực. Xin lưu ý chớ có lầm nhận.
Chuyện dẫn chứng trên, cho ta một bài học về sự tu hành. Thầy Ujjhànasannì là người chuyên bươi vạch nói lỗi người, chứng tỏ thầy còn quá nặng lòng chấp trước. Thầy chưa nắm vững phương pháp tu hành. Sáu căn của thầy còn nhiễm trước ở nơi sáu trần khá nặng. Thầy không nhìn kỹ lại thầy để lo ngăn ngừa phòng hộ sáu căn. Thầy để cho con khỉ ý thức của thầy tự do chuyền nhảy. Thầy quên rằng, bản thân của thầy còn quá nhiều lỗi lầm. Thầy không lo cố gắng tẩy trừ và như thế, thì làm sao tương ưng với đạo giác ngộ? Chính vì thế, nên Phật mới dạy: “Người nào có ý nhìn lỗi người, tìm lỗi người, và đi rêu rao lỗi người, hạng người này không bao giờ đạt được chút xíu giác ngộ, chỉ có ô nhiễm tăng trưởng trong họ”. Ở đây, ta thấy, thầy Ujjhànasannì đã quên mất con đường “Niệm, Định, Tuệ”, của một người tu. Như thế, thì làm sao gọi là một người tu hành theo đạo xuất thế? Người tu mà không có thật hành ba môn học đó, thì quả thật chưa xứng danh là một người tu theo đạo Phật vậy.
Về Đầu Trang Go down
https://triamquan.forumvi.com/
Tri Âm Quán
Thành Viên Tích Cực
Thành Viên Tích Cực
Tri Âm Quán


Tổng số bài gửi : 6340
Reputation : 2
Join date : 31/07/2013
Đến từ : Thị Trấn Chũ

Kinh Pháp Cú chú giải (tập 1) - Page 2 Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Kinh Pháp Cú chú giải (tập 1)   Kinh Pháp Cú chú giải (tập 1) - Page 2 EmptySun Nov 16, 2014 11:59 am

254. Giữa hư không thì làm gì có dấu vết, trong ngoại đạo thì làm gì có Sa môn. Chúng sanh thì thích điều hư vọng[9], mà Như Lai làm gì còn hư vọng.
There is no track in the sky, and no recluse outside (the Buddha’s dispensation). Mankind delights in worldliness, but the Buddhas are free from worldliness.
Kệ tụng
Hư không, không dấu vết
Ngoại đạo, không Sa môn
Chúng sanh thích hư vọng
Như Lai, vọng diệt trừ.
255. Giữa hư không thì làm gì có dấu vết, ngoại đạo thì làm gì có Sa môn, năm uẩn thì không thường trú, mà Như Lai thì chẳng loạn động bao giờ.
There is no track in the sky, and no recluse outside (the Buddha’s dispensation). There are no conditioned things that are eternal, and no instability in the Buddhas.
Lược giảng
“Câu chuyện xảy ra, liên quan đến du sĩ Tu bạt đà la (Subhadda ). Khi đức Thế tôn sắp nhập diệt, trong rừng Sa la trong thành Câu thi. Chuyện kể rằng, khi trước con của Tu bạt đã cúng dường chín lần những phẩm vật đầu mùa gặt cho đức Phật, còn Tu bạt thì không ưng và từ chối, cuối cùng mới chịu cúng. Vì thế ông không gặp Thế Tôn lúc Ngài vừa thành đạo và giảng đạo. Đến lúc cuối, Ngài gần nhập diệt, ông mới tự nghĩ: “Ta có ba điều nghi. Và đã hỏi các Trưởng lão để giải nghi. Lúc ấy Sa môn Cồ đàm còn trẻ nên ta không đến hỏi. Bây giờ thời gian Niết bàn sắp đến, nếu ta không hỏi, sau sẽ ân hận.”
Ông đi đến chỗ Phật. Tôn giả A nan ngăn ông lại, nhưng Phật đã bảo:
-A nan, chớ ngăn Tu bạt đà la, hãy để ông vào thưa hỏi.
Tu bạt vào, ngồi ở chân giường và hỏi Phật:
-Bạch Ngài, có con đường nào trên không trung? Có người nào được gọi Sa môn khi ở ngoài chánh đạo? Pháp hữu vi có trường tồn?
Phật dạy ông những việc ấy không thể có, và nhân đó Ngài nói hai pháp cú này ». (Trích nguyên văn Tích Truyện Pháp Cú tập III, Viên Chiếu, tr 81)
Hai pháp cú trên, Phật nêu ra ba vấn đề xác minh rất rõ. Thứ nhứt, Phật nói: “giữa hư không thì làm gì có dấu vết”. Đây là Phật trả lời câu hỏi thứ nhứt mà ông Tu bạt đã nêu ra. Giữa bầu trời trong tạnh, một đàn chim bay qua, chúng không để lại một dấu vết gì cả. Bầu trời không có ý lưu lại hình ảnh của chúng. Và chúng cũng không có ý muốn lưu lại hình ảnh của chúng khi bay ngang qua bầu trời. Mà dẫu có muốn để lại cũng không được. Đây là một hình ảnh thật giải thoát.
Chim nhạn qua dòng nước
Chẳng lưu lại vết hình
Nước vô tâm in bóng
Nhạn vô ý lưu hình.
&
Biển ngàn in trăng bóng
Duy nhất một vầng trăng
Tùy vọng thấy sai khác
Nào trăng có đổi thay.
&
Trời xanh én lượn êm đềm
Ngàn sao lấp lánh vẫn yên bầu trời
Thuyền chèo bạt nước mù khơi
Trở về bến cũ thảnh thơi an nhàn.
Bầu trời là dụ cho người tu đã đạt được quả vị Niết bàn. Vì Niết bàn là vô sanh. Vô sanh là không còn một dấu vết phiền não. Phiền não có ra là do có vọng tưởng. Mà còn vọng tưởng là còn có sanh diệt. Hết vọng tưởng thì hết sanh diệt. Đến đây, là tịch diệt, là Niết bàn an lạc. Niết bàn ở đây là Phật ngầm chỉ cho Niết bàn của hàng A la hán. Vì A la hán đã dứt hết phiền não “Kiến, Tư” hoặc. Nên trong kinh thường nói các Ngài này là việc lợi mình đã xong. Đã xong việc lợi mình, nhưng còn việc lợi người, thì các Ngài rất ngao ngán, không dám hóa độ. Do đó, nên các Ngài bị Phật quở: “trầm không trệ tịch hay khôi thân diệt trí”. Sự khác biệt giữa Thanh Văn và Bồ tát là ở chỗ bản nguyện độ sanh. Nhưng phải đến quả vị Phật thì việc tự lợi, lợi tha mới hoàn toàn viên mãn, nên gọi Phật là giác hạnh viên mãn.
Thứ hai, Phật nói: “trong ngoại đạo làm gì có Sa môn”. Sa môn (Samano) chỉ cho những vị đã chứng ngộ bốn thánh quả: Tu đà hoàn, Tư đà hàm, A na hàm và A la hán. Trong bốn thánh quả này, ngoại trừ quả vị A la hán ra, còn lại ba quả vị trước là các Ngài đang tu tập hướng tiến đến quả vị Niết bàn A la hán. Sở dĩ Phật nói bốn quả vị này khác với ngoại đạo là vì những vị này nhân nghe Phật nói pháp Tứ đế, mà các Ngài y cứ vào đó nỗ lực tiến tu diệt trừ hết tập nhân phiền não, nên các Ngài đạt được quả vị Niết bàn.
Trong khi đó, ngoại đạo, họ không xoay lại để diệt trừ tập nhân phiền não, mà họ chỉ một bề hướng ngoại tìm cầu, nên họ không thể chấm dứt đường sanh tử khổ đau. Dù cho họ có đủ lực dụng thần thông, nhưng đó chỉ là thứ thần thông do họ công phu luyện tập mà có.
Nói tóm lại, họ là người tu chạy theo cái ngọn, hướng ngoại tìm cầu, mà không căn cứ vào cái gốc là quán sát nội tâm để gạn lọc dứt hết phiền não. Do đó, nên gọi họ là ngoại đạo. Nghĩa là ngoài tâm cầu đạo đều gọi chung là ngoại đạo. Sự khác biệt giữa ngoại đạo và Sa môn, (tức những người tu theo đạo giải thoát sanh tử khổ đau) là ở chỗ đó.
Thứ ba, Phật nói: “chúng sanh thì thích điều hư vọng, mà Như Lai làm gì còn hư vọng”. Ta nên chú ý ở câu chót này (tạm gọi) giữa pháp cú 254 và 255 có hơi khác. Pháp cú 255, Phật nói: “Năm uẩn thì không thường trú, mà Như Lai thì chẳng loạn động bao giờ”.
Câu trên (254) Phật nói rõ, chúng sanh thì thích điều hư vọng, mà Như Lai làm gì còn hư vọng. Hư vọng là giả dối không thật. Là không phù hợp với chân lý. Phật nói, chúng ta là những người thích sống chạy theo giả dối. Dùng mọi thứ giả dối để khuynh loát lừa gạt lẫn nhau để sống. Người nào khôn khéo biết cách xử dụng nhiều thứ giả dối che mắt người đời, thì người ta gọi những người đó là tài giỏi. Còn người nào không khéo lừa bịp che mắt thiên hạ hay nói năng những lời chân thật phù hợp với chân lý, thì bị người ta cho đó là quê mùa vụng về. Vì họ không có tài xảo thuật mánh khóe lừa bịp. Lời thật bao giờ cũng trái tai người nghe.
Cứ thế, mà người ta đua nhau tranh tài dùng mọi mánh khóe thủ thuật để nói dối. Càng nói dối gạt gẫm thiên hạ nhiều chừng nào, thì sẽ được mọi người tán dương và có lợi nhiều chừng đó. Thế thì, đời sống của chúng ta, nếu đem giáo Pháp Phật dạy ra mà quán chiếu thật kỹ, thì than ôi! tất cả chúng ta toàn là những người sống giả dối. Mọi vật đều giả dối. Nhưng vì lòng si mê chấp “ngã, pháp” quá nặng, nên đối với chúng ta cái gì cũng cho là thật hết. Không ai biết mình đang sống trong giả dối.
Cái thân tạm bợ không thật, hay xấu xí giống như ma trơi, nhưng phải nói là cái thân này sống lâu và đẹp đẽ. Còn nói thân này giả dối, không sạch giống như cầu xí, thì người ta cho kẻ đó nói khùng điên. Nhưng có phải thật sự là khùng điên hay không? Hay những kẻ bưng bít không dám nói thẳng, nhìn thẳng vào sự thật cuộc đời mới thật là khùng điên? Chắc ai cũng nói kẻ mà nói thật, nói thẳng, vì không khéo chiều được lòng thiên hạ, thì quả kẻ đó là khùng điên rồi. Vấn đề này, xin để mỗi người hãy bình tâm suy xét và mỗi người tự tìm cho mình một kết luận thích đáng.
Ngược lại, Phật nói Như Lai làm gì còn hư vọng. Như Lai là nghĩa bất sanh bất diệt, vượt ngoài đối đãi nhị nguyên, thế thì còn nói cái gì là vọng hay không vọng. Càng nói càng sai lầm. Xin đừng vẽ rắn thêm chưn, hay đầu lại thêm đầu. Những lời nói chỉ là hư vọng làm sao nói đến chỗ chân thật cho được. Đến chỗ tuyệt đối, thì ngôn ngữ hoàn toàn bất lực đầu hàng. Như Lai là Như Lai. Chỉ có thế thôi!
Pháp cú 255, Phật nói năm uẩn thì không thường trú, mà Như Lai thì chẳng loạn động bao giờ. Năm uẩn là sắc, thọ, tưởng, hành , thức. Những thứ này cũng do nhân duyên giả hợp mà có, bản thân nó là giả dối không thật. Vì chúng chỉ là những hiện tượng trên bề mặt của ý thức. Chỉ là những lượn sóng nổi lô nhô trên mặt biển phẳng lặng. Sóng thì khi có, khi không, nên nói chúng không thường trú. Chúng là những pháp hữu vi. Nhưng mặt biển thì không vắng mặt bao giờ.
Như lai làm gì có loạn động? Mặt biển là mặt biển. Mặt biển không động, không loạn. Loạn động là sóng chớ không phải mặt biển. Nhưng rời mặt biển thì không có sóng. Cũng thế, mọi hiện tượng tâm lý dấy khởi không rời bản tâm. Nhưng bảo toàn sóng chính là mặt biển là sai. Vì sóng và mặt biển tuy hai nhưng không phải hai. Vì ly khai mặt biển thì không có sóng. Vọng và chơn cũng thế. Lìa chúng sanh thì không có Như Lai. Lìa vọng thì không có chơn. Phiền não không rời bồ đề mà có. Nhưng chớ nhận lầm phiền não là bồ đề. Xin chớ nhận lầm nước đục là nước trong. Nhưng muốn có nước trong, cần phải lóng lặng hết cặn bã nhơ đục. Muốn có bồ đề, phải dứt hết phiền não. Đó là nghĩa Như Lai không phải là chúng sanh. Lìa vọng không chơn, lìa chơn không có vọng. Đây là pháp môn Bất Nhị. Nói một là sai mà nói hai thì không đúng.
Như vậy cái gì có sanh có diệt đều là những hiện tượng giả dối, không thật. Còn cái gì không sanh không diệt, thì cái đó mới chân thật thường còn. Xin mọi người hãy lặng sâu để sống cho được cái chân thật thường còn này. Vì đó mới đích thực là con người thật của chúng ta. Còn sống tranh đua hơn thua với con người giả dối này, thì than ôi ! chúng ta sẽ còn khổ đau tiếp nối dài dài và không biết ngày nào mới được thoát ra!

XIX. PHẨM PHÁP TRỤ
(Dhammatthavaggo)
256. Xử sự lỗ mãng, đâu phải hạnh của người phụng thờ Chánh pháp, vậy người trí cần biện biệt đâu chánh và đâu tà.
Not by passing arbitrary judgements does a man become just; a wise man is he who investigates both right and wrong.
Kệ tụng
Ngươi đâu phải pháp trụ[10]
Xử sự quá chuyên chế
Bậc trí cần phân biệt
Cả hai chánh và tà!
257. Không khi nào lỗ mãng[11], đúng phép và công bình mới là người dẫn đạo. Kẻ trí nhờ sống đúng chánh pháp nên gọi là người an trụ chánh pháp.
He who does not judge others arbitrarily, but passes judgement impartially according to truth, that sagacious man is a guardian of law and is called just.
Kệ tụng
Không chuyên chế, đúng pháp
Công bằng, dắt dẫn người
Bậc trí sống đúng pháp
Thật xứng danh pháp trụ.
Lược giảng
Hai pháp cú này Phật dạy tại tinh xá Kỳ Viên, có liên quan đến các vị chánh án.
Theo truyện tích, “một ngày nọ, các Tỳ kheo đi khất thực tại cổng phía bắc thành Xá Vệ, và trở về tinh xá, ngang qua trung tâm thành phố. Khi ấy trời đổ mưa, các Tỳ kheo vào trú ẩn tại một pháp đình, các thầy thấy các quan chánh án nhận của hối lộ và tịch biên tài sản của dân chúng một cách bất hợp pháp. Các thầy nghĩ thầm: “Những ông quan này không công minh, chúng ta cứ tưởng họ là những chánh án liêm chính”.
Khi cơn mưa dứt, các thầy trở về tinh xá, đến chỗ Phật và bạch lên Phật câu chuyện vừa rồi, Phật dạy:
- “Này các Tỳ kheo, người nào đầu hàng dục vọng thấp hèn, xét xử chuyên chế, không thể gọi là công bình. Chỉ những người đi sâu tìm tòi việc sai trái trong một vụ án, và xử lý việc sai trái đó đúng pháp, không chuyên chế, mới gọi là công bình”. Và nhân đó Phật nói hai pháp cú này. (Trích nguyên văn Tích Truyện Pháp Cú tập III, Viên Chiếu, tr 85)
Phẩm nầy có tên là pháp trụ. Pháp trụ (Dahammattha) là hành xử đúng pháp, an trụ phụng thờ đúng pháp, nên cũng dịch là “phụng pháp”. Lỗ mãng (Sahasa), bao hàm nghĩa cẩu thả, khinh xuất, độc đoán. Ở đây chỉ cho cái quan niệm bất chính xác, bởi chịu ảnh hưởng của tham, sân, si, bố úy mà sinh ra.
Là người tu hành mà có những hành động lỗ mãng sai trái, nói năng cẩu thả, thiếu khiêm tốn lễ độ, không dùng lời ái ngữ trong khi hành xử giao tiếp, thì đó chưa phải là người thật sự tu hành. Chứng tỏ người đó còn quá nhiều tập khí xấu ác thô tháo. Sống buông thả không có chút giới hạnh, như thế, thì làm sao xứng đáng là người tu? Người thật sự tu hành là phải thiết tha hành trì tịnh giới, hạnh giải tương ưng, và hằng sống trong chánh niệm, chánh quán, phải luôn luôn tịnh hóa thân tâm. Và nhứt là phải tài bồi trí huệ để biện biệt rõ chánh tà chân ngụy. Phật nói, người trí là phải sống đúng theo chánh pháp. Muốn sống đúng với chánh pháp, thì người tu cần phải tôn kính giữ gìn giới luật đã thọ. Nếu không, thì không thể nào có được đời sống an ổn, hạnh phúc cho mình và người.
Qua chuyện dẫn chứng trên, cho chúng ta thấy, ngay thời đại của Phật, đã có xảy ra những vụ xử án bất công rồi. Các ông quan chánh án thời xưa cũng đã biết tham nhũng ăn hối lộ của dân. Rõ ràng những ông quan tòa này thiếu tu và thiếu thực tập thiền quán, chánh niệm. Các ông ỷ vào luật pháp nằm trong tay của các ông trọn quyền xử dụng. Muốn cong, ngay, xoay chiều thế nào cũng được. Xử phạt tội nhân tùy theo kim ngân nhiều ít. Kẻ nào khéo biết hối lộ đúc lót cho ăn nhiều, thì kẻ đó sẽ được phần thắng kiện. Còn người nào không tiền bạc, thì đành phải ngậm miệng nuốt bồ hòn.
Dù cho kẻ đó có lẽ phải đến đâu, các ông này xử kiện cũng trở thành phạm pháp sái quấy. Vì họ xử theo lối luật rừng, tùy theo sức mạnh của kim ngân. Thời xưa đã thế, thời nay thì sao? Người xưa, dù sao cũng còn có lương tâm đạo đức nhiều hơn thời nay, thế mà vẫn còn có xảy ra những chuyện bất công như thế! Trách gì con người thời nay, lương tâm đạo đức họ coi nhẹ còn hơn bông gòn!
Thế mới biết lòng dục vọng che mờ lý trí. Rõ ra, dòng máu tham nhũng hối lộ này đã di truyền từ thời xa xưa. Khi loài người xuất hiện trên trái đất, là đã có máu tham ô này rồi. Nhưng có lẽ thời xưa, con người chưa văn minh, nên việc ăn hối lộ tham nhũng, chắc không được tinh vi kín đáo như thời nay.
Sau khi chứng kiến việc xử án bất công đó, các thầy Tỳ kheo về bạch trình với Phật. Phật bảo: “người nào đầu hàng dục vọng thấp hèn, xét xử chuyên chế, không thể gọi công bình. Chỉ có những người đi sâu tìm tòi việc sai trái trong một vụ án, và xử lý việc sai trái đó đúng pháp, không chuyên chế mới gọi là công bình”. Lời dạy này, Phật đã cảnh cáo những kẻ đã lợi dụng kẻ hở của luật pháp để rồi bóp méo xử phạt không đúng theo luật pháp công minh. Đó là một tai hại rất lớn cho việc cai trị điều hành bộ máy chánh quyền của một quốc gia. Xin các ông quan tòa chánh án hãy đọc kỹ lời Phật dạy trên để xét xử, cầm cân nảy mực, đúng theo luật pháp công bằng và đó là thể hiện đúng với chức năng cũng như lương tâm con người. Được thế, thì người dân, những kẻ thấp cổ bé miệng sẽ biết ơn mấy ông rất nhiều.
258. Chẳng phải cậy nhiều lời cho là người có trí, nhưng an tịnh không cừu oán, không sợ hãi mới là người có trí.
One is not wise because one speaks much. He who is peaceable, friendly and fearless is called wise.
Kệ tụng
Không phải vì nói nhiều
Mới xứng danh bậc trí
An ổn không oán sợ
Thật đáng gọi bậc trí
Lược giảng
Pháp cú này Phật dạy tại tinh xá Kỳ Viên, có liên quan đến Lục quần Tỳ kheo.
« Chuyện kể rằng, nhóm Lục quần Tỳ kheo hay đi từ tinh xá này đến tinh xá khác, từ làng này sang làng khác, làm mất trật tự trong phòng ăn của chúng Tăng. Ngày đó, vài Tỳ kheo trẻ và Sa di, sau khi ăn sáng ở trong làng, đến tinh xá. Các Tỳ kheo ở đây hỏi:
- Chư huynh đệ thích phòng ăn như thế nào?
- Xin đừng hỏi chúng tôi. Mấy ông Lục quần Tỳ kheo tự tuyên bố là: “Chỉ có chúng ta thông minh, chỉ có chúng ta là trí tuệ. Chúng ta sẽ đánh mấy thầy này, đổ rác lên đầu họ và đuổi họ ra”.
Và họ tóm lấy chúng tôi, đổ rác lên đầu, làm phòng ăn lộn xộn lên.
Các Tỳ kheo đến bạch Phật. Phật dạy:
- “Này các Tỳ kheo, ta không gọi người nào thông minh khi người ấy nói nhiều và chọc giận người khác. Ta chỉ gọi là người trí tuệ khi kẻ ấy kiên nhẫn, thoát khỏi sân giận và sợ hãi”. Nhân đó, Phật nói pháp cú này. (Trích nguyên văn Tích Truyện Pháp Cú tập III, Viên Chiếu, tr 86)
Người xưa thường nói: “đa ngôn thì loạn ngữ”. Lời nhiều thì loạn tâm. Không phải nói nhiều là hay. Thường người ta thích nói hơn thích nghe. Nhiều người ham nói nhiều để chứng tỏ mình là người học rộng thông minh uyên bác. Họ thích khoe tài dỏm. Thùng thiết sở dĩ kêu to, là vì thùng rỗng. Thùng có chứa đầy nước thì không kêu. Thế nên, Phật nói: “Chẳng phải cậy nhiều lời cho là người có trí”. Người trí họ ăn nói rất khiêm tốn trầm tĩnh điềm đạm. Việc gì cần thiết đáng nói, họ mới nói. Khi họ nói cũng phải tùy thời và tùy đối tượng. Không phải họ ích kỷ tiếc lời. Nhưng vì họ muốn dưỡng tâm nuôi đức. Vì bậc trí giả chân tu, tuy họ nói rất ít, nhưng mỗi lời họ nói ra đều có giá trị lợi ích rất lớn. Càng giữ gìn lời nói, càng tránh được nhiều điều phiền phức cho mình và người. Do đó, nên Phật nói: “an tịnh không cừu oán, không sợ hãi mới là người trí”.
Đôi khi vì lỡ nặng lời một người nào đó, rồi gây ra việc giận hờn thù oán và từ đó tâm ta luôn luôn bất an. Ta nơm nớp lo sợ họ trả thù. Người trí, là người nói có chánh niệm. Khi mở lời họ biết rõ, họ đang nói gì. Họ có mặt từng giây phút trong lời nói. Nhờ đó, mà họ luôn luôn được an vui hạnh phúc. Ngược lại, kẻ mê muội, thì thường bị thất niệm. nên khi phát ngôn, họ thiếu sự cẩn trọng. Họ mắc phải chứng bệnh già hàm ham nói. Gặp phải đối tượng chịu nghe, họ nói huyên thuyên, tràng giang đại hải, khô cổ họng nhưng vẫn không biết mệt. Nhiều khi, họ nói không đâu ra đâu mà họ vẫn thích nói. Đối với người tu, thì tối kỵ nói nhiều. Vì nói nhiều loạn tâm ý. Người đang thực tập chánh niệm, càng ít nói càng tốt. Mỗi lời nói của họ đều có giá trị. Nói ít, nên nói những gì cần nói. Đó là người khéo biết tịnh tâm. Vì thế, chư Tổ thường khuyên dạy:
Bớt nói nhiều chuyện tạp
Niệm nhiều câu Phật hiệu
Đánh chết hết vọng niệm
Pháp thân sẽ hiện bày
Qua câu chuyện dẫn chứng trên, cho ta thấy, nhóm Lục quần Tỳ kheo kiếm chuyện gây hấn trong chúng Tăng. Sự tu hành không thể đánh giá trên hình thức chiếc áo. Cần phải đánh giá trong hành động và lời nói. Một thái độ, cử chỉ, hay lời nói ra, người ta có thể biết được tập khí của người đó nặng nhẹ thế nào. Và sự tu hành của người đó ra sao. Không cần phải khoe khoang, đôi khi trở thành nói khoác mà mang tội. Người có chút ít kinh nghiệm đời sống nội tâm, họ nhìn thấy rất rõ.
Nhóm Lục quần Tỳ kheo này, dù họ xuất gia, nhưng tập khí phiền não tham, sân, si của họ còn khá nặng. Chính vì thế, nên họ quậy phá lung tung. Và họ đã gây ra làm xáo trộn trong Tăng đoàn. Ngẫm lại, thời nào cũng có những hạng người này. Thời Phật còn như thế, huống gì thời đại của chúng ta?! Thử hỏi làm sao tránh khỏi những tệ nạn này?
259. Chẳng phải cậy nhiều lời cho là hộ trì chánh pháp, nhưng tuy ít học mà do thân[12] thực thấy pháp, không buông lung, mới là người hộ trì chánh pháp.
A man is not versed in Dhamma because he speaks much. He who, after hearing even a little Dhamma, realizes its truth directly and is not heedless of it, is truly versed in the Dhamma.
Kệ tụng
Không phải vì nói nhiều
Mới xứng danh pháp hộ
Những ai tuy nghe ít
Nhưng tâm hành chánh pháp
Không buông lung chánh pháp
Mới xứng danh pháp hộ.
Lược giảng
Pháp cú này Phật dạy tại tinh xá Kỳ Viên, có liên quan đến Tôn giả Nhất Cú, tức A la hán Ekuddàna.
Theo truyện tích, Tôn giả Nhất Cú sống đơn độc trong rừng và chỉ biết độc nhất một câu kệ:
Vị Sa môn tư tưởng thanh cao
Tinh tấn, tu tập trong im lặng.
Sa môn ấy tâm hằng an tịnh,
Luôn chánh niệm, không còn phiền não.
Bài kệ đó đã được chư thiên tán thán mỗi khi Tôn giả đọc lên vào ngày Bố tát. Một hôm, có hai thầy Tỳ kheo, cả hai đều lão thông kinh điển và dẫn theo một ngàn đồ chúng đến nơi Bố tát. Tôn giả Nhất Cú rất mừng, vì thấy các thầy đến đông đảo như thế. Nhân đó, Tôn giả cho biết chư thiên sẽ vỗ tay vang rền ca ngợi khi nghe pháp. Nhưng hôm ấy, không có một tiếng vỗ tay nào. Dù những vị này có thuyết giảng về giới luật rất rộng. Mọi người đang thắc mắc, thì Tôn giả Nhất Cú vừa đọc xong bài kệ, chư thiên đồng vỗ tay tán thán. Nhân việc này, các thầy Tỳ kheo trở về tinh xá trình lên đức phật. Phật dạy:
- “Này các Tỳ kheo, ta không gọi người nào là thông suốt giáo pháp chỉ vì họ biết hoặc đọc nhiều kinh. Nhưng người nào chỉ biết đọc một câu, hiểu thấu sự thật, người ấy thật là người thông suốt Tam tạng”. (Hết phần lược dẫn cốt chuyện). Nhân đó, Phật nó pháp cú này.
Trong đạo Phật, người học rộng nói nhiều mà không thật hành chánh pháp, nói rõ ra, là thiếu tỉnh thức, thực nghiệm, tu hành, thì người đó chỉ là kẻ đứng bên lề Phật pháp. Chỉ là người đứng trên bờ sông phân tích nước dưới sông. Thật sự thì họ chưa lội xuống tắm mình trong dòng sông. Có thể họ phân tích giảng nói rất hay. Nhưng đối với sự giải thoát đau khổ, họ vẫn dặm chân tại chỗ. Có thể gọi họ là hàng học giả, chớ không phải là hành giả. Người tu theo đạo Phật phải là hành giả. Chúng ta đừng quên rằng, chữ “học” trong đạo Phật nó có nghĩa là thực tập, thật hành, chớ không phải chỉ lý thuyết suông. Đạo Nho cũng nói: “học nhi thời tập chi”. Nghĩa là học phải tu tập, luôn luôn đi đôi với thật hành. Học không hành, chỉ là bánh vẽ, là hý luận trò chơi mà thôi.
Pháp cú trên, Phật minh định rất rõ: “Chẳng phải cậy nhiều lời cho là hộ trì Chánh pháp, nhưng tuy học ít mà do thân thực thấy Chánh pháp không buông lung, mới là người hộ trì Chánh pháp”. Giáo pháp của Phật nói ra là để trị liệu, phải thực nghiệm thân chứng. Dù biết ít, nhưng cố công thật hành, thì sẽ lợi ích rất lớn. Còn hơn biết nhiều hiểu rộng, mà toàn chỉ khoác lác nói suông, rốt lại, chỉ là kẻ chứa sách, không có lợi ích chi cả. Đó là kẻ chỉ biết vào tai ra miệng. Cho nên, trong đạo Phật phải là:“tri hành hợp nhứt”. Học Phật là để biết cách tháo gỡ, chuyển hóa những thứ tâm hành bất thiện nội kết trong tâm. Học Phật như thế mới là thực tế lợi ích.
Chuyện lược dẫn trên, chứng minh cho ta thấy, thầy Nhất Cú, chỉ nhớ thuộc có một bài kệ bốn câu, mà mỗi khi tụng đọc, thì được chư thiên vỗ tay tán thán. Chứng tỏ, thầy đã thật hành đúng theo những gì bài kệ đã nói. Thầy đã thực sự thật hành, những gì thầy biết. Dù chỉ là bốn câu kệ thôi. Ngược lại, hai thầy Tỳ kheo kia, tuy lão thông Tam tạng, nhưng khi tụng đọc, không nghe một tiếng vỗ tay khen ngợi nào của chư thiên. Điều đó, để nói lên rằng, học rộng nhớ nhiều, không thiết thiệt thật hành, thì chỉ là luống công nhọc sức vô ích mà thôi. Chỉ thấy được cái võ bề ngoài, chớ không thấy được cái ruột tinh túy của nó. Có thật hành đúng theo Chánh pháp, chẳng những bản thân mình được lợi lạc, mà còn đem lại sự lợi lạc đó để chia sẻ cho mọi người. Và mọi người cũng được lợi lạc như mình.
Đạo Phật là đạo giác ngộ là đạo thật hành thực nghiệm, thân chứng những gì đã học, chớ không phải là đạo chỉ biết nói lý thuyết suông. Thay vì ngồi đó diễn tả phân tích mùi vị sầu riêng, sao chúng ta không chịu trực tiếp ăn thử. Có ăn vào mới biết mùi vị thơm ngon của nó. Còn ngồi đó diễn tả hoài, thì biết đến bao giờ mới thực sự no bụng?
260. Trưởng lão[13] chẳng phải vì bạc đầu, nếu chỉ vì tuổi tác cao mà xưng trưởng lão, thì đó chỉ là xưng suông.
A monk is not an Elder because his head is gray. He is but ripe in age, and he is called one grown old in vain.
Kệ tụng
Không phải vì bạc đầu
Mà được gọi trưởng lão
Chỉ có tuổi tác cao
Danh chỉ xưng “ lão ngu”.
261. Đủ kiến giải chân thật[14], giữ trọn các pháp hành[15], không sát hại sanh linh, lo tiết chế[16] điều phục[17], người có trí tuệ đó, trừ hết các cấu nhơ, mới xứng danh trưởng lão.
One in whom there is truthfulness, virtue, inoffensiveness, restraint and self mastery, who is free from defilements and is wise – he is truly called an Elder.
Kệ tụng
Ai chân thật, đúng pháp
Bất hại, biết chế phục
Bậc trí không cấu uế
Mới xứng danh trưởng lão.
Lược giảng
Hai pháp cú này, Phật dạy tại tinh xá Kỳ Viên, có liên quan đến Trưởng lão Lakuntaka Bhaddiya.
Theo truyện tích, “một ngày nọ, Tôn giả Lakuntaka vào làm thị giả hầu Phật, và khi vị này đi ra, có ba mươi thầy tu ở rừng đến nhìn thấy. Các vị này vào gặp Phật, đảnh lễ và lui ngồi một bên. Đức Phật nhận thấy ba mươi thầy đều có khả năng chứng A la hán, bèn hỏi:
- Các ông có thấy một Trưởng lão vừa đi ra không?
- Thưa không, bạch Thế Tôn!
- Các ông không thấy ư?
- Chúng con chỉ thấy một Sa di.
- Này các Tỳ kheo, đó không phải là Sa di, đó là một Trưởng lão.
- Người ấy còn quá trẻ, thưa Thế Tôn!
- “Ta không gọi người nào là Trưởng lão chỉ vì họ già, vì họ ngồi ở ghế Trưởng lão, nhưng người nào thấu đạt chân lý, và đối xử tốt với người khác, người ấy là Trưởng lão”. Nhân đó, Phật liền nói hai pháp cú này. (Trích nguyên văn Tích Truyện Pháp Cú tập III, Viên Chiếu, tr 90)
Trong đạo Phật, những danh xưng Hòa Thượng, Trưởng lão, Thượng Tọa, Đại Đức, chỉ là những danh từ được dùng để gọi những vị xuất gia thọ Tỳ kheo đã có hạ lạp cao, phải trên mười hạ trở lên, sau khi thọ cụ túc giới. Đại Đức tiếng Phạn là Thera, có nghĩa là người đã vững chắc an ổn. Trưởng lão ở đây là chỉ cho những bậc tu hành có tuổi đời và đạo đều cao, nhứt là phải có đầy đủ giới đức cao trọng, phải là người thực tu thực chứng, mới được gọi là Trưởng lão. Như nói Trưởng lão Xá lợi phất, Trưởng lão Mục kiền liên v.v…
Ngoài ra, nếu chỉ vì tuổi cao mà không có giới đức, thực tu, thực chứng, thì đó chỉ là tên gọi suông mà thôi. Thực chất, thì không xứng đáng. Vì vậy, người tu hành, không phải căn cứ vào tuổi tác cao, mà gọi là Trưởng lão. Phật đã minh định rất rõ, phải là bực tròn đủ giới hạnh, đủ kiến giải chân thật, (không phải kiến giải suông), giữ tròn các pháp hành, (tức phải đầy đủ giới đức), phải có đạo lực cao, dứt trừ các cấu uế phiền não, người ấy mới xứng danh là Đại Đức hay Trưởng lão. Nếu so với lời Phật dạy trên, thì ngày nay, phải nói là người ta đã lạm dụng danh xưng quá nhiều. Không cần biết giới lạp và sự tu hành của người đó ra sao, miễn thấy người đó mang hình thức đầu tròn áo vuông trọng tuổi, thì người ta gọi là Hòa Thượng, Thượng Tọa hay Trưởng lão.
Cần minh định rõ, những danh xưng trên, không nằm trong lãnh vực chức vụ, mà chỉ tôn xưng những bậc tu hành có giới đức hạ lạp cao. Đúng ra, danh xưng Hòa Thượng hay Thượng Tọa phải được hội đồng tăng già tấn phong trong một buổi lễ Đại giới đàn. Như thế mới hợp pháp, hợp lý. Có nhiều người cứ tự mình tấn phong cho mình và bắt mọi người phải xưng hô như thế. Vì háo danh mà họ đã bất chấp luật lệ Phật chế. Thật là đáng buồn lắm thay!
262. Những người hư ngụy, tật đố và xan tham, tuy có biện tài lưu loát, tướng mạo đoan trang cũng chẳng phải người lương thiện.
Not by mere eloquence nor by beauty of form does a man become accomplished, if he is jealous, selfish and deceitful.
Kệ tụng
Không phải nói lưu loát
Không phải sắc mặt đẹp
Mà thành người lương thiện
Nếu con người ganh tỵ
Xan tham và dối trá.
263. Nhưng người trí nhờ diệt trừ tận gốc lòng sân hận, mới là người lương thiện.
But he in whom these are wholly destroyed, uprooted and extinct, and who has cast out hatred – that wise man is truly accomplished.
Kệ tụng
Chỉ ai đã cắt tiệt
Nhổ tận gốc, đoạn trừ
Người trí tận diệt sân
Mới phải người lương thiện.
Lược giảng
Hai pháp cú này Phật dạy tại tinh xá Kỳ Viên, có liên quan đến một số Tỳ kheo.
Theo truyện tích, “một hôm, có vài Trưởng lão thấy các Sa di và Tỳ kheo trẻ hầu hạ thầy, nhuộm y, giặt y… Các vị bàn tán:
- Chúng ta là những người giảng dạy thông suốt, vậy mà không được săn sóc như thế. Bây giờ chúng ta đến chỗ Phật thưa rằng: Bạch Thế Tôn! Chúng con đều tinh thông giáo pháp, xin Ngài ra lệnh cho các Tỳ kheo tân học và Sa di rằng: “Dù được học giáo lý với ai, không được ôn luyện cho đến khi các ông được các Trưởng lão này giảng dạy”. Như thế chúng ta sẽ được danh dự và lợi dưỡng.
Bàn thế, các Trưởng lão đến chỗ Phật và thưa như trên, Phật nghĩ: “Trong truyền thống tôn giáo ta, có quyền nói như vậy, nhưng mấy ông này chỉ nghĩ đến quyền lợi của họ”. Và Ngài bảo:
-“Ta không nhận xét các ông đã hoàn toàn chỉ các ông nói lưu loát. Nhưng người nào mà mọi ô nhiễm và phẩm hạnh xấu đều bị trừ tuyệt bởi Thánh quả, người ấy mới thật hoàn toàn”. Nhân đó, Phật liền nói hai Pháp cú này. (Trích nguyên văn Tích Truyện Pháp Cú tập III, Viên Chiếu, tr 91)
Hai tâm sở: tật đố và xan tham là hai món trong hai mươi món tùy phiền não. Hai món tâm sở này, ai cũng biết bản chất của chúng là bất thiện. Nghiệp dụng của chúng là hay ganh tỵ không muốn ai hơn mình. Vì ganh ghét người hơn mình, nên lúc nào chúng cũng tìm đủ mọi phương cách để hãm hại. Tâm sở xan tham bản chất của nó là keo kiết, bỏn xẻn, rít rắm. Ngoài mặt, thì nó giả bộ nghèo túng khổ sở, nhưng bên trong thì tích lũy tài sản không bố thí cho ai. Bởi thế ca dao có câu:
Của mình thì cứ bo bo
Của người thì lại đem mo kéo về.
Vì tánh chất keo kiết bỏn xẻn, không muốn cho mẻ một đồng nào, nên gặp ai họ cũng than van rát ruột. Họ có tài giả bộ đóng kịch rất hay. Vì họ sợ người ta biết đến tài sản của họ. Có thể gây ra thiệt hại cho bản thân họ. Vì xan tham, nên cố che giấu bằng mọi cách. Dù họ có tiền của như thế, nhưng họ chưa bao giờ giúp đỡ cho ai. Trái tim của họ khô cứng đối với những người khốn khó, nghèo khổ. Chưa bao giờ họ biết mở rộng trái tim thương người. Đời họ chỉ biết có tiền và tiền. Do đó, mà lòng họ không bao giờ được an ổn thoải mái. Vì túi tham của họ không có đáy, nên họ không khi nào biết đủ. Có một họ muốn có mười, cứ thế mà nhân lên mãi.
Họ bận rộn với công ăn việc làm của họ suốt ngày. Họ luôn say mê với công việc, sự nghiệp. Họ không có mặt với những người thân trong gia đình. Một buổi cơm thân mật đầm ấm trong gia đình, đôi khi cũng không có. Sự có mặt của họ chỉ là những con số tính toán lời lỗ, đôi khi, họ lại gắt gỏng cau có khó chịu. Họ không có mặt với người thân trong sự tươi mát. Họ không bao giờ biết hiến tặng cho người thân của họ bằng sự có mặt tươi mát đó. Tất cả cũng chỉ vì lòng xan tham mà ra. Do đó, mà bản thân và gia đình của họ không bao giờ có được hạnh phúc. Thế mới biết, giàu sang tiền của nhiều, chưa phải là nền tảng để có được hạnh phúc. Đã có biết bao nhà tỷ phú sống trong buồn khổ héo hắt cô đơn cả thể xác lẫn tinh thần. Đó là sự thực của cuộc đời.
Hai pháp cú trên Phật nói rõ, những ai còn có tâm hư ngụy giả dối, tật đố và xan tham, thì dù cho người đó có biện tài nói năng lưu loát đến đâu, hoặc hiện ra bề ngoài như người lương thiện, nhưng thực chất bên trong của họ cũng chỉ là tham lam dối trá mà thôi. Nếu người nào muốn được an vui hạnh phúc cho bản thân và gia đình, thì Phật khuyên nên sống chân thật với chính mình, bằng cách là trừ đi lòng xan tham, ganh ghét sân hận, để cho tâm hồn được thanh thoát nhẹ nhàng. Từ đó, đời sống mới thực sự có ý nghĩa. Bằng không, thì chỉ là người sống suông chết uổng mà thôi !
Về Đầu Trang Go down
https://triamquan.forumvi.com/
Tri Âm Quán
Thành Viên Tích Cực
Thành Viên Tích Cực
Tri Âm Quán


Tổng số bài gửi : 6340
Reputation : 2
Join date : 31/07/2013
Đến từ : Thị Trấn Chũ

Kinh Pháp Cú chú giải (tập 1) - Page 2 Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Kinh Pháp Cú chú giải (tập 1)   Kinh Pháp Cú chú giải (tập 1) - Page 2 EmptySun Nov 16, 2014 12:00 pm

264. Người vọng ngữ và phá giới, dù cạo tóc cũng chưa phải là Sa môn; huống còn chất đầy tham dục, làm sao thành Sa môn?
Not by shaven head does a man who is undisciplined and untruthful become a monk. How can he who is full of desire and greed be a monk?
Kệ tụng
Không tự chế, nói láo
Dầu cạo tóc trọc đầu
Đâu được gọi Sa môn
Ai còn đầy dục ái
Sao được gọi Sa môn?
265. Người nào dứt hết các điều ác, không luận lớn hay nhỏ, nhờ dứt hết các ác mà được gọi Sa môn.
He who wholly subdues evil both small and great is called a monk, because he has overcome all evil.
Kệ tụng
Ai trừ tiệt điều ác
Không luận nhỏ hay lớn
Vì điều phục ác pháp
Được xứng danh Sa môn.
Lược giảng
Hai pháp cú này Phật dạy tại tinh xá Kỳ Viên, có liên quan đến câu chuyện của thầy Hatthaka.
« Chuyện kể rằng, mỗi khi thầy Hatthaka bị thua cuộc trong khi tranh luận, bèn hẹn :
- Hãy đến nơi ấy, nơi kia vào đúng giờ ấy, giờ kia, sẽ kết thúc cuộc bàn cãi.
Và thầy đến trước nơi hẹn và nói :
- Xem kìa ! mấy người ngoại đạo sợ ta đến nỗi không dám đến gặp. Vậy là họ thua cuộc rồi.
Thầy luôn luôn dùng cách ấy nói với đối phương mỗi khi thua cuộc.
Đức Phật nghe nói Hatthaka làm như vậy, bèn gọi thầy đến hỏi :
- Hatthaka có phải ông làm như thế, như thế ?
- Thưa vâng.
- Tại sao ông làm như thế ? Một người làm điều sai quấy không thể gọi là Sa môn, dù đầu họ cạo trọc. Người nào sửa được mọi lỗi lầm lớn nhỏ mới thật sự là Sa môn. Nhân đó, Phật liền nói hai pháp cú này. (Trích nguyên văn Tích Truyện Pháp Cú tập III, Viên Chiếu, tr 93)
Người xuất gia phải lấy giới luật làm thầy. Và phải sống đúng theo phẩm hạnh của người xuất gia. Không thể đánh giá người tu trên hình thức. Hình thức chỉ là bề ngoài, đôi khi dễ nhận diện sai lầm. Phật nói : «người vọng ngữ và phá giới, dù cạo tóc cũng chưa phải là Sa môn». Phật dạy, người xuất gia cạo bỏ râu tóc, mục đích là để khác đi với người thế tục. Vì người đời họ rất quan tâm chú trọng đến hình thức. Đối với thân thể, họ luôn chăm sóc nhan sắc, lúc nào họ cũng muốn làm đẹp. Làm đẹp để gây sự chú ý ở nơi mọi người. Họ quá coi trọng và cung phụng sắc thân. Ngược lại, người xuất gia thì không nên trau tria làm đẹp ở nơi thân thể. Đầu tròn áo vuông, mặc đồ hoại sắc là cốt để ý thức đến sự tu hành, tịnh hóa thân tâm.
Người xuất gia, mỗi sáng sớm thức dậy, Phật dạy, mỗi người cần phải tự xoa đầu. Xoa đầu để tự thức tỉnh rằng, mình là người đã nguyện từ bỏ tất cả, không còn tham ái đắm nhiễm bất cứ thứ gì. Hơn thế nữa, phải hằng tự nhủ rằng, mình là kẻ đang đi ngược dòng đời. Phải có nếp sống đơn giản, tam thường bất túc. Nghĩa là người xuất gia đối với ba thứ ăn, mặc và ngủ nghỉ không nên đầy đủ. Mọi thứ tiện nghi vật chất cũng phải vừa chừng, không được cất chứa dư thừa mà sanh tâm đắm nhiễm, làm tổn đức hạnh của người tu. Xin đừng viện cớ thời đại mà buông lung tâm ý tổn mình, hại người. Nếu sống trái với giới luật, thì bản thân mình đã không được lợi lạc, nói chi đem lại sự lợi lạc đến cho mọi người.
Hatthaka tuy là Sa môn, nhưng thầy đã không sống đúng với một người Sa môn. Vì sợ mất thể diện, nên thầy đã phạm lỗi lầm là lường gạt người khác. Thầy là người thiếu đức tánh tự trọng. Thầy đã coi thường giới luật. Thầy đã hành xử theo tiếng gọi của dục vọng. Đời sống tâm linh của thầy còn quá nghèo nàn. Tâm ý của thầy còn buông thả, thất niệm. Người xuất gia sống không có chánh niệm, thì chưa phải là người xuất gia Sa môn. Phật là người hằng sống trong sự tỉnh thức. Có tỉnh thức là có an lạc. Nếu sống buông lung tâm ý, thì đó là nếp sống sa đọa và sẽ đắm chìm mãi trong biển khổ sanh tử, không biết đến bao giờ mới được thoát ly. Hạnh nguyện của người xuất gia rất cao thượng, chí nguyện cao tột sáng ngời, phải hằng sống đúng theo giới luật Phật dạy. Có thế, thì mới đúng với ý nghĩa của người xuất gia thượng cầu Phật đạo và hạ hóa chúng sanh vậy.
266. Chỉ mang bát khất thực, đâu phải là Tỳ kheo. Chỉ làm nghi thức tôn giáo, cũng chẳng phải Tỳ kheo vậy.
He is not a monk just because he lives on others’ alms. Not by adopting outward form does one become a true monk.
Kệ tụng
Chỉ mang bình khất thực
Đâu phải là Tỳ kheo !
Phải theo giới pháp bổn
Mới xứng danh Tỳ kheo
Khất thực không, không đủ.
267. Bỏ thiện[18] và bỏ ác, chuyên tu hành thanh tịnh, lấy “Biết”[19] mà ở đời, mới thật là Tỳ kheo.
Whoever here (in the dispensation) lives the holy life, transcending both merit and demerit, and walks with understanding in this world – he is truly called a monk
Kệ tụng
Ai bỏ cả thiện ác
Chuyên tu hành thanh tịnh
Lấy hiểu biết ở đời
Mới xứng danh Tỳ kheo
Lược giảng
Hai pháp cú này Phật dạy tại tinh xá Kỳ Viên, có liên quan tới một Bà la môn.
“Có một người Bà la môn từ bỏ gia đình, trở thành tu sĩ ngoại đạo. Khi ông đi khất thực, ông tự nghĩ: “Sa môn Cồ đàm gọi các đệ tử là “Tỳ kheo” khi họ đi khất thực. Ông ấy cũng phải gọi ta là Tỳ kheo”. Ông ta đi đến chỗ Phật và nói:
- Sa môn Cồ đàm, tôi cũng tự nuôi sống bằng cách xin ăn, hãy gọi tôi là Tỳ kheo.
Phật trả lời:
- Này Bà la môn, ta không gọi ai là Tỳ kheo chỉ vì người ấy xin ăn. Người làm tất cả mọi hình thức giống Tỳ kheo cũng không phải Tỳ kheo. Chỉ có người thấy biết như thật về các uẩn và hành trì tương ưng, người ấy thật sự là Tỳ kheo”. Nhân đó, Phật nói pháp cú này. (Trích nguyên văn Tích Truyện Pháp Cú tập III, Viên Chiếu, tr 94)
Người tu chỉ một bề chú trọng nặng về hình thức, thì đó chưa đúng với ý nghĩa của một người thật sự tu hành. Chỉ vì ôm bát đi khất thực để nuôi sống mà gọi đó là Tỳ kheo, thật là chuyện ngớ ngẫn buồn cười. Nếu thế, thì những người tật nguyền đi xin ăn, cũng gọi họ là Tỳ kheo hết hay sao? Vị Bà la môn này, quả thật chưa hiểu rõ ý nghĩa của hai chữ Tỳ kheo. Tỳ kheo nguyên tiếng Phạn là bhikkhu, người Trung Hoa phiên âm là Tỳ (Tỷ) kheo. Tỳ kheo có 3 nghĩa: Khất sĩ, bố ma và phá ác. Khất sĩ có hai nghĩa: 1. Trên là xin giáo pháp của Phật để nuôi lớn pháp thân huệ mạng. 2. Dưới là xin thức ăn của Đàn na thí chủ để trưởng dưỡng xác thân tứ đại hư huyễn.
Bố ma là làm cho các loài quân ma khiếp sợ. Ma có nghĩa là những thứ làm chướng ngại ngăn trở trên bước đường tu hành tiến đến Phật quả. Người tu cần phải vượt qua phá tan những chướng ngại này để chóng đạt thành sở nguyện. Phá ác là diệt trừ mọi thứ phiền não xấu ác trong tâm của hành giả.
Như thế, Tỳ kheo phải là người sống đời phạm hạnh, tự do, không bị bất cứ thứ gì ràng buộc, làm nhiễm ô thể tánh trong sạch. Sống đời sống đơn giản trong sự tỉnh thức. Được thế, mới xứng danh là Tỳ kheo. Phật đã minh định rất rõ: Tỳ kheo phải là người “thấy biết như thật” về các uẩn và phải thật sự hành trì tương ưng với những điều thấy biết đó.
268 – 269. Kẻ ngu muội vô trí, dù làm thinh cũng không thể gọi được là người tịch tịnh. Kẻ trí tuệ sáng suốt như bàn cân, biết cân nhắc điều thiện lẽ ác mà chọn lành bỏ dữ, mới gọi là người tịch tịnh. Biết được cả nội giới và ngoại giới, nên gọi là người tịch tịnh.
Not by observing silence does one become a sage, if he be foolish and ignorant. But that man is wise who, as if holding a balance – scale, accepts only the good.
The sage, (thus) rejecting the evil, is truly a sage. Since he comprehends both (present and future) worlds, he is called a sage.
Kệ tụng
Im lặng nhưng ngu đần
Đâu được gọi ẩn sĩ?
Như người cầm cán cân
Kẻ trí chọn điều lành
Từ bỏ các ác pháp
Mới thật là ẩn sĩ
Ai thật hiểu hai đời
Mới xứng danh ẩn sĩ.
Lược giảng
Hai pháp cú này Phật dạy tại tinh xá Kỳ Viên, có liên quan đến ngoại đạo.
“Các thầy ngoại đạo khi nhận được thức ăn cúng dường thường chúc lành cho chủ nhân:
- Xin chúc các vị bình an, hạnh phúc, tăng thêm tuổi thọ. Các vị sẽ không đến những nơi gai góc, sình lầy như nơi nọ nơi kia.
Như thế, họ hồi hướng phước lành, cảm tạ xong rồi mới đi. Về phần Tăng chúng của Phật, ban đầu chưa hồi hướng, các thầy chỉ nhận vật thực rồi đi. Dân chúng phê bình như sau:
- Chúng ta được nghe lời cám ơn và chúc lành của ngoại đạo, còn các thầy Tỳ kheo thì hoàn toàn im lặng.
Các Tỳ kheo bạch Phật điều ấy. Phật dạy:
- Này các Tỳ kheo, khi ngồi ở phòng ăn hay nơi nào thọ thực, hãy cám ơn thức ăn mình nhận, và nói lời vui lòng chủ nhân khi họ ngồi gần đó.
Như thế, đức Phật ra lệnh cho các Tỳ kheo hồi hướng công đức cho thí chủ. Khi nghe các lời ấy, mọi người cố gắng thỉnh các thầy về nhà thọ thực, và cúng dường rất nhiều. Các ngoại đạo phê bình:
- Chúng ta là thánh và giữ im lặng, còn đệ tử của Cồ đàm nói dông dài trên bàn ăn và các nơi thọ thực.
Khi Phật nghe kể lại, Ngài dạy:
- Ta không gọi người nào thánh chỉ vì họ im lặng. Có nhiều người không nói vì ngu dốt, vì thiếu niềm tin, có khi vì keo kiệt không muốn người khác học hỏi những gì mình biết. Vì thế ta nói người ấy không phải là thánh chỉ vì họ im lặng. Chỉ người nào thoát khỏi dục nhiễm mới là thánh”. Nhân đó, Phật liền dạy pháp cú này. (Trích nguyên văn Tích Truyện Pháp Cú tập III, Viên Chiếu, tr 96)
Pháp cú trên Phật đã xác minh cho chúng ta thấy rõ, không phải chỉ vì làm thinh mà gọi rằng người đó thông suốt hay tịch tịnh. Có người làm thinh giữ thái độ im lặng, chỉ vì họ không hiểu rõ vấn đề nào đó. Phật nói, họ chỉ vì ngu dốt mà làm thinh. Ngược lại, cũng có người làm thinh, vì vấn đề không thể lý luận biện giải. Đọc sách Thiền, ta thấy có nhiều vị Thiền sư, khi được thiền khách hỏi một vấn đề nào đó, vượt ngoài lý giải thường tình, tùy đối cơ mà các Ngài có những hành động thích hợp chuyển hóa: nói, nín, la, hét v.v… Mục đích là để cho người hỏi nhân đó mà trực nhận lại cái bản tâm sẵn có của mình. Đây gọi là tùy cơ phong ứng đáp. Nên việc làm thinh của các Ngài khác hơn người dung muội. Ta cần biện biệt rõ sự khác biệt của hai việc làm thinh này.
Như trường hợp Bồ Tát Văn Thù hỏi Ngài Duy Ma Cật: Thế nào là Pháp môn không hai? Ngài Duy Ma Cật lặng thinh không đáp. Ngài Văn Thù ca ngợi tán thán hết lời. Đến đó mới thật sự là “Pháp Môn Không Hai”. Vì có ngôn ngữ là đã rơi vào nhị nguyên đối đãi rồi. Ngược lại, nếu chúng ta hỏi một người dốt về việc lái chiếc phi thuyền không gian như thế nào, thì chắc chắn là họ sẽ lặng thinh không đáp. Bởi do họ không hiểu mà lặng thinh. Do đó, chúng ta chớ lầm lẫn giữa hai trường hợp làm thinh này. Làm thinh Phật nói ở đây giống như một kẻ ngu dốt mà chúng ta hỏi họ về cách lái xử dụng phi thuyền vậy.
Pháp cú 269, Phật nói, người có trí tuệ sáng suốt, họ khéo biết phân biệt điều thiện lẽ ác, chọn lành bỏ dữ, Phật nói kẻ đó, mới xứng đáng là người tịch tịnh. Tịch tịnh ở đây đồng nghĩa với Định Huệ. Vì có định huệ nên mới biết rõ nội tâm và ngoại cảnh một cách đúng như thật của các pháp.
Qua câu chuyện dẫn chứng trên, Phật quở những ai làm thinh mà cho là Thánh. Đó chẳng qua chỉ vì họ ngu dốt, thiếu niềm tin, keo kiết xẻn pháp, nên không muốn truyền đạt lại những gì mình hiểu cho bất cứ ai. Quả đó là hạng người ích kỷ, chỉ nghĩ đến cái lợi cho riêng mình. Người như thế, sao gọi là Thánh? Phật nói rõ, chỉ người nào thoát khỏi dục nhiễm mới gọi người đó là Thánh vậy.
270. Còn sát hại chúng sanh, đâu được xưng là Thánh hiền[20], không sát hại chúng sanh mới gọi là Thánh hiền.
He is not noble who injures living beings. He is called noble because he is harmless towards all living beings.
Kệ tụng
Còn sát hại sanh linh
Đâu được gọi hiền thánh
Không hại mọi chúng sanh
Mới xứng danh hiền thánh.
Lược giảng
Pháp cú nầy Phật dạy tại tinh xá Kỳ Viên, có liên quan đến một người đánh cá tên Cao Quí.
“Một hôm, đức Phật quan sát thấy người đánh cá này có khả năng chứng quả, nên sau khi khất thực gần cửa thành phía Bắc của Xá vệ, Ngài và chúng tăng trở về qua chỗ người này. Đúng lúc ấy, người đánh cá đang câu cá. Gặp Phật và chư Tăng, Cao Quí bèn ném cần câu và đứng yên. Đức Thế Tôn đứng cách đó không xa, quay lại hỏi tên ngài Xá lợi phất và các vị khác:
- Ông tên gì?
- Con là Xá lợi phất.
- Con là Mục kiền liên.
Người đánh cá nghĩ thầm: “Đức Phật hỏi tên mọi người, chắc sẽ hỏi tên ta”. Phật biết ý quay sang hỏi:
- Này cư sĩ, ông tên gì?
- Bạch Thế Tôn, con tên Cao Quí.
Phật bảo:
- Này cư sĩ, người đoạt mạng sống người khác không thể gọi là Cao Quí. Cao Quí là không bao giờ làm hại ai”. Nhân đó, Phật liền nói Pháp cú này. (Trích nguyên văn Tích Truyện Pháp Cú tập III, Viên Chiếu, tr 98)
Có những người bề ngoài tuy thấy họ hung hăng dữ tợn, nhưng tận thâm tâm của họ vẫn là con người lương thiện hiền lành. Có thể vì một hoàn cảnh nào đó mà họ mới có những thái độ hành động gian ác. Nhưng hạt giống thánh thiện bao giờ cũng tiềm ẩn sâu kín mà người thường không thể thấy biết được. Khi gặp một cơ duyên nào đó, thì hạt giống này sẽ phát khởi rất mạnh. Chỉ có tuệ giác sâu sắc của những người đạt đạo mới có thể nhìn thấy nhận ra dễ dàng thôi.
Chuyện dẫn chứng trên, cho ta thấy rõ điều đó. Cao Quí tuy là một người đang hành nghề câu cá, nuôi sống bằng nghề nghiệp đoản mạng sống của loài khác, đó không thể gọi là người có tâm lương thiện. Nhưng với cái nhìn của Phật, thì Cao Quí không hẳn như thế. Cao Quí đã có sẵn hạt giống thánh thiện. Cao Quí chỉ cần nghe một lời nói của một bậc tu hành có đức độ cao, thì sẽ chuyển đổi tâm xấu ác thành tâm thánh thiện ngay.
Điều đó, nói lên trong mỗi người chúng ta đều sẵn có hai loại hạt giống lành và dữ. Dĩ nhiên, hạt giống dữ chiếm nhiều hơn. Nhưng không vì thế, mà người ta không thể không chuyển hóa nó được. Chỉ cần sống có tỉnh thức, có chánh niệm, tất nhiên, chúng ta sẽ chuyển hóa lần lần và sẽ tiêu diệt hết những hạt giống ác. Điều quan trọng là ta có cố gắng tinh cần để chuyển hóa loại trừ hết những hạt giống ác đó hay không? Sự tu hành chỉ hơn nhau là ở chỗ khéo biết chuyển hóa những phiền não đó thôi. Đó là điều hết sức thực tế mà ta cần nên chú ý.
271 – 272. Chẳng phải do giới luật, đầu đà[21], chẳng phải do nghe nhiều, học rộng, chẳng phải do chứng được tam muội, chẳng phải do ở riêng một mình, đã vội cho là “hưởng được cái vui xuất gia, phàm phu không bì kịp”. Các ngươi chớ vội tin điều ấy, khi mê lầm phiền não của các ngươi chưa trừ.
Not by rules and observances, not even by much learning, nor by gain of absorption, nor by a life of seclusion, nor by thinking, “I enjoy the bliss of renunciation, which is not experienced by the worldling” should you, O monks, rest content, until the utter destruction of cankers (Arahatship) is reached
Kệ tụng
Chẳng phải giữ giới cấm
Cũng chẳng phải nghe nhiều
Hoặc chứng được thiền định
Sống cô độc một mình
Tự xem đã thọ hưởng
Hạnh phúc giải thoát lạc
Phàm phu chưa hưởng được
Tỳ kheo chớ bằng lòng.
Lược giảng
Hai pháp cú này Phật dạy tại tinh xá Kỳ Viên, có liên quan đến vài thầy Tỳ kheo đức hạnh.
“Một vài vị Sa môn đầy đủ đức hạnh tự nghĩ rằng:
- Chúng ta đầy đủ giới đức, chúng ta tu tập theo giáo lý thanh tịnh, chúng ta học rộng, chúng ta sống tịnh cư, chúng ta phát triển thần thông nhờ thiền định. Vì thế, chúng ta chứng A la hán không khó, chúng ta sẽ chứng A la hán bất cứ khi nào.
Cũng như thế, các vị chứng quả A na hàm cũng nghĩ:
- Đối với chúng ta, chứng quả A la hán không khó.
Một ngày kia các vị đi đến chỗ Phật, đảnh lễ và lui ngồi một bên. Phật hỏi:
- Này các Tỳ kheo, các ông đã xong việc chưa?
Các thầy thưa:
- Bạch Thế Tôn, chúng con đã đạt những bậc Thánh như thế đó, khi nào muốn chúng con sẽ chứng quả A la hán. Vì nghĩ như vậy, nên chúng con giữ nguyên vị trí.
Nghe nói thế, Phật dạy:
- Này các Tỳ kheo, không thích đáng cho một Sa môn chỉ vì đã giữ tròn giới luật, hoặc chỉ chứng được Tam quả, và nghĩ rằng: “Chỉ còn chút ít phiền não trong đời hiện tại của ta”. Trái lại, chừng nào lậu hoặc chưa hoàn toàn diệt trừ, người ấy chưa có quyền tự cho rằng mình đã thật sự chứng đắc”. Nhân đó, đức Phật liền nói hai pháp cú này. (Trích nguyên văn Tích Truyện Pháp Cú tập III, Viên Chiếu, tr 99)
Phật nói hai pháp cú này, để minh định dứt khoát trong việc tu hành cầu giải thoát. Không phải lấy việc hành hạ xác thân hay học rộng hiểu nhiều, thậm chí dù có chứng được tam muội, hay tự sống biệt lập ẩn cư nuôi thân, mà vội cho đó là đúng nghĩa phẩm hạnh của người xuất gia. Dù những việc làm này, đối với người thường, thật khó sánh kịp, nhưng không vì thế, mà chúng ta lại vội tin cho đó là người đã thật sự đạt đạo. Nếu phiền não chưa thật sự dứt sạch, thì người đó vẫn chưa đạt được thánh quả. Thế nên, trên bước đường tu hành, ta cần phải thận trọng, không nên đánh giá một cách hời hợt bề ngoài. Muốn đánh giá thử nghiệm người tu tới đâu, còn phiền não hay không, Phật Tổ dạy, ta nên lấy cây thước “Bát phong” ra đo. Đối với tám ngọn gió ( lợi, suy, hủy, dự, xưng, cơ, khổ, lạc ) này khi thổi đến, mà hành giả vẫn thản nhiên bất động, thì đó mới thật sự là thứ thiệt. Bằng ngược lại, thì chưa xứng danh là người đạt đạo. Dù cho người đó có lộng giả thành chơn đến đâu, cũng không thể che giấu qua mắt được người có già dặn kinh nghiệm trong sự tu hành. Muốn biết vàng thiệt cần phải thử lửa.
Thuở xưa, ở vào thời đại nhà Lương bên Trung Hoa, một hôm, vua Lương võ Đế và Hòa Thượng Chí Công đứng trên lầu cao quán sát ngắm cảnh. Nhà vua nhìn thấy những dãy núi đều có tuyết rơi phủ xuống, duy có một ngọn núi không có tuyết rơi. Bấy giờ, nhà vua lấy làm lạ mới hỏi Hòa Thượng Chí Công lý do tại sao? Hòa Thượng Chí Công cho biết, vì trong núi đó, có một vị Thiền sư đang tham thiền nhập định. Vì sức định của nhà sư này rất sâu và có hỏa quang tam muội, nên tuyết không thể rơi xuống được. Vua lấy làm lạ và khen ngợi hết lời.
Sau đó, nhà vua ra lệnh phải mời cho được vị thiền sư đó về triều. Vị thiền sư đó có tên là Suy Hải. Sau khi thiền sư Suy Hải về triều, nhà vua đối xử rất kính trọng. Thiền sư ở trong tịnh thất chuyên tu trải qua thời gian 3 năm, không ra ngoài. Nhà vua khen thầm cho đó là một bậc chân tu.
Hôm khác, nhà vua cùng với Hòa Thượng Chí Công trong khi luận đạo, nhà vua có nêu ra về đạo đức tu hành của thiền sư Suy Hải. Nhà vua tán thán khen ngợi hết lời, cho đó là một bậc chân tu đắc đạo. Nhưng với tuệ giác của Hòa Thượng Chí Công, thì biết rõ vị Thiền sư đó chưa phải là thứ thiệt. Tuy có sức thiền định khá sâu, nhưng lòng chấp ngã vẫn còn sâu nặng. Cho nên, Hòa Thượng Chí Công nói với vua Lương Võ Đế, nếu bệ hạ, muốn biết thiệt giả thế nào, thì nên thử nghiệm là biết liền. Đánh giá người tu, không nên chỉ một mặt nhìn hình thức bề ngoài mà có thể đoán định được. Nhà vua nghe và làm theo lời Hòa Thượng Chí Công.
Lần thử nghiệm thứ nhứt, nhà vua và Hòa Thượng Chí Công ngồi ăn chung một bàn. Đồ ăn rất ngon, toàn là những thứ cao lương mỹ vị. Nào là chén ngọc đủa ngà, dĩa vàng muỗng bạt. Trong khi đó, thì thiền sư Suy Hải, chén sành đủa tre và đồ ăn toàn là những thứ hết sức tầm thường. Như rau muống luộc, tương kho, cà nướng v.v… Mọi người ai nấy đều lặng lẽ ngồi ăn, không ai nói với ai một lời. Ăn xong, Suy Hải đến chào nhà vua và Hòa Thượng Chí Công rồi từ giả quay gót lặng lẽ trỡ về tư thất. Tuy không nói ra, nhưng trong lòng của ngài Suy Hải đã có vẻ bất bình, tức giận.
Lần thử nghiệm thứ hai, nhà vua thiết đãi yến tiệc linh đình. Văn võ bá quan trong triều đều có mặt dự đủ. Nhà vua cho mời các bậc thiền đức cao tăng trong nước về triều tham dự. Tất cả đều ngồi chỗ cao ráo sang trọng. Chỉ có Thiền sư Suy Hải, thì ngồi riêng ở một góc xó không có sang trọng gì. Đồ ăn thì rất là tầm thường.
Sau khi ăn xong, đến phần tặng quà, mọi người đều nhận lãnh toàn là những thứ lụa là gấm vóc đắt giá. Chỉ riêng Thiền sư Suy Hải, thì chỉ nhận được một thứ lụa rẻ tiền nhứt. Tặng quà xong, nhà vua tuyên bố: “sở dĩ hôm nay, trẫm tặng quà cho các khanh mà không được đồng đều, là vì trẫm thấy đạo hạnh của Thiền sư Suy Hải còn quá thấp kém, nên trẫm chỉ tặng cho ngài một thứ lụa thô sơ rẻ tiền nhứt”. Nghe thế, Suy Hải không còn kềm chế được cơn giận tức, liền nổi giận đứng lên tuyên bố với mọi người là ngài không phải thứ hạng người háo danh ham lợi… Ông ta nói với giọng tức giận, lòng sân hận quá mức nên nét mặt tái xanh và rồi ngã té bất tỉnh tắt thở trước mặt mọi người…
Khi đó, tất cả mọi người đều hốt hoảng run sợ, nhứt là nhà vua rất ân hận vì đã hại chết một nhà sư. Nhưng chỉ có Hòa Thượng Chí Công biết rõ sự tình, nên chính Ngài đã cứu thoát Thiền sư Suy Hải khỏi đọa lạc làm thân chim non. Bằng cách là cho một số người đi về hướng Bắc, thấy trên cháng cây nào có ba nhánh de ra, trên đó có một tổ chim và chỉ có một con chim non mới sanh, thì phải bắt đem về cho Hòa Thượng Chí Công. Quả thật, đoàn người đã tìm thấy có con chim non mới sanh, và lạ thay trên lưng của nó có hai chữ Suy Hải. Mọi người rất ngạc nhiên và run sợ. Hòa Thượng Chí Công sau khi chú nguyện cho con chim non rồi, liền liệng xuống đất, chim chết, thần thức nhập vào xác của Thiền sư Suy Hải. Thế là Suy Hải sống lại.
Nếu không có sự cứu độ kịp thời của Hòa Thượng Chí Công, một bậc tu hành đạt đạo, thì thử hỏi hậu quả của thiền sư Suy Hải sẽ như thế nào? Tu hành có sức thiền định thâm sâu như thế, tuyết không thể rơi xuống được, thế mà chỉ vì không chịu nỗi hoàn cảnh thử thách trước mắt, nên lòng sân hận trào dâng lên, rồi phải chết một cách tức tối thê thảm như thế. Thế mới biết, tu hành mà còn chấp ngã nặng, thì thật khó được giải thoát.(Tóm lược cốt chuyện trong quyển Thiền Môn Cảnh Tỉnh Tu Hành).
Trở lại, câu chuyện dẫn chứng trên, đức Phật quở trách những Tỳ kheo này lậu hoặc phiền não chưa diệt trừ hết, thì làm sao có thể chứng được thánh quả A la hán? Ngẫm lại, thời nay, có người tu hành được chút ít kết quả lợi lạc, thì lại hô hào cho rằng mình chứng đắc thế này, thế nọ. Tu hành mà còn thấy có chứng, có đắc, thì đâu phải là người chân tu. Vì sao? Vì còn thấy có ngã tướng. Đã chấp ngã chấp pháp như thế, thì đó không phải là chủ trương của Phật giáo. Kinh Kim Cang Bát Nhã, Phật đã dạy rất rõ về vấn đề này.

XX. PHẨM ĐẠO
(Maggavagga)
273. Bát chánh đạo là đạo thù thắng hơn các đạo, Tứ đế là lý thù thắng hơn các lý, ly dục là pháp thù thắng hơn các pháp, cụ nhãn[22] là bậc thù thắng hơn các bậc thánh hiền.
Of all paths the Eightfold Path is the best; of all truths the Four Noble Truths are the best; of all things passionlessness is the best; of men the Seeing One (the Buddha) is the best.
Kệ tụng
Bát chánh đường thù thắng
Bốn đế, lý thù thắng
Ly dục, pháp thù thắng
Giác nhãn, người thù thắng
274. Chỉ có con đường này[23], chẳng còn con đường nào khác, có thể làm cho tri kiến các ngươi thanh tịnh. Các ngươi thuận làm theo thì bọn ma bị rối loạn.
This is the only path; there is none other for the purification of insight. Tread this path, and you will bewilder Mara.
Kệ tụng
Chỉ đường này độc nhất
Khiến tri kiến thanh tịnh
Nếu ngươi theo đường này
Ma quân sẽ mê loạn
275. Các ngươi thuận tu theo Chánh đạo trên đây, thì khổ não sẽ dứt hết, và biết rằng đạo ta nói có sức trừ diệt chông gai[24].
Walking upon this path you will make an end of suffering. Having discovered how to pull out the thorn of lust, I make known the path.
Kệ tụng
Nếu ngươi theo đường này
Đau khổ được diệt trừ
Hiểu được, diệt gai chướng
Ta dạy ngươi con đường
276. Các ngươi hãy nỗ lực lên! Như Lai chỉ dạy cho con đường giác ngộ. Sự trói buộc của ma vương sẽ tùy sức Thiền định của các ngươi mà được giải thoát.
You yourselves must strive; the Buddhas only point the way. Those meditative ones who tread the path are released from the bonds of Mara.
Kệ tụng
Ngươi hãy tự nỗ lực
Như Lai chỉ thuyết dạy
Người thiền định, tu đạo
Thoát khỏi lưới ma quân
Lược giảng:
Bốn pháp cú trên, Phật dạy tại tinh xá Kỳ Viên, có liên quan đến năm trăm vị Tỳ kheo.
Theo truyện tích, “một hôm, đức Phật sau khi du hành khắp nước, trở về Xá Vệ. Lúc ấy có năm trăm Tỳ kheo bàn tán về những con đường đã đi qua: “ Con đường của làng này bằng phẳng, con đường của làng này gồ ghề, con đường của làng này đầy sỏi đá, con đường của làng này không có sỏi…” Đức Phật nhận thấy các thầy đủ duyên để chứng quả A la hán, bèn đi đến pháp đường, hỏi: Các ông ngồi đây bàn tán việc gì? Khi các thầy thưa xong Ngài dạy:
- Này các Tỳ kheo, những con đường đó chẳng đáng cho chúng ta quan tâm. Một người là Tỳ kheo phải đi theo con đường Thánh Đạo, chỉ có thế mới giải thoát mọi đau khổ”. Nhân đó, Phật nói bốn pháp cú này. (Trích nguyên văn Tích Truyện Pháp Cú tập III, Viên Chiếu, tr 103)
Thời Phật, việc vân du hoằng pháp, không phải có được phương tiện di chuyển sang trọng và tiện lợi như thời nay. Ngày nay, khi đi diễn giảng, hoằng pháp gần hay xa, thông thường, chư Tăng Ni hay đi bằng những phương tiện xe hơi hoặc máy bay. Đức Phật và các vị Thánh chúng thời xưa, chỉ toàn đi bộ đầu trần chân đất, từ nơi này đến nơi khác. Chính vì thế, nên mới có việc bàn tán về những con đường sỏi đá gồ ghề hay bằng phẳng của các vị Tỳ kheo.
Qua những việc bàn luận đó, thực tế, chẳng đem lại lợi lạc gì cho vấn đề tu tập. Chẳng những thế, mà đôi khi còn đưa đến việc tranh cãi hơn thua với nhau. Đã thế, thì chỉ gây thêm phiền não mà thôi! Do đó, mà đức Phật khuyến nhắc các thầy Tỳ kheo không nên bàn luận những việc phù phiếm vô ích đó. Vì đó là những con đường vật lý tương đối, do con người tạo nên. Con đường quan trọng hơn cả đó là con đường Bát Chánh. Chính con đường này, mới có thể đưa các thầy đến chỗ an vui giải thoát hoàn toàn. Chỉ có con đường Bát Chánh, mới thật sự đáng để cho các thầy quan tâm tu học. Bát chánh đạo thuộc về phần Đạo đế, một trong Tứ Diệu Đế. Đạo đế, thì nó đóng vai trò chủ yếu tối ư quan trọng.
Pháp cú 273, tại sao Phật nói “Bát chánh đạo là thù thắng hơn các đạo”? Đây là Phật so sánh cho chúng ta thấy rõ, chỉ có Bát chánh đạo là tám con đường cao thượng nhất, lý thú nhất, vì nó là một chân lý thù thắng. Nó có khả năng đưa hành giả đến chỗ hoàn toàn diệt khổ, trọn hưởng Niết bàn. Ngoài con đường này ra, không có con đường nào khác dẫn hành giả có thể đạt được cảnh giới Niết bàn. Vì đó là con đường, chính do đức Phật chứng nghiệm đạt thành. Thành phần của chúng gồm có: Chánh kiến, chánh tư duy, chánh ngữ, chánh mạng, chánh tinh tấn, chánh niệm, chánh định và chánh huệ.
Nói “Tứ đế là lý thù thắng hơn các lý”, đây là Phật xác minh chỉ bày rõ, về yếu lý quan trọng của Tứ đế. Vì nó là chân lý cao quý, là tiến trình giác ngộ của sự thật hành qua từng giai đoạn. Nó có công năng đưa hành giả đến đầu nguồn của sự sống an lạc và giải thoát. Sự có mặt của khổ đau, và tìm rõ nguyên nhân sự có mặt gây nên khổ đau. Đây là xác minh sự có mặt nhân và quả trong lãnh vực thế gian pháp.
Kế đến, Phật nêu ra và trình bày rõ về sự có mặt nhân và quả xuất thế gian. Đó là sự có mặt của an lạc, của sự chấm dứt khổ đau, tức ly dục, đó là Diệt đế (quả) và đồng thời Phật chỉ bày rõ ngọn nguồn về sự có mặt của những con đường đưa đến để đạt được an lạc giải thoát, đó là Đạo đế (nhân). Với con mắt tuệ giác (cụ nhãn), Phật đã thấy rõ như thế. Dù Phật có ra đời hay không, thì bốn chân lý này vẫn hiển nhiên có mặt trên thế gian này. Phật chỉ là người chứng nghiệm khám phá ra và dạy lại cho chúng sanh mà thôi.
Pháp cú 274, Phật lại minh định rõ cho chúng ta khỏi phải nghi ngờ rằng, “chỉ con đường này, chẳng còn con đường nào khác có thể làm cho tri kiến các ngươi thanh tịnh”. Thanh tịnh là Niết bàn, là giải thoát, là Diệt đế. Con đường này, đó là con đường Bát chánh. Một con đường dẫn đến an lạc không còn nghi ngờ. Đó là con đường đưa chúng ta đến đầu nguồn của hạnh phúc. Nếu chúng ta y cứ vào con đường Bát chánh này mà nỗ lực hành trì, thì lũ giặc vô minh phiền não sẽ không còn có cơ hội khuấy phá làm tâm ta rối loạn nữa. Chúng ta khổ đau, bởi do chúng ta chủ quan nhận định sai lầm. Đó là vì chúng ta thiếu chánh kiến. Chánh kiến là nhận định đúng theo lẽ thật của vạn pháp. Có thể nói, chánh kiến là đầu đường dẫn hành giả thẳng đến cuối đường Niết bàn. Chánh kiến thật là quan trọng cho một hành giả tu theo đạo Phật. Có chánh kiến, thì các pháp không thể lường gạt được ta.
Pháp cú 275, Phật tán thán những ai đã thật hành đúng theo Bát chánh đạo, thì mọi khổ não sẽ dứt hết. Và mọi chông gai, ý chỉ cho những thứ cội rễ phiền não tham, sân, si, sẽ không còn. Chừng đó, hành giả mới thật sự hoàn toàn giải thoát.
Pháp cú 276, một lần nữa, Phật lại nhấn mạnh về yếu tính quan trọng của con đường diệt khổ. Phật kêu gọi mọi người hãy tự mình nỗ lực hành trì đúng theo những gì mà Phật đã chỉ dạy. Đạo Phật chú trọng nhắm thẳng vào phần thực nghiệm hơn là lý thuyết suông. Phật chỉ cho mọi người thấy rõ con đường giác ngộ giải thoát, còn việc thật hành hay không là còn tùy ở nơi mỗi người.
Công thức làm bánh không thể làm cho chúng ta no bụng được. Công thức chỉ có nhiệm vụ hướng dẫn chúng ta phải làm bánh đúng cách. Nếu làm sai, đó là lỗi của người làm bánh, chớ không phải lỗi ở nơi người lập ra công thức. Cũng thế, Phật chỉ là người tạo ra công thức chỉ dẫn con đường đưa đến diệt khổ. Nếu chúng ta y cứ vào lời chỉ dạy của Phật mà nỗ lực thật hành, thì chắc chắn chúng ta sẽ đạt được kết quả là chấm dứt khổ đau. Theo luật nhân quả, ai ăn nấy no, ai học nấy biết chữ. Không ai ăn thế hay học thế cho ai. Khổ vui do mỗi người tự quyết định lấy. Phật chỉ giúp cho chúng ta một cánh tay. Còn lại một cánh tay, đó là phần vụ của mỗi người chúng ta.
Bát chánh đạo là con đường thiền quán rất quan trọng. Người tu Phật mà không ứng dụng theo con đường thiền quán này, thì đó là một khuyết điểm thiếu sót rất lớn. Vì có thiền quán, chúng ta mới nhìn sâu vào bộ mặt thật của các pháp. Trí huệ là chủ động dẫn đầu trong sự thiền quán này. Có trí huệ hằng chiếu soi, thì mọi thứ vọng tưởng vô minh sẽ không còn. Nói cách khác, hành giả luôn sống có tỉnh thức, chánh niệm, thì mọi thứ dục vọng sẽ không còn có cơ hội bộc phát. Nhờ đó, mà hành giả sẽ được an lạc hạnh phúc.
Về Đầu Trang Go down
https://triamquan.forumvi.com/
Tri Âm Quán
Thành Viên Tích Cực
Thành Viên Tích Cực
Tri Âm Quán


Tổng số bài gửi : 6340
Reputation : 2
Join date : 31/07/2013
Đến từ : Thị Trấn Chũ

Kinh Pháp Cú chú giải (tập 1) - Page 2 Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Kinh Pháp Cú chú giải (tập 1)   Kinh Pháp Cú chú giải (tập 1) - Page 2 EmptySun Nov 16, 2014 12:01 pm

277. “Các hành[25] đều vô thường[26]”; khi đem trí tuệ soi xét được như thế, thì sẽ nhàm lìa thống khổ. Đó là đạo thanh tịnh.
“All conditioned things are impermanent” – when one sees this with wisdom, one turns away from suffering. This is the path to purification.
Kệ tụng
“Các hành là vô thường”
Nhờ trí quán xét vậy
Sẽ nhàm chán thống khổ
Chính là đạo thanh tịnh
278. “Các hành đều là khổ”; khi đem trí tuệ soi xét được như thế, thì sẽ nhàm lìa thống khổ. Đó là đạo thanh tịnh.
“All conditioned things are unsatisfactory” – when one sees this with wisdom, one turns away from suffering. This is the path to purification.
Kệ tụng
“Các hành là thống khổ”
Nhờ trí quán xét vậy
Sẽ nhàm chán thống khổ
Chính là đạo thanh tịnh
Lược giảng
Hai pháp cú này Phật dạy tại tinh xá Kỳ Viên, có liên quan đến năm trăm thầy Tỳ kheo.
Theo truyện tích, “có năm trăm vị Tỳ kheo nhận đề tài thiền định từ đức Phật, và cố gắng nỗ lực tối đa ở trong rừng, nhưng không chứng quả A la hán. Các vị trở lại xin Phật đề tài khác thích hợp hơn. Nhận thấy rằng các Tỳ kheo này, vào thời Phật Ca Diếp, đã chuyên chú thiền quán trong hai ngàn năm về đề tài Vô Thường. Vậy Vô Thường là đề mục mà ta sẽ giảng. Nghĩ thế, Phật bèn dạy:
- Này các Tỳ kheo, trong cõi này và cõi khác, tất cả pháp hữu vi do không thật nên điều bị chi phối bởi vô thường”. Nhân đó, Phật dạy hai pháp cú này. (Trích nguyên văn Tích Truyện Pháp Cú tập III, Viên Chiếu, tr 106)
Nói: “chư hành vô thường”, là Phật chỉ chung cho mọi hiện tượng thuộc các pháp hữu vi vô thường. Dù vật lý, sinh lý hay tâm lý, tất cả đều là vô thường. Không có một hiện tượng nào đứng yên một chỗ. Vạn vật đều luôn luôn đổi thay. Có thể nói, vô thường là đề tài muôn thuở. Dù có Phật ra đời hay không có Phật ra đời, thì vạn vật ở thế gian này, không một vật nào thoát khỏi định luật vô thường.
Khi quán sát về lý vô thường, tất nhiên là ta phải dùng trí huệ để quán sát. Nên Pháp cú trên (277) Phật nói, đem trí huệ xét soi, thì mới nhàm lìa thống khổ. Vô thường, nếu xét kỹ ta thấy nó có hai phương diện: lợi và hại.
1. Đứng về mặt lợi của vô thường.
Nhờ có vô thường đổi thay nên vạn vật mới có tiến bộ. Nếu vật nào đứng nguyên vị thế của vật ấy, thì thử hỏi cuộc sống này còn gì có ý nghĩa? Chẳng những thế, mà muôn loài không thể nào sinh tồn được. Như chúng ta ăn thức ăn vào, giả như không có vô thường tiêu hóa, vật nào còn nguyên vẹn vật đó, thì thử hỏi làm sao chúng ta có thể sống được? Và như thế, chắc chắn nhơn loại sẽ vắng bóng trên hành tinh này.
Ta thử nghĩ, nếu một đứa bé sanh ra, rồi cứ đứng yên vị thế mà khóc la, không lớn lên, thì thử hỏi nhơn loại sẽ ra sao? Và như thế thì chắc là tuyệt chủng mất. Vạn vật đều định hình như thế, thì đâu còn là sự sống. Vì tất cả không có đổi thay. Như thế, thì làm sao có tiến bộ? Xã hội này, sẽ không còn là xã hội loài người nữa. Vì nhờ có vô thường, muôn vật đổi thay, sự sống mới hanh thông trôi chảy tiến hóa. Và như thế thì sự sống mới thực sự có ý nghĩa.
Từ cá nhân, gia đình, cho đến xã hội, nói chung là muôn loài mới có sinh động hứng thú để sống. Mọi hiện tượng vật lý, sinh lý, tâm lý, đều đổi thay, nên cuộc sống mới vươn lên có ý nghĩa. Đó là, chúng ta xét một cách khái quát về sự lợi ích của vô thường. Như vậy, vô thường không phải đưa người ta vào hố sâu bi quan, mà trái lại làm cho người ta trở nên lạc quan vui sống hơn. Vì nhờ vô thường mà tất cả đều đổi mới và luôn đổi mới từng giây phút. Nhờ đó, mà người ta lại yêu đời hơn. Bởi cuộc sống luôn trôi chảy, chuyển hóa, đổi mới nên nhơn loại mới có nhiều hy vọng vươn lên để làm đẹp cho mình và cuộc đời.
2. Đứng về mặt hại của vô thường.
Vô thường là một họa hại lớn của thế gian. Vì mọi vật trên đời, không vật nào tồn tại theo thời gian. Mọi vật đều bị luật vô thường chi phối đào thải, cướp mất tất cả. Từ cảnh vật chung quanh, cho đến thân tâm ta, tất cả đều luôn đổi thay biến dịch và hủy diệt. Dù người ta có cố gắng hết sức, vận dụng mọi kỹ thuật máy móc tối tân, để quyết tâm tạo dựng bao nhiêu thứ rắn chắc bền bỉ hầu thi đua đối phó với thời gian, nhưng tất cả việc làm đó, chỉ là hoài công vô ích mà thôi. Bởi vì, dù cho nguyên liệu hay vật liệu có rắn chắc bền bỉ đến đâu, nhưng dưới sức bào mòn đẻo gọt của búa thời gian, thì không có một vật thể nào có thể tồn tại lâu dài được. Rắn chắc như núi đá mà cũng còn phải tiêu mòn, đừng nói chi đến những vật khác.
Vật đổi sao dời, biển xanh hóa thành ruộng dâu, đó là một luật định từ xưa nay không vật nào thoát khỏi. Vì vô thường là một định luật tự nhiên. Không ai có tài nào chống chọi lại với thời gian. Dù khoa học có tiến bộ đến đâu, cũng không thể nào đọ sức với vô thường được. Từ cảnh vật cho đến con người không vật nào và cũng không có ai thoát khỏi vô thường. Nhìn theo chiều thời gian vô tận, thì đời người thật là ngắn ngủi. Ngắn ngủi như một giấc chiêm bao, thấy đó rồi mất đó.
Quán sát tường tận về vô thường sanh diệt ở nơi bản thân ta, ta thấy nó thay đổi từng tế bào. Nó biến dịch thay đổi từng sát na. Theo thời gian, con người sanh ra rồi lớn lên. Mới ngày nào xuân sanh, không mấy chốc nhìn lại đã bạc đầu. Sanh, già, bệnh, chết, đó là bốn quy trình mà bất cứ ai cũng phải trải qua. Vì đó là quy luật của đời người hệ thuộc vào lý vô thường sanh diệt. Vì vô thường nên mới có biến hoại, diệt vong.
Nhờ quán sát như thế, ta mới thức tỉnh mà cố gắng gia công nỗ lực tu hành. Vì thấy cuộc đời của ta sao quá mỏng manh thật thua sợi chỉ mành. Thời gian năm tháng ngày giờ luôn luôn đẻo gọt bào mòn thân xác ta. Do ý thức được lý vô thường, cái chết xảy ra cho ta bất cứ lúc nào, thậm chí tiền bạc của cải tài vật mà ta đã tạo ra, rốt lại cũng không còn gì! Bản thân ta, ta còn không giữ được, nói gì đến vợ con ta hay tài sản của ta. Nhờ hiểu và quán sát tường tế như thế, thì ta sẽ không còn mê say đắm nhiễm theo ngũ dục lạc thế gian nữa. Đồng thời, mọi tranh chấp hơn thua với cuộc đời, ta cũng không còn đam mê tranh giành cấu xé nhau nữa. Bởi đời người quá ngắn ngủi, giống như con phù du sáng sanh chiều chết. Quán sát thế rồi, ta mới khởi tâm nhàm lìa mọi vật dục ở thế gian. Từ đó, ta mới quyết tâm cố gắng tu hành để mong cầu thoát ly sanh tử khổ hải vậy.
279. “Các pháp đều vô ngã”; khi đem trí tuệ soi xét được như thế, thì sẽ nhàm lìa thống khổ. Đó là đạo thanh tịnh.
“All things are not-self” – when one sees this with wisdom, one turns away from suffering. This is the path to purification.
Kệ tụng
“Các hành là vô ngã”
Nhờ trí quán xét vậy
Sẽ nhàm chán thống khổ
Chính là đạo thanh tịnh
Lược giảng
Cũng theo câu chuyện kể trên, đức Phật lại dạy tiếp cho các thầy Tỳ kheo về lý thuyết vô ngã. Đọc qua pháp cú trên, ta nên chú ý đến ý nghĩa của những cụm từ: “các pháp đều vô ngã, đem trí tuệ soi xét, nhàm lìa thống khổ, và đó là đạo hạnh thanh tịnh”.
Tại sao Phật nói các pháp đều vô ngã? Vô ngã là không có cái ta chân thật. Vạn pháp sinh thành là do duyên khởi. Vì “cái này có nên cái kia có, vì cái này không nên cái kia không, vì cái này diệt nên cái kia diệt, vì cái này sanh nên cái kia sanh”. Các pháp tụ hợp nương nhau mà thành. Trong đó, tuyệt đối không có cái chủ thể cố định. Vì vậy, khi phân tích sâu vào phần giáo lý duyên sinh, ta thấy rõ vô ngã tính của các pháp. Theo giáo lý Nguyên Thủy, tức các Kinh A Hàm, thì Phật nói, cái xác thân mà chúng ta đang mang đây, nó kết hợp bởi hai phần: vật chất và tinh thần. Về phần vật chất là do bốn yếu tố: đất, nước, gió, lửa cấu thành. Nói theo khoa học ngày nay, là do các tế bào cấu tạo hình thành. Còn phần tinh thần cũng do bốn thứ: thọ, tưởng, hành, thức, tạo thành trạng thái tâm lý. Như vậy, phân tích cho cùng thì cái thân tâm của ta đây chỉ là do ngũ uẩn giả hợp, thực thể của nó là không, tức không có cái gì làm chủ tể, đó là vô ngã.
Xét sâu xa hơn, thì cái thân này ngay từ khi mới hình thành, đã là do tinh cha huyết mẹ và thần thức gá vào tạo thành cái thai bào. Như thế, ngay từ buổi đầu đã là do duyên hợp rồi. Khi đủ ngày tháng sanh ra, thì đứa hài nhi phải nương nhờ tứ đại bên ngoài để nuôi sống. Nếu như đứa bé không có uống sữa, không hít thở không khí trời đất ban cho, không có sự chăm sóc kỹ lưỡng của cha mẹ v.v… thì thử hỏi nó có thể sống còn được không? Khi đứa bé lớn lên, nó phải tiếp tục vay mượn tứ đại bên ngoài nhiều hơn để nuôi lớn thân thể. Về tinh thần, thì cũng phải vay mượn học hỏi ở nhà trường mới có được kiến thức.
Tóm lại, cuộc sống của chúng ta từ lúc mới sanh ra cho đến ngày nhắm mắt lìa đời, tất cả đều phải nhờ vay mượn mà tồn tại. Đã vay mượn, thì có cái gì là thật mình đâu! Theo nguyên lý vô ngã, cái gì do duyên sinh, thì cái đó không thật có. Cái không thật có, thì không phải vô ngã là gì? Như vậy, xét cái thân này, ngay từ buổi đầu đã là vô ngã rồi. Với cái nhìn sắc bén của tuệ giác, thì không phải đợi đến cái thân xác này tan rã, chúng ta mới thấy là không thật có, mà phải thấy ngay khi thân thể này còn đang sinh hoạt tồn tại, tự nó đã là vô ngã không thật rồi. Không thật có cái thật ngã, chớ không phải là không có cái giả ngã.
Đó là xét về thân tâm ta là như thế. Còn xét ra bên ngoài như cái nhà ta đang ở, không phải cái nhà tự nhiên mà có. Cái nhà chỉ là tên rỗng giả danh không thật. Muốn có cái nhà ở, tất nhiên, phải hội đủ các điều kiện hợp lại tạo thành. Như ta là người đứng ra chủ động xây cất, tất nhiên, là phải nhờ đến những thứ khác nữa như: thợ, nhân công, và các thứ vật liệu v.v…
Nhờ hội đủ các điều kiện như thế, thì căn nhà mới hình thành. Nếu như chỉ có đơn độc một mình ta, thì thử hỏi làm sao xây dựng được căn nhà? Ta chỉ là cái chánh nhân để tạo thành, còn những thứ khác đều là trợ duyên. Thế thì, do đủ duyên hợp lại tạo thành, hết duyên thì nó tan rã. Chỉ có thế thôi. Do đó, nên nói cái nhà là không có thật tánh. Nói cách khác, từ các thứ không phải là cái nhà, (như người và các thứ vật liệu) đủ điều kiện hợp lại tạo thành cái nhà, nên thực thể của cái nhà là không. Nên nói, cái nhà là vô ngã. Từ đó suy ra, mọi thứ hiện tượng trên đời này, nhỏ như hạt bụi, lớn như quả địa cầu thãy đều là như thế cả.
Chúng ta nên nhớ rằng, nói các pháp vô ngã là đứng về mặt không gian mà nói. Như trên đã nói, lý thuyết vô ngã được xây dựng trên nền tảng của lý thuyết duyên sinh. Rời lý thuyết duyên sinh, thì không có lý thuyết vô ngã. Mà duyên sinh là do sự kết hợp nhiều vật thể tương quan hình thành theo chiều không gian. Còn nói vô thường là đặt định trên chiều thời gian.
Muốn hiểu được lý duyên sinh vô ngã, tất nhiên chúng ta phải vận dụng trí huệ bát nhã để soi sáng phân tích cho tường tận. Thế nên, Phật dạy chúng ta phải đem trí huệ soi xét. Vì đây là vấn đề tối hệ trọng trong sự nhận thức. Có nhận định đúng đắn khế hợp chân lý như thế, thì sự tu hành của chúng ta mới mong có kết quả an lạc giải thoát. Bằng ngược lại, thì dễ rơi vào con đường tà kiến.
Có quán chiếu phân tích sâu vào như thế, nên kế tiếp Phật nói là chúng ta mói có thể nhàm lìa mọi thống khổ. Cái nỗi thống khổ lớn nhứt của con người là do mê lầm chấp ngã mà ra. Ai cũng chấp cái thân tâm này là thật có. Từ cái nhận định mê lầm đó, nên người ta mới tạo ra không biết bao nhiêu thứ nghiệp ác, để rồi phải chiêu cảm lãnh thọ bao nhiêu thứ khổ đau. Nhơn loại ngày nay, không có phút giây nào được sống an ổn hạnh phúc, tất cả đều do nặng lòng chấp ngã, chấp pháp mà ra.
Trong thì chấp ngã, ngoài thì chấp pháp. Thậm chí những vật do mình tạo ra, cũng chấp chặt cho là thật của mình. Trong kinh thường gọi là chấp ngã và ngã sở. Nhưng chúng ta đừng quên rằng, cái ta còn không thật có, nói gì đến tài sản của cải ngoài thân ta. Nhớ lại, pháp cú 62 ở Phẩm Ngu, Phật dạy: “Đây là con ta; đây là tài sản ta, kẻ phàm phu thường lo nghĩ như thế, nhưng chẳng biết chính ta còn không thiệt có, huống là con ta hay tài sản ta”? Phật dạy như thế, nhưng tiếc thay! lòng tham dục của con người thật quá lớn không ngằn mé, họ muốn ôm hết cả vũ trụ vào lòng cũng chưa vừa ý. Tham mà không được thì nổi sân. Từ đó, nên nhơn loại mới gây ra bao thảm cảnh chiến tranh, khủng bố tàn sát lẫn nhau. Tất cả đều do lòng si mê chấp ngã, chấp pháp mà ra.
Muốn bớt đi lòng tham lam chấp ngã và chấp pháp này, Phật dạy chúng ta phải dùng trí huệ quán chiếu thật sâu vào lý duyên sinh vô ngã. Vì mọi vật trên đời, không có thứ gì tồn tại. Bám chặt ôm ấp mọi vật vào mình, cuối cùng, không được thứ gì cả! Nắm bắt vào sự vật khác nào như nắm bắt một làn hương, hay như ôm ấp một giấc mộng. Chúng ta nên nhớ rằng, các pháp hữu vi chỉ là huyễn ảo, bọt bóng, sương khói, khác nào như hoa đốm giữa hư không. Thế thì, bám chấp vào nó chỉ là làm một việc mò trăng dưới nước chỉ hoài công vô ích mà thôi! Do hằng để tâm quán chiếu như thế, thì cường độ của lòng tham lam sân hận của chúng ta sẽ giảm đi rất nhiều.
Là Phật tử, thiết nghĩ, chúng ta nên vâng lời Phật dạy, hằng ngày tập tu theo hạnh thiểu dục tri túc. Càng ít muốn biết đủ, thì thân tâm của chúng ta mới được an thoát nhẹ nhàng. Khi tâm được an thoát, thì mới hợp với lẽ đạo thanh tịnh, và chúng ta mới thực sự có hạnh phúc, nên Phật nói: “đó là đạo hạnh thanh tịnh”.
280. Khi đáng nỗ lực không nỗ lực, thiếu niên cường tráng đã biếng lười, ý chí tiêu trầm và nhu nhược; kẻ biếng nhác ấy làm gì có trí để ngộ đạo!
The idler who does not exert himself when he should, who though young and strong is full of sloth, with a mind full of vain thoughts – such an indolent man does not find the path to wisdom.
Kệ tụng
Khi cần không nỗ lực
Tuy trẻ mạnh, nhưng lười
Chí tiêu trầm, nhu nhược
Sao có trí ngộ đạo?
Lược giảng
Pháp cú này, đức Phật dạy tại tinh xá Kỳ Viên, có liên quan đến Tôn giả Padhànakammika Tissa.
Theo truyện tích kể lại, có năm trăm thanh niên thành Xá Vệ theo Phật xuất gia, nhận đề tài thiền quán từ đức Phật và đi vào rừng. Trong số đó, có một thầy tỏ ra giải đãi, không lo tu, còn những vị khác thì nỗ lực tinh tấn tu hành, kết quả đều chứng quả A la hán. Còn thầy Tissa, vì lười biếng nên không chứng được gì.
Sau đó, các thầy trở về tinh xá bạch Phật về thành quả đạt được. Trên đường về, các thầy đi khất thực ngang qua một ngôi làng cách Xá Vệ một dặm, khi đó có một tín đồ mời các thầy ngày mai đến nhà để thí chủ đó cúng dường vật thực. Các thầy nhận lời. Về đến tinh xá, các thầy được đức Thế Tôn ân cần hỏi han về thành quả đạt được. Tất cả đều vui mừng. Chỉ có thầy Tissa không vui, vì thầy chưa chứng thánh quả. Do đó, thầy thầm nghĩ và quyết định ngay ngày hôm nay, ta phải nỗ lực gia công thiền định để được chứng quả. Có thế, thì Đức Thế Tôn mới tiếp xúc nói chuyện với ta.
Trong khi đó, các thầy khác bạch Phật về việc đã nhận lời thọ trai ở nhà một thí chủ. Sáng mai, các thầy sẽ lên đường. Nhưng rất tiếc, tối đêm hôm đó, thầy Tissa suốt đêm không ngủ, đi tới đi lui, cuối cùng, vì quá buồn ngủ nên thầy bị té nhằm một ghế đá, gãy chân, thầy kêu lên đau đớn. Các thầy khác mãi lo chăm sóc cho thầy Tissa, nên trễ nãi không đi đến nhà thí chủ thọ trai được.
Sau khi Phật hỏi và biết rõ duyên cớ, Phật nói:
- “Này các Tỳ kheo, người nào không trỗi dậy đúng giờ, ý chí yếu ớt và lười biếng, người ấy không bao giờ phát triển thiền định và chứng thánh quả”. ( Hết phần lược dẫn cốt chuyện ). Nhân đó, Phật dạy pháp cú này.
Lười biếng là kẻ thù của tinh tấn. Đó là hai phạm trù đối nghịch nhau. Dù trong đạo hay ngoài đời hay bất cứ ở vào đẳng cấp giai tầng nào, nếu thiếu đi đức tính tinh tấn, thì không thể nào đạt được kết quả thành công trong sự nghiệp. Sự nghiệp ở thế gian, dù hạng người nào, ai ai cũng muốn có công danh, quyền cao, chức trọng, nhà cao cửa rộng, đời sống giàu sang, lắm bạc nhiều tiền. Muốn thế, không phải ăn không ngồi rồi mà được, tất nhiên, người ta phải tranh thủ với thời gian mà gia công nỗ lực học hỏi hoặc làm việc không ngừng. Dù làm việc bằng khối óc hay chân tay, ai ai cũng phải tranh thủ tiếc nuối chạy đua theo thời gian.
Xưa kia, Nguyễn Công Trứ (1778- 1858) ông vừa là một nhà thơ cũng vừa là một nhà quan. Trên bước đường công danh sự nghiệp của ông, ông trải qua gặp nhiều nỗi gian truân lận đận lao đao, nhưng ông đã quyết chí vượt qua mọi chướng ngại để trở thành con người “kinh bang tế thế” và là một nhà thơ lớn trong nền văn học Việt Nam của tiền bán thế kỷ thứ 19. Trong số những bài thơ của ông có một bài mà ông đã nêu cao chí khí hùng tráng của kẻ làm trai. Bài thơ với danh đề là: “Chí Nam Nhi”.
Thông minh nhất nam tử
Yếu vi thiên hạ kì
Trót sanh ra thời phải có chi chi
Chẳng lẽ tiêu lưng ba vạn sáu?
Đố kị sá chi con tạo
Nợ tang bồng quyết trả cho xong.
Đã xông pha bút trận thì gắng gỏi kiếm cung
Làm cho rõ tu mi nam tử
Trong vũ trụ đã đành phận sự
Phải có danh mà đối với núi sông
Đi không chẳng lẽ về không
(Trích trong tập Thơ Văn Việt Nam Chọn Lọc, Nhà Xuất Bản Đồng Nai tr 49)
Sự nghiệp công danh ở thế gian chỉ là hư ảo, phù phiếm giả tạm, mà người ta còn phải lao tâm khổ tứ, cật lực siêng năng làm việc như thế, hà tất gì sự nghiệp ở trong đạo. Một sự nghiệp siêu xuất thế gian. Sự nghiệp của người xuất gia là phải nỗ lực tu hành đạt thành Phật quả. Đã thế, thử hỏi tu hành lơ là giải đãi, thì làm sao chúng ta thành tựu được đạo quả?
Qua câu chuyện lược dẫn trên, chứng minh cho ta thấy, thầy Tỳ kheo Tissa đã coi thường sự nghiệp tu chứng, nên thầy không chịu gia công nỗ lực thiền quán để gạn lọc khử trừ phiền não, trong khi đó, các thầy khác, thì lại gia công nỗ lực quyết chí tinh cần thiền định nên kết quả đã chứng quả A la hán.
Pháp cú trên, Phật đã nhấn mạnh và thức nhắc cho tuổi trẻ, với lứa tuổi thanh xuân trẻ trung căn tràn đầy nhựa sống, tinh thần minh mẫn, dồi dào năng lực, thế mà không lo siêng năng tu hành, gia công quán chiếu thiền định, đợi đến lúc già thân thể bạc nhược yếu đuối, thì thử hỏi làm sao có đủ tinh thần minh mẫn và thân thể tráng kiện để tinh tấn tu hành? Người tu, quan trọng nhứt là ở nơi ý chí. Nếu người có ý chí xung thiên, thì không có một trở ngại lực nào mà có thể ngăn cản được bước tiến hành đạo của họ. Chỉ sợ ý chí bạt nhược tiêu trầm, thiếu nhuệ khí cương quyết, gặp chướng ngại một chút là giải đãi, chùn bước thối chí nản lòng. Người như thế, thì Phật nói, không làm gì thành tựu được đạo nghiệp.
Lười biếng là con đẻ của trụy lạc, sa đọa. Đã thế, thì làm gì nói đến chuyện tồi phục tứ ma và ra khỏi lao ngục tam giới. Muốn ra khỏi ngôi nhà phiền não và lao tù ba cõi, tất nhiên, người xuất gia phải hằng chuyên cần tinh tấn, nỗ lực công phu thiền định, tịnh hóa thân tâm. Ngày đêm phải thường xuyên thúc liễm thân tâm, trau dồi giới đức, phản quan tự kỷ, nhìn rõ lại ở nơi chính mình. Có nhìn kỹ lại mình, chúng ta mới có thể kiểm nhận được từng vọng niệm dấy khởi, để mà hàng phục chúng.
Ở một tầng thấp, thì Phật dạy, người tu nên nuôi dưỡng niệm lành, tiêu trừ niệm ác, cố gắng gìn giữ đừng cho niệm ác sanh khởi. Do có niệm lành, nên chúng ta mới thể hiện ra ở nơi ba nghiệp lành. Ở một tầng cao hơn, thì Phật dạy, không nên nuôi dưỡng niệm nào cả. Vì niệm lành hay niệm dữ, cả hai đều làm cho tâm ta bất an. Chỉ khi nào bặt dứt hết mọi vọng niệm lành dữ, thì khi ấy tâm thể ta mới thực sự được trong sáng an lạc thanh tịnh. Như thế, là ta đã thành công trên bước đường tu hành rồi vậy.
281. Thận trọng lời nói, kềm chế ý nghĩ, thân không làm ác, ba nghiệp thanh tịnh, là được đạo Thánh nhơn.
Let a man be watchful of speech, well controlled in mind, and not commit evil in bodily action. Let him purify these three courses of action, and win the path made known by the Great Sage.
Kệ tụng
Ý điều, lời thận trọng
Thân không làm điều ác
Ba nghiệp nầy thanh tịnh
Chứng đạo thánh nhân dạy
Lược giảng
Pháp cú này, Phật dạy tại tinh xá Trúc Lâm, có liên quan đến một con quỷ đầu heo.
Theo truyện tích, một hôm thầy Mục kiền liên và thầy Lakkhana xuống núi Kỳ xà quật. Đến một chỗ nọ, bỗng nhiên, thầy Mục kiền liên mỉm cười. Thấy thế, thầy Lakkhana liền hỏi duyên cớ, thầy Mục kiền liên không trả lời và bảo khi đến trước đức Thế Tôn thì thầy mới nói.
Sau khi khất thực, cả hai đồng trở về tinh xá Trúc Lâm và ra mắt đức Phật. Khi ấy, thầy Lakkhana mới hỏi thầy Mục kiền liên về lý do khi nãy tại sao đang đi thầy cười? Bấy giờ, thầy Mục kiền liên trình bày về việc chính mắt thầy trông thấy một con quỷ hình thù to lớn cao gần một dặm, dáng người như đầu heo, trong miệng mọc ra một cái đuôi đầy dòi bọ lúc nhúc. Thật tôi chưa từng thấy hình thù một con vật nào kỳ quái như thế.
Qua lời tự thuật của thầy Mục kiền liên, đức Phật cũng xác chứng như thế. Trước kia, Ngài cũng đã từng thấy con quỷ này, khi Ngài còn ngồi dưới cây Bồ đề. Nhưng từ đó đến nay, đức Phật chưa từng nói với ai về việc đó. Bởi đức Phật sợ nói ra người ta không tin. Bây giờ, có Ngài Mục kiền liên đã thấy, nên đức Phật mới nói.
Nhân đó, đức Phật kể tiếp về tiền kiếp của con quỷ này. Phật nói, vào thời đức Phật Ca Diếp, có hai huynh đệ sống chung hòa thuận trong một tu viện. Cả hai đều trọng tuổi, một người 60 và người kia 59 tuổi. Sư đệ kính thờ hầu hạ sư huynh như một chú tiểu hầu thầy.
Hôm nọ, có một thầy giảng sư từ phương xa đến chỗ họ ở. Sau khi nghe pháp, cả hai đều tỏ ra tôn kính khoản đãi vị giảng sư đó rất mực. Và cả hai đều bày tỏ thỉnh vị giảng sư đó ở lại tu viện để giảng thuyết cho họ nghe. Hôm sau họ đưa vị khách đó vào làng khất thực.
Ngày kia, thấy vắng bóng hai người huynh đệ, mọi người mới hỏi vị khách đó và ông ta cho họ biết là hai người đó, họ có mối bất hòa, nên không đi khất thực. Mọi người không tin. Thực tế, thì hai người đang âm thầm hờn giận ganh tỵ trách móc với nhau vì sự có mặt của vị giảng sư đó. Sư huynh nghi ngờ sư đệ cho rằng, sư đệ nói xấu và còn bảo người khách đó đừng liên hệ với ông ta. Ngược lại, thì người sư đệ cũng âm thầm nghĩ thế.
Trải qua một thời gian rất lâu xa, tình cờ hai người gặp lại nhau trong một tu viện và lại ở chung một phòng. Nhân đó, hai người mới giải bày với nhau về việc huynh đệ bất hòa. Vở lẽ ra, hai người mới biết là mắc phải mưu kế ly gián của vị giảng sư kia. Mục đích là để cho hai huynh đệ giận hờn nhau rồi bỏ đi để ông ta chiếm cứ tu viện. Khi biết rõ sự tình, hai huynh đệ trở về tu viện cũ và vạch trần âm mưu của vị giảng sư đó. Hai huynh đệ lập tức trục xuất vị giảng sư đó ra khỏi tu viện. Sau khi chết, vị giảng sư đó rơi vào địa ngục A tỳ. Mãn kiếp địa ngục, bây giờ, ông ta phải mang thân hình con quỷ khổ sở như thế. Sau khi kể xong câu chuyện, đức Phật khuyến giáo:
- Này các Tỳ kheo, vị Sa môn phải từ hòa trong tư tưởng, ngôn ngữ và hành động. (Hết phần lược dẫn cốt chuyện). Nhân đó, Phật liền dạy pháp cú này.
Đọc qua pháp cú trên, ta thấy đức Phật đã nhấn mạnh khuyến giáo mọi người nên thận trọng gìn giữ ở nơi ba nghiệp. Những pháp cú ở tập một và tập hai (tạm phân chia) mà chúng ta đã có dịp đọc qua, chúng ta thấy đức Phật hay lặp đi lặp lại nhiều lần về vấn đề gìn giữ ở nơi ba nghiệp này. Tại sao Phật phải nhắc đi nhắc lại nhiều lần như thế? Bởi vì sự tu hành, dù xuất gia hay tại gia việc đầu tiên, là phải gìn giữ cẩn thận ở nơi ba nghiệp. Tội hay phước cũng từ đó mà ra. Trong ba nghiệp: thân, khẩu, ý, thì ai cũng biết, ý nghiệp là chủ động tạo tác. Hai nghiệp kia, đều do ý nghiệp sai sử mà nói năng hoặc hành động. Do đó, ý nghiệp công cũng lớn mà tội cũng nặng. Bởi tất cả khổ vui đều do nó dẫn đầu tạo tác.
Pháp cú trên, đầu tiên, Phật dạy chúng ta phải thận trọng ở nơi lời nói. Vì lời nói có tác dụng qua hai phương diện: lợi và hại. Về mặt lợi, thì Phật dạy chúng ta phải dùng ái ngữ khi phát ngôn. Ái ngữ là những lời nói êm dịu, ngọt ngào, hòa nhã, ai nghe cũng thích. Suốt cuộc đời hành hóa của đức Phật bao giờ và lúc nào, Ngài cũng dùng những lời ái ngữ và chân thật ngữ để khuyến giáo chúng sanh. Nhờ đó, mà chúng sanh được thấm nhuần lời dạy của Ngài nên họ được lợi lạc rất lớn.
Về mặt hại, thì Phật dạy chúng ta không nên dùng những lời quái ác ngữ. Đây là thứ ngôn ngữ gây ra tổn hại cho mình và người, nói rộng ra là cho cả quốc gia và xã hội rất lớn. Một lời nói có thể gây ra nước mất nhà tan. Một lời nói có thể gây ra sự bất hòa, cốt nhục tương tàn, người thân ly tán. Một lời nói làm cho gia đình mất hạnh phúc, gây ra đổ vỡ tan nát. Chỉ vì một lời ác ngữ mà tình thân trở thành thù hận và có thể chém giết nhau. Về mặt hại của những lời nói quái ác ngữ, thật không biết nói sao cho hết. Chính vì thế, mà Phật khuyên chúng ta nên thận trọng ở nơi lời nói.
Cổ nhân cũng thường khuyên: “một câu nói ngay bằng làm chay cả tháng”. Hay “nọc người bằng mười nọc rắn”. Vì nọc rắn tuy rất độc hại, nhưng dù sao nó cũng chỉ giết chết có một mạng người thôi. Còn lời nói ác độc, có thể giết chết không biết bao nhiêu mạng người. Nhứt là những lời nói mang tính ly gián hại người. Tục ngữ có câu: “gươm hai lưỡi miệng trăm hình”. Gươm dù có sắc bén đến đâu, cũng chỉ có hai lưỡi thôi, còn cái lưỡi của con người thì nó uốn ra thiên hình vạn trạng. Nó uốn chiều nào cũng được hết. Phần nhiều là nó thích uốn cong theo chiều hại người, hại vật. Thật là ghê gớm cho cái lưỡi không xương, nhiều đường lắc léo. Bởi vậy, các bậc cổ đức thường nói: “cái miệng nó đốt cháy hết mọi công đức”. Thế nên, người khéo biết tu, họ luôn luôn cẩn thận gìn giữ ở nơi lời nói. Họ bắt chước học theo người xưa: “phải uốn lưỡi bảy lần trước khi nói”. Nhờ thế, nên họ có nhiều phước đức ở nơi cái miệng.
Qua câu chuyện lược dẫn trên chứng minh cho ta thấy, một hậu quả tai hại rất lớn của lời nói ly gián, gây chia rẽ. Vị giảng sư kia, vì có ác ý tham vọng muốn chiếm cứ tu viện cho riêng mình, nên bất chấp thủ đoạn gian ác là dùng lời nói gây ra ly gián chia rẽ giữa hai huynh đệ. Người ta đối xử tử tế tốt với mình, mà mình lại nhẫn tâm gây ra sự xích mích làm cho tình thân của hai huynh đệ người ta, đang thân thương lại trở nên thù hận ganh ghét nhau. Như thế, thì thử hỏi đạo đức và nhân cách của người xuất gia ở chỗ nào? Rất may! cuối cùng, cả hai huynh đệ còn chút tỉnh giác phát hiện ra được cái âm mưu gây chia rẽ của vị thầy kia. Chừng đó, cả hai mới biết là mình đã mắc bẫy.
Ngẫm lại, thời nay, cũng có nhiều tay gian ác như vị giảng sư kia. Đã mang danh là một vị giảng sư, được mọi người kính trọng nể nang, nhưng thực chất thì không xứng đáng với danh nghĩa đang mang chút nào. Thế mới biết, chiếc áo không làm nên thầy tu. Nhìn đánh giá bề ngoài, coi chừng chúng ta dễ bị mắc mưu phỉnh phờ lường gạt. Cũng may cho hai huynh đệ kia, còn phát giác ra được là mình đã mắc bẫy, nên cuối cùng cả hai người hóa giải được hận thù ganh ghét và đã nối kết lại tình huynh đệ như xưa. Cả hai huynh đệ cùng nhau trở về tu viện cũ sống chung hòa thuận lại êm đẹp như ngày nào.
Đó là một bài học chua cay của tình huynh đệ. Đây là bài học mà hai huynh đệ phải trả một cái giá rất đắt. Bài học này, thiết nghĩ, chúng ta cũng nên nằm lòng để tránh đi cái hậu quả gây ra sứt mẻ tình huynh đệ. Ngoài đời hay trong đạo, thời nào cũng có những hạng người gian ác giả đạo đức bề ngoài để dễ bề thọc gậy bánh xe, gây chia rẽ làm cho nội bộ xáo trộn bất an. Đây là hạng người thật ác độc nguy hiểm, mà chúng ta cần phải để ý đến họ. Muốn được yên thân, tuyệt đối, chúng ta không nên lân cận thân mật với hạng người nham hiểm ác độc này.
Tiếp theo Phật dạy, phải kềm chế ý nghĩ. Điều này mới thật là khó. Kềm giữ ở nơi cái miệng đã là khó lắm rồi, huống chi Phật dạy phải kềm chế ở nơi ý nghĩ. Vì ý thức là thứ vô hình, nó luôn luôn biến đổi từng sát na. Tuy nó vô hình, nhưng nó có quyền uy rất lớn. Nó ra lệnh sai khiến cái miệng và cái thân phải làm theo sự điều khiển của nó. Nó nghĩ tốt, thì nó giục cái miệng nói ra điều lành, thân làm việc lành. Ngược lại, khi nó nghĩ điều bất thiện, thì nó khiến cho cái miệng và cái thân cũng làm điều bất thiện. Cho nên, người tu muốn được an vui hạnh phúc, Phật dạy chúng ta phải thường xuyên gìn giữ thật cẩn trọng ở nơi ý nghiệp. Xét về chú ý này, theo các nhà Duy Thức phân định giả lập, thì nó cũng có hai mặt: lợi và hại.
Về mặt lợi, thì nó suy tính những điều hay lẽ phải, làm lợi ích cho chúng sanh. Nghiệp dụng của nó về mặt lợi, thì nó có công năng chận đứng những điều suy nghĩ sái quấy, tổn mình hại người. Những công trình vĩ đại, những phát minh đủ các loại kỹ thuật máy móc, mọi ngành nghề, nói chung, là mọi thứ tiện lợi nhu cầu thiết yếu của đời sống, tất cả đều do sự suy tư của ý thức tạo nên. Nhờ đó, mà nhơn loại mới có được một đời sống đầy đủ tiện nghi vật chất sung túc thoải mái.
Về mặt hại, thì nó mưu tính toàn là những chuyện hại người hại vật. Nó có nhiều thủ đoạn gian ác. Nó bất chấp dư luận khen chê. Nó toan tính miễn sao có lợi thì làm, ai chết mặc ai. Nó đồng lỏa với tội ác. Nó không có tình thương đồng loại. Thế giới loài người hiện nay, sống trong đảo điên thác loạn bất an, tất cả đều do nó gây ra. Nó là kẻ khuấy động chiến tranh gây ra lắm cảnh tang thương chết chóc. Nó không có một chút từ tâm. Nói tóm lại, đứng về mặt gây ra họa hại hay tội ác của ý thức, thì không có bút mực nào tả xiết. Ngược lại, đứng về mặt lợi tạo ra nhiều điều lợi lạc cho nhơn sinh, thì ý thức có công đóng góp rất lớn lao. Luận về công và tội của ý thức, các nhà Duy Thức Học cho rằng: “Công vi thủ, tội vi khôi”. Nghĩa là luận về công trạng thì nó đứng đầu, còn nói về tội ác, thì nó cũng rất lớn.
Phật bảo chúng ta kềm chế ý nghiệp, tất nhiên phải gìn giữ thận trọng về mặt hại của nó. Đừng cho nó suy tính những điều chỉ biết lợi mình mà hại người, hại vật. Còn nó suy tính những điều lợi mình, lợi người, lợi vật, thì Phật khuyên chúng ta nên tích cực phát triển để làm lợi ích cho chúng sanh. Chớ không phải kềm chế không cho nó suy tính gì cả. Làm sao không cho nó suy tính cho được? Nên nhớ, ở đây Phật dạy chúng ta tu ở nơi ba nghiệp. Nghĩa là không làm các điều ác, nhưng nên làm các điều lành. Nhờ đó mà chúng ta mới có được an lạc hạnh phúc.
Kế tiếp, Phật dạy: “thân không làm ác”. Đây là gìn giữ ở nơi thân nghiệp. Về thân nghiệp, thì chúng ta phải gìn giữ không cho nó làm những điều bất chánh, như sát sanh, trộm cắp, tà dâm. Người Phật tử giữ được ba điều này là làm cho thân được thanh tịnh. Người biết tu, không nên vì cung phụng dung dưỡng cho thân sung sướng quá mà gây ra lắm điều tội ác. Hễ gây nhân ác, thì phải trả quả báo ác. Do đó, người Phật tử dù xuất gia hay tại gia, Phật khuyên chúng ta nên thận trọng gìn giữ ở nơi thân nghiệp này.
Tóm lại, Phật dạy người Phật tử tu ở nơi ba nghiệp, mới nghe qua chúng ta cho là thường. Đôi khi chúng ta còn không để ý đến. Nghe thì thường đấy, nhưng thật hành đúng theo lời Phật dạy trên, thật không phải là chuyện dễ dàng. Nhiều khi chúng ta luận giải những điều triết lý sâu xa, nhưng nhìn lại ở nơi ba nghiệp của chúng ta thì chưa có sửa đổi được một chút nào. Đó là điều rất hổ thẹn. Thường chúng ta hay bị vướng mắc phải cái bệnh:
Đầu mồm nói suốt trăm phần diệu
Dưới gót không ly một điểm trần.
Thật ra, nếu chúng ta gìn giữ ở nơi ba nghiệp một cách cẩn thận đừng để cho sai phạm, thì bảo đảm đời tu của chúng ta sẽ được lợi lạc hạnh phúc rất lớn và chúng ta sẽ giải thoát ngay trong hiện tại. Thế nên, kết luận của pháp cú trên, Phật nói: “ba nghiệp thanh tịnh là được đạo thánh nhơn”. Chỗ khác cũng nói: “ba nghiệp hằng thanh tịnh, đồng Phật vãng Tây phương”. Như vậy, không cần tu đâu xa, chúng ta chỉ cần thiết thiệt hành trì ở nơi ba nghiệp, thì chắc chắn chúng ta sẽ đạt được đạo quả cao thượng vậy.
282. Tu Du già[27] thì trí phát, bỏ Du già thì tuệ tiêu. Biết rõ hai lẽ nầy thế nào là đắc thất, rồi nỗ lực thực hành, sẽ tăng trưởng trí tuệ.
Wisdom springs from meditation; without meditation wisdom wanes. Having known these two paths of progress and decline, let a man so conduct himself that his wisdom may increase.
Kệ tụng
Tu thiền trí huệ sanh
Bỏ thiền trí huệ diệt
Biết con đường hai ngã
Hướng đến lợi và hại
Hãy tự mình nỗ lực
Khiến trí huệ trưởng tăng.
Lược giảng
Pháp cú này, Phật dạy tại tinh xá Kỳ Viên, có liên quan đến Tôn giả Pothila.
Theo truyện tích, Trưởng lão Pothila lão thông Tam tạng trong thời đại của bảy đức Phật, là bậc thầy giáo thọ dạy cho năm trăm thầy Tỳ kheo. Tuy là giáo thọ, nhưng lậu hoặc của thầy chưa dứt sạch. Do đó, Phật muốn khuyến khích cho ông mau chấm dứt lậu hoặc, bằng cách gọi ông là Pothila rỗng. Nghe thế, ông tự hỏi: tại sao Phật lại gọi mình như thế? Phật thừa biết mình là người thông thuộc Tam tạng và là vị giáo thọ dạy đồ chúng. Thế thì, tại sao Phật lại gọi mình rỗng? Có lẽ tại vì mình chưa phát triển chánh định, nên Ngài gọi mình như thế chăng. Nghĩ thế, ông quyết định vào rừng tu tập thiền định. Khi vào trong rừng, Ngài lần lượt đi qua từng vị Tỳ kheo để xin thụ huấn, nhưng tất cả đều từ chối, vì họ biết ông là người đương kim giáo thọ. Cuối cùng, ông phải đến hạ mình với một chú Sa di bảy tuổi để cầu học. Vị Sa di từ chối. Ông kiên nhẫn năn nỉ cho kỳ được. Cuối cùng, Chú Sa di bảo ông hãy nhảy xuống ao để cả y áo, không được cởi ra. Xong rồi bảo lên và đến bên chú.
Bấy giờ, chú Sa di mới nói cho ông nghe: giả sử có một con tắc kè chui vào hang, cái hang có sáu cửa, muốn bắt nó, tất nhiên phải đóng bít lại năm cửa, chỉ chừa một cửa là sẽ bắt được con tắc kè. Cũng thế, ngài nên đóng hết năm căn và tập trung vào ý căn, thì chắc chắn ngài sẽ đạt được như ý muốn.
Pothila thông minh hiểu ý, soi sáng được vấn đề, không chút ngần ngại, ông tập trung tư tưởng quán sát thân mình và bắt đầu thiền định. Đức Phật ở cách xa một trăm hai mươi dặm, biết rằng Tôn giả sẽ trở nên bậc đại trí huệ, chứng quả A la hán, Ngài liền hóa hiện trước Tôn giả và nói pháp cú trên. (Hết phần lược dẫn cốt chuyện)
Pháp cú trên, Phật chú trọng đến vấn đề người tu hành cần phải phát huy làm cho tăng trưởng trí huệ. Theo giáo lý Nguyên Thủy, hành giả muốn có trí huệ, tất phải qua cửa ngỏ thiền định. Vì thế, các vị đệ tử xuất gia thời Phật rất chú trọng đến vấn đề thiền định. Vì có định mới phát sanh trí huệ.
Chuyện lược dẫn trên cho chúng ta thấy rằng, thầy Pothila là người suốt thông Tam tạng, lại là một vị giáo thọ giảng dạy cho năm trăm đồ chúng. Thế mà Phật vẫn cho thầy là người rỗng tuếch. Chữ rỗng mà Phật nói ở đây, tất nhiên, không phải rỗng về chữ nghĩa, mà rỗng, vì thầy Pothila chưa dứt hết lậu hoặc. Do đó, bằng mọi cách Phật khuyến khích cho thầy phải nỗ lực thật hành sâu vào thiền định mới phát sanh trí huệ. Học nhiều hiểu rộng, đứng về mặt học thuật nghiên cứu thì hay, nhưng đứng về mặt giải thoát khỏi vòng sanh tử khổ đau, thì nó vẫn còn dậm chân tại chỗ. Bởi thế, trong đạo Phật không chú trọng nhiều về mặt học thuật, mà rất chú trọng về mặt thật hành. Nói thế, để thấy rằng, học thuật chỉ là bổ túc cho sự tu, mà tu mới là điều quan trọng chính yếu.
Người xưa nói: “học mà không tu là đãi sách, tu mà không học là tu mù”. Lời dạy thức nhắc này rất quan trọng cho những ai hiện đang tu học Phật. Câu nói đó, rõ ràng là có sự hài hòa bổ túc cho nhau rất là thiết yếu. Nếu chỉ biết thiên trọng về một bên, chỉ học không hay tu không, cả hai đều bất lợi. Vì chỉ có học không, thì có khác nào như thầy Pothila. Nghĩa là phiền não lậu hoặc vẫn còn nguyên vẹn. Đã thế, thì làm sao giải thoát? Và nếu chỉ biết một bề tu không mà không học, thì có khác nào như kẻ mù mò mẫm đi trong đêm tối dày đặc. Học, dụ như người có đôi mắt sáng. Tu, dụ như người có cặp chân mạnh. Mắt sáng là để nhìn xa thấy rộng, tránh được những thứ chông gai, hầm hố nguy hiểm. Chân mạnh là để dũng bước hành trì đúng theo chân lý do nhãn quan trí huệ chỉ đạo.
Như vậy, đôi mắt sáng, dụ như trí huệ sáng suốt. Trí huệ thật tối ư quan trọng trong khi ứng dụng tu hành. Người tu thiếu trí huệ, thì làm sao biện biệt được lẽ chánh tà chân giả? Thế nên, chúng ta cần phải dung hòa cả hai, thì sự tu hành của chúng ta mới được kết quả tốt đẹp. Tuy nhiên, trong đạo Phật bao giờ cũng đặt nặng phần thật hành hơn là phần lý thuyết. Dù lý thuyết dở, nhưng thật hành hay, thì cũng mau tới đích mà mình đã nhắm tới. Dù học ít, nhưng chúng ta cố gắng gia công nỗ lực hành trì đúng theo những gì mà mình đã học hỏi, thì thiết nghĩ, cũng đem lại cho chúng ta rất nhiều lợi lạc.
Ngược lại, nếu chúng ta học giỏi, chỉ biết nói lý thuyết rỗng suông, mà không thật hành, thì có khác nào là kẻ chỉ biết quảng cáo rao hàng giỏi mà thôi. Tệ hơn nữa, chỉ là kẻ bày ra những trò xảo quyệt hý luận để cho mọi người mua vui giải trí. Thực chất, thì chẳng có lợi ích gì! Người xuất gia tu học, phải là người có chứng nghiệm chân lý. Nghĩa là phải có thật hành qua, trước khi ra giảng dạy. Bởi thế, những vị xuất gia tu hành, người ta thường gọi các ngài là hành giả, chớ không ai gọi các ngài là học giả. Thế nên, người tu theo đạo Phật, cần phải hội đủ hai yếu tố căn bản là: “tri hành hợp nhứt” vậy.
Về Đầu Trang Go down
https://triamquan.forumvi.com/
Tri Âm Quán
Thành Viên Tích Cực
Thành Viên Tích Cực
Tri Âm Quán


Tổng số bài gửi : 6340
Reputation : 2
Join date : 31/07/2013
Đến từ : Thị Trấn Chũ

Kinh Pháp Cú chú giải (tập 1) - Page 2 Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Kinh Pháp Cú chú giải (tập 1)   Kinh Pháp Cú chú giải (tập 1) - Page 2 EmptySun Nov 16, 2014 12:02 pm

283. Hãy đốn rừng dục vọng, chớ đốn cây thọ lâm; từ rừng dục vọng sinh sợ, hãy thoát ngoài rừng dục.
Cut down the forest (lust), but not the tree; from the forest springs fear. Having cut down the forest and the under-brush (desire), be passionless, O monks!
Kệ tụng
Đốn rừng không đốn cây
Từ rừng sinh sợ hãi
Đốn rừng và củi gỗ
Tỳ kheo hãy thoát ly
284. Sợi dây tình giữa trai gái chưa dứt, thì tâm còn bị buộc ràng như bò con chẳng rời vú mẹ.
For so long as the underbrush of desire, even the most subtle, of a man towards a woman is not cut down, his mind is in bondage, like the sucking calf to its mother.
Kệ tụng
Khi nào chưa dứt sạch
Giây tình giữa gái trai
Tâm ý vẫn buộc ràng
Như bò con vú mẹ.
Hai pháp cú trên, Phật dạy tại tinh xá Kỳ Viên, có liên quan đến một số các Tỳ kheo già.
Theo truyện tích, có một số đại phú gia quyền thế ở thành Xá Vệ, họ kết thân với nhau và làm nhiều việc từ thiện. Sau khi nghe Phật thuyết pháp, họ đều xin Phật xuất gia, gia nhập vào Tăng đoàn, sống đời phạm hạnh. Vì trọng tuổi, không thể học thuộc kinh kệ, nên tất cả xin Phật cất thảo am ngoài tu viện và chung sống với nhau. Vì là những người già nua đã có gia đình mới đi xuất gia, nên họ chỉ về gia đình khất thực, chớ không có đi khất thực ở những nơi khác. Trong số các bà thí chủ, có một bà tên là Madhurapàcikà. Bà nữ thí chủ này rất tử tế thường hay dâng cúng vật thực cho các thầy.
Một hôm bà ngã bệnh rồi qua đời. Hay tin đó, các thầy Tỳ kheo già này khóc lóc bày tỏ rất là thương tiếc. Nghe tiếng khóc than bi lụy, các Tỳ kheo khác chạy đến, hỏi duyên do vì sao? Họ nói rằng, bà nữ thí chủ Madhurapàcikà đã chết, bà ấy rất tử tế tốt bụng, không dễ gì kiếm được một bà như thế. Nghe kể xong, các thầy Tỳ kheo bàn tán với nhau về chuyện đó ở pháp đường. Phật hỏi lý do vì sao? Các thầy thuật lại. Nhân đó, đức Phật dạy:
- Đây không phải lần đầu họ làm như vậy. Đời quá khứ cũng đã xảy ra chuyện này. Phật kể tiếp chuyện quá khứ. Trong thời quá khứ, họ là một đàn quạ. Và bà nữ thí chủ là một con quạ cái, khi bay qua bờ biển nó bị sóng cuốn và nhận chìm, cả đàn kêu khóc, và tìm cách dùng mỏ tát nước biển để cứu bà quạ. Rốt cuộc cả đàn đều mệt mỏi vô ích. Kể xong, Phật lại dạy tiếp:
- Này các Tỳ kheo! Khi nào còn rừng rậm tham, sân, si, các ông còn chịu đau khổ. Hãy đốn ngã rừng cây ấy các ông mới được giải thoát. (Hết phần lược dẫn cốt chuyện ). Nhân đó, Phật nói hai pháp cú trên.
Đọc qua hai pháp cú trên, Phật nêu ra cho chúng ta thấy hai hình ảnh cụ thể: “rừng dục vọng và trâu con còn bú sữa”. Khi nói đến rừng, chúng ta liền nghĩ ngay đến nhiều cây cối um tùm đan nhau rậm rạp. Pháp cú 283, Phật mượn hình ảnh rừng cây, để nói lên lòng tham dục, sân hận và si mê của con người không thể đo lường được. Rừng có nhiều loại cây, lòng con người cũng có nhiều dục vọng phiền não. Sự so sánh này, tuy là gượng ép, bởi rừng dù rộng lớn nhiều cây, nhưng nó vẫn có hình tướng. Còn lòng tham dục của con người thì không có giới hạn ngằn mé. Nhưng ở đây, Phật muốn dùng hình ảnh cụ thể hóa để làm thí dụ cho chúng ta dễ hiểu. Nương dụ để hiểu pháp, đó là thái độ khôn khéo của người học Phật.
Lòng dục vọng của con người, tuy vô hình, nhưng nó có một sức mạnh rất mãnh liệt. Đó là một năng lượng rất lớn, có thể gây ra nhiều tác hại, khi nó được thể hiện ra bằng hành động. Rừng cây dù có nhiều và rộng lớn đến đâu, người ta cũng có thể chặt đốn hết, nhưng còn lòng tham dục, nói rõ ra là Tam Độc (tham, sân, si) biết đến bao giờ người ta mới thực sự đốn sạch nó đây!
Đức Phật bảo chúng ta nên “đốn rừng dục vọng, chớ không nên đốn cây thọ lâm”. Rõ ràng, là Phật chỉ cho chúng ta tu ở nơi cái gốc. Gốc không lo chặt đốn, đốn ngọn làm gì? Dục vọng là cái gốc rễ, gây ra cho chúng ta đau khổ, thì chúng ta hãy mau lo đoạn trừ. Cũng như muốn hết bệnh, thì chúng ta cần phải tiêu diệt vi trùng gây ra bệnh. Có thế, thì bệnh mới hết. Cũng thế, có đoạn trừ lòng dục vọng, thì chúng ta mới chấm dứt khổ đau.
Hiện trạng của xã hội loài người hiện nay, đang trên đà tiến sâu vào ngỏ cụt khổ đau vô lối thoát, bởi hiện tướng của ba thứ độc tố nói trên, càng ngày chúng càng hoành hành đột phá dữ dội. Nếu nhơn loại không chịu tìm phương cách hạn chế làm giảm bớt ngọn lửa tham dục này, thì tương lai không biết đời sống của nhơn loại sẽ ra sao và đi về đâu?! Đó là những nỗi băn khoăn ưu tư cho thân phận của kiếp làm người. Biết rõ nguyên nhân gây ra đau khổ cho chúng ta, tất nhiên, mỗi người cần phải có quyết tâm tiêu diệt cái nguyên nhân đó. Biết rõ căn nguyên gây ra bệnh trạng, thì chúng ta phải kíp mau chữa trị, chớ không phải biết bệnh để rồi ngồi đó khóc than vô ích. Chỉ có những kẻ si mê mới làm như thế mà thôi!
Pháp cú 284, Phật dạy rất rõ về những sợi giây tình ái buộc ràng giữa tình yêu nam nữ. Nếu không chặt đứt được sợi giây tình ái này, thì chẳng khác nào như con trâu con đeo theo bú sữa mẹ không lúc nào rời ra. Phật nêu ra hình ảnh cụ thể này, để nói lên lòng ái dục của con người rất sâu nặng trong tình yêu thương nam nữ, cũng như lòng tham đắm ái nhiễm ở nơi ngũ dục lục trần. Nói về tình dục ái của nam nữ, và sự trói buộc hệ lụy khổ đau của nó, thì tục ngữ dân gian Việt Nam có câu: “tu là cội phúc, tình là dây oan”. Vẫn biết nó là thứ dây oan, trói buộc con người không những một đời mà còn trải qua nhiều đời, nhiều kiếp, nhưng người ta vẫn không thoát khỏi. Nói theo nhà thơ Xuân Diệu thì: “yêu là chết trong lòng một ít”, dù có chết đó, nhưng thử hỏi có mấy ai thoát khỏi lưới tình?
Ta nên biết rằng, ở đây, Phật muốn nhấn mạnh về khía cạnh giải thoát, vượt ngoài vòng cương tỏa trói buộc. Còn đứng về phương diện nghiệp lực truyền chủng nòi giống thì có khác. Tình yêu giữa nam nữ là một thứ tình yêu đã được xã hội loài người đặt định trong việc kết hợp tạo lập gia đình để sanh con đẻ cái trong mối giây liên hệ truyền chủng không cho đoạn tuyệt. Do đó, đã mang nghiệp người, tất nhiên, khó có mấy ai thoát khỏi, ngoại trừ những bậc tu hành chơn chánh, sống đơn độc, vì các ngài muốn thoát ly sanh tử khổ đau.
285. Tự mình dứt hết ái dục như lấy tay bẻ cành sen thu, siêng tu đạo tịch tịnh. Đó là Niết bàn mà đức Thiện Thệ[28] đã truyền dạy.
Cut off your affection in the manner a man plucks with his hand an autumn lotus. Cultivate only the path to peace, Nibbana, as made known by the Exalted One.
Kệ tụng
Tự cắt giây tình ái
Như tay bẻ sen thu
Hãy tu đạo tịch tịnh
Niết bàn Thiện Thệ dạy
Lược giảng
Pháp cú này, Phật dạy tại tinh xá Kỳ Viên, có liên quan đến một thầy Tỳ kheo đệ tử của ngài Xá lợi phất.
Theo truyện tích, ngài Xá lợi Phất có một đệ tử xuất gia, là một chàng thanh niên tuấn tú con nhà thợ bạc. Vì biết vị đệ tử của mình có lòng tham dục rất mạnh, nên Tôn giả bảo thầy phải luôn thiền quán đề mục: “quán bất tịnh”. Vâng lời sư phụ dạy, thầy đi sâu vào rừng để tịnh tu. Trải qua hơn một tháng, nhưng vẫn không có tiến bộ. Thầy trở về trình cho sư phụ biết rõ duyên cớ. Sư phụ khuyên bảo cố gắng thực tập thêm. Nhưng trải qua hơn ba tháng thực tập thiền quán nữa, thầy cũng vẫn không thấy có tiến bộ chút nào. Dù thầy là người có trí tuệ rất nhạy bén, nhưng không hiểu tại sao lại thực tập không thành công?
Đương nhiên, vị sư phụ phải suy nghĩ tìm cách giúp đỡ cho người đệ tử của mình. Sau khi suy nghĩ, thầy trò mới đến bạch trình với đức phật. Phật quán biết cái căn cơ của thầy này không thích hợp về đề mục quán bất tịnh. Vì thầy đã trải qua nhiều đời làm nghề thợ bạc. Do đó, Phật dạy hãy thiền quán về hoa sen. Thầy bẻ một hoa sen ở dưới hồ rồi đem lên cấm sâu vào trong đống cát. Phật dạy thầy hãy tập trung tư tưởng thiền quán sâu vào đóa sen đó. Thiền quán giữa đóa sen dưới nước và đóa sen trên cát, khác nhau như thế nào? Dĩ nhiên đóa sen dưới nước tươi tắn và đóa sen trên cát thì khô héo tàn tạ dần.
Nhờ Phật dạy hợp cơ cảnh thiền quán đúng cách, nên thầy đã thấy rõ được lý vô thường, khổ, vô ngã, của vạn pháp. Sau khi biết thầy đã được kết quả, tâm trở nên thanh tịnh, sạch hết các lậu hoặc, Phật liền hiện thân đến trước mặt thầy và nói pháp cú trên. Nghe xong, thầy chứng quả A la hán. (Hết phần lược dẫn cốt chuyện)
Pháp cú trên, Phật dạy rất rõ: “tự mình dứt hết ái tình, như lấy tay bẻ cành sen thu; siêng tu đạo tịch tịnh”. Một người khi đã không còn một niệm luyến ái, thì ngay đó đã là giải thoát rồi. Bởi ái nhiễm là nhân tố gây cho chúng sanh chìm đắm trong biển đời sanh tử. Dứt hết ái nhiễm là tâm ta trở nên thanh tịnh. Mà thanh tịnh là hạnh phúc, là Niết bàn. Khác nào như chúng ta bẻ một cành sen thu. Vì sen là tiêu biểu cho đức tánh thanh tịnh, không nhiễm ô. Đến đây, hành giả thực sự an vui giải thoát như hoa sen vượt khỏi bùn nhơ khoe hương khoe sắc cùng với đất trời. Muốn được thế, hành giả phải gia công nỗ lực siêng tu đạo tịch tịnh. Tức phải thanh tịnh hóa ở nơi ba nghiệp. Có thế, thì mới thực sự nếm được mùi vị pháp hỷ sung mãn, hay đã thực sự đạt đến quả vị Niết bàn an lạc.
Qua câu chuyện lược dẫn trên, ta thấy, ngài Xá lợi Phất đã dạy cho người đệ tử của mình không đúng pháp môn phù hợp căn cơ. Do đó, mà sự thật hành của thầy không đạt được kết quả. Vì tập khí của người đệ tử chuyên sống hành nghề thợ bạc, nên thầy thích những gì đẹp đẽ. Nay, gặp sư phụ lại dạy bảo phải quán bất tịnh, nên quán hoài mà không tiến bộ.
Sau khi bạch trình đức Phật, Phật biết rõ căn cơ, tập khí của vị thầy đó nên Ngài dạy thay đổi cách quán. Ngài bảo phải thiền quán về đóa hoa sen. Ứng dụng thật hành theo phép quán đối tượng này, thầy đã đạt được kết quả tốt đẹp.
Hoa sen vừa có màu sắc tươi đẹp, đồng thời cũng vừa nói lên đặc tính không nhiễm ô. Tuy thế, hoa sen vẫn là một sắc tướng, tất nhiên, nó phải bị vô thường sanh diệt. Thiền quán sâu vào đóa hoa sen, thầy đã thấy rõ sự giả hợp hình thành của nó là do duyên khởi. Thấy được lý duyên sinh, là thấy được đạo lý giải thoát. Vì tất cả muôn pháp do duyên hợp giả có, thực thể của nó là không. Do đó, mà thầy không còn tham đắm bám chấp vào sự vật, nên mọi lậu hoặc phiền não bặt dứt. Đến đây, thầy đã thực sự đạt đến cảnh giới Niết bàn.
Qua đó, cho ta thấy, chọn lựa một pháp môn thích hợp căn tánh và sở thích của mình để tu hành thật hết sức quan trọng. Ngay như ngài Xá lợi Phất là bậc trí huệ đệ nhất trong hàng Thanh Văn, mà ngài còn không thể thấu suốt căn cơ, tập khí lâu đời của người đệ tử, nên dạy pháp tu không đúng cách thích hợp. Do đó mà sự thật hành của vị đệ tử không có kết quả. Đối với thời nay, thử hỏi có mấy ai được như ngài Xá lợi Phất? Do đó, nên sự dạy đệ tử thật hành cho đúng pháp hợp cơ, thật là khó khăn. Vì vậy, khi chọn pháp môn tu ta phải cẩn thận lựa chọn cho mình một pháp môn thích hợp. Nếu thấy pháp môn mình đang tu, mà thật hành lâu ngày không thấy có tiến bộ kết quả, thì ta nên biết rằng, đó là ta đã chọn lựa một pháp môn sai rồi. Thế nên, ta cần phải thay đổi điều chỉnh lại. Đó là quyền quyết định chọn lựa của chúng ta.
Ngoài sự chọn lựa pháp môn tu cho thích hợp căn cơ trình độ của chúng ta ra, đối với sự chọn lựa bậc thầy để nương tựa học hỏi tu hành cũng khá quan trọng. Nếu chúng ta chọn thầy hướng dẫn chỉ dạy ta đúng theo chánh pháp, thì sự tu hành của chúng ta mới có tiến bộ giác ngộ giải thoát. Ngược lại, nếu không may chúng ta lại nương tựa một vị thầy không thông hiểu Phật pháp lại thêm có hạt giống tà ngoại, thì sự tu hành của chúng ta chẳng những không có lợi lạc mà còn có nguy cơ rơi vào con đường tà kiến. Kết quả là ta sẽ đi lạc hướng chánh pháp và cuối cùng phải lãnh lấy quả báo khổ đau. Thế nên, là Phật tử chúng ta nên sáng suốt hết sức thận trọng khi chọn thầy, chọn bạn, chọn pháp môn tu cho thích hợp đúng theo chánh pháp và nhứt là phải phù hợp với căn cơ của chúng ta. Có thế, thì sự tu học của chúng ta mới mong thành tựu đạt được kết quả tốt đẹp vậy.
286. “Mùa mưa ta ở đây, đông, hạ, ta cũng ở đây”, đấy là tâm tưởng của hạng người ngu si, không tự giác những gì nguy hiểm.
“Here shall I live during the rains, here in winter and summer” – thus thinks the fool. He does not realize the danger (that death might intervene).
Kệ tụng
“Mùa mưa ta ở đây
Đông hạ cũng ở đây”
Người ngu tâm tưởng vậy
Không tự giác hiểm nguy.
Lược giảng
Pháp cú này, Phật dạy tại tinh xá Kỳ Viên, có liên quan đến đại phú thương Mahàdhana.
Theo truyện tích, Mahàdhana cùng đoàn xe năm trăm chiếc chất đầy vải nhuộm đỏ, từ thành Ba la nại đem đi bán. Khi về Xá Vệ, ông dừng lại bên bờ sông và nhủ thầm: “ngày mai ta sẽ qua sông”. Tối hôm đó, trong lúc ông đang ngủ, thì bỗng dưng có một trận bão dữ dội và mưa trút xuống kéo dài suốt thời gian bảy ngày. Vì thế, mà ông không bán được vải và ông quyết định ở lại đây suốt mùa mưa, mùa đông và mùa hè sang năm, để bán cho hết số vải.
Phật đi khất thực ngang qua, biết rõ dự tính của ông, Phật lặng lẽ mỉm cười. Thấy thế, Tôn giả A nan hỏi Phật lý do tại sao? Phật bảo, ông thương gia kia, chỉ sống được trong vòng bảy hôm nữa thôi, mà ông ta không hay biết, còn dự tính ở lại đây suốt ba mùa. Nhân đó Phật liền nói bài kệ:
Hãy hăng say làm việc
Làm những gì nên làm ngày hôm nay
Ai biết thần chết sẽ viếng ngày mai
Chẳng phải chúng ta vẫn hằng vật lộn
Mỗi ngày cùng thần chết?
Đây là lời hiền nhân ca ngợi:
Hạnh phúc thay, kẻ sống nhiệt tình
Ngày và đêm không mệt mỏi
Dù chỉ một đêm y được sống.
(Trích nguyên văn bài kệ trong Tích Tuyện Pháp Cú tập III, Viên Chiếu, tr 127)
Nghe qua bài kệ Phật nói, ngài A nan xin phép Phật để nói cho ông ấy biết. Phật cho phép. Ngài A nan nói rõ về cái chết cận kề đến với ông ta chỉ còn trong vòng bảy ngày nữa thôi. Nghe qua, Mahàdhana rất xúc động và quyết định thỉnh Phật và chúng Tăng đến cúng dường trong vòng bảy ngày. Sau khi nghe Phật dạy về quán tưởng đến cái chết, ông đã chứng quả Dự lưu. Bảy ngày sau, ông bị bệnh nhức đầu và chết, thần thức của ông được tái sanh lên cõi trời Đâu Suất. Đó là lý do Phật nói pháp cú trên. ( hết phần lược dẫn cốt chuyện )
Pháp cú trên là một tiếng chuông cảnh tỉnh cho những ai quá say mê với sự nghiệp. Có người cả đời say mê đắm đuối sống chết vì sự nghiệp. Họ say mê đến đổi, không còn biết gì đến gia đình vợ con. Tiền tài, danh vọng, quyền lực, là những thứ mà người đời không ai lại không ham thích. Thế nhưng, họ quên rằng, tất cả đều là những thứ giả dối tạm bợ. Có đó rồi mất đó. Vì bản chất của chúng là vô thường sanh diệt. Không có vật nào tồn tại với thời gian. Gần nhứt là bản thân họ, mà họ còn không có thời giờ quan tâm chăm sóc, nói chi đến những thứ khác. Trong lúc say mê đắm đuối, họ lại quên rằng, thần chết sẽ đến gõ cửa gọi họ đi bất cứ lúc nào.
Câu chuyện lược dẫn trên, cho chúng ta một bài học rát bổng về cái chết của ông thương gia Mahàdhana. Tuy cái chết đến bên, nhưng ông vẫn còn lo toan tính bán buôn, vẫn còn luôn nghĩ đến tiền bạc. Ông vẫn còn dự tính phải ở lại đây dài lâu để bán cho hết số vải còn lại. Tâm trạng si mê của ông, cũng chính là tâm trạng si mê của tất cả chúng ta. Dù có biết chết đến nơi, người ta cũng vẫn còn nghĩ đến gia nghiệp của cải tiền bạc. Cho thấy lòng tham luyến của con người thật quá sâu nặng.
Biết rõ dự tính của ông, đức Phật mỉm cười. Không phải đức Phật chỉ mỉm cười cho ông thương gia Mahàdhana không thôi, mà đức Phật còn mỉm cười cho tất cả những thương gia khác. Nói rộng ra, là đức Phật mỉm cười cho tất cả chúng ta. Cười cho cái lòng tham dục không ngằn mé của ta. Mạng sống của con người ngắn ngủi như phù du, khác nào như chỉ mành treo chuông hay đèn treo trước gió, chỉ một chớp mắt là đã sang qua đời khác. Thế mà, thử hỏi có mấy ai nghĩ đến sự vô thường nhanh chóng của kiếp người? Còn một hơi thở tàn, người ta vẫn còn nghĩ đến tiền bạc, giàu sang, danh vọng… Thật không ai biết dừng lại.
Duyên phúc thay cho ông thương gia Mahàdhna còn gặp được Phật và với lời cảnh tỉnh thức nhắc của ngài A nan, mà ông ta đã kịp thời hồi tâm chuyển ý. Ông đã phát tâm cúng dường Phật và thánh chúng để được phước báo sanh thiên. Đối với chúng ta thì sao? Lời Phật Tổ dạy đành rành còn đó, nhưng chúng ta có sớm thức tỉnh hồi tâm tu hành như ông thương gia này không? Hay là chúng ta vẫn còn mãi miết tranh đua hơn thua trong trường danh lợi? Khi sắp tắt thở, có người vẫn còn chưa biết hồi tâm chuyển ý. Thế mới biết, nghiệp lực của mỗi người, Phật nói có nặng nhẹ rất khác nhau. Chúng ta đừng quên rằng:
Cuộc thành bại hầu cằn mái tóc
Lớp cùng thông như đốt buồng gan
Bệnh trần đòi đoạn tâm can
Lửa cơ đốt ruột dao hàn cắt da
Gót danh lợi bùn pha sắc xám
Mặt phong trần nắng nám mùi dâu
Nghĩ thân phù thế mà đau
Bọt trong bể khổ bèo đầu bến mê.
(Cung Oán Ngâm Khúc Ôn Như Hầu)
Mong sao, mỗi người chúng ta đọc qua cốt chuyện lược dẫn trên, để kịp thời thức tỉnh chóng lo tu niệm. Mỗi người hãy chuẩn bị cho mình lúc ra đi cho được an thoát nhẹ nhàng. Dù không được sanh thiên như ông Mahàdhana, nhưng ít ra, chúng ta cũng được đầy đủ phước báo sanh trở lại làm người. Sự quyết định khổ hay vui là do toàn quyền quyết định ở nơi chính mỗi người chúng ta. Không ai có đủ quyền lực quyết định thay thế cho ta cả.
287. Người đắm yêu con cái và súc vật, thì tâm thường mê hoặc, bị tử thần bắt đi, như xóm làng đang say ngủ, bị cơn nước lũ cuốn trôi.
As a great flood carries away a sleeping village, so death seizes and carries away the man with a clinging mind, doting on his children and cattle.
Kệ tụng
Tâm còn bị đắm say
Con cái và súc vật
Bị tử thần bắt đi
Như nước trôi làng ngủ
Lược giảng
Pháp cú này, Phật dạy tại tinh xá Kỳ Viên, có liên quan đến câu chuyện Kisà Gotami.
Theo truyện tích, bà Kisà Gotami vì thương đứa con mới chết, nên bà gào khóc kêu than lăn lộn giật mình trên đất, khi thấy đức Phật bà thưa hỏi và mong cầu Phật cứu sống con bà. Phật bảo bà đi vào làng kiếm hạt cải trắng, nhưng hạt cải đó phải ở trong gia đình mà từ trước tới giờ chưa có một người nào chết cả. Kiếm xong đem về đây, Phật sẽ làm phép cứu sống lại con bà. Thế là, bà bế xác đứa con trên tay đi hết làng này sang làng khác, từ sáng tới tối mà cũng không tìm ra hạt cải như lời Phật bảo. Cuối cùng, bà bạch trình với đức Phật là không có một gia đình nào có hạt cải mà không có người chết cả.
Bấy giờ đức Phật mới ôn tồn khuyên bà:
- Này bà Kisà Gotami, trên thế gian này, “không phải chỉ có một mình bà là có con chết, mà có biết bao người đã bị mất con yêu quí như bà. Vì vô thường là luật chung cho mọi sinh vật. Thần chết như một dòng nước lũ dữ, cuốn phăng, giật đi và ném mọi loài vào biển hoại diệt, trong khi mọi loài vẫn còn ham sống chưa hài lòng thỏa thích với cuộc sống”.
Nghe xong lời Phật dạy, bà chứng quả Dự lưu, hội chúng cũng đều được lợi ích. (Hết phần lược dẫn cốt chuyện)
Vô thường là một định luật bất di bất dịch. Việc sống chết là lẽ thường nhiên. Dù biết thế, nhưng đứng trước tình cảnh người thân yêu thương mất, ít có mấy ai dằn được cơn xúc động rơi lệ.
Tâm trạng đau khổ vì mất đứa con yêu quí của bà Kisà Gotami, đó là tâm trạng chung của các bà mẹ bình thường. Nói bình thường là vì trên thế gian này cũng có những bà mẹ, lòng lang dạ sói bất bình thường, có thể nói thua loài thú vật, nhẫn tâm giết hại đứa con mình sanh ra. Hùm beo tuy chúng thuộc loài thú vật hung dữ, nhưng chúng chưa bao giờ ăn thịt hay sát hại con của chúng. Còn chúng ta mệnh danh là con người, thuộc loài thượng đẳng, có một trí khôn hơn loài thú vật nhiều, nhưng lại có hành động thật dã man sát hại con mình. Như thế, thì có hơn gì loài thú vật kia đâu?
Như vậy, thử hỏi mình có còn xứng đáng làm người sống giữa trời đất này nữa không? Nhìn lên, thì thật là xấu hổ với trời, nhìn xuống, thì lại càng thêm hổ thẹn với đất. Còn nhìn ngang với đồng loại thì sao? Nếu người còn sót lại chút ít liêm sỉ hay một chút ít lương tâm con người, thì chắc không thể nào dám nhìn ngó ai. Vì con mình là nó mang tất cả dòng máu huyết núm ruột của mình, thế mà mình lại nhẫn tâm ra tay giết chết nó. Giết chết con mình thì có khác gì mình đã tự giết chết mình rồi! Thật là tội lỗi vô cùng!
Tình cờ, chúng tôi đã chứng kiến một vụ xử án của một bà mẹ người Khrme còn trẻ, khoảng 25 tuổi, đã tự tay giết chết đứa con ruột của mình mới sanh ra được hai mươi lăm ngày. Hỏi ra, chỉ vì giận lẫy người chồng mà nỡ ra tay giết hại đứa con yêu quí của mình. Kết quả, tòa tuyên án xử phạt về tội giết con 12 năm tù. Thật đây là một cảnh tượng thật quá hãi hùng đau lòng! Đây là một trong nhiều trường hợp mà bà mẹ đã ra tay giết con ruột của mình. Trên báo chí, hẳn chúng ta cũng đã từng thấy những tin tức nói về thảm cảnh này rất nhiều.
Ngoài những bà mẹ mang tính độc ác bất bình thường này ra, còn lại tất cả đều yêu thương đau khổ xót xa, khi con mình đã chết. Điển hình như trường hợp bà Kisa Gotami. Nhưng sự đau khổ của bà, đã được đức Phật xoa dịu an ủi đánh thức bà, bằng cách Ngài dùng phương tiện thật khéo léo để chuyển hóa nỗi khổ niềm đau của bà trở thành một hiện thực đối diện với thực tế. Do đó, mà bà hết khổ đau. Chẳng những thế, mà bà còn chứng được thánh quả Dự lưu, tức sơ quả Tu đà hoàn.
Thế mới biết, trong cái khổ đau cùng cực của con người, vẫn còn có cái “tánh không khổ đau”, nếu chúng ta khéo biết làm sống dậy cái “tánh không khổ đau” này. Việc cảm hóa của đức Phật nói trên, đó là bài học để chúng ta ý thức mà tự chuyển hóa nỗi khổ niềm đau của chính mình, khi mình lâm vào hoàn cảnh đau thương ngút ngàn giống như bà Kisa Gotami. Chỉ có mình mới đủ sáng suốt tự tháo gỡ “nội kết” của chính mình. Ngoài ra, tất cả chỉ là trợ duyên giúp sức cho mình mà thôi.
288. Một khi tử thần đã đến, chẳng thân thuộc nào có thể thay thế, dù cha con thân thích cũng chẳng làm sao cứu hộ.
For him who is assailed by death there is no protection by kinsmen. None there are to save him – no sons, nor father nor relatives.
Kệ tụng
Một khi tử thần đến
Không có con che chở
Không cha không bà con
Không thân thích che chở
289. Biết rõ lý lẽ trên người trí gắng trì giới, thấu hiểu đường Niết bàn, mau làm cho thanh tịnh.
Realizing this fact, let the wise man, restrained by morality, hasten to clear the path leading to Nibbana.
Kệ tụng
Biết rõ lý lẽ trên
Kẻ trí siêng trì giới
Thấu triệt đường Niết bàn
Sớm chứng thanh tịnh đạo.
Lược giảng
Hai pháp cú trên, đức Phật dạy tại tinh xá Kỳ Viên, có liên quan đến bà Patàcàrà.
Theo truyện tích, bà ở Xá Vệ con của một gia đình rất giàu có. Bà là người có nhan sắc tuyệt đẹp. Nhưng hồng nhan thường hay bạc phận, khách má đào nhiều nỗi gian truân. Bà đã tư tình thông gian với một tên gia đồng, dù rằng bà đã được gia đình hứa gả cho một chàng trai môn đăng hộ đối. Gần đến ngày cưới, bà cùng với tên gia nhân bỏ trốn. Đến một nơi xa lạ, hai người lập nghiệp chung sống với nhau. Vì là con nhà giàu có, bà không quen làm lụng vất vả bằng chân tay. Nhưng trong tình cảnh này, tất nhiên, bà phải chịu chớ có biết than van cùng ai. Bụng làm dạ chịu chớ khá trách ai! Thế là, bà phải phụ lực với người chồng trong việc xây dựng mái ấm gia đình. Cuộc sống của hai người rất vất vả, nhưng đây cũng là quả báo của bà.
Trải qua thời gian sống chung, kết quả, bà đã mang thai. Trước khi sanh, bà lén chồng trở về nhà để sanh. Nhưng người chồng phát hiện được, nên bắt bà trở lại. Lần thứ hai cũng thế. Nhưng lần này, trên đường trở về nhà, bà chuyển bụng giữa đường. Người chồng vào rừng đốn cây làm chòi để che mưa nắng cho bà sanh nở. Nhưng không may, người chồng đã bị rắn độc cắn chết. Chờ hoài không thấy chồng về, cuối cùng, bà hạ sanh đứa con thứ hai. Sanh xong, bà lại bồng bế hai con về nhà cha mẹ. Khi qua sông, bà để đứa con lớn bên bờ, ẩm đứa mới sanh lội qua trước. Vừa ra giữa sông, thấy con diều hâu sà xuống quắp đứa bé bên bờ, hốt hoảng, bà quơ tay la lên đuổi nó, vô tình bà làm rớt đứa nhỏ xuống nước. Đứa nhỏ bị chết chìm và nước cuốn trôi đi. Đứa bên này bờ sông, thấy mẹ quơ vẫy tay tưởng kêu mình, nên nó bò rớt té xuống sông và rồi cũng bị chết chìm luôn. Thế là cả hai đứa con đều chết hết.
Còn lại mình bà, bà đã cố gắng hết sức mới lội qua được tới bờ. Trên đưòng về quê nhà, người ta cho tin bà biết là cả nhà của bà đều bị chết cháy hết vì hỏa hoạn. Tin như sét đánh, người bà phát điên lên, vì tất cả người thân yêu ruột thịt của bà đã chết hết. Thật là đau xót vô cùng!
Bà đi lang thang như người mất hồn, lần đến tinh xá nơi Phật và chúng Tăng đang trú ngụ. Phật biết, nghiệp quả của bà đã trả xong, nên Phật dùng lời an ủi khai thị mở mắt sáng cho bà. Phật dạy:
-“Này Patacara, người nào khi rời bỏ thế gian, không có con cái hay cha mẹ, họ hàng có thể bảo trợ, che chở hay cho an trú. Cho nên, dù những người ấy đang sống đó, cũng như không có. Người khôn ngoan nên có đạo đức thanh tịnh để dẹp sạch đường đến Niết bàn”. Nhân đó, Phật dạy hai pháp cú trên. Nghe xong, bà chứng quả Dự lưu. (Hết phần lược dẫn cốt chuyện)
Pháp cú 288, Phật cảnh tỉnh thức nhắc chúng ta nên nhớ, khi tử thần đã đến, thì không một ai có thể thay thế cái chết cho ta được, dù đó là người thân thương nhứt đời ta. Không ai có thể ăn thế hay ngủ thế cho ai. Việc làm dù nặng nhọc cực khổ đến đâu, người thân mình cũng có thể thay thế làm việc cho mình được. Còn nói đến cái chết, thì nghiệp quả ai nấy lãnh. Thế mới biết, ở đời, có những điều ta có thể thay thế, nhưng có những điều mà không ai có thể thay thế cho ai. Như kẻ sát nhân bị tù tội, dù đó là người thân thương nhứt, như cha mẹ hay chồng vợ, con cái, cũng không ai thay thế cho ai được. Những cái thông thường tương đối xảy ra trong cuộc sống mà ta còn bó tay bất lực thay, nói chi đến cái chết, có ai chịu thế cho ai đâu!
Chiêm nghiệm lời cảnh giác của Phật như thế, chúng ta cần phải nghĩ đến và lo cho đời sống tinh thần của ta nhiều hơn. Bởi vì, có đôi khi vì nặng nợ gia đình, mà mình đã gây ra nhiều tội lỗi, như sát hại sinh vật, hay gây tạo những điều tội lỗi bất lương khác, làm cho mọi người thân thuộc của mình ăn sung mặc sướng, nhưng tất cả tội lỗi, rốt lại, chỉ có phần mình gánh chịu thọ khổ. Nhân nào quả nấy, đó là luật tắc không sai.
Thiết nghĩ, là Phật tử chúng ta nên cân nhắc thận trọng đến cái hậu quả, trước khi mình hành động. Xét thấy, những việc làm nào có lợi lạc cho người, mà tổn hại cho mình, điều đó, Phật dạy chúng ta không nên làm. Làm những điều gì có lợi cho mình, lợi cho người, lợi vật, không những hiện đời mà còn đời sau nữa, thì điều đó mới thật là điều thiện, Phật dạy chúng ta nên làm. Bằng ngược lại, thì quyết định ta không nên gây tạo.
Bởi vì khi mình sa đọa thọ khổ nơi địa ngục, thì không ai có thể vào đó thay thế cho mình được. Có thương nhớ lắm, thì họ chỉ thốt ra vài lời thương tiếc, thế thôi! Lời nói đó, chẳng có ai mà không nói được. Khi họ đã biết thương tiếc, thì mình là người lãnh lấy khổ đau, chịu đựng trăm ngàn thứ hình phạt cay đắng khổ sở vô cùng rồi! Chừng đó dẫu mình có ăn năn hối hận, thì việc đã rồi. Chi bằng tốt hơn hết là mình nên biết thương mình, tránh gây tạo nhân ác, thì khỏi phải chuốc lấy quả báo xấu ác. Đó mới thật là thượng sách và đó mới thực sự là mình tự biết thương mình.
Qua câu chuyện lược dẫn thương tâm trên, cho chúng ta thấy, bà Patacara tuy là con nhà giàu có lại xinh đẹp, nhưng vì nghiệp quả bất thiện của riêng bà, nên bà phải trả. Thế mới biết luật nhân quả rất công bằng. Được sinh vào nhà sang trọng, giàu có, thân hình đẹp đẽ, đó là do đời trước bà đã biết tu tạo phước đức. Tuy nhiên, sự đau khổ chết chồng, mất con và mất hết tất cả người thân, đó là quả báo bất thiện của bà mà bà phải trả.
Chỉ có đức Phật mới biết rõ căn nguyên nghiệp quả của bà đã gây tạo lành dữ từ nhiều kiếp trong quá khứ. Vì biết rất rõ, nên Phật cảm hóa độ bà hết khổ và bà đã trở thành một Tỳ kheo ni tu hành chứng thánh quả. Phải chăng, đó cũng là khổ tận cam lai. Khi đã trả hết cái quả báo ác tích lũy nghiệp mà mình đã gây ra, thì mình sẽ hưởng được những gì mà mình đã gây tạo nhân lành.
Thế mới biết, trong đời sống thường nhựt của ta, có khi mình nghĩ ác, nói ác, làm ác, rồi cũng có lúc mình nghĩ lành, nói lành, làm lành. Tất cả đều có nhân và quả, như bóng theo hình, một mảy may không hề sai sót. Cho nên, khi quả nào thuần thục thì mình phải trả trước. Vì thế, trong suốt cuộc đời của ta, có lúc ta được diễm phúc hanh thông suông sẻ, bản thân và gia đình ta được an vui hạnh phúc. Thì đó là lúc ta hưởng được cái quả báo phước đức mà do ta đã gây ra. Nhưng ngược lại, cũng có khi, bản thân và gia đình ta gặp phải những điều bất lợi, như bị tai nạn, hao tiền tốn của v.v… Thì khi đó chính là lúc mà ta phải trả cái quả báo bất thiện mà do ta đã gây ra.
Như vậy, nhân ác hay nhân thiện, tất cả đều do chúng ta gây tạo từ trong nhiều đời hay hiện đời, khi lành khi dữ, nên khi trả quả cũng có lúc vầy lúc khác. Hiểu rõ như thế, khi quả lành đến thì ta an vui thụ hưởng, còn khi quả ác đến thì ta cũng phải an nhẫn vui vẻ mà trả cho xong. Bởi vì tất cả nghiệp quả lành hay dữ cũng chính do ta tạo lấy, chớ không có ai gây tạo ra cho ta cả. Thế thì:
Đã mang lấy nghiệp vào thân
Cũng đừng trách lẫn trời gần trời xa.
(Truyện Kiều)
Lành dữ cũng bởi do ta
Lành thời vui hưởng dữ thời trả xong.
Ai ơi! xin nhớ nằm lòng
Tránh gây nhân ác, thiện tòng nên gây
Tu nhân tích đức cho dầy
Hiện đời hạnh lạc mai này an vui.

XXI. PHẨM TẠP
(Pakinnakavaggo)
290. Nếu bỏ vui nhỏ mà được vui lớn, kẻ trí sẽ làm như thế.
If by renouncing a lesser happiness one may realize a greater happiness, let the wise man renounce the lesser, having regard for the greater.
Kệ tụng
Nhờ từ bỏ vui nhỏ
Hưởng được vui lớn hơn
Kẻ trí bỏ vui nhỏ
Khi nhìn đến vui lớn
Lược giảng
Pháp cú này, Phật dạy tại tinh xá Trúc Lâm có liên quan về những hành động quá khứ của Ngài.
Theo truyện tích, thuở xa xưa, thành phố Tỳ xá ly là một thành phố sung túc, giàu mạnh, có nhiều vị vua xuất hiện nối tiếp nhau cai trị. Về sau, nguồn lương thực bị khánh kiệt, dân chúng đói khát, và từ đó trong thành xảy ra ba thiên tai: nạn đói, ác thần và bệnh dịch.
Trước tình cảnh bi đát khổ nạn đó, dân chúng dâng kiến nghị lên nhà vua, và yêu cầu nhà vua tìm mọi biện pháp để giải quyết gấp rút những thiên tai đó. Về phần nhà vua, xét thấy, không phạm lỗi lầm. Nhiều người góp ý nên cúng tế thần linh để có thể làm giảm bớt đi nạn thiên tai này. Mỗi người nêu ra một ý kiến, nhưng chỉ có ý kiến là nên thỉnh Phật đến để làm lễ cầu nguyện, thì thiên tai mới giảm. Mọi người tán thành ý kiến này và họ cử người đến thành Vương xá để thỉnh cầu đức Phật.
Sau khi họ làm lễ thỉnh cầu, đức Phật nhận lời. Vì đức Phật biết trước là thiên tai sẽ giảm thiểu. Hay tin Phật đến thành Tỳ xá ly, vua Tần bà sa la ra lệnh cho dân chúng biết và chính ông chuẩn bị trang hoàng sắp xếp hết mọi việc. Trên đường từ thành Vương xá đến thành Tỳ xá ly, hương hoa cờ lọng trưng bày khắp hai bên đường. Đoàn người đưa tiễn đức Phật thật là trang nghiêm trọng thể. Mỗi nơi Phật tạm dừng chân, đều có thực phẩm cúng dường và tung hoa kính mừng chào đón. Trong khi đó, thì dân chúng thành Tỳ xá ly quyết định sẽ đón tiếp đức Phật long trọng gấp hai lần mà vua Tần bà sa la đưa tiễn. Từ bờ sông Hằng, (nơi Phật và thánh chúng tạm dừng chân) đến thành Tỳ xá ly, dài khoảng ba dặm đường, dân chúng đón rước cờ xí hương hoa trưng bày trang hoàng, thật là tưng bừng náo nhiệt.
Phật dùng thuyền qua sông Hằng đến địa hạt thành Tỳ xá ly. Phật vừa bước chân lên bờ, một cơn bão lớn nổi lên, mưa trút đổ ào xuống, nước dâng lên cao, cuốn sạch các tử thi xuống sông. Nhờ đó, mà không còn cảnh tượng hôi thúi ô nhiễm. Sau ba ngày, Phật đến Tỳ xá ly.
Trời Đế Thích và chư thiên đều có mặt để ủng hộ đức Phật. Bấy giờ Phật nói kinh Kim Cang và bảo Tôn giả A nan lặp lại. Ngài A nan vừa tụng đọc vừa sái tịnh rải nước cam lồ khắp hết, làm cho chúng ma khiếp sợ tìm đường tẩu thoát. Những người mắc bệnh dịch lần hồi tỉnh lại. Thế là, nhờ thần lực của kinh Kim Cang mà dân chúng được lành bệnh.
Nhân đó, Phật lại nói kinh Kim Cang thêm một lần nữa, mọi thiên tai đều tiêu trừ. Các hoàng tử Licchavi hết lòng bái phục Phật và thánh chúng rồi họ tiễn đưa Phật đến bờ sông Hằng. Thấy thế cả rồng trời đều hết lòng cung kính đức Phật. Long vương đưa Phật xuống Long cung và nghe Phật giảng pháp suốt đêm.
Sau khi hồi hướng phước báo cho vua rồng, đức Phật rời long cung và cùng đoàn người trở về thành Vương xá. Mọi việc đều do vua Tần bà sa la sắp xếp đón rước đức Phật trở về thật chu đáo.
Từ đó, uy tín của đức Phật vang dội, cả thiên long bát bộ đều quy kính hết mực. Các thầy Tỳ kheo thắc mắc hỏi Phật về lý do nào mà các vua quan, hoàng tử, dân chúng đều hết lòng cúng dường phẩm vật dâng lên đức Phật như thế? Phật nói, thời quá khứ Ta thuộc dòng Bà la môn, có tên là Samkha cha của Susima, Susima tu hành thành Phật Độc Giác và Ta đã hết lòng làm những việc thiện như là: “nhổ cỏ chung quanh tháp của vị Phật Độc Giác, trải cát quanh tháp, tung hoa lên tháp, tưới nước quanh tháp”. Nhờ quá khứ Ta đã làm và cúng dường như thế, nên hôm nay Ta đã được phước báo: dọn sạch đường tám dặm Ta đi, đường dài Ta đi đã được rải cát, các loài hoa đã được dân chúng rải trên đường…
Sau khi kể xong, Phật nói:
- “Này các Tỳ kheo, các phẩm vật và những sự tôn kính ấy không phải tự nhiên đến với ta do thần lực của Ta là Phật, không do thần lực của trời, rồng. Trái lại từ thần lực có từ những phẩm vật thô sơ Ta cúng dường từ thời quá khứ”. (Hết phần lược dẫn cốt chuyện). Nhân đó, Phật liền dạy pháp cú trên.
Vui là một sở thích cố hữu của con người. Đối với người đời, bất luận ở vào hạng người nào, dù trẻ hay già, dù nam hay nữ, ai ai cũng ham thích vui chơi. Tuy nhiên, thưởng thức thú vui, cũng có nhiều đẳng cấp và cường độ khác nhau. Tùy theo trình độ và sở thích của mỗi người, mà họ chọn những thú vui chơi khác nhau. Có những thú vui lành mạnh, nhưng cũng có những thú vui sa đọa. Người đời, họ thích nhứt là những thú vui ngũ dục. Nhưng dù bất cứ thú vui nào, bản chất của chúng cũng chỉ là những thứ giả trá tạm bợ mà thôi.
Trong lúc hành lạc, người ta cảm thấy vui thích, nhưng sau đó thì cái khổ liền theo. Hiện trạng này, chúng ta thấy nhan nhãn xảy ra hàng ngày trong xã hội. Hút xách, rượu chè, bài bạc, đĩ điếm, dâm ô v.v…Đó là những thú vui sa đọa. Quả đó là thú vui chỉ mở đường cho đau khổ. Ở đời, không có một thú vui nào làm cho họ thỏa mãn. Có thỏa mãn chăng chỉ trong chốc lát, rồi thì họ cũng vẫn thèm khát và tìm cách hưởng thụ tiếp nữa. Thật ngũ dục lạc có một sức hút hấp dẫn họ rất mãnh liệt. Khác nào như kẻ bị bệnh ngứa ngáy nằm hong nóng trên lò than lửa đỏ rực. Họ chỉ được đả ngứa trong giây lát, rồi thì cơn ngứa vẫn tiếp tục hoành hành.
Pháp cú trên, Phật dạy người trí nên bỏ cái vui nhỏ để được cái vui lớn. Cái vui lớn mà Phật muốn nói ở đây là cái vui chân thật, giải thoát, tức Niết bàn. Chỉ có cái vui đó, mới thực sự là chân hạnh phúc. Còn cái vui theo thế gian thường tình chỉ là cái vui trong đau khổ mà thôi.
Điển hình như đức Phật, Ngài đã từ bỏ tất cả những thú vui ở thế gian, kể cả ngai vàng điện ngọc, vợ đẹp, con ngoan, rượu ấm, tình nồng v.v… Vì những thứ ấy đối với Ngài chỉ là những thứ hào nhoáng giả trá tạm bợ bên ngoài, thực chất, bên trong của nó thì tràn đầy đau khổ. Những thú vui mà Ngài có đó, đối với chúng ta, thì thật không phải là nhỏ. Thế mà, Ngài đã mạnh dạn cương quyết từ bỏ tất cả, để đổi lấy những thú vui lớn, mà ngày nay cả nhơn loại đều bái phục quy kính hướng về Ngài.
Đối với người Phật tử, Phật khuyến nhắc chúng ta nên chọn cho mình cái vui chân thật. Muốn được cái vui đó, tất nhiên, là chúng ta phải nỗ lực tu các hạnh lành: bố thí, trì trai, giữ giới, tụng kinh, niệm Phật, giúp đỡ những người hoạn nạn nghèo khổ v.v… Nói chung, là chúng ta cố gắng siêng năng làm mọi việc lành, và hãy lánh xa mọi điều dữ, dẹp bớt những thứ phiền não rối rắm trong lòng. Có thế, thì chúng ta mới có được những niềm vui tươi mát, an thoát nhẹ nhàng. Và đó mới thực sự là niềm vui chân thật vậy.
Chuyện lược dẫn trên, cho ta thấy, tiền thân của đức Phật Ngài chỉ làm những hạnh lành nhỏ nhặt, như nhổ cỏ chung quanh tháp của vị Phật Độc Giác, trải cát chung quanh tháp, tung hoa cúng dường tháp v.v… Kết quả, Ngài đã hưởng được nhiều phước báo như đã nói ở trên. Điều đó, cho chúng ta một bài học rằng, chớ nên khinh thường những điều lành nhỏ mà không làm. Chính những điều lành nhỏ đó, nó sẽ đem lại cho chúng ta một niềm vui lớn sau này.
Thiên tai là một họa hại tàn phá khủng khiếp dữ dội mà thời nào cũng có. Đó là một thách thức khổ nạn lớn lao nhứt của nhơn loại hiện nay. Thiên tai ngoài những luật định thiên nhiên ra, phần lớn cũng do con người tiếp tay can dự vào. Những hiện tượng phế thải khí độc do con người gây nên làm ô nhiễm bầu khí quyển, và môi sinh ngày càng trở nên trầm trọng. Đó chính là nguyên nhân gây ra bao thảm cảnh khổ đau bệnh tật, chết chóc, mà hiện nay cả nhơn loại đều gánh chịu.
Vì tham vọng mưu sinh cao độ, nên con người bất chấp mọi hậu quả khổ đau. Họ hành động thiếu ý thức, nên từ đó, gây nên bao thảm trạng đau thương người giết người, tức đồng loại làm khổ đau cho đồng loại. Đây là một vấn đề tối quan trọng luôn đe dọa đến đời sống con người. Nếu như con người không chịu hoán cải, sớm tìm ra biện pháp thích nghi để kịp thời giải quyết cho việc bảo vệ môi sinh này, thì nhơn loại khó mong tránh khỏi nạn thiên tai ngày càng giáng xuống ác liệt hơn. Và một ngày nào đó chắc chắn nhơn loại sẽ vắng bóng trên hành tinh này.
Hôm thứ bảy ngày 3. 5. 2008, cơn bão Nargis ác liệt dữ dội vừa xảy ra tại Miến Điện. Cơn bão đã càn quét gây nên thiệt hại vật chất và nhân mạng tử vong rất lớn. Theo tin tức báo chí loan tải cũng như đài phát thanh cho biết, có hơn một trăm ngàn người tử nạn. Con số người chết thật quá khủng khiếp. Ngoài ra, còn có cả hơn triệu người đang lâm vào cảnh màn trời chiếu đất, sống nheo nhóc đói khát không nơi trú ngụ và đương đầu với nguy cơ bệnh tật. Đây là một thảm họa thật nặng nề lớn lao mà người dân Miến đang khổ sở gánh chịu.
Rồi đến trận động đất tại tỉnh Tứ Xuyên vào ngày 12/5/08/ ở Trung Quốc. Trận động đất này cũng đã gây nên thiệt hại nhân mạng và tài vật rất lớn lao. Theo tin tức cho biết, có hơn năm mươi sáu ngàn người đã chết và mất tích. Con số này hiện vẫn còn tăng lên cao hơn nữa. Và hơn năm triệu người phải sống trong cảnh màn trời chiếu đất, đói khát thiếu thốn trăm bề. Họ là những người may mắn còn sống sót và đang gào thét kêu la cầu mong đợi thế giới cứu tế. Cả thế giới đang nóng lòng dốc hết tâm lực để cứu trợ vật phẩm cho họ. Họ đang tranh đấu với tử thần trong từng giây phút để dành lấy sự sống. Thiên tai và nhơn tai cứ dồn dập xảy đến, luôn luôn đe dọa đến sự sống của con người. Không có trận thiên tai nào mà không gây nhiều thiệt hại thảm họa đau thương cho con người. Ấy thế mà, con người vẫn chưa chịu thức tỉnh để mỗi người tự ý thức bảo vệ môi sinh. Nếu không có biện pháp chống nổi với thiên tai họa hại, thì xin mỗi người chớ nên tiếp tay tạo thêm làm ô nhiễm môi trường. Bảo vệ môi trường sống chung quanh xanh tươi mát mẻ, hợp vệ sinh sạch sẻ, đó cũng là cách hay nhứt để bảo vệ sự sống an lành cho nhau.
291. Gieo khổ cho người để cầu vui cho mình, thì sẽ bị lòng sân hận buộc ràng, không sao thoát khỏi nỗi oán ghét.
Entangled by the bonds of hate, he who seeks his own happiness by inflicting pain on others, is never delivered from hatred.
Kệ tụng
Gieo khổ đau cho người
Mong cầu vui cho mình
Tất bị oán ràng buộc
Không sao thoát hận thù
Lược giảng
Pháp cú này, Phật dạy tại tinh xá Kỳ Viên, có liên quan đến một người đàn bà ăn trứng của một con gà.
Chuyện kể rằng, “trong một ngôi làng không xa thành Xá vệ, có một người đánh cá. Một hôm trên đường đi đến thành Xá vệ, ông bắt gặp một vài cái trứng dọc theo bờ sông Aciravati, ông bèn nhặt lấy. Đến Xá vệ, ông vào nhà người quen, luộc mấy quả trứng, khi ngồi ăn ông cho cô con gái chủ nhà một trứng. Cô bé ăn xong, đòi ăn thêm, bà mẹ phải lấy trứng trong ổ con gà mái luộc cho cô. Cô bé ăn trứng gà, từ đó cô đâm thích món ăn này và thường tự lấy trứng ăn.
Con gà mẹ để ý rằng mỗi lần mình đẻ trứng đều bị cô bé mang đi ăn hết; nổi cơn bất bình oán hận cô, nó thề rằng: “khi tôi chết, tôi sẽ tái sanh làm chằn tinh, ăn thịt mấy đứa con cô này”. Sau khi chết nó trở lại làm con mèo của nhà này, còn cô bé trở lại làm gà mái. Gà mái đẻ trứng đều bị mèo ăn hết, như vậy đến ba lần. Gà mái tức quá bèn trù: “ba lần ngươi ăn trứng của ta, còn muốn ăn thịt cả ta. Khi ta tái sanh, ta sẽ nhai xương ngươi và con ngươi”.
Sau đó gà mái sanh làm heo rừng, con mèo thành con nai. Khi nai có con, beo đến ăn thịt cả mẹ lẫn con. Như thế trong năm trăm kiếp liên tục, họ ăn nuốt lẫn nhau, gây đau khổ cho nhau. Cuối cùng một bên làm bà chằn, một bên làm phụ nữ trong thành Xá vệ. Câu chuyện tiếp diễn như cũ, cho đến khi gặp Phật, Ngài dạy pháp cú trên. Hai kẻ thù nghe xong, bà chằn xin quy y, thọ năm giới. Không còn hận thù, người đàn bà nọ cũng chứng sơ quả. Hội chúng đều được lợi ích”. (Trích nguyên văn Tích Truyện Pháp Cú tập III, Viên Chiếu, tr 147)
Sống ở đời, nếu con người cứ mãi tiếp tục gieo rắc khổ đau oán thù cho nhau, thì biết đến bao giờ nhơn loại mới thực sự chấm dứt khổ đau. Bản chất của con người vốn đã quá ích kỷ, cái gì cũng muốn chỉ có lợi cho mình, ai chết mặc ai. Người ta nhân danh chủ nghĩa, tôn giáo, để tìm đủ mọi phương cách chinh phục xâm chiếm cai trị kẻ khác. Vì quyền lợi cá nhân, rộng ra là quốc gia, người ta bất chấp dùng mọi thủ đoạn gian ác để xâm lăng chiếm hữu tài nguyên của các quốc gia khác. Từ đó, mới gây ra hận thù chiến tranh đau khổ triền miên cho nhau. Tất cả cũng đều do lòng ích kỷ hẹp hòi của con người mà ra. Từ bản ngã cá nhân, đến bản ngã đoàn thể, rộng hơn là quốc gia, tôn giáo. Bản ngã càng lớn, thì khổ đau càng to. Cá nhân thiếu đạo đức, thì cá nhân đau khổ. Đoàn thể thiếu đạo đức, thì đoàn thể đó tan rã. Tôn giáo thiếu đạo đức, thì tôn giáo đó sẽ bị phá sản.
Mỗi cá nhân muốn có hạnh phúc an vui, thì mỗi người cần phải lấy đạo đức làm nền tảng. Nếu mỗi cá nhân ăn ở cư xử có phẩm chất đạo đức, biết nâng cao chất liệu tình người, thì mỗi gia đình sẽ được an vui hạnh phúc, và rộng ra là cả quốc gia xã hội đều được an lạc thái bình. Như vậy, cái gốc, vẫn là quy kết ở nơi mỗi người.
“Ngày nào mà con người còn mang nặng những cố chấp định kiến, những tham vọng cao độ chiếm hữu quyền lợi, còn thiết định giai cấp thống trị, còn nuôi dưỡng những hận thù, xung đột, tranh chấp, thì chắc chắn ngày đó những vấn nạn khổ đau của con người vẫn còn tồn tại, thật khó lòng hóa giải!”. (Trích một đoạn trong Thông Bạch Phật Đản 2632 của Hòa Thượng Thích Phước Huệ)
Pháp cú trên, đức Phật nêu cao giá trị phẩm chất đạo đức làm người. Giá trị đó phải được nâng cao trong tinh thần bình đẳng giữa người và người. Không nên vì quyền lợi hạnh phúc của mình, mà lại nhẫn tâm chà đạp phá hoại xâm chiếm quyền lợi hạnh phúc của kẻ khác. Hành động đó, khác nào như chế dầu vào lửa và chắc chắn lòng sân hận oán thù ngày càng chồng chất lên cao.
Qua câu chuyện trích dẫn trên, chúng ta thấy mối thâm thù vay trả, trả vay trải qua nhiều kiếp, thật là khủng khiếp. Gà mái vì bực tức cô bé ăn trứng của mình đẻ ra, nên chuyển kiếp tái sanh làm mèo. Cô bé tái sanh trở lại làm gà mái. Mỗi lần gà mái đẻ trứng đều bị mèo ăn hết. Vì lòng sân hận buộc ràng, nên mối thù trả vay không dứt. Nhân quả thật là đáng sợ. Chuyện hận thù cứ thế mà tiếp diễn, cho đến khi gặp Phật, Phật mới tháo gỡ hóa giải hết được.
Bởi thế, người tu hành nên buông xả hết mọi thứ, đừng để gây nội kết trong lòng. Nhứt là nội kết “thù oán”, thì thật là một tai hại không những hiện đời mà còn trải qua nhiều đời đau khổ.
Nỗi oán thù vay trả giữa vua cha Bình sa vương và thái từ A xà thế là một minh chứng cho việc báo oán thật đáng ghê sợ này. Theo truyện tích, thì tiền thân của thái tử A xà thế là một vị Tiên nhơn. Ông này có ước nguyện là sẽ tái sanh làm con Bình sa vương. Nhưng Bình sa vương vì quá nóng lòng mong muốn có con sớm, nên ra lệnh cho người hạ sát vị Tiên nhơn đó. Vị Tiên nhơn này, trước khi chết, thốt lời oán hận là sẽ báo oán trả thù. Sau khi chết, ông liền tái sanh đầu thai làm con của Bình sa vương.
Khi hạ sanh thái tử, vua cha nghe lời tiên đoán của thầy tướng số, là đứa con này khi lớn lên nó sẽ trả thù giết chết nhà vua, nên nhà vua rất lo sợ và ra lệnh khi hoàng hậu lâm bồn không cho ai nâng đỡ thái tử. Mục đích là để cho thái tử rớt từ trên cao xuống mà chết. Nhưng thái tử không chết, chỉ gãy ngón tay út mà thôi. Do oan gia đó, mà sau này khi lớn lên, thái tử A xà thế nghe lời xúi giục của Đề bà đạt đa bắt vua cha tống giam vào trong lao ngục và đày đọa hành hạ cho đến chết. Đó là mối oán thù tương báo con giết cha.
Ngày nay, việc con giết cha, cha giết con, mẹ con, con mẹ, vợ chồng giết hại lẫn nhau, thuờng xảy ra hàng ngày khắp nơi trên thế giới. Tất cả đều do mối oan gia thù hận truyền kiếp sâu nặng mà phải đầu thai làm thân thuộc để gần gũi mà dễ bề trả thù sát hại lẫn nhau. Ôi! Nhân quả vay trả, trả vay thật đáng ghê sợ lắm thay!
Xin tất cả hãy chiêm nghiệm qua hai câu chuyện chứng minh trên mà mỗi người nên mở rộng cõi lòng bao dung tha thứ, đừng nuôi dưỡng ôm ấp oán thù trong tâm mà tự mình chuốc khổ lụy cho mình. Oán thù nên mở ra không nên kết chặt lại. Vì hận thù làm sao trừ diệt được hận thù. Càng thù hận thì càng chồng chất lên cao. Cứ thế mà vay trả, trả vay không biết đến bao giờ cùng. Nghe lời Phật dạy, chúng ta hãy lấy tình thương mà xóa bỏ hận thù. Có thế, thì đời sống của chúng ta mới được an vui hạnh phúc vậy.
Về Đầu Trang Go down
https://triamquan.forumvi.com/
Tri Âm Quán
Thành Viên Tích Cực
Thành Viên Tích Cực
Tri Âm Quán


Tổng số bài gửi : 6340
Reputation : 2
Join date : 31/07/2013
Đến từ : Thị Trấn Chũ

Kinh Pháp Cú chú giải (tập 1) - Page 2 Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Kinh Pháp Cú chú giải (tập 1)   Kinh Pháp Cú chú giải (tập 1) - Page 2 EmptySun Nov 16, 2014 12:03 pm

292. Việc đáng làm không làm, việc không đáng làm lại làm, những người phóng túng ngạo mạn, thì lậu tập mãi tăng thêm.
The cankers only increase for those who are arrogant and heedless, who leave undone what should be done and do what should not be done.
Kệ tụng
Việc đáng làm không làm
Không đáng làm lại làm
Người kiêu mạn phóng dật
Lậu hoặc ắt tăng trưởng
293. Thường quan sát tự thân, không làm việc không đáng, việc đáng gắng chuyên làm, thì lậu tập[29] dần tiêu tan.
The cankers cease for those mindful and clearly comprehending ones who always earnestly practise mindfulness of the body, who do not resort to what should not be done, and steadfastly pursue what should be done.
Kệ tụng
Người siêng năng cần mẫn
Thường quán niệm tự thân
Không làm việc không đáng
Gắng làm việc đáng làm
Người tu niệm giác tỉnh
Lậu hoặc tất tiêu trừ.
Lược giảng
Hai pháp cú trên, đức Phật dạy tại hang độngJàtiyà gần Bhaddiya, có liên quan đến các Tỳ kheo Bhaddiya.
Theo truyện tích, “một thời, đức Thế Tôn đang ở tại động Jàtiyà, gần thành Bhaddiya. Các Tỳ kheo ở đây có thói quen trang trí giày dép của các thầy, như trong Vệ đà diễn tả: “Các Tỳ kheo ở Bhaddiya có thói quen mang những đôi dép sặc sở đủ kiểu”. Họ tự làm hoặc đặt làm những đôi dép bằng vật liệu quý nhẹ, đắt tiền, đúng mốt, hợp thời trang….Như thế họ lơ là với học hỏi, giới luật, thiền định, trí tuệ.
Các Tỳ kheo khác thấy thế rất bực tức, bèn bạch với Phật. Phật quở trách mấy thầy ham chưng diện này:
- Các ông đến đây vì mục đích gì, mà bây giờ đeo đuổi chuyện vô ích như thế”? Nhân đó, Phật nói hai pháp cú trên.
Các thầy Tỳ kheo ưa đẹp này nghe xong, liền chứng A la hán, hội chúng cũng được lợi ích. (Trích nguyên văn Tích Truyện Pháp Cú tập III, Viên Chiếu, tr 148)
Hai pháp cú trên, Phật răn nhắc chúng ta nên cẩn trọng khi làm việc. Cái gì đáng làm, nên làm, việc gì không đáng làm, thì không nên làm. Người tu cần phải vận dụng trí huệ để tư duy quán chiếu tự thân và hành động. Điều quan trọng mà Phật dạy ở đây là: “người buông lung phóng dật, thì lậu hoặc dần dần tăng trưởng”. Về buông lung ở nơi thân tâm, nhứt là ở nơi tâm ý, thì ở phẩm “Không Buông Lung”, đức phật đã khuyến giáo chúng ta rất kỹ. (Muốn hiểu rõ hơn, xin xem lại phẩm II, “Không Buông Lung” Pháp Cú tập một tr 38 cùng một soạn giả) .
Người tu hành mà sống buông lung phóng túng, không có giới luật kềm chế, thì đó là nếp sống sa đọa. Phật nói kẻ đó sống như thây ma. Nghĩa là sống mà như đã chết rồi. Không phải chết về thân xác mà chết về giới đức tinh thần. Đạo hạnh và nhân cách của người xuất gia không còn. Từ đó, mọi lậu hoặc phiền não phát sanh và tăng trưởng. Chí nguyện của người xuất gia là mong thoát khỏi vòng luân hồi sanh tử khổ đau, để chóng mau thành tựu đạo quả. Muốn thế mà chúng ta luôn để cho tâm ý buông lung, thì thử hỏi làm sao thành tựu được sở nguyện?
Chuyện trích dẫn trên, Phật đã quở trách các thầy Tỳ kheo làm những chuyện vô ích. Phí phạm thời giờ thật là luống uổng. Lẽ ra, người xuất gia phải luôn để tâm chuyên cần tu học. Hằng sống trong chánh niệm, chánh quán. Có thế, mới tương hợp với đạo lý giác ngộ và giải thoát.
Ngược lại, các thầy làm những chuyện không đâu, suốt ngày cứ mãi lo trang trí giày dép cho đẹp, không quan tâm gì đến việc tu hành. Như thế, thì làm sao dứt hết lậu hoặc để được giác ngộ giải thoát? Đó là làm những chuyện không đáng làm.
Nhân đây, chúng ta hãy tự quán xét lại mình, có giống như các thầy Tỳ kheo mà bị Phật quở trách hay không? Nếu có, thì mỗi người chúng ta nên tự hối cải sửa lại những sai lầm mà lâu nay chúng ta đã bị vướng mắc. Được vậy, thì mới xứng danh là người xuất gia tu học đúng theo đạo lý giác ngộ giải thoát. Bằng không, thì chúng ta khó mong thoát khỏi vòng luân hồi sanh tử khổ đau.
294. Hãy diệt mẹ[30] (ái dục) và cha[31] (kiêu căng), diệt hai vua dòng Sát đế lợi[32], diệt vương quốc[33] luôn cả quần thần[34], mà hướng về Bà la môn vô ưu[35].
Having slain mother (craving), father (self-conceit), two warrior kings (eternalism and nihilism), and destroyed a country (sense organs and sense objects) together with its treasurer (attachment and lust), ungrieving goes the holy man.
Kệ tụng
Sau khi giết mẹ cha
Giết hại vua Sát lỵ
Giết vương quốc, quần thần
Vô ưu, Phạm chí sống
295. Hãy diệt mẹ (ái dục) và cha (kiêu căng), diệt hai vua dòng Bà la môn, diệt luôn hổ tướng “nghi” thứ năm, mà hướng về Bà la môn vô ưu.
Having slain mother, father, two brahmin kings (two extreme views), and a tiger as the fifth (the five mental hindrances), ungrieving goes the holy man.
Kệ tụng
Sau khi giết mẹ cha
Hai vua Bà la môn
Giết hổ tướng thứ năm
Vô ưu Phạm chí sống
Lược giảng
Hai pháp cú này, Phật dạy tại tinh xá Kỳ Viên, có liên quan đến Tôn giả Lakuntaka Bhaddiya.
Theo truyện tích, “một thời, đức Thế Tôn đang ở tại Kỳ Viên, có một số Tỳ kheo đến viếng thăm Ngài. Sau khi đảnh lễ, các thầy kính cẩn lui ngồi một bên. Khi ấy Tôn giả Lakuntaka Bhaddiya đi ngang đấy không xa. Đức Phật biết tâm của các Tỳ kheo đúng lúc, Ngài nhìn Tôn giả và nói với các Tỳ kheo:
- Các ông hãy nhìn kìa! Đó là Tỳ kheo đã giết cha, giết mẹ, thoát khổ đau.
- Đức Thế tôn nói gì thế?
Các Tỳ kheo kêu lên, nhìn nhau, nghi ngờ và hỏi Phật:
- Bạch Thế Tôn! Ngài nói gì?
Phật bèn nói hai pháp cú trên. Nghe xong, các thầy chứng A la hán”. (Trích nguyên văn Tích Truyện Pháp Cú tập III, Viên Chiếu, tr 150)
Chủ yếu của hai pháp cú trên là đức Phật dạy người tu hành muốn được giải thoát là phải diệt trừ vô minh và tham ái. Vì nó là động cơ thúc đẩy chúng sanh tạo nghiệp tái sanh trong vòng luân hồi sanh tử khổ đau. Đồng thời Phật lại dạy tiếp: “diệt hai giòng Bà la môn”, có nghĩa là dứt trừ hai loại tà kiến: “Thường kiến và Đoạn kiến”. Đây là hai chủ thuyết của hai phái ngoại đạo thời Phật. Phái Thường kiến họ chủ trương có một linh hồn bất tử. Ngược lại, phái Đoạn kiến, thì chủ trương đoạn diệt, nghĩa là con người sau khi chết là mất hẳn không có linh hồn tái sanh đời sau.
Nói “diệt Vương quốc”, có nghĩa là chỉ cho dứt trừ thập nhị xứ, tức sáu căn (mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý) và sáu trần (sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp). Còn “quần thần” là chỉ cho ngũ dục lạc thế gian. “Hướng về Bà la môn vô ưu” là hướng về quả vị lậu tận A la hán. “Diệt luôn hổ tướng nghi”, có nghĩa là đoạn trừ năm thứ triền cái. Năm triền cái là: “tham, sân, hôn trầm thụy miên, trạo hối và nghi”. Năm thứ này làm chướng ngại công phu thiền định của hành giả. Chúng cũng thuộc về loại phiền não nguy hiểm, có sức mạnh rất lớn làm cho hành giả rất trở ngại trên bước đường tu tập để đạt thánh quả. Nhứt là đối với phiền não “Nghi”. Đây là thứ tâm lý bất quyết, nghiệp tánh của nó là hay do dự nghi ngờ chân lý, nghiệp dụng của nó là làm cản trở cho việc tin tưởng đạt ngộ chân lý.
Chuyện trích dẫn trên, đọc qua, chúng ta thấy thật đơn giản, nhưng, không phải là việc dễ thật hành. Phật kêu các vị Tỳ kheo chỉ thầy Lakuntaka Bhaddiya đã giết cha và mẹ, thoát khổ đau. Nghe Phật nói thật là lạ lùng, làm cho các thầy Tỳ kheo đâm ra sửng sốt ngạc nhiên nghi ngờ. Tại sao thầy đó lại giết cha và mẹ? Ai cũng biết, đây là phạm tội ngũ nghịch rất nặng. Tội đọa địa ngục A tỳ. Nhưng sau khi nghe Phật dạy rõ hơn ở hai bài kệ, thì tâm trí các thầy bừng sáng, dứt hết nghi ngờ và ngay đó các thầy chứng thánh quả A la hán.
296. Đệ tử Kiều đáp ma[36], phải luôn tự tỉnh giác, vô luận ngày hay đêm, thường niệm tưởng Phật đà.
Those disciples of Gotama ever awaken happily who day and night constantly practise the Recollection of the Qualities of the Buddha.
Kệ tụng
Đệ tử đấng Cù Đàm
Luôn luôn tự tỉnh giác
Vô luận ngày hay đêm
Thường niệm tưởng Phật Đà.
297. Đệ tử Kiều đáp ma, phải luôn tự tỉnh giác, vô luận ngày hay đêm, thường niệm tưởng Đạt ma.
Those disciples of Gotama ever awaken happily who day and night constantly practise the Recollection of the Qualities of the Dhamma.
Kệ tụng
Đệ tử đấng Cù Đàm
Luôn luôn tự tỉnh giác
Vô luận ngày hay đêm
Thường niệm tưởng chánh pháp.
298. Đệ tử Kiều đáp ma, phải luôn tự tỉnh giác, vô luận ngày hay đêm, thường niệm tưởng Tăng già.
Those disciples of Gotama ever awaken happily who day and night constantly practise the Recollection of the Qualities of the Sangha.
Kệ tụng
Đệ tử đấng Cù Đàm
Luôn luôn tự tỉnh giác
Vô luận ngày hay đêm
Thường niệm tưởng Tăng Già.
299. Đệ tử Kiều đáp ma, phải luôn tự tỉnh giác, vô luận ngày hay đêm, thường niệm tưởng sắc thân[37].
Those disciples of Gotama ever awaken happily who day and night constantly practise mindfulness of the body.
Kệ tụng
Đệ tử đấng Cù Đàm
Luôn luôn tự tỉnh giác
Vô luận ngày hay đêm
Thường niệm tưởng sắc thân
300. Đệ tử Kiều đáp ma, phải luôn tự tỉnh giác, vô luận ngày hay đêm, thường vui điều bất sát.
Those disciples of Gotama ever awaken happily whose minds by day and night delight in the practice of non-violence.
Kệ tụng
Đệ tử đấng Cù Đàm
Luôn luôn tự tỉnh giác
Vô luận ngày hay đêm
Ý vui niềm bất hại
301. Đệ tử Kiều đáp ma, phải luôn tự tỉnh giác, vô luận ngày hay đêm, thường ưa tu Thiền quán.
Those disciples of Gotama ever awaken happily whose minds by day and night delight in the practice of meditation.
Kệ tụng
Đệ tử đấng Cù Đàm
Luôn luôn tự tỉnh giác
Vô luận ngày hay đêm
Ý vui tu thiền quán
Lược giảng
Sáu pháp cú trên, Phật dạy tại tinh xá Trúc Lâm, có liên quan đến một cậu bé con người bán củi.
Theo truyện tích, tại thành Vương xá, có hai cậu bé một đứa con nhà Phật tử, một đứa con nhà ngoại đạo, chúng thường chơi banh chung với nhau. Vì thói quen, mỗi khi tung banh lên, thì đứa bé Phật tử, thường niệm “Nam mô Phật đà”. Ngược lại, đứa bé ngoại đạo, thì hay niệm “Nam mô A la hán”. Trong trò chơi, đứa bé Phật tử thường thắng cuộc. Đứa bé ngoại đạo thường thua nên tức mình quan sát thấy bạn trẻ này thường thắng ta là nhờ niệm câu Nam mô Phật đà. Vậy ta cũng sẽ làm như vậy. Và em bắt đầu tập thói quen tưởng niệm Phật đà.
Một ngày nọ, sau khi đốn củi ở rừng về, người cha và em dừng lại nơi bãi tha ma ngoài thành, để dùng cơm. Chiều lại, con bò kéo xe của ông theo đàn trâu bò khác vào thành. Người cha chạy bắt bò lại, nhưng khi trở ra trời tối cửa thành đóng lại. Đêm ấy, cậu bé đành phải ngủ một mình dưới chiếc xe.
Trong lúc cậu ta đang ngủ, bỗng có hai con quỷ xuất hiện. Một ác quỷ và một thiện quỷ. Quỷ dữ định ăn thịt cậu bé, quỷ hiền ngăn lại. Nhưng quỷ dữ không nghe liền nắm đôi chân cậu bé định xé đôi. Lúc ấy theo thói quen, cậu bé trong giấc ngủ chợt niệm: “Nam mô Phật”. Quỷ dữ nghe thế kinh sợ thối lui. Quỷ hiền bảo, thế nào chúng ta cũng bị phạt.
Để chuộc lỗi lầm, quỷ hiền canh giữ cậu bé suốt đêm. Trong khi đó, con quỷ dữ lén vào trong cung vua, lấy thức ăn đựng đầy trong một cái dĩa bằng vàng đem ra. Thế là, hai con quỷ săn sóc cậu bé như cha mẹ. Trước khi rời khỏi, chúng nó dùng thần lực viết thư lên dĩa kể lại câu chuyện và căn dặn chỉ có nhà vua mới đọc được thôi.
Hôm sau, trong cung vua phát hiện mất cái dĩa vàng. Mọi người lục lạo tìm kiếm khắp nơi mà không thấy. Cuối cùng, họ thấy chiếc dĩa trên xe cậu bé và bắt cậu bé về cung hạch hỏi. Sau khi xem qua câu chuyện, nhà vua ngạc nhiên hỏi: thế này là sao? Cậu bé cũng không hiểu chuyện gì xảy ra đêm hôm qua. Cha của cậu bé hay tin đến nơi cũng không hiểu chuyện gì. Sau đó, nhà vua dẫn hai cha con lên gặp Phật. Nhà vua bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn, có phải niệm tưởng Phật là một sự che chở, hay tưởng niệm Pháp và những điều khác cũng được hộ trì?
Đức Phật trả lời:
- “Này đại vương, niệm tưởng Phật đà không phải chỉ là cách duy nhất có ý nghĩa được bảo hộ, nhưng người Phật tử chân chánh thực hành thâm sâu niệm tưởng trong sáu đề mục thì không cần bất cứ sự bảo hộ nào, câu thần chú nào, hay dược thảo nào cả”. (Hết phần lược dẫn cốt chuyện). Nhân đó, đức Phật nói những pháp cú trên.
Phân tích pháp cú 296, ta thấy lời Phật dạy có những cụm từ thật quan trọng. Phật bảo chúng ta “phải luôn tự tỉnh giác”, lời dạy này là cốt lõi của sự tu hành. Tỉnh giác đồng nghĩa với chánh niệm. Vấn đề chánh niệm, rải rác ở những pháp cú trước, chúng tôi cũng đã có giải thích sơ qua. Có thể nói, người tu theo đạo Phật mà thiếu chánh niệm hay tỉnh giác, thì không phải là người tu Phật.
Người tu có được an lạc hạnh phúc hay không, cũng đều do có chánh niệm, hay tỉnh giác mà ra. Nếu thất niệm là đau khổ. Vì thất niệm là mất mình. Có chánh niệm là có mặt mình cả thân lẫn tâm ngay trong giây phút hiện tại. Người có chánh niệm là biết rõ ràng những gì đang xảy ra. Vì nghĩa của chữ “Niệm” hay “Tỉnh giác” là “Biết” . Biết là tiếp xúc được thực tại một cách rõ ràng, mà không qua sự đắn đo phân biệt của ý thức. Có ý thức xen vào làm việc, thì sẽ có muôn ngàn khái niệm bị chia chẻ. Từ đó, mọi vật sẽ lăn cuộn tròn theo ý thức phân biệt và như thế là chúng ta đã đánh mất mình.
Vì thế, người tu muốn được giải thoát, thì phải luôn luôn tự tỉnh giác. Muốn có tỉnh giác, thì “không luận ngày đêm”. Chúng ta phải thường xuyên quán chiếu nhìn kỹ lại mình. Còn hạn cuộc thời gian là sự tu hành của chúng ta vẫn còn bị hệ thuộc vào thời khóa ấn định. Người thật tu hành, thì không phải chỉ hạn cuộc vào thời khóa không thôi, mà còn cần phải nỗ lực gắng tu giác quán trong mọi thời gian và nơi chốn. Như thế, thì mới mong được giác ngộ và giải thoát.
Kế tiếp Phật dạy “thường niệm tưởng Phật đà”. Niệm có hai nghĩa: nhớ và biết. Phật đà là người tỉnh thức. Nhớ Phật cũng có hai nghĩa: sâu và cạn. Nghĩa sâu là hằng nhớ lại tánh giác của mình. Nghĩa cạn là nhớ đến Phật bên ngoài. Như người tu Tịnh độ là hằng nhớ tưởng Phật Di Đà. Đó là nhớ qua hình tượng của Ngài. Nhờ luôn luôn nhớ như thế, mà phiền não không có cơ hội dấy khởi. Mà không có phiền não thì tâm ta được lặng lẽ an vui. Đó là nghĩa cạn của chữ “nhớ tưởng”. Còn nghĩa sâu của chữ “Biết”, là chúng ta biết tất cả những gì đang xảy ra chung quanh mình, nhưng biết với một tâm thể sáng suốt thanh tịnh hiện tiền, đó cũng có nghĩa là niệm tưởng Phật đà, theo nghĩa sâu. Người nào thường niệm như thế, không muốn giải thoát cũng được giải thoát. Giải thoát ngay trong đời sống hiện tại chớ không phải đợi đến mai sau. Vì đó là chúng ta đã thực sự trở về sống lại tánh giác của chính mình.
Pháp cú 297, Phật dạy ý nghĩa cũng giống như pháp cú trên, tuy nhiên chỉ có khác là: “thường tưởng niệm Đạt ma”. Đạt ma (Dharmma) là pháp. Chữ Pháp nghĩa của nó rất rộng. Nhưng chữ “Pháp” ở đây Phật muốn nói đến là chỉ cho pháp “Tứ Đế” hay Chánh pháp. Người Phật tử ngoài việc nhớ Phật còn phải hằng để tâm học hỏi Chánh pháp. Chánh pháp là những lời Phật dạy nhằm đưa chúng sanh đạt ngộ chân lý. Nghĩa là vượt thoát mọi khổ đau sanh tử, để thể nhập vào Niết bàn tự tại. Ngoài ra, về lý tánh, pháp cũng có nghĩa là Trí huệ, Từ bi, Bình đẳng, Nhẫn nhục, Vị tha v.v… chúng ta hằng nhớ tưởng quán chiếu sâu vào những pháp tánh này, và luôn phát huy hành động theo chúng, thì đời sống của chúng ta cũng sẽ được an vui giải thoát. Đó cũng có nghĩa là chúng ta đã khéo biết trở về nương tựa với pháp tánh của chính mình vậy.
Pháp Cú 298, Phật nhắc nhở chúng ta phải hằng nhớ đến Tăng già (Sangha). Tăng già có nghĩa là hòa hợp chúng, tức một đoàn thể tu học sống chung trong tinh thần thương kính hòa hợp, thật hành đúng theo ý nghĩa Lục hòa. Nghĩa là chúng ta phải thực sự sống “Hiểu” và “Thương” trong tình huynh đệ. Đó là nói về phần hình thức sự tướng bên ngoài. Còn nói về phần lý tánh bên trong, thì mỗi người chúng ta ai ai cũng đều sẳn có tánh thể thanh tịnh, hòa hợp, tức là ông Thầy gốc của mình. Nếu chúng ta khéo biết trở về nhận diện và hằng sống hòa hợp với đức tánh thanh tịnh này, thì đó mới thực sự là chúng ta tự quy Tăng.
Nói tóm lại, ba pháp cú trên (296, 297, 298) đức Phật nhằm thức nhắc người Phật tử nên tưởng niệm tin sâu vào Tam bảo: Phật, Pháp, Tăng. Người Phật tử phải sống hài hòa dung hợp giữa “Sự” và “Lý” Tam bảo. Hằng sống được như thế, thì mới xứng đáng là người đệ tử Phật và mới thực sự có được nếp sống hướng thượng an lạc và giải thoát.
Pháp cú 299, Phật dạy chúng ta phải “thường niệm tưởng sắc thân”. Lời dạy này, Phật nhằm thức nhắc chúng ta phải lưu tâm thường xuyên quán tưởng đến cái thân bất tịnh. Đây là một phép quán với mục đích là để dứt trừ lòng tham dục đắm trước ở nơi thân mình và người. Pháp quán này cũng có cạn và sâu khác nhau. Nhưng tựu trung, cũng không ngoài năm phần quán sát sau đây:
Quán chủng tử bất tịnh.
Quán trụ xứ bất tịnh.
Quán tự tướng bất tịnh.
Quán tự thể bất tịnh.
Quán chung cánh bất tịnh.
Nhờ trải qua tuần tự quán sát như thế, thì hành giả mới nhàm chán ở nơi tự thân và từ đó mọi thứ nhu cầu tham dục cho thân, nhứt là tham đắm sắc dục sẽ giảm bớt rất nhiều. Tuy nhiên, Phật dạy quán bất tịnh để thấy được cái thanh tịnh của nó, chớ không phải quán bất tịnh để rồi chúng ta đâm ra nhàm chán, đến độ muốn quyên sinh tự tử. Tâm niệm đó là trái với ý nghĩa Phật dạy. Nên nhớ, mục đích chính của pháp quán này, là để đối trị lại những ai có lòng tham mê sắc dục quá nặng. Nhờ đó mà thân tâm của họ được nhẹ nhàng và sẽ có một đời sống an vui hạnh phúc vậy.
Pháp cú 300, Phật dạy người Phật tử “thường vui điều bất sát”. Lời dạy này, Phật chú trọng đến vấn đề giới luật. Trong năm giới cấm của người Phật tử tại gia, thì giới cấm không sát sanh đứng đầu. Chủ yếu là Phật cấm người Phật tử không được giết hại sanh mạng người. Rồi từ đó hạ thấp dần xuống, giữ được bao nhiêu thì tốt bấy nhiêu.
Tại sao Phật nói thường vui với điều bất sát? Điều này rất dễ hiểu, khi chúng ta không giết hại sinh vật, tất nhiên, là chúng ta sẽ tránh được những quả báo oán thù vay trả, trả vay hiện đời này và đời sau. Hiện đời, chúng ta đi đâu cũng không lo sợ ai rình rập hại mình. Như thế, là chúng ta mới thực sự có được niềm vui tự do thoải mái. Thứ nữa, là thân ta lại ít bệnh đau, sống lâu, đó cũng là một niềm vui lớn, nhờ chúng ta khéo biết gìn giữ giới bất sát sanh này.
Pháp cú 301, Phật dạy người Phật tử “thường ưa tu thiền quán”. Bởi thiền quán thật hết sức quan trọng đối với người tu theo đạo Phật. Vấn đề này, chúng tôi cũng đã có nói qua nhiều lần ở những pháp cú trước. Ở đây, chúng tôi chỉ xin được nói ngắn gọn tóm tắt mà thôi. Có thể nói, thiền quán là cánh cửa đi vào ngôi nhà giác ngộ giải thoát. Người tu hành, mà thiếu thiền quán, có khác nào người nấu ăn thiếu muối. Vì vậy, trong đạo Phật rất chú trọng đến thiền quán. Dù hành giả tu bất cứ pháp môn nào, cũng phải cần đến thiền định. Không có thiền định thì làm sao phát huệ? Thiền định và trí huệ là hai phạm trù bất khả phân ly. Nhờ có thiền định mà tâm ta mới được sáng suốt thanh tịnh. Và như thế, tất nhiên, người Phật tử sẽ được an lạc và giải thoát mọi khổ đau trong hiện tại và mai sau.
Qua câu chuyện lược dẫn trên, cho chúng ta một bài học đáng ghi nhớ là thói quen niệm Phật. Cậu bé ngoại đạo, trong lúc chơi banh, vì tự ái thua hoài, nên cậu ta nghĩ rằng, mình bị thua là do vì cậu bé Phật tử thường niệm Phật nên được Phật ủng hộ. Do nghĩ thế, nên cậu ta bắt chước niệm theo. Nhờ thói quen đó, nên trong giấc mơ cậu ta cũng phát ra thành tiếng niệm Phật. Nhờ vậy, mà cậu ta tránh khỏi nạn quỷ dữ định ăn thịt mình. Điều đó, cho thấy, người có thói quen niệm Phật, tất nhiên, sẽ tránh được nhiều họa hại. Không những thế, mà còn có nhiều lợi ích thiết thực trong đời sống.
302. Xuất gia dứt hết ái dục là khó, tại gia theo đường sinh hoạt là khó, không phải bạn mà chung ở là khổ, qua lại trong vòng luân hồi là khổ. Vậy các ngươi đừng qua lại trong vòng sanh tử luân hồi ấy.
Difficult is life as a monk; difficult is it to delight therein. Also difficult and sorrowful is household life. Suffering comes from association with unequals; suffering comes from wandering in samsara. Therefore, be not an aimless wanderer, be not a pursuer of suffering.
Kệ tụng
Vui hạnh xuất gia khó
Tại gia sinh hoạt khó
Sống bạn không đồng khổ
Trôi lăn luân hồi khổ
Vậy chớ sống luân hồi
Chớ chạy theo đau khổ.
Lược giảng
Pháp cú này, Phật dạy tại tinh xá Đại Lâm (Mahàvàna) gần thành Tỳ xá ly, có liên quan đến một ông hoàng dòng Bạt Kỳ (Vajjian) đã xuất gia thành Sa môn.
Theo truyện tích, sau khi xuất gia làm Sa môn, thầy Tỳ kheo vương giả này sống ẩn cư trong rừng gần thành Tỳ xá ly. Có một đêm, thầy nghe tiếng trống tiếng nhạc vọng lại từ thành phố, bất giác, thầy buồn than rên rỉ:
Ta cô đơn trong rừng
Như khúc cây bị bỏ
Trong đêm như đêm nay
Có ai bằng ta khổ.
Vì là một hoàng tử dòng Bạt Kỳ xuất gia, nên những tập khí thích vui chơi nghe âm nhạc nhộn nhịp ở ngoài đời, nhứt là trong cung đình, thử hỏi làm sao những tập khí đó không trổi lên sống dậy, khi nghe lại tất cả những âm thanh quen thuộc? Trong khi có rất nhiều hoàng tử và các quan đại thần trang sức lộng lẫy, họ lũ lượt kéo nhau từng đoàn đi dự hội, trong một đêm trăng sáng huyền ảo tuyệt đẹp. Thật là một quang cảnh tưng bừng náo nhiệt, làm cho thầy Sa môn này đang đi kinh hành ở ngoài hành lang, thật là ngậm ngùi chạnh lòng nghĩ đến tủi cho thân phận cô đơn của mình! Trong khi mọi người vui chơi thỏa thích, thì mình lại sống đơn độc giữa rừng khuya thanh vắng, bốn bề tĩnh mịch. Than ôi! Còn nỗi buồn bất hạnh nào hơn!
Lâm thần thấy vậy, cảm thông cho thầy, vì muốn khuyến khích thầy, nên Lâm thần nói kệ:
Ngài cô đơn trong rừng
Như khúc cây bị bỏ.
Nhiều người ước được thế
Như kẻ đọa địa ngục
Ganh người ở thiên đàng.
Sau khi nghe Lâm thần nói kệ, hôm sau thầy đến đảnh lễ Phật định trình bày, Phật hiểu ý và muốn cho thầy biết đầy đủ về khổ đau của đời sống thế gian. Ngài liền nói bốn thứ khó, khổ trong pháp cú trên. (Hết phần lược dẫn cốt chuyện).
Pháp cú trên, Phật nêu ra bốn điều khó, khổ, đối với người xuất gia cũng như Phật tử tại gia:
Thứ nhứt, Phật nói: “xuất gia dứt hết ái dục là khó”. Mục đích của người xuất gia là muốn thoát ra khỏi vòng luân hồi sanh tử khổ đau. Bởi gốc của sanh tử là ái dục. Đốn cội gốc ái dục, thì không còn cây sanh tử. Nhưng muốn đốn tuyệt bứng đi gốc rễ ái dục này, thật không phải là chuyện dễ làm. Vì gốc rễ của nó quá sâu dày. Muốn đốn tuyệt gốc, thì phải cần đến cây búa bén trí huệ. Và phải có một ý chí, tinh tấn phi phàm. Do đó, người xuất gia phải trang bị cho mình một ý chí sắt đá, một tinh thần dũng cảm gan dạ, với sức thiền định và một trí năng vượt bực, có thế, thì mới mong đốn được cội gốc ái dục. Bằng không, thì khó thoát khỏi vòng luân hồi sanh tử khổ đau.
Thứ hai, Phật nói: “tại gia theo đường sinh hoạt là khó”. Đường sinh hoạt Phật nói ở đây là sinh hoạt đúng theo Chánh pháp. Đối với người Phật tử tại gia, sống thật hành đúng theo Chánh pháp, thật không phải là chuyện dễ làm. Bởi vì người Phật tử tại gia có quá nhiều việc phải làm, phải giải quyết bao nhiêu công việc theo nhu cầu thiết yếu của đời sống. Do đó, tất nhiên, là họ vấp phải rất nhiều nỗi bức xúc, hệ lụy khổ đau. Tuy nhiên, cũng có một số ít, họ quyết chí vươn lên và xây dựng một đời sống, không những phù hợp với Chánh pháp, mà còn đem lại nhiều điều lợi lạc cho mọi người, mọi loài. Nhưng số người này, phải nói, chỉ đếm được trên đầu ngón tay mà thôi. Còn lại, tất cả đều rất khó thật hành. Bởi thế, Phật mới nói là khó. Thế nhưng, điều gì khó làm, mà mình làm được, thì điều đó mới thực sự là có giá trị vô song.
Thứ ba, Phật nói: “không phải bạn mà chung ở là khổ”. Điều này là một chứng nghiệm rõ nét trong thực tế. Chữ bạn mà Phật nói ở đây, phải là người bạn thân, chớ không phải bạn thường. Chỉ có bạn thân, mới hiểu và cảm thông nhau. Ngược lại, thì rất khó sống chung, vì cả hai không hiểu tánh tình nhau. Vả lại, nếu không phải là bạn, tất nhiên là người xa lạ. Đã xa lạ thì làm sao có thể sống chung nhau. Phật nói “khổ” ở đây, là do hai người khác biệt tánh tình, khác nào như nước với lửa. Đã thế, thì không thể nào hiểu và cảm thông nhau được. Nên sống chung thì chỉ chuốc thêm bực mình khổ lụy mà thôi.
Thứ tư, Phật nói: “qua lại trong vòng luân hồi là khổ”. Điều khổ này, khỏi phải luận bàn nhiều, vì không ai là không biết. Chẳng những biết thôi, mà chúng sanh còn phải chịu đựng không biết bao nhiêu điều cay đắng khổ sở. Nỗi thống khổ của kiếp người điêu linh trôi nổi này, thật không có bút mực nào nói hết. Nội trong kiếp sống hiện đời này, đã quá khổ đau rồi, nói chi đến nhiều kiếp về trước. Nói đến sự khổ đau của con người, trong kinh thường nêu ra có ba khổ và tám khổ. Đó là nói một cách tóm yếu, còn nói rộng ra thì những nỗi thống khổ của chúng sanh thật không có ngằn mé. Nói ba khổ gồm có: khổ khổ, hành khổ, hoại khổ. Tám khổ gồm có: sanh, già, bệnh, chết, ân ái biệt ly, cầu bất đắc, oán tắng hội và ngũ ấm xí thạnh khổ. Đó là Phật nói những nỗi thống khổ lớn của con người. Đã mang nghiệp người, thì không một ai thoát khỏi những điều hệ lụy khổ đau đó.
Sau khi nêu ra bốn điều khó, khổ đó, Phật kết luận: “Vậy các ngươi đừng qua lại trong vòng thống khổ ấy”. Lời kết luận này, như là một thông điệp mà đức Phật nhằm nhắn gởi, cảnh giác khuyên bảo mọi người nên ý thức khổ đau mà tránh gây tạo nghiệp ác, để khỏi phải chuốc lấy những khổ đau sống chết qua lại trong vòng lục đạo luân hồi. Mỗi người sanh ra, vốn đã mang kiếp sống nhiều khổ đau hệ lụy lắm rồi! Vậy xin mọi người đừng tiếp tục gây thêm khổ đau cho nhau nữa. Nếu như không có từ tâm thương yêu giúp đỡ cho nhau, thì xin mọi người hãy nghĩ đến chút tình đồng loại, mà trên hết là tình người, đừng gây thêm thù hận để rồi đấu đá chém giết tàn hại lẫn nhau.
Loài người, tuy có khác nhau về màu da chủng tộc, nhưng nhìn kỹ lại, thì ai ai cũng có chung một dòng máu cùng đỏ và nước mắt cùng mặn. Có khác chăng là khác ở mỗi gốc độ nhìn, do vọng thức biến kế của mỗi người mà ra. Vì mỗi người tâm tưởng khác nhau, nên mới có nhiều quan niệm sống khác nhau. Đó là nói khác nhau trên mặt hiện tượng của vọng thức, nhưng bản thể vẫn là một. Nhìn trên mặt hiện tượng thì có muôn ngàn lượn sóng lớn nhỏ khác nhau, nhưng tất cả có chung một bản thể là nước. Không ai có quyền tách sóng ra khỏi nước, hay ngược lại cũng thế. Như vậy, thử hỏi làm sao nước coi sóng là kẻ thù nghịch hay sóng coi nước là người xa lạ đối nghịch cho được? Chỉ có những ai tâm trí không bình thường mới không nhận ra điều đó.
Hiểu thế, thì mọi người xem nhau như tình huynh đệ, nên yêu thương giúp đỡ cho nhau không hết, có đâu lại thù hận, đấu đá, sát hại, gây ra làm khổ đau cho nhau! Vì sóng đau khổ cũng chính là nước đau khổ. Làm sao chia cắt tách rời giữa nước và sóng thành hai phạm trù dị biệt cho được. Nghĩ thế, thì mọi người chung sống và cùng nhau tiếp tay xây dựng một thế giới hòa bình an lạc. Được vậy, thì còn gì quí giá cho bằng và như thế, thì đời sống của kiếp nhơn sinh ngắn ngủi này mới thực sự là có đầy đủ ý nghĩa cao đẹp.
Câu chuyện lược dẫn trên cho ta thấy một tập khí khá sâu nặng, thật khó trừ khó đoạn. Dù đã từ bỏ đời sống vương giả, xuất gia làm Sa môn, nhưng những tập khí dục vọng trụy lạc thích vui chơi âm nhạc, vẫn còn tiềm ẩn sâu kín trong tâm thức của vị Sa môn. Từ đó, thầy lại đâm ra chán nản bất mãn cho nếp sống tu hành đơn độc kham khổ. Ý chí xuất gia giải thoát ban đầu của thầy, dường như không còn đủ nghị lực để chiết phục. Thầy đã than thân trách phận, cho đến Lâm thần nghe được cảm thông khuyến khích thầy nên gìn giữ ý nguyện siêu thoát cao đẹp mà mọi người không ai có thể muốn có được.
Điều này chứng minh cho ta thấy, có nhiều vị trọng tuổi bỏ tục xuất gia, nhưng những thứ tập khí khi còn sống ở ngoài đời, vào chùa tu rồi, họ cũng không phải nhứt thời bỏ được. Những thứ tập khí như: tật già hàm nói nhiều, phát ngôn lớn tiếng, đi nhanh lẹ làng vụt chạt thô tháo, ngồi đứng không yên v.v… Nói chung, là họ không có tư cách oai nghi của một người xuất gia. Dù họ đã được các bậc tôn túc khuyên giải rất nhiều, nhưng lâu lâu nhìn lại, họ vẫn còn nguyên vẹn không sửa đổi tiến bộ chút nào. Ngôn hạnh của họ vẫn còn thô tháo. Có người chẳng những không sửa đổi, mà họ còn tăng thêm lòng ngã mạn cống cao. Họ khinh thường những lời thức nhắc của các bậc thầy đức độ. Họ vẫn luôn cố chấp bảo thủ những thói hư tật xấu ngoài đời. Họ không tỏ ra một chút hối cải phục thiện. Đó là nói những thứ tập khí hiện đời mà họ còn khó bỏ thay, nói chi đến những thứ tập khí nhiều đời. Tập khí nhiều đời thì nó còn sâu nặng đến mức độ nào. Người tu hành dù xuất gia hay tại gia chỉ hơn nhau ở chỗ, khéo biết sửa đổi làm mỏng dần những thứ tập khí phiền não sâu dày của mình mà thôi.
Trở lại trường hợp của thầy Tỳ kheo nói trên, khi thầy ra mắt đảnh lễ Phật, Phật thấu hiểu tâm trạng của thầy và để khuyến tấn khích lệ cho thầy tiến tu trên đường đạo để đạt giải thoát, Phật liền nêu bày cảnh giác về những điều khó, khổ ở thế gian. Mục đích là để cho thầy giác ngộ tinh tấn tu hành để chóng thành đạo quả vậy.
303. Chánh tín và giới hạnh, được danh dự và thánh tài[38]; người nào được như thế, đến đâu cũng tôn vinh.
He who is full of faith and virtue, and possesses good repute and wealth – he is respected everywhere, in whatever land he travels.
Kệ tụng
Tín tâm, sống giới hạnh
Đủ danh xưng thánh tài
Chỗ nào người ấy đến
Luôn luôn được kỉnh tôn.
Lược giảng
Pháp cú này, Phật dạy tại tinh xá Kỳ Viên, có liên quan đến cư sĩ Tâm (Citta).
Theo truyện tích, “Citta là một nam cư sĩ giàu tâm đạo, chàng luôn được quý trọng mỗi khi đến hầu Phật. Tôn giả A nan thấy thế bèn hỏi Phật:
- Bạch Thế Tôn! chỉ khi nào Citta đến viếng Phật mới được trọng vọng như thế? Hay cũng được quý trọng khi đến thăm các người khác?
Phật dạy:
- Này A nan! Ông ấy luôn được quý trọng như vậy, dù cho đến viếng Ta hay viếng ai. Vì cư sĩ ấy đầy niềm tin, tâm đạo và đức hạnh. Người như thế, dù đi đến nơi nào cũng được tôn kính”. Nhân đó, Phật nói pháp cú này. (Trích nguyên văn Tích Truyện Pháp Cú tập III, Viên Chiếu, tr 159)
Chánh tín là niềm tin chơn chánh, một niềm tin được điều động chỉ đạo bởi lý trí. Niềm tin rất quan trọng đối với người tu. Nhất là đối với người tu theo pháp môn Tịnh độ, thì niềm tin đứng đầu trong ba món tư lương: “Tín, Hành, Nguyện”. Kinh Hoa Nghiêm nói: “Niềm tin là mẹ đẻ của các thứ công đức”. Tu hành thiếu niềm tin, thì chẳng khác nào như cây thiếu rễ cái. Tất nhiên là thân cây phải khô cằn. Nhờ có niềm tin mạnh mẽ, vững chắc ở nơi Tam bảo, nhân quả, thì hành giả mới có thể tu tiến thoát khổ. Nên nhớ niềm tin phải được đặt định trên nền tảng trí giác, nếu không, thì niềm tin đó sẽ trở thành mê tín, mù quáng.
Khi tin sâu vào pháp lành, nên hành giả mới giữ giới. Bởi công năng của giới luật là ngăn chận các việc ác. Không những ngăn chận không thôi, mà hành giả còn phải gia công tích cực hành thiện, đó là thực hiện làm các hạnh lành. Giới và hạnh là hai phạm trù hỗ tương nhau. Nhưng giới là căn bản. Có thể nói, muôn hạnh lành nhờ giữ giới mà phát sanh. Hạnh là đức độ cảm hóa tha nhân.
Người tu thiếu hạnh, thì không thể khắc phục cảm hóa chính mình, nói chi đến hóa độ kẻ khác. Muốn có giới hạnh, thì người tu cần phải để tâm nghiên cứu học hỏi, nghĩa là học rộng nghe nhiều. Đó là văn huệ. Có nghe nhiều rồi nỗ lực huân tu thật hành những gì đã học. Từ đó, hành giả mới có được tấm lòng bao dung rộng mở hỷ xả. Biết tha thứ mọi lỗi lầm cho tha nhân. Đó là thể hiện ân đức.
Buông bỏ tất cả những tâm niệm chấp trước ở nơi tự ngã, tha nhân, rộng ra là muôn pháp, có thế, thì mới được giải thoát. Đó là hành giả thật hành hạnh “Tứ vô lượng tâm” của Bồ tát. Trong Tứ vô lượng tâm: Từ, Bi, Hỷ, Xả mà hạnh xả là quan trọng hơn hết. Nếu không xả là có vướng mắc, chấp trước. Do xả bỏ mọi thứ nên trí huệ mới phát sanh và mới mau thành tựu đạo quả Bồ đề.
Còn tàm và quý của “Thất thánh tài” nói trên, cũng như là hai người bạn để giúp sức cho hành giả thành tựu ở 5 pháp trên: Tín, Giới, Văn, Xả và Huệ. Người nào trang bị đầy đủ “bảy thứ báu” này, thì người đó đi đến đâu cũng được người ta kính trọng tôn sùng.
Chuyện trích dẫn trên, cho ta thấy, Citta là một cư sĩ có đầy đủ tín tâm tin kính ở nơi Tam bảo. Một người có đạo đức thực sự, thì dù cho đi bất cứ nơi đâu hay ở đâu, họ cũng được mọi người quý kính. Ngược lại, nếu như người đó bản chất đạo đức của họ không có, thì dù cho họ có giả bộ làm ra vẻ đạo đức, hay thậm chí họ ở gần một bậc thầy nào đó có đạo đức cao, thì chưa chắc người đó đã được người ta kính trọng, thán phục. Bởi vì, đạo đức phải được toát ra từ cái tâm thể chân thật. Ở đời, cái gì chân thật thì cái đó bất hư. Còn cái gì giả dối, thì không thể tồn tại. Đó là chân lý muôn đời. Cư sĩ Citta, là người có tâm đạo và đức hạnh, nên Phật nói dù đi đến nơi nào cũng được người ta tôn kính. Thiết nghĩ, đó cũng là bài học sáng giá để chúng ta học hỏi noi gương cư sĩ Citta vậy.
Về Đầu Trang Go down
https://triamquan.forumvi.com/
Tri Âm Quán
Thành Viên Tích Cực
Thành Viên Tích Cực
Tri Âm Quán


Tổng số bài gửi : 6340
Reputation : 2
Join date : 31/07/2013
Đến từ : Thị Trấn Chũ

Kinh Pháp Cú chú giải (tập 1) - Page 2 Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Kinh Pháp Cú chú giải (tập 1)   Kinh Pháp Cú chú giải (tập 1) - Page 2 EmptySun Nov 16, 2014 12:04 pm

304. Làm lành thì danh được vang xa, tỏ rạng như Tuyết sơn; làm ác thì mù mịt như bắn cung ban đêm.
The good shine even from afar, like the Himalaya mountain. But the wicked are unseen, like arrows shot in the night.
Kệ tụng
Người lành dầu ở xa
Sáng tỏ như núi tuyết
Người ác dầu ở gần
Như tên bắn đêm đen
Lược giảng
Pháp cú này, Phật dạy tại tinh xá Kỳ Viên, có liên quan đến Cullà Subhaddà, con gái ông Cấp Cô Độc.
Theo truyện tích, Giữa ông Cấp Cô Độc và Úc Già là đôi bạn thân nhau lúc còn nhỏ. Vì chơi thân nhau, nên họ hứa hẹn, sau này sẽ kết tình thông gia với nhau. Lớn lên cả hai ông đều trở thành trưởng giả giàu có.
Một hôm. Úc già ghé thăm, cô gái theo lời dặn của cha tiếp đãi khách rất trịnh trọng chu đáo. Buổi tiếp kiến hôm đó, Úc Già tỏ ra rất hài lòng về người con gái ngoan hiền, nết hạnh và xin được cưới cho con trai mình. Việc này, ông Cấp Cô Độc có trình hỏi ý kiến đức Phật, Phật biết rõ nhân duyên của Úc Già sẽ chứng Thánh quả, nên Phật khuyên nhận lời. Thế là, cả hai bên đồng ý định ngày hôn lễ.
Vì là trưỡng giả giàu có nhứt xứ, nên ông Cấp Cô Độc cho con gái mình rất nhiều của hồi môn và khuyên dạy nhiều điều cặn kẽ. Đồng thời, ông cũng gởi gắm con mình cho nhà chồng. Ngày cử hành hôn lễ, bên nhà gái có thiết lễ trai phạn cúng dường Phật và chúng Tăng. Sau đó, là buổi lễ tiển đưa cô dâu lên xe hoa về nhà chồng thật là huy hoàng lộng lẫy. Dân chúng cả thành phố đều hoan hô chúc mừng hết lời ca ngợi vẻ đẹp và công hạnh của cô dâu.
Úc Già là đồ đệ của phái ngoại đạo lỏa thể. Hôm đó, có mặt của các vị đạo sĩ này. Úc già bảo cô dâu ra mắt chào hỏi các đạo sĩ, nhưng cô dâu cự tuyệt, và cho rằng, những vị đó khiếm nhã, thiếu đạo đức, không đáng kính, nên Úc già nổi giận, đuổi nàng ra khỏi nhà. Nhưng cô ta sau khi trình bày mọi việc, các vị bảo hộ bênh vực cô ta không có lỗi. Biết rõ cô là một Phật tử thuần thành trung kiên với đức Phật, bà mẹ chồng mới hỏi cô về đức độ của đức Phật. Nhân đó, cô nói một bài kệ rất dài để ca tụng Phật và chúng Tăng.
Sau khi nghe qua những lời tán thán Phật và chúng Tăng, bà mẹ chồng tỏ ý muốn gặp đức Phật. Cô dâu nhận lời và lên lầu cao đốt hương hướng về Phật với tâm nguyện chí thành tha thiết đảnh lễ cầu thỉnh đức Phật quang lâm đến tư gia. Cùng lúc đó, ông Cấp Cô Độc cũng đến thỉnh Phật, nhưng Phật từ chối, vì đã nhận lời con gái của ông. Ông rất ngạc nhiên hỏi Phật làm sao con gái ông thỉnh được, vì ở xa một trăm hai mươi dặm. Phật nói:
- “Đúng thế, nhưng người lành dù ở xa, vẫn hiện rõ như ở gần”. Nhân đó, Phật nói pháp cú trên.
Khi ấy trời Đế Thích biết rõ mọi việc, nên hóa hiện năm trăm ngôi tháp để đưa Phật và chúng Tăng đến thành của Úc Già.
Khi Phật và chúng Tăng đến, với phong thái oai nghiêm siêu phàm, Úc Già và vợ tỏ ra hết sức kính trọng tung hoa đốt hương cúng dường long trọng. Úc Già thỉnh Phật ở lại bảy hôm, nhân đó Phật thuyết pháp cho Úc Già nghe cùng tám mươi bốn ngàn người đều đắc pháp nhãn. Từ đó, dân chúng trong thành Úc Già trở nên thuần thành giàu tâm đạo. Tất cả đều nhờ ân đức nàng dâu Subhaddà mà ra. (Hết phần lược dẫn cốt chuyện)
Các bậc hiền thánh từ ngàn xưa, được thành tựu đạo quả, tất cả đều nhờ tu các hạnh lành mà được. Đức Phật mặc dù đã thành Phật, nhưng đối với mọi việc lành dù nhỏ hay lớn, Ngài cũng đều không bỏ qua. Có khi Ngài xỏ kim cho một bà già. Có lúc Ngài thoa sức thuốc cho một con vật đã bị thương tích. Thậm chí Ngài còn đích thân tắm rửa, chăm sóc thuốc men cho một thầy Tỳ kheo bị bệnh kiết lỵ không đi nổi. Có thể nói suốt đời Ngài, từ khi còn là một đông cung thái tử, cho đến khi xuất gia tu hành thành Phật, Ngài không từ nan bất cứ việc lành nào. Dù điều lành đó có khó khăn đến đâu, Ngài cũng vẫn kiên nhẫn bền chí để làm. Làm mà không dính mắc vào việc mình làm. Làm với một tấm lòng chân thật hỷ xả an vui.
Cổ nhân nói: “nên tham làm điều thiện, chớ thích làm điều ác. Thấy điều thiện như người khát nước, nghe điều ác như người tai điếc. Làm thiện là rất vui, đạo lý là rất lớn”.
Ông Mã Viện đời Hán nói: “Cả đời làm thiện, thiện như chẳng đủ. Một ngày làm ác, ác thấy đầy ra”. Vua Chiêu Liệt nhà Hán dặn vua Hậu Chủ rằng: “Dù cho những việc ác nhỏ cũng chớ làm; dù cho những việc thiện nhỏ cũng chớ nên bỏ qua mà không làm”.
Phật nói: “làm lành thì danh được vang xa, tỏ rạng như núi tuyết”. Điển hình như chư Phật, chư Tổ và các bậc hiền nhân quân tử, dù đã trải qua mấy ngàn năm, nhưng tiếng tăm của các Ngài vẫn còn vang dội mãi trong lòng người muôn thuở. Gương sáng của các Ngài tỏ rạng còn hơn núi tuyết. Phật nói: “làm ác thì tối tăm như bắn cung ban đêm”. Trên đời, có biết bao kẻ làm ác, giết hại biết bao nhiêu sanh mạng, họ coi sinh mạng con người như đồ cỏ rác. Điển hình cho những hạng người này, ở Trung Hoa thì có Tần Thủy Hoàng, ở Đức, thì có Hitler, Việt Nam, thì có hôn quân Lê Long Đỉnh v.v… Tên tuổi của những tên bạo ác này vẫn còn ghi đậm nét lưu danh trong sách sử.
Tên tuổi của họ cũng vang dội, nhưng vang dội để mọi người khinh miệt, mạt sát, nguyền rủa. Kẻ làm ác vì họ có quá nhiều tham vọng, muốn chiếm hữu tất cả về mình. Họ là kẻ hoàn toàn nô lệ cho bản ngã, mất hết lương tâm và lương tri của một con người. Họ hoàn toàn hiện nguyên hình của thú tánh. Phật nói đó là hạng người tối tăm như bắn cung ban đêm. Đã tối tăm, thì làm sao bắn trúng đích? Thế nên những kẻ làm ác, suốt đời họ bị giam hãm trong ngục tù vô minh, không biết ngày nào, họ mới tiếp nhận được ánh sáng trí huệ, để thoát khỏi vòng hệ lụy khổ đau triền miên.
Chuyện lược dẫn trên, chứng minh cho kẻ làm lành tất sẽ được phước báo. Vợ chồng trưởng giả Úc Già, nhờ cô con dâu chuyển hóa mà cả hai đều hướng về con đường chánh đạo. Điều đáng khen cho cô dâu Subhaddà là nàng vẫn giữ lập trường kiên định, không tùng phục phái ngoại đạo lỏa thể. Một lòng vẫn hướng về Phật. Mặc dù bị ông già chồng gây áp lực làm dữ, nhưng không vì thế mà cô ta khuất phục nghe theo. Không có một thế lực uy quyền nào có thể làm lay chuyển lập trường với tất cả tấm lòng trung thành của cô đối với đức Phật. Cô đã đặt hết niềm tin hướng về đức Phật để thỉnh cầu. Đức Phật đã đáp lại lòng tín thành của cô ta. Chính điều đó đã làm cho ông trưởng giả Cấp Cô Độc rất đổi ngạc nhiên. Ta nên lưu ý lời dạy của Phật: “Người lành dù ở xa, vẫn hiện rõ như ở gần”. Không có mùi hương nào bay xa bằng mùi hương đạo đức. Không có tiếng lành nào vang xa, bằng tiếng lành của con người “Toàn Thiện”. Chỉ có con người Toàn Thiện, mới xứng đáng để mọi người quy kính hướng về mà thôi.
305. Ngồi một mình, nằm một mình, đi một mình không mệt mỏi, một mình tự điều luyện, vui trong chốn rừng sâu.
He who sits alone, sleeps alone and walks alone, who is strenuous and subdues himself alone, will find delight in the solitude of the forest.
Kệ tụng
Người ngồi nằm một mình
Độc hành không buồn chán
Tự điều phục một mình
Vui sống trong rừng vắng.
Lược giảng
Pháp cú này, Phật dạy tại tinh xá Kỳ Viên, có liên quan đến Tôn giả Độc Cư.
Theo truyện tích, “Tôn giả Độc Cư nổi tiếng trong bốn bộ chúng rằng Ngài là người đi một mình, đứng một mình và ngồi một mình. Các Tỳ kheo đến bạch Phật về Tôn giả:
- Bạch Thế Tôn, Trưởng lão ấy làm như thế, như thế.
Đức Phật khen ngợi:
- Lành thay! Lành thay! Tỳ kheo ấy có thể sống độc cư
Và khen ngợi đời sống viễn ly, đơn độc”. Ngài liền dạy pháp cú trên. (Trích nguyên văn Tích Truyện Pháp Cú tập III, Viên Chiếu, tr 166)
Thời Phật, phần nhiều các thầy Tỳ kheo thường sống độc cư trong núi rừng để dễ bề thiền quán. Cảnh trí núi rừng vắng vẻ ít có người lui tới. Vì các ngài rất sợ cảnh náo động ồn ào. Cảnh yên, thì hành giả dễ nhìn lại chính mình để gạn lọc phiền não nhiều hơn. Bởi tâm tánh của chúng ta thường phan duyên theo trần cảnh, không lúc nào dừng. Ít khi nào chúng ta phản tỉnh, phản quán. Cảnh và tâm có sự liên quan mật thiết bất khả phân ly. Cảnh động, thì tâm ta bất an. Đó là một lẽ thật, không thể chối cãi.
Khi nào có sống đơn độc một mình, thì mình mới có cơ hội nhìn rõ lại mình hơn. Người tu sống trong thâm sơn cùng cốc, đương nhiên, họ sẽ gặp nhiều chướng ngại khó khăn. Nhứt là những nhu cầu vật chất thiết yếu như: ăn, mặc, ở. Tuy nhiên, đối với những ai có quyết tâm cầu giải thoát, với một ý chí sắt đá gan dạ, thì họ cũng có thể vượt qua những khó khăn này một cách dễ dàng. Từ đó, họ mới có đầy đủ chất liệu đạo đức, với một đạo lực thâm hậu, để khắc phục, cảm hóa mình và người đều được lợi ích an lạc giải thoát.
Đó là nói nếp sống độc cư theo nghĩa thông thường. Nếu luận sâu hơn, thì nếp sống độc cư của một vị khất sĩ cũng không hẳn là phải sống xa lánh hết mọi người. Mà nghĩa độc cư là hành giả phải khéo biết thường xuyên sống an trú trong chánh niệm. Người ấy ý thức được những gì thật sự xảy ra trong giây phút hiện tại. Họ không dính kẹt vào hai đầu quá khứ và tương lai. Sự sống chỉ có mặt trong giây phút hiện tại. Dù rằng, họ đang sinh hoạt chung đụng với mọi người, nói rõ ra là họ đang sống chung trong tăng chúng, nhưng họ vẫn gìn giữ được chánh niệm trong mọi hoạt động thường nhựt. Người sống được như thế cũng thuộc hạng người mà Phật cho đó là hạng người đang sống một mình.
Luận về những nhu cầu của người xuất gia, dù ở bất cứ thời đại nào, Phật Tổ cũng thường khuyên dạy: “đời sống của người xuất gia, thì phải tam thường (ăn, mặc, ngủ nghỉ) bất túc”. Cái gì cũng phải thiếu thiếu, không nên dư thừa. Người xuất gia thời nay, phải thành thật mà nói, chúng ta có quá nhiều thứ tiện nghi vật chất. Nhứt là những thứ máy móc. Mà vật chất càng sang trọng, thì tâm niệm tu hành cầu giải thoát của chúng ta ban đầu, tất phải càng lui sụt. Nếu không khéo hạn chế kềm thúc, thì sự hưởng thụ của chúng ta sẽ không khác gì người đời. Nghĩa là tâm đắm nhiễm ái trước của chúng ta, sẽ hiện rõ nguyên hình khi chúng ta chưa tu. Đó là một hiện tượng có thật, không thể chối cãi. Hiện tượng này, đã và đang xảy ra một cách nguy kịch trầm trọng. Đối với những bậc chơn tu, nhìn thấy hiện tượng này, các ngài thật quá đau lòng! Đau lòng cho thể đạo nhơn tâm, cho phẩm hạnh đạo đức cao quí của người xuất gia ngày càng suy vi tuột dốc đến mức độ thê thảm!
Đối chiếu với nếp sống tu hành cầu đạo của người xưa, phải nói, nếp sống tu hành thời nay của chúng ta cách quá xa các ngài. Quá xa về mọi phương diện. Về mặt đạo đức nhân cách, chúng ta cũng chưa làm tròn, nói chi đến thứ đạo đức siêu thoát. Thế là, ta rơi vào hố sâu mâu thuẩn nội tại. Một đàng thì cũng muốn giải thoát, nhưng một đàng, thì cũng không dám dứt khoát từ bỏ những thứ tiện nghi vật chất theo dục lạc của thế gian thường tình. Dù viện dẫn biện minh dưới hình thức nào, thì ta cũng không thể nào che mắt được người đời. Mà rõ nét hơn hết là ta không thể che giấu được chính lòng ta.
Trong Chứng Đạo Ca của Ngài Vĩnh Gia Huyền Giác, có một bài ca nói về nếp sống độc cư này:
Thường độc hành, thường độc bộ
Đạt giả đồng du Niết bàn lộ
Điệu cổ thần thanh phong tự cao
Mạo tụy cốt cang nhân bất cố
Dịch nghĩa:
Tôi chấp nhận cô đơn trên đường đạo
Vui một mình vui theo nhịp bước chân đi
Tôi những mong có pháp lữ chung lòng
Cùng tiến bước vào Niết bàn thường lạc
Không như ý tôi nguyền làm người cổ lỗ
Sống theo mình, sống với gió mát trăng thanh
Dù xương trơ, thân đét, thịt teo gầy
Không ân hận, tôi vui với lập trường kiên định ấy.
(Hòa Thượng Thích Từ Thông dịch)
Đó là một ý chí quyết liệt, một lập trường kiên định của một con người hùng tráng dám sống chết một mình trên bước đường hành đạo. Vui đâu chúc đấy, nghe đâu theo đó, bạ gì tin nấy, hạng người như thế, thử hỏi họ sẽ đi đến đâu và làm được gì? Bởi họ không giữ vững lập trường. Tu hành theo kiểu của họ, là “ai đi tôi đi theo”, “ai tu tôi tu theo”, thậm chí ai đó làm bậy họ cũng làm bậy theo. Hạng người như thế, đối với Ngài Huyền Giác, một con người chứng đạo, thì họ thật là đáng tội nghiệp thương xót biết bao! Trên thế gian này, hạng người “ba phải” như thế, thật không phải là ít.
Thà chấp nhận cô đơn trên đường đạo, chớ quyết định không thể có một người bạn mà họ với ta khác nhau trên ý hướng lập trường giải thoát. Dù vậy, ta cũng rất mong có những pháp lữ chung lòng để cùng nhau tiến bước tu học. Nếu không được vậy, thì đường ai nấy đi. Dù con đường đó có gặp khó khăn đến đâu, có làm cho thân ta xương trơ, thịt đét teo gầy, nhưng ta vẫn kiên quyết giữ vững lập trường bền lòng tiến bước một đường quyết không ân hận.
Bài Chứng Đạo Ca trên, Ngài Huyền Giác đã tự nhủ chính mình và cũng muốn gởi đến những ai có cùng một ý hướng, một lập trường kiên quyết sống chết vì đạo như tác giả. Vì muốn giải thoát mọi khổ đau của kiếp người, nên Ngài chấp nhận sống cô đơn, hơn thế nữa là chấp nhận làm người cổ lỗ. Sống một mình sống với gió mát trăng thanh. Nhưng xét trên thực tế, có phải là ta cô đơn không? Không. Làm sao ta cô đơn cho được, vì bên cạnh ta còn có biết bao cảnh tượng chung quanh luôn thức nhắc an ủi ta: trăng trong, gió mát, chim hót, hoa cười, suối chảy, thông reo v.v… tất cả đều là những bạn bè thân thiết của ta. Tất nhiên, là những bạn bè đó sẽ không bao giờ gây cho ta lắm điều phiền toái hệ lụy. Chẳng những thế, mà còn làm cho ta tiến sâu và tiến nhanh trên đường tu hành giác ngộ giải thoát. Chỉ có thiên nhiên mới đích thực là nguồn vui sống của đời ta.
Thiên nhiên cảnh trí rất nên thơ
Nắng ấm trời trong chẳng bụi mờ
Gió mát chim kêu lòng thanh thoát
Nước hồ yên tịnh trí buông tơ
Việc đời gác lại bên đồi núi
Phật đạo tâm gìn lắng đục nhơ
Tây cảnh sen vàng tâm nguyện ước
Di Đà chuyên niệm đạt ước mơ.
(Thích Phước Thái)

XXII. PHẨM ĐỊA NGỤC
(Nirayavagga)
306. Thường nói lời vọng ngữ, có làm mà nói không; người tạo hai nghiệp ấy, chết cũng đọa địa ngục. With one denying truth there goes to hell
that one who having done says "I did not".
Both of them are making kammas base
are equal after death.
Kệ tụng
Nói láo đọa địa ngục
Có làm nói không làm
Cả hai chết đồng đẳng
Làm người, nghiệp hạ liệt
Lược giảng
Phẩm này có tên là phẩm địa ngục. Địa ngục nguyên tiếng Phạn là Naraka, Niraya. Dịch sang tiếng Hán Việt gồm có: “Địa ngục, Bất lạc, Khả yểm, khổ cụ, khổ khí, vô hữu”. Nói chung, đây là nơi thọ khổ của chúng sanh đã gây tạo ác nghiệp như tội ngũ nghịch, thập ác v.v… Tùy theo chúng sanh gây tạo các ác nghiệp nặng nhẹ mà địa ngục có nhiều tên gọi khác nhau. Tuy nhiên, có điều ta nên nhớ là địa ngục có là có đối với những ai đã tạo tội, còn không có là đối với những ai không tạo tội. Như hiện tại chúng ta thấy trên thế giới, quốc gia nào cũng có những nhà tù. Như vậy, nhà tù có ra là để bắt nhốt tra tấn hình phạt đối với những kẻ phạm pháp.
Ngược lại, nếu chúng ta không gây tạo tội như: cướp của, giết người hay làm những việc phi pháp, thì mặc dù nhà tù có đó, nhưng đối với chúng ta thì có cũng như không. Cho nên, nếu chúng ta một bề phủ nhận là không có địa ngục hay khẳng định là có địa ngục, thì e rằng nói như thế cũng không đúng hẳn. Vì có người cả đời từ khi sanh ra cho đến ngày nhắm mắt lìa đời, họ chưa bao giờ biết tới nhà lao là gì. Thế thì, bảo địa ngục có với họ sao được. Dù địa ngục có nhan nhãn trên thế gian này.
Đối với người tạo tội, bị pháp luật tống giam vào nhà lao, bảo rằng không có địa ngục đối với họ có được không? Như vậy, rõ ràng địa ngục có ra là do tâm ta tạo lấy. Đó là nói cảnh địa ngục bên ngoài. Nếu xét sâu hơn ở nội tâm ta, thì khi nào trong tâm ta bất an, buồn khổ, lo âu, sợ hãi v.v… thì ngay lúc đó là ta đã rơi vào địa ngục rồi. Vì địa ngục là nơi tối tăm đau khổ.
Do đó, muốn không rơi vào địa ngục hiện đời và đời sau, thì ngay khi còn sống, ta nên nghe theo lời Phật Tổ khuyên dạy mà cố gắng hành thiện, tu nhân tích đức, gìn giữ giới cấm đã lãnh thọ, ăn chay, niệm Phật hằng ngày. Được thế, thì đời ta chẳng những được hạnh phúc an vui trong hiện tại, mà mai sau chắc chắn chúng ta cũng sẽ hưởng được quả báo an vui.
Pháp cú trên, Phật dạy tại tinh xá Kỳ Viên, có liên quan đến một nữ du sĩ ngoại đạo tên Tôn đà lỵ.
Theo truyện tích, thời gian Phật và Tăng chúng ở Kỳ Viên, dân chúng mỗi lúc mỗi kéo đến cúng dường phẩm vật rất đông. Do đó, các phái ngoại đạo họ càng ganh tỵ hơn. Họ cho rằng, kể từ khi đức Phật xuất hiện, thì mọi danh dự, lợi lộc của họ, không còn được mọi người ủng hộ dâng cúng như trước kia. Bấy giờ, họ sanh tâm tìm cách hãm hại Phật. Trong số các hàng tín đồ đệ tử của họ, có một người con gái nhan sắc tuyệt đẹp, tên là Tôn đà lỵ.
Sau khi nghe các thầy ngoại đạo bàn tán tìm cách hại Phật, nàng ta liền khởi ý và trình bày mưu kế của nàng. Mỗi ngày nàng trang điểm cực kỳ mỹ lệ, rồi giả bộ đến tinh xá Kỳ Viên nghe Phật thuyết pháp. Nàng ta đưa ra diệu kế: “hằng đêm, tôi thường ở lại trong tinh xá. Được một thời gian, các thầy hãy thuê người giết tôi và chôn xác tôi ở trong khu vườn của tinh xá. Ba hôm sau, các thầy cho người giả bộ đi tìm xác tôi và đến chỗ chôn cất moi xác tôi lên, rồi để xác tôi trên một chiếc xe ngựa đi khắp thành phố để bêu xấu Sa môn Cồ đàm và các đệ tử của ông ta. Thế là, uy tín danh dự của ông ta sẽ bị tổn thương nặng nề và chắc chắn ông ta sẽ không còn ai kính phục nữa”.
Sau khi nghe nàng ta trình bày diệu kế, các thầy ngoại đạo nghe rất hợp tình hợp lý, liền thực thi theo diệu kế đó. Quả thật, khi moi xác nàng ta từ trong đống rác ra, mọi người ai nấy đều tỏ ra bi lụy buồn tủi khóc than. Xong rồi, họ đem xác của nàng ta đi khắp thành thị, dùng tất cả những lời lẽ nặng nề mạt sát vu khống cho đức Phật và Tăng chúng.
Chuyện xảy ra đến tai đức Phật, đức Phật bảo các thầy Tỳ kheo cứ hãy sinh hoạt bình thường và cũng đừng tỏ ra khó chịu bực tức chi cả. Vì có một số các thầy chưa chứng quả A la hán, tất nhiên, là còn phiền não nên tỏ ra rất khó chịu bực bội qua những lời vu khống mạ lị đó. Phật nói, chuyện không quá bảy ngày, rồi thì đâu sẽ vào đó. Nghĩa là mọi việc sẽ được phơi bày ra ánh sáng sự thật.
Thật vậy, chuyện đó đến tai nhà vua, tất nhiên, nhà vua không tin Phật và Tăng chúng có hành động như thế. Cho nên nhà vua cho các thám tử theo dõi tông tích âm mưu của các phái ngoại đạo. Các thám tử đã phát hiện ra một đám du đãng đang say sưa và tranh cãi với nhau về việc giết chết Tôn đà lỵ. Thế là, họ bị tóm cổ trọn ổ. Tất cả đều bị hành phạt đúng theo luật pháp về cái tội vu oan và giết người này. Sau đó, thanh danh và uy tín của Phật ngày càng tăng lên gấp bội và được mọi người hết lòng quy kính tu học. (Hết phần lược dẫn cốt chuyện)
Pháp cú trên, Phật đã răn dạy và nhấn mạnh về cái tội nói dối, chuyện không nói có, chuyện có nói không. Tội nói dối là một trong bốn trọng tội của giới Tỳ kheo và cũng là tội nặng của giới Bồ tát. Phạm giới này, theo luật Phật dạy, thì không thể sám hối. Tất nhiên, phải đọa địa ngục. Trong ba nghiệp: thân, ngữ, ý, xét kỹ thì nghiệp ác nào của ba nghiệp gây ra cũng đều nặng cả. Hành động hoặc lời nói nào có ác ý cũng đều gây ra cho mình và người đau khổ. Nói rộng ra là cả muôn loài đều đau khổ.
Trong thập ác: “thân ba, miệng bốn, ý ba”, thì ta thấy cái miệng chiếm hết bốn: “vọng ngôn, ỹ ngữ, lưỡng thiệt, ác khẩu”. Nói rõ ra, thân và miệng gồm có bảy phần, còn lại ba phần thuộc về ý nghiệp. Thân và miệng thuộc công cụ hay tay sai đắc lực của chú “Ý”. Sự tạo tác hành động hiện tướng gây ra khổ đau cho người và vật, cụ thể là do thân và miệng. Còn chú “Ý” thì chủ động ra lệnh sai sử giống như bộ tổng tham mưu. Cho nên chú Ý này có ba viên tướng làm tay chân bộ hạ tay sai đắc lực, trong việc nhận lệnh và ra lệnh trực tiếp cho thân và miệng phải nghiêm chỉnh tuyệt đối tuân hành. Ba viên tướng cộng tác đắc lực đó là: “Tham, Sân, Si”.
Đối với người không biết tu hành, họ hoàn toàn sống nô lệ cho dục vọng sai khiến, gây ra lắm điều họa hại cho mình và người. Họ không bao giờ biết kềm chế dục vọng. Từ đó, thân và khẩu nghiệp của họ tạo ra rất nhiều tội lỗi. Đó là nói những người không biết tu hành là gì. Còn đối với những người biết tu hành chút ít thì sao? Đối với hạng người này, tuy họ cũng sợ tội lỗi, biết tụng kinh, ăn chay, niệm Phật, đi chùa, tu tạo phước đức, nhưng họ mắc phải cái chứng bệnh khẩu nghiệp rất nặng.
Ghét ai, họ đặt điều dựng chuyện phê bình nói xấu đủ thứ, chuyện không nói có, chuyện có nói không. Họ có tài thêu dệt chuyện ít xích ra cho nhiều. Họ tìm đủ mọi cách để nói xấu. Họ đánh hơi những ai không thích người mà họ ghét, bấy giờ, họ bèn nhập cuộc để kéo thêm những người đó vào phe cánh của họ. Mục đích là để có thêm đồng minh đông người hùa nhau thù ghét kẻ mà họ muốn hại cho chết.
Bề ngoài, trước mặt mọi người, thì họ tỏ ra cho mọi người biết là họ tu hành rất đàng hoàng nghiêm chỉnh đúng đắn. Nhưng ở sau lưng, thì họ lại trề môi nguếch mắt chê bai nói xấu thậm tệ người mà họ đang thù ghét. Tu hành mà có tâm địa ác độc như thế, thì thử hỏi tu hành cái gì? Chỉ là kẻ giả đạo đức bề ngoài để che mắt thiên hạ mà thôi. Tu như thế thì thật là giả dối, gạt người. Đây là hạng người mà cửa địa ngục đang mở rộng để chờ đón họ. Thật là đáng thương xót tội nghiệp lắm thay!
Phật nói, đó là bệnh nặng của chúng sanh. Bệnh này, như là một thứ bệnh dịch thật nặng nề không phương thuốc nào cứu chữa. Đó là bệnh chung của nhơn loại không riêng một ai. Tuy nhiên, bệnh này, đối với phái nam thì tương đối ít hơn. Nặng nhứt, phải nói đó là phái nữ. Phái nữ nói về làm phước, bố thí, đi chùa, tu học…thì họ tỏ ra tinh tấn hơn phái nam nhiều lắm. Nhưng xét về cái tật tánh của cái khẩu nghiệp này, đối với họ thì thật là khó bỏ. Nhưng xin quý vị đừng quên rằng, hễ đã gây nhân bất thiện, thì làm sao tránh khỏi cái quả báo khổ đau đây! Chẳng qua cái quả báo nó sẽ đến với mình có mau chậm mà thôi.
Nghe theo lời Phật dạy trên, mỗi người chúng ta nên cẩn thận gìn giữ ở nơi lời nói. Đừng bao giờ nói xấu phê bình, châm chích, chỉ trích hại ai. Càng nói xấu hoặc vu khống mạ lỵ người ta, trước tiên mình đã chuốc lấy khổ đau cho chính mình rồi. Lòng mình luôn luôn bất an và quả báo chắc chắn là mình sẽ thọ khổ. Bao nhiêu công đức tu hành, bị cái miệng của mình nó thiêu đốt hết. Vậy người biết tu, Phật Tổ khuyên chúng ta nên dùng lời ái ngữ, chánh ngữ khi hành xử giao tiếp với mọi người. Nhứt là khi đối xử trực tiếp với những người thân trong gia đình. Mỗi người nếu khéo biết dùng lời hòa ái, nhã nhặn, lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau, thì gia đình đó thật là êm ấm hạnh phúc đẹp đẽ biết bao!
Thường trong gia đình hay xảy ra tình trạng cãi vả lớn tiếng tranh chấp hơn thua với nhau, lý do, là vì mỗi người coi thường, không có lòng nhân nhượng tương kính nhau. Bởi do sống chung đụng hằng ngày, mỗi người đều để lộ phơi bày tánh xấu của mình ra, nên không ai còn có lòng quý kính tôn trọng ai nữa. Từ đó, mới xảy ra sự tranh cãi miệt thị khinh thường nhau. Và rồi đưa đến tình trạng sứt mẻ tình cảm thân yêu, trở thành oán ghét căm giận hờn trách nhau.
Nếu mỗi người khéo biết hành xử áp dụng theo lời Phật dạy, nên dùng lời ái ngữ khi phát ra lời nói, và mỗi lời nói phải có chánh niệm hết sức thành thật trong khi xử sự với nhau. Khi người này nói, thì người kia phải thật sự trân kính có mặt để hết lòng lắng nghe, được thế, thì làm gì có chuyện tranh cãi lớn tiếng ăn thua đủ với nhau. Chúng ta nên nhớ rằng, nhường nhịn là đức tánh rất cao đẹp và nó là chất keo tạo nên sự hòa ái thương yêu gắn bó nhau hơn, trong thâm tình thân thuộc đầm ấm trong gia đình. Ngoài nhường trong nhịn, khéo biết tôn trọng lẫn nhau, thì còn gì tốt đẹp cho bằng.
Là Phật tử, chúng ta cương quyết không nói những điều sai sự thật. Cần nói những lời đem lại niềm an vui lợi lạc cho mọi người. Chúng ta quyết định không nói những điều có thể tạo nên sự mâu thuẫn, ly gián, bất hòa trong gia đình và đoàn thể. Hơn ai hết, chúng ta phải ý thức rằng, những lời ác ngữ nó sẽ gây ra làm tổn hại trực tiếp cho mình, gia đình và xã hội của chúng ta rất nhiều. Xin mọi người hãy vì sự lợi lạc cho bản thân, gia đình và tha nhân, mà lưu ý quan tâm cho vấn đề này.
Chuyện lược dẫn trên, cho chúng ta thấy rõ nhân và quả hiện tiền. Vì lòng ganh tỵ muốn hãm hại đức Phật của phái ngoại đạo, nên họ tìm đủ mọi cách để hạ uy tín thanh danh đức Phật. Họ dùng mưu chước rất độc ác, đến đổi phải hy sinh tánh mạng, để phao vu bêu xấu Đức Phật và Tăng đoàn. Nhưng kết quả, chẳng những không hại được đức Phật mà trái lại họ tự chuốc họa vào thân. Thế mới biết, hại người trở lại hại mình. Thiết nghĩ, qua câu chuyện trên, đủ làm tấm gương soi sáng cho những ai có manh tâm ác ý hại người lương thiện, thì nên thận trọng xét lại tâm địa của mình.
307. Không ngăn trừ ác hạnh thì dù mặc áo Ca sa, người ác cũng sẽ vì nghiệp ác, chết phải đọa địa ngục.
Many who wear the yellow robe are unrestrained in evil things, these evil ones by evil deeds, in hell do they arise.
Kệ tụng
Nhiều người khoác cà sa
Ác hạnh không nhiếp phục
Người ác, do ác hạnh,
Phải sanh cõi địa ngục.
Lược giảng
Pháp cú này, Phật dạy tại tinh xá Trúc Lâm, có liên quan đến những chúng sanh bị quả báo xấu do ác nghiệp.
“Một ngày nọ, khi xuống núi với Trưởng lão Lakkhana, Tôn giả Mục Liên nhìn thấy những con quỷ hình thù chỉ có bộ xương khô, Ngài bèn mỉm cười. Khi được hỏi, Tôn giả chỉ bảo:
- Này huynh, chớ hỏi điều ấy ở đây. Khi nào đến trước đức Thế Tôn chúng ta sẽ thảo luận.
Và khi về đến tinh xá, trước đức Phật, Trưởng lão Lakkhana hỏi lại chuyện ấy. Tôn giả Mục Kiền Liên trả lời rằng Ngài thấy những con quỷ xương khô. Ngài còn kể tiếp:
- Khi tôi xuống núi, tôi còn thấy một Sa môn bay qua toàn thân bốc cháy.
Và còn thêm vài lần, Tôn giả thấy những con quỷ hình dáng Sa môn với y bát, dây lưng, tất cả đều bốc cháy. Nhân đó, đức Phật dạy các Tỳ kheo rằng: “Những tu sĩ ấy, thời Phật Ca Diếp đã xuất gia nhưng không làm tròn bổn phận của mình”.
Ngài nhấn mạnh đến quả báo ác nghiệp cho các Tỳ kheo đang hiện diện được rõ và nói Pháp cú trên”. (Trích nguyên văn Tích Truyện Pháp Cú tập III, Viên Chiếu, tr 173)
Người xuất gia đắp y vàng mà tư tưởng bất chánh còn đắm nhiễm trần tục, chưa dứt trừ ác hạnh, không chế ngự điều phục được tâm ý, để tâm ý của mình buông lung phan duyên theo trần cảnh, tạo nhiều nghiệp bất thiện, như thế, thì thử hỏi làm sao tránh khỏi cảnh sa đọa khổ đau! Ca sa là chiếc áo giải thoát, làm ruộng phước của nhơn thiên cúng dường. Người mặc vào chiếc áo này, đã nói lên tâm nguyện là từ bỏ tất cả, không còn triền phược dính mắc với bất cứ thứ gì. Với một ý chí cao thượng sáng ngời, hạnh nguyện vị tha cao cả, độ mình, độ người, thoát khỏi duyên trần hệ lụy khổ đau.
Do đó, hạnh nguyện của người xuất gia là phải đoạn dục khử ái, thấu suốt nguồn tâm, đạt Phật thâm lý, trong tâm không thấy có sở đắc sở chứng, bên ngoài, không thấy có dục cảnh mong cầu. Được thế, thì mới xứng đáng mặc áo ca sa. Bằng ngược lại, thì khó thoát khỏi khổ cảnh ở nơi địa ngục.
Chúng ta hãy chiêm nghiệm thật kỹ qua hình ảnh khổ đau cùng cực của những con quỷ mà chính Ngài Mục Kiền Liên đã mục kích kể lại. Phật nói, người xuất gia mà không làm tròn bổn phận của mình, nên phải chịu quả báo thảm thương như thế. Thế mới biết, giải thoát hay địa ngục, tất cả đều tùy tâm ta tạo lấy mà thôi.
308. Phá giới chẳng tu hành, thì thà nuốt hoàn sắt nóng hừng hực lửa đốt thân còn hơn thọ lãnh của tín thí
Better to eat a ball of iron glowing as flame of fire than one should eat country's almsimmoral and unrestrained.
Kệ tụng
Tốt hơn nuốt hòn sắt
Cháy đỏ như lửa hừng
Hơn ác giới buông lung
Ăn đồ ăn quốc độ.
Lược giảng
Pháp cú này, Phật dạy tại tinh xá Đại Lâm (Mahàvana) gần thành Tỳ xá ly, có liên quan đến các Tỳ kheo Vaggumudàtiriya.
“Các Tỳ kheo Vaggumudàtiriya thường khen ngợi lẫn nhau rằng người này chứng quả, người kia chứng quả khi có mặt cư sĩ, để họ dâng cúng thức ăn ngon. Đức Phật biết chuyện, bèn hỏi các thầy:
- Này các ông! Có phải thật là chỉ vì cái bao tử mà các ông ca tụng lẫn nhau trước mặt cư sĩ để họ dâng cúng thức ăn ngon?
- Thưa vâng, bạch Thế Tôn!
Phật bèn quở trách các thầy, và nói Pháp cú trên”. (Trích nguyên văn Tích Truyện Pháp Cú tập III, Viên Chiếu, tr 175)
Thật là xấu hổ, chỉ vì lợi dưỡng mà quên đi bổn phận phẩm hạnh nhơn cách của mình. Một người xuất gia tu hành không chơn chánh, thì không xứng đáng thọ dụng của cúng dường.
“Xưa kia, có ông trưởng giả tên Tịnh đức sanh được hai người con trai, người cả tên La Hầu La Điểm, người thứ tên La Hầu La Đa. Ông hằng ngày chỉ săn sóc vườn tược. Hôm nọ, một cây trong vườn nảy thứ nấm lạ, ông nhổ về ăn thử, thực ngon lành. Song chỉ ông và người con thứ hằng ngày đều nhổ được nấm ăn, ngoài ra không ai nhổ được. Ông bảo con thứ: Nấm cây này chỉ ta và ngươi được ăn, ắt là việc phi thường. Ước gì có ai thông hiểu giải thích cho việc này. La Hầu La Đa nói kệ:
Thử mộc sanh kỳ nhĩ
Ngã thực bất khô khao
Trí giả giải thử nhơn
Ngã hồi hướng Phật đạo.
Dịch:
Cây này sanh nấm lạ
Con ăn rất ngon lành
Người trí giải nhơn này,
Con xin theo Phật đạo.
Chợt gặp Bồ tát Đề Bà đến nhà, cha con ông Tịnh Đức vui mừng đem việc này ra hỏi. Ngài dạy:
Khi xưa, lúc ông hai mươi tuổi thường mời một vị Tỳ kheo về nhà cúng dường. Vị Tỳ kheo ấy tuy có chút ít giới hạnh mà con mắt pháp chưa sáng, tâm không thấu lý, luống nhận sự cúng dường của ông. Song vị Tỳ kheo ấy có chút ít tu hành nên khỏi sa vào đường ác, vẫn phải làm cây sanh nấm này để trả nợ cho ông. Xưa khi vị Tỳ kheo ấy đến nhà ông, trong nhà chỉ có ông và người con thứ này thành kính cúng dường, còn bao nhiêu người đều không vui. Vì thế, nên nấm hiện nay chỉ hai cha con ông được hưởng.
Ngài lại bảo:
- Ông nay được bao nhiêu tuổi?
Trưởng giả thưa:
- Tôi được 79 tuổi.
Ngài nói kệ:
Nhập đạo bất thông lý
Phục thân hoàn tín thí
Nhữ niên bát thập nhất,
Thử mộc diệc vô nhĩ
Dịch:
Vào đạo không thông lý
Hoàn thân đền tín thí
Trưởng giả tuổi tám mốt
Cây này không sanh nấm”
(Trích một đoạn nguyên văn trong quyển Sử 33 Vị Tổ Thiền Tông Ấn Hoa từ trang 81- 83 do Hòa Thượng Thích Thanh Từ biên soạn)
Phật bảo: “thà nuốt hòn sắt nóng, hừng hực lửa đốt thân, còn hơn thọ lãnh của tín thí mà phá giới chẳng tu hành”. Vì nuốt hòn sắt nóng, chỉ chết một đời này, còn nếu thọ dụng của cúng dường mà tu hành không ra chi, và không làm gì lợi ích cho ai, thì phải chịu thọ khổ trả nợ không biết bao nhiêu kiếp. Trường hợp như câu chuyện của hai cha con ông trưởng giả đã dẫn chứng trên. Qua đó, cho ta thấy sự tu hành chỉ vì lợi dưỡng, mà không quyết chí nỗ lực công phu diệt trừ phiền não để được giải thoát, thì than ôi! thật khó tránh khỏi chuốc lấy hậu quả lắm tang thương khổ đau cùng cực. Nên soi gương xưa để tự cảnh tỉnh mình.
309. Buông lung theo tà dục, sẽ chịu bốn việc bất an: mắc tội, ngủ không yên, bị chê, đọa địa ngục. Four things befall that heedless one sleeping with one who's wed:demerit gained but not good sleep, third is blame while fourth is hell.
Kệ tụng
Bốn nạn chờ đợi người
Phóng dật theo vợ người
Mắc họa ngủ không yên
Bị chê là thứ ba
Đọa địa ngục, thứ bốn.
310. Vô phước, đọa ác thú, bị khủng bố, ít vui, quốc vương kết trọng tội: đó là kết quả của tà dâm. Vậy chớ nên phạm đến.
Demerit's gained and evil birth, scared man and women-brief their joy, the king decrees a heavy doom: so none should sleep with one who's wed.
Kệ tụng
Mắc họa, đọa ác thú
Bị hoảng sợ, ít vui
Quốc vương phạt trọng hình
Vậy chớ theo vợ người.
Lược giảng
Hai pháp cú này, Phật dạy tại tinh xá Kỳ Viên, có liên quan đến Khema, con trai trưởng giả, cháu Cấp Cô Độc.
“Khema là chàng trai tuấn tú khôi ngô. Các bà các cô khi gặp mặt chàng đều yêu mến mê mệt. Khema thì lại đeo đuổi vợ người. Một đêm nọ, người của nhà vua bắt chàng ta, giải đến trước mặt vua. Nhà vua cảm thấy ái ngại thay cho danh tiếng của Trưởng giả nên không nói gì, thả chàng ra. Khema vẫn cứ chứng nào tật nấy.
Lần thứ hai, lần thứ ba, chàng vẫn bị bắt và nhà vua cũng trả tự do cho. Chuyện đến tai Trưởng giả, ông đem con đến gặp đức Thế Tôn, trình bày câu chuyện và bạch:
- Xin đức Thế Tôn giảng dạy cho nó.
Đức Phật khơi dậy lương tri của Khema và chỉ cho chàng thấy lỗi lầm khi theo đuổi vợ người bằng hai Pháp cú nói trên”.
Đồng thời, Đức Phật lại kể tiếp chuyện quá khứ qua lời nguyền của Khema. (Lời của soạn giả)
Phật nói, “thời đức Phật Ca Diếp, Khema là một tay đô vật quán quân, ngày kia chàng treo hai cây cờ giải thưởng của mình bên ngôi tháp vàng của đức Phật, và nguyện: “Xin cho tất cả mọi phụ nữ, trừ các nữ nhân thân quyến và bà con ruột thịt của tôi, khi nhìn thấy tôi đều say mê”. Vì thế, dù tái sanh ở đâu, chàng cũng được các bà yêu mến”. (Trích nguyên văn Tích Truyện Pháp Cú tập III, Viên Chiếu, tr 176)
Pháp cú 309, Phật nêu ra bốn cảnh khổ bất an: “Mắc tội, ngủ không yên, bị chê, đọa địa ngục”. Đây là hậu quả của một con người sống buông lung theo tà dục. Ái dục là cội gốc của khổ đau. Muốn tránh mọi khổ đau để xây dựng hạnh phúc cho chính bản thân mình, thì trước hết, chúng ta cần phải đoạn trừ ái dục. Người nào còn ôm ấp lòng ái dục nặng, thì người đó chắc chắn sẽ không bao giờ sống có hạnh phúc. Kinh Tứ Thập Nhị Chương Phật dạy: “Người ôm lòng ái dục, cũng như kẻ cầm đuốc đi ngược gió, quyết bị nạn cháy tay”. Thật vậy, người có tâm xấu xa đắm mê sắc dục, sớm muộn gì cũng phải lãnh lấy quả báo khổ đau.
Thực trạng này, ta thấy đã và đang xảy ra nhan nhãn hằng ngày trong xã hội. Có lắm người đã có gia đình mà vì tâm bất chánh, ham mê sắc dục, không kềm chế được dục tính, nên lang chạ ngoại tình, làm cho gia đình phải tan nát đổ vỡ. Thảm kịch này đã xảy ra rất nhiều. Một ông chồng bắt được quả tang vợ mình đang ngoại tình âu yếm ngủ chung với một người đàn ông. Nhưng oái oăm thay! người đàn ông đó lại là người bạn chí thân của ông ta. Song, vì quá ghen tuông không còn kềm chế được lửa lòng sân hận đang bốc cháy trào dâng lên đến cực độ, nên ông ta đã ra tay hạ sát người tình địch của mình bằng một nhát dao căm hận ngang qua cổ.
Thế là máu đổ đầu rơi, lìa đời của một kẻ đã quá si tình phản bạn. Một tình cảnh xảy ra trong nháy mắt giữa đêm khuya thanh vắng, đã giết chết một mạng người. Khi chứng kiến hiện trường, mọi người đều thương tiếc cho một con người quá háo sắc. Họ vừa thương tiếc cho cái chết thật quá thảm thương, nhưng họ cũng vừa nguyền rủa cho kẻ đáng đời ham mê của lạ. Đó là hậu quả phải trả một cái giá rất đắt bằng cả sinh mạng. Chỉ vì mê say sắc dục mà quên cả mạng sống của mình. Một người thì bỏ mạng tại chỗ, còn một người thì bị công an còng tay lủi thủi ôm hận vào tù, vì phạm phải cái tội cố sát. Cổ nhân có lời khuyên bảo: “kẻ nào thích đi đêm sẽ có ngày gặp ma hay thích chơi dao ắt có ngày phải bị đứt tay!”
Có người vì muốn thỏa mãn dục tính nên vào lầu xanh mua vui trong giây lát, kết quả, họ phải mang bệnh tật ôm hận khổ sở suốt cả cuộc đời. Họ đã tự làm khổ mình và khổ cả gia đình. Có nhiều người bệnh nặng hết phương cứu chữa nên phải sớm đi chầu Diêm Chúa. Ôi! Còn nỗi đau đớn nào hơn! Vì bụng đã làm thì dạ phải chịu chớ biết trách ai đây!
Nói chung, những ai sống buông lung theo tình dục, hành động phi pháp, nhằm thỏa mãn cho sự đòi hỏi của xác thịt, tất nhiên, kẻ đó phải mắc tội báo rất nặng và dĩ nhiên, tâm trí của họ luôn luôn bất an ngủ không yên giấc, bị người đời khinh chê và cuối cùng phải đọa vào địa ngục thọ khổ. Không những sau khi chết mới bị đọa vào địa ngục, mà ngay khi còn sống, họ cũng đã rơi vào địa ngục rồi, vì địa ngục là nơi tối tăm hành phạt khổ sở.
Khi đã phạm phải lỗi lầm về những hành động bất chánh tà hạnh, dâm ô, hãm hiếp… thì thử hỏi làm sao người đó sống có hạnh phúc cho được? Dù thân xác của họ còn đó, nhưng tâm hồn của họ thì đã tan nát chết từ lâu rồi! Thế thì, có kéo dài thêm cuộc sống cũng chỉ kéo lê cuộc đời đi trong bóng tối tội lỗi mà thôi! Ngoại trừ, người đó biết hồi tâm cải hối nguyện ăn năn chừa bỏ những lỗi lầm xưa.
Pháp cú 310, Phật cho chúng ta thấy những khổ báo: “Vô phước, đọa ác thú, bị khủng bố, ít vui, quốc vương kết trọng tội”. Tất cả đều do kết quả của hành động tà dâm mà ra. Dâm loàn trái phép, tất nhiên đó không phải là hành động của con người có lương tâm đạo đức. Con người còn có chút nhơn tính, tình người, thì không ai lại nhẫn tâm gây ra làm đau khổ cho kẻ khác. Vì nô lệ cho dục tính phá hại trinh tiết hay làm mất hạnh phúc gia cang của người khác, thì Phật nói đó là đọa vào ác thú. Nghĩa là, tuy đội lốt con người, mà hành động lại còn thua thú tính. Là con người không ai lại không muốn bảo vệ hạnh phúc cho mình và gia đình mình. Muốn thế, thì chúng ta cần phải tôn trọng nhân phẩm, gia cang của mình và người.
Có biết bao trẻ em đã là nạn nhân trực tiếp của những kẻ xấu ác nhẫn tâm cưỡng bức hiếp dâm các em làm cho các em phải bị đau khổ quá nhiều. Cuộc đời trong trắng của các em kể từ đó luôn bị ám ảnh một hình ảnh tổn thương trầm trọng. Đây là một hình ảnh cưỡng bức khủng bố, mà suốt cả cuộc đời nó hằng in sâu vào tâm thức của các em thật không bao giờ quên được. Những kẻ tán tận lương tâm, mang đầy thú tính này, kết quả, họ sẽ bị đưa ra tòa xét xử. Và rồi sẽ bị pháp luật trừng trị thích đáng, nặng nề. Đó là Phật nói: “Quốc vương kết trọng tội”. Do vì vô minh vọng động che mờ lý trí, nên người ta mới có những hành động đê hèn xấu xa như thế.
Nói tóm lại, làm người, không ai tránh khỏi lỗi lầm. Khi biết đó là sai trái, thì chúng ta kíp mau ăn năn hối cải. Sám hối, cải ác tùng thiện, đó là cửa ngỏ mở ra để chúng ta mạnh dạn vươn lên quyết tâm bước vào ngôi nhà thánh thiện và nguyện xin làm mới lại cuộc đời. Có thế, thì mới mong thoát khỏi cảnh ngục tù đau khổ hiện tại và mai sau.
Qua câu chuyện trích dẫn trên, cho thấy, Khema luôn đeo đuổi vợ người, thậm chí bị người ta bắt đôi ba lần, dẫn giải lên vua, được vua ân xá tha cho, nhưng chàng ta tánh nào tật nấy, cuối cùng, hai cha con cùng nhau đến hội kiến đức phật. Đức Phật chỉ bày cho Khema biết đó là những điều lỗi lầm sái quấy, làm mất hạnh phúc gia đình người khác. Đồng thời, nhân đó, đức Phật kể chuyện tiền kiếp của Khema, với một lời nguyền xưa mà hôm nay phải chịu quả báo như thế.
Về Đầu Trang Go down
https://triamquan.forumvi.com/
Tri Âm Quán
Thành Viên Tích Cực
Thành Viên Tích Cực
Tri Âm Quán


Tổng số bài gửi : 6340
Reputation : 2
Join date : 31/07/2013
Đến từ : Thị Trấn Chũ

Kinh Pháp Cú chú giải (tập 1) - Page 2 Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Kinh Pháp Cú chú giải (tập 1)   Kinh Pháp Cú chú giải (tập 1) - Page 2 EmptySun Nov 16, 2014 12:05 pm

311. Cũng như vụng nắm cỏ cô sa (kusa = cỏ thơm) thì bị đứt tay, làm Sa môn mà theo tà hạnh thì bị đọa địa ngục.
As blady grass when wrongly grasped the hand does lacerate so a mishandled monastic life drags one off to hell.
Kệ tụng
Như cỏ sa vụng nắm
Tất bị họa đứt tay
Hạnh Sa môn tà vạy
Tất bị đọa địa ngục
312. Những người giải đãi, nhiễm ô và hoài nghi việc tu phạm hạnh, sẽ không làm sao chứng thành quả lớn.
Whatever of kammas slack, whatever of vows corrupt, a faltering in the holy life never brings ample fruit.
Kệ tụng
Sống phóng đãng buông lung
Theo giới cấm ô nhiễm
Sống phạm hạnh đáng nghi
Sao chứng được quả lớn.
313. Việc đáng làm phải làm cho hết sức, phóng đãng và rong chơi chỉ tăng thêm trần dục mà thôi.
If there's aught that should be done let it be done then steadily, in truth a slack monastic life all the more stirs up the dust.
Kệ tụng
Cần phải làm, nên làm
Làm cùng tận khả năng
Xuất gia, sống phóng đãng
Chỉ tăng loạn bụi đời
Lược giảng
Ba pháp cú trên, Phật dạy tại tinh xá Kỳ Viên, có liên quan đến một thầy Tỳ kheo tự phụ.
“Chuyện kể rằng, có một vị Tỳ kheo lỡ tay làm đứt một cọng cỏ. Lương tâm thấy áy náy bèn tìm đến một huynh đệ, thuật lại câu chuyện và hỏi:
- Thưa huynh, Tỳ kheo làm đứt cỏ, có sao không?
Thầy kia trả lời:
- Đừng quan trọng khi cho rằng làm đứt cỏ cây sẽ bị hậu quả. Chỉ cần xưng tội ra là được khỏi tội thôi.
Nói xong, thầy nhổ luôn một bụi cỏ, vứt đi. Các Tỳ kheo đến bạch Phật. Phật quở trách thầy Tỳ kheo tự phụ nặng nề, và nói ba Pháp cú trên”. (Trích nguyên văn Tích Truyện Pháp Cú tập III, Viên Chiếu, tr 178)
Pháp cú 311, Phật dùng nắm cỏ cô sa, tức loại cỏ thơm, để so sánh với người xuất gia đeo đuổi theo tà hạnh mà phải bị đọa vào địa ngục. Cỏ thơm là biểu trưng cho những thứ vật chất dục lạc ở đời. Người tu hành, khi chưa chế ngự được lòng tham dục, tất nhiên, vẫn còn nhiều khát vọng ham muốn.
Mặc dù đã xuất gia, nhưng sự vận dụng công phu tu hành của chúng ta vẫn còn quá non kém, tâm thức của chúng ta chưa được thuần thục, nên con khỉ ý thức vẫn còn nhiều phóng dật, nó luôn thích đam mê dong ruổi theo trần cảnh để hưởng thụ. Vì vụng dại nên ham thích cỏ thơm ngũ dục, thấy cỏ thơm thì lòng muốn chiếm hữu cho kỳ được, nhưng chúng ta quên rằng trong cỏ thơm, nó có ngầm chứa chất độc trong đó. Khi nắm vào thì chắc chắn không sao tránh khỏi nạn độc hại sưng tay.
Trên đời này, thử hỏi có đóa hoa hồng nào mà lại không có gai? Dù biết có gai, nhưng người ta vẫn hái, vẫn bẻ và vẫn đùa vui với hoa hồng. Có khi bị gai đâm trầy da chảy máu, nhưng người ta vẫn chưa chịu thức tỉnh. Phật nói đó là tâm trạng của những kẻ quá si mê. Đã thế, thì không sao tránh khỏi sa đọa chuốc lấy khổ đau.
Tà hạnh là những việc làm bất chánh, không phù hợp với chân lý. Sống theo tà hạnh đó là con đường dẫn đến khổ đau. Người xuất gia là phải hằng sống đúng theo chánh hạnh. Chánh hạnh là con đường dẫn đến Niết bàn an lạc.
Pháp cú 312, Phật nêu ra ba vấn đề quan yếu làm chướng ngại trên bước đường tu tập tiến đến giải thoát của chúng ta. Ba điều quan yếu chướng ngại này, là người thật tu hành, chúng ta cần phải khắc chế chiết phục vượt qua.
Thứ nhứt là giải đãi. Giải đãi là lười biếng, là sống bê tha trục vật. Người tu hành mà mang chứng bệnh lười biếng này, thì thật khó mà tiến đạo nghiêm thân. Muốn giải thoát khổ đau, mà tối ngày chỉ biết rong chơi, tán hươu tán vượn, bàn luận những chuyện phù phiếm ở thế gian, như thế, thì thử hỏi làm sao chúng ta giải thoát khổ đau cho được? Lười biếng là kẻ thù bất cộng đái thiên của tinh tấn. Do lười biếng nên chúng ta dễ buông lung phóng dật. Sống không có giây cương giới luật kềm thúc. Đó là nếp sống trụy lạc sa đọa, mà Phật nói sẽ rơi vào địa ngục như tên bắn.
Thứ hai là ô nhiễm. Do vì sống buông lung thả trôi theo dòng đời, nên từ đó sanh ra bao nhiêu thứ nhiễm ô. Cả đời cam tâm làm nô lệ cho dục vọng vô minh sai sử, tạo nhiều nghiệp ác. Ngoài thì đắm nhiễm lục trần, trong tâm thì bị những thứ phiền não cấu uế khuấy động che mờ tánh giác. Đó là cái tệ nạn của người tu thiếu sự thực tập thiền quán, chánh niệm.
Thứ ba là hoài nghi. Hoài nghi là một chướng đạo rất lớn trên bước đường tu hành. Người hay ôm lòng hoài nghi, thì không làm được việc gì có lợi ích cho mình và người cả. Cho nên Phật nói hoài nghi việc tu phạm hạnh, sẽ không làm sao chứng thánh quả lớn.
Pháp cú 313, Phật khuyến tấn chúng ta khi đã tu hành thì phải cố gắng gia công tinh cần làm cho hết sức mình. Người tu hành thời xưa, các ngài tiếc từng tấc bóng, dồn hết nỗ lực vào việc công phu tu tập thiền quán. Khi chưa sáng đạo, thì các ngài phải luôn quyết tâm tu hành cho sáng đạo. Khi đã sáng đạo rồi, thì các ngài cũng không dám lơ là chểnh mãng khinh thường. Các ngài hằng quán chiếu, tỉnh thức trong từng phút giây, sống nhậm vận tùy duyên hài hòa cùng vạn vật vượt ngoài đối đãi nhị nguyên. Các ngài luôn bảo nhậm: “đối cảnh vô tâm, đói đến thì ăn, mệt ngủ khò”. Nếu chưa được “Sáng Đạo” như các ngài, thì chúng ta nên cẩn thận đừng vội bắt chước: “đói đến thì ăn, mệt ngủ khò”, mà phải bị sa đọa thọ khổ suốt đời.
Người xưa, vì mục đích giải quyết sanh tử, nên các ngài quyết chí tu học cho mau tỏ ngộ và chóng thoát khỏi con đường sanh tử khổ đau. Gương Phật Tổ và các bậc cổ đức tu hành như thế. Đó là những tấm gương sáng chói để chúng ta bắt chước học hỏi noi theo. Phải thành thật mà nói, sự tu hành của chúng ta ngày nay, so với các Ngài thì ôi thôi! thật là ngàn trùng xa cách.
Tổ Quy Sơn than rằng: “Nẳng kiếp tuần trần, vị thường phản tỉnh, thời quang yểm một tuế ngoạt sa đà…” Nghĩa là Ngài nói, nhiều kiếp rồi chúng ta mãi mê chạy theo trần tục, chưa từng có phút giây phản tỉnh. Nếu chúng ta biết phản tỉnh, thì chắc chắn không phải nổi trôi lang thang trong sáu nẻo luân hồi từ vô lượng kiếp. Thời giờ thì nó trôi qua vùn vụt, mà chúng ta thì không một chút luyến tiếc. Chúng ta không biết lợi dụng thời gian để gia công nỗ lực tu hành.
Chuyện trích dẫn trên, Phật quở trách thầy Tỳ kheo thật nặng nề vì tánh tự phụ. Việc nhổ cỏ vứt đi, đó là hành động thiếu lòng từ bi. Dù rằng, đó là vật vô tình, nhưng nó vẫn có mạng sống. Vô cớ làm tổn hại mạng sống của nó, đối với người xuất gia, thì Phật cho đó là một hành động không có từ tâm. Đối với loài vô tình mà Phật còn bảo trọng như thế, nói chi đến loài hữu tình, Phật còn quý trọng đến mức độ nào. Sự quở trách của Phật đối với hành động của vị Tỳ kheo đó, không phải chỉ vì vứt đi cọng cỏ, mà chủ ý của Phật là muốn dạy cho thầy ta một bài học về tình thương và dẹp đi tánh kiêu căng tự phụ. Người xuất gia không nên có tánh kiêu căng tự phụ này.
314. Không tạo ác nghiệp là hơn, vì làm ác nhất định thọ khổ; làm các thiện nghiệp là hơn, vì làm lành nhất định thọ vui.
Better an evil deed not done for misdeed later on torments. Better done is deed that's good, which done, does not torment.
Kệ tụng
Ác hạnh không nên làm
Làm xong, chịu khổ lụy
Thiện hạnh, ắt nên làm
Làm xong, không ăn năn
Lược giảng
Pháp cú này, Phật dạy tại tinh xá Kỳ Viên, có liên quan đến một bà vợ ghen.
Theo truyện tích, “một ông chồng dan díu với một nữ tỳ giúp việc nhà. Vợ ông biết được, bèn trói người nữ tỳ, cắt tai, cắt mũi, nhốt vào phòng kín đóng cửa lại. Để che giấu tội ác, bà rủ chồng đi nghe pháp. Hai vợ chồng đến tinh xá, ngồi vào hội chúng. Khi ấy có vài người bà con bên vợ đến nhà thăm. Họ mở cửa, chứng kiến cảnh tàn nhẫn trong nhà, bèn mở trói cho cô tớ gái. Cô này đến tinh xá, tố cáo mọi việc với Phật và tăng chúng. Nghe xong Phật dạy:
- Không nên làm việc ác dù nhỏ, nghĩ rằng chẳng ai biết. Với việc lành, dù không người biết vẫn nên làm. Hành động ác dù che giấu vẫn ân hận về sau. Còn hành động tốt sẽ khiến ta an vui”. Nhân đó, Phật nói pháp cú trên.
“Cuối bài pháp, hai vợ chồng chứng quả Dự lưu. Họ trả tự do cho cô tớ gái và hướng dẫn cô theo chánh pháp”. (Trích nguyên văn Tích Truyện Pháp Cú tập III, Viên Chiếu, tr 179)
Sách Nho có câu: “Vi thiện giả thiên báo chi dĩ phúc; vi bất thiện giả, thiên báo chi dĩ họa”. Nghĩa là: Người làm điều thiện, thì trời sẽ ban lại phúc cho; kẻ làm điều bất thiện, thì trời sẽ bắt nhận lấy tai họa. Chữ trời nói ở đây, không phải là có một vị trời (như vị thần nhân cách) có quyền hành tác oai tác quái, ban phúc giáng họa cho thế nhân. Mà chữ trời theo Nho Giáo, là luật tắc thiên nhiên, giống như lý thuyết nhân quả của đạo Phật. Người nào làm điều lành, giàu lòng nhân ái từ tâm, hay thương xót cứu giúp tha nhân, thì chắc chắn người đó sẽ được phước báo rất lớn. Ngược lại, kẻ nào làm điều ác hại người hại vật, gây cho mọi loài đau khổ vì mình, thì chắc chắn kẻ đó phải lãnh lấy quả báo rất là đau khổ. Đó là theo luật nhân quả tất yếu phải như vậy. Tuy nhiên, khi thọ báo tốt hoặc xấu, mau hay chậm, điều đó còn phải tùy thuộc vào thời gian. Song có điều nhân đã gây thì quả phải trả.
Sách Nho cũng nói: “Thiện hữu thiện báo, ác hữu ác báo, thời thần vị đáo” … Hoặc câu: “Thiện ác đáo đầu chung hữu báo, cao phi diễn tẩu dã nan tàng. Hành tàng hư thiệt tự gia tri, họa phước nhân do cánh vấn thùy? Thiện ác đáo đầu chung hữu báo, chỉ tranh lai tảo dữ lai trì”. Nghĩa là: người làm điều lành, ắt sẽ được báo lành, người làm điều ác, tất phải có báo ác. Làm lành hay làm ác, cuối cùng cũng phải trả. Không thể nào cao bay xa chạy mà có thể tránh khỏi được cái nhân lành hay cái nhân ác đã gây, khó mà che giấu được lắm. Việc làm gian dối hay ngay thật, thì tự mình mình biết rất rõ, không cần phải hỏi ai. Vì đó là luật nhân quả rất công bằng.
Pháp cú trên, cũng như nhiều pháp cú khác, đức Phật luôn khuyến nhắc mọi người nên cố tránh đừng bao giờ gây tạo nghiệp ác. Vì hễ đã gây tạo nghiệp ác, thì khó tránh khỏi quả báo ác. Điều này, không cần phải chứng minh, vì nó đã xảy ra biết bao nhiêu chuyện thương tâm hằng ngày, bởi do một phút sai lầm mà người ta gây ra lắm điều họa hại. Cuối cùng, thì họ phải lãnh lấy quả báo chịu nhiều hình phạt khổ sở.
Trái với hình ảnh khổ đau nói trên, người siêng năng làm lành thương người cứu vật, tất nhiên, họ sẽ hưởng được nhiều phước báo ân huệ an vui. Lòng họ bao giờ cũng trải rộng tình thương đem lại sự lợi lạc đến cho mọi người. Người vui là mình vui. Đó là hạnh phúc tuyệt vời làm thăng hoa tươi đẹp trong đời sống của bạn. Phật nói người làm thiện nghiệp nhất định là thọ vui. Điều này là một chứng thực.
Ngày nào mà bạn làm được nhiều điều phúc thiện, như hiến tặng cho người nào đó bằng một nụ cười thoải mái vui tươi, hoặc giúp đỡ cho ai một vài việc thiện nhỏ nhặt nào đó, hay ôm bế vuốt ve vỗ về một con vật vào lòng mà bạn thường yêu thương trìu mến nó, thì ngày đó hẳn bạn cảm thấy tâm hồn của bạn thật tươi mát hạnh phúc vô cùng. Ngược lại, nếu bạn nhẫn tâm làm khổ ai đó, họ cảm thấy chạm tự ái bức xúc khó chịu, thế là lòng bạn cảm thấy bất an, mang nặng ưu tư buồn thảm thật ray rứt khó chịu. Thế là, bạn đang rơi vào cảnh giới tối tăm của địa ngục rồi đó. Như vậy, muốn cho đời bạn có nhiều niềm vui hạnh phúc, theo lời Phật dạy trên, bạn cố gắng làm lành thật nhiều để cho đời sống của bạn có thêm nhiều ý nghĩa. Đó là niềm vui lớn mà chính bạn đã khéo biết tự ban thưởng cho bạn.
Qua câu chuyện trích dẫn trên, cho chúng ta một bài học về việc bảo vệ hạnh phúc gia đình. Sự ghen tuông đến một mức độ mà vợ hay chồng không còn kềm chế được lòng sân hận nữa, thì sẽ gây ra một hậu quả khủng khiếp mà không ai có thể lường trước được. Chỉ vì ghen tức với một cô tớ gái, mà người vợ đã ra tay hành hạ tàn nhẫn người tớ gái một cách thật dã man.
Hiện trạng này đã và đang xảy ra hằng ngày như cơm bữa. Thật là ghê gớm cho lòng dạ độc ác của con người. Bình thường, thì họ coi đó như là một sự tàn nhẫn ác độc. Nhưng khi họ lâm vào hoàn cảnh cực kỳ ghen tuông đó, thì có lẽ họ sẽ hành xử một cách ác độc tàn nhẫn hơn. Làm sao biết được lòng dạ con người. Biển dù có sâu đến đâu, người ta cũng có thể dò được, vì biển còn có đáy, còn lòng dạ của con người có đáy đâu mà dò. Ca dao Việt Nam có câu:
Dò sông dò bể dễ dò
Nào ai lấy thước mà đo lòng người.
Lòng người thăm thẳm mù khơi
Không bờ, không bến biết đâu mà dò.
Vì thế, muốn cho gia đình được đảm bảo an vui hạnh phúc, thì Phật khuyên răn người Phật tử nên gìn giữ giới cấm không được tà dâm. Tà dâm là giới cấm thứ ba trong năm giới của người Phật tử tại gia. Giới này có công năng ngăn ngừa hành vi bất chánh của chồng hoặc vợ có tư ý ngoại tình. Một khi chồng hoặc vợ đã ngoại tình, thì chắc chắn gia đình sẽ bị tan nát đổ vỡ. Biết bao thảm kịch đã xảy ra vì hành động bất chánh lang chạ tà dâm này. Gìn giữ giới này là nền tảng chính yếu để xây dựng êm ấm hạnh phúc gia đình.
Trăm năm lòng gắng dạ ghi,
Dầu ai đem bạc đổi chì cũng không.
Trăm năm quyết chí một chồng,
Dầu ai thêu phụng vẽ rồng mặc ai.
Dầu cho đá nát vàng phai,
Trăm năm duyên nợ chẳng phai chút nào.
(Ca dao)
Người Phật tử nên chiêm nghiệm lời Phật dạy trên, mà quyết tâm gìn giữ giới này thật cẩn thận để mang lại sự tốt đẹp cho mình và người vậy.
315. Như thành quách được phòng hộ thế nào, thì tự thân các ngươi cũng phải nên phòng hộ như thế. Một giây lát cũng chớ buông lung. Hễ một giây lát buông lung là một giây lát sa đọa địa ngục.
Even as a border town guarded within and without,so should you protect yourselves. Do not let this moment pass for when this moment's gone they grieve
sending themselves to hell.
Kệ tụng
Như thành ở biên thùy
Trong ngoài đều phòng hộ
Cũng vậy, phòng hộ mình
Sát na chớ buông lung
Giây phút qua, sầu muộn
Khi rơi vào địa ngục.
Lược giảng
Pháp cú này, Phật dạy tại tinh xá Kỳ Viên, có liên quan đến một số Tỳ kheo.
“Một số các Tỳ kheo đến an cư ở một thị trấn biên giới. Tháng đầu trôi qua hết sức an ổn. Nhưng tháng thứ hai, bọn trộm cướp tấn công thị trấn và bắt một số người làm con tin. Từ lúc ấy, mọi người phải bận rộn phòng thủ, chống lại trộm cướp, và không còn thì giờ chăm sóc đến thức ăn vật dụng cho các thầy. Các thầy trải qua những tháng thật bất an.
An cư xong, các thầy trở về tinh xá Kỳ Viên, đảnh lễ Phật, lui ngồi một bên. Đức Phật hỏi thăm thân mật:
- Các ông có được an ổn không?
- Bạch Thế Tôn, tháng đầu thật an ổn. Nhưng những tháng sau trộm cướp hoành hành, dân chúng chẳng còn thì giờ đâu lo lắng cho chúng con. Thời gian đó thật khốn đốn.
Phật dạy:
- Không sao. Các ông đừng phiền muộn. Không dễ gì lúc nào cũng tìm được nơi an cư hoàn toàn như ý. Nhưng hãy như dân cư phòng thủ thị trấn của họ, mỗi thầy Tỳ kheo phải canh phòng mình”. Nhân đó Phật nói Pháp cú trên. (Trích nguyên văn Tích Truyện Pháp Cú tập III, Viên Chiếu, tr 180)
Người tu hành muốn cho thân tâm được an ổn, Phật dạy ta phải chế ngự phòng hộ ở nơi sáu căn cho thật kỹ càng. Giống như người lính gác giữ thành, không một phút giây xao lãng. Nếu người giữ thành mà không canh phòng nghiêm nhặt, tất nhiên, thành trì sẽ mất về tay quân giặc. Chừng đó, thành trì đã mất mà bản thân người giữ thành cũng không còn.
Nhân câu chuyện do các thầy Tỳ kheo kể lại về việc dân chúng trong thành lo đề phòng chống lại bọn trộm cướp, mà các thầy phải bị khốn đốn vì không đủ thực phẩm để dùng, nên Phật mới dạy cho các thầy phương cách phòng hộ ở nơi thân tâm.
Các thầy kể lại tình cảnh thiếu thốn thực phẩm thật là cay đắng chua xót! Tuy rằng, vật thực ăn uống đối với người xuất gia thì không nên đặt nặng quan trọng. Nhưng nó cũng là một nhu cầu thiết yếu để giúp cho người xuất gia được yên ổn tu hành. Người ta nói: “có thực mới vực được đạo”. Điều đó, không ai có thể phủ nhận. Tuy nhiên, nếu chúng ta quá đặt nặng vấn đề ăn uống, thì sẽ mất đi phẩm hạnh đạo đức cao cả của người tu. Do đó, một người xuất gia, theo lời Phật Tổ dạy, thì phải “Tam thường bất túc”. Cái gì cũng phải thiếu thiếu, không nên quá dư thừa. Vì càng hưởng thụ nhiều chừng nào, thì lại càng mất đi đạo hạnh giải thoát của người xuất gia nhiều chừng nấy.
Người xuất gia phải là người luôn sống trong tỉnh thức. Đức Phật là người hằng sống trong tỉnh thức. Có tỉnh thức là có an lạc giải thoát. Người tỉnh thức phải là người sáng suốt luôn phòng ngự ở nơi ba nghiệp. Người tu phải giữ thân, khẩu, ý, cho nghiêm mật như kẻ giữ thành trì. Nhứt là phải gìn giữ ở nơi ý nghiệp. Đó là chúng ta khéo biết tu ở nơi cái gốc vậy.
316. Không đáng hổ lại hổ, việc đáng hổ lại không, cứ ôm tà kiến ấy, địa ngục khó lánh xa.
They are ashamed where shame is not but where is shame are not ashamed so by embracing evil views
beings go to an evil birth.
Kệ tụng
Không đáng hổ, lại hổ
Việc đáng hổ, lại không
Do chấp nhận tà kiến
Chúng sanh đi ác thú
317. Không đáng sợ lại sợ, việc đáng sợ lại không, cứ ôm tà kiến ấy, địa ngục khó lánh xa.
They are afraid where fear is not but where is fear are unafraid, so by embracing evil views beings go to an evil birth.
Kệ tụng
Không đáng sợ, lại sợ
Việc đáng sợ, lại không
Do chấp nhận tà kiến
Chúng sanh đi ác thú.
Lược giảng
Hai pháp cú này, Phật dạy tại tinh xá Kỳ Viên, có liên quan đến các đạo sĩ phái Kỳ na, lỏa hình ngoại đạo Ni kiền tử.
“Một hôm các thầy Tỳ kheo nhìn thấy các đạo sĩ phái Ni kiền tử, đã bàn tán với nhau:
- Này chư huynh, các Ni kiền tử này dễ nhìn hơn các đạo sĩ phái Acelaka (Lộ già na). Mấy ông kia hoàn toàn trần trụi, còn các Ni kiền tử này ít ra cũng có một tí vải che thân, nhìn đỡ xấu hổ.
Các Ni kiền tử nghe chuyện đã nói:
- Không phải vì xấu hổ mà chúng tôi che thân. Chỉ vì bụi đất cũng là những hữu tình chúng sanh có sự sống, vì sợ chúng rơi vào thức ăn mà chúng tôi mang một mảnh vải.
Các thầy Tỳ kheo, một số đồng ý với lý do trên, số khác không đồng ý, cứ bàn tán mãi. Sau cùng, tất cả đi đến chỗ Phật, thưa ra câu chuyện, Phật dạy:
- Này các Tỳ kheo, người nào hổ thẹn khi không đáng hổ thẹn, và không cảm thấy hổ thẹn khi cần phải hổ thẹn, sẽ chịu khổ về sau”. Nhân đó, Phật nói hai pháp cú trên. (Trích nguyên văn Tích Truyện Pháp Cú tập III, Viên Chiếu, tr 182)
Hổ thẹn là đức tánh tốt của con người. Làm người thiếu đức tánh này, thì có khác gì loài cầm thú. Khi làm một điều gì bất chánh, hoặc lỡ lời thiếu ái ngữ, làm xúc phạm đến danh dự, tổn thương lòng tự ái của người, thì chúng ta cảm thấy rất hổ thẹn. Có người mạnh dạn trực tiếp xin lỗi; có người thì âm thầm tự thấy xấu hổ. Cả hai đều thầm nguyện với lòng không nên có những hành động hoặc lời nói bất cẩn như thế này nữa. Đứng trên phương diện đạo đức làm người, người ta sẽ đánh giá hai hạng người này, đều có lòng tự trọng và có nhơn cách xứng đáng như nhau. Đó là hạng người mà họ khéo biết giữ gìn phẩm hạnh.
Giá trị con người, không phải ở chỗ có địa vị cao, hay học lực khá, hoặc ở chỗ giàu nghèo, sang hèn, mà giá trị con người gốc là ở nơi hành xử có đạo đức. Vì đạo đức là nếp sống cao đẹp của con người. Người ở địa vị cao, hay giàu có sang trọng, mà ăn nói sổ sàng, hành động thô tháo, không có một chút cung cách đạo đức làm người, thì người đó hẳn không được ai kính trọng nể phục. Có chăng, chỉ có những kẻ dựa hơi bề ngoài để dễ bề kiếm chác chút ít quyền lợi. Hạng người này, vì sự sống, nên họ thiếu cung cách nhân phẩm, không có chất liệu đạo đức của một con người, nên người ta xếp họ vào loại người chỉ biết cong lưng uốn gối ton hót nịnh bợ. Đây là hạng người được đánh giá thấp nhứt của xã hội loài người. Nếu không muốn nói, quả thật họ là hạng người thật đáng khinh bỉ.
Pháp cú 316, Phật nói rõ có những điều không đáng hổ thẹn, mà người ta lại hổ thẹn. Ngược lại, có những điều đáng hổ thẹn, thì người ta lại cố tình che giấu. Người lầm lỗi mà không biết hổ thẹn ăn năn sửa đổi, thì Phật cho đó là hạng người tà kiến. Tà kiến là họ cố chấp thiên lệch một bên, không phù hợp với lẽ thật. Đời là vô thường, mà họ cho là thường còn, đó là tà kiến. Họ làm sai trái, người khác chỉ lỗi để họ sửa đổi, nhưng họ vẫn cố chấp, bảo thủ cho là đúng, đó là tà kiến. Phật nói hạng người ôm lòng tà kiến, thì khó tránh khỏi sa đọa vào địa ngục. Bởi do tà kiến, nhận định thiên lệch chấp nê một chiều, rồi từ đó, họ tạo nghiệp bất thiện, nên phải thọ khổ. Ngược lại, người có chánh kiến, nhận định đúng theo chân lý, họ tạo nghiệp lành, nên họ được hạnh phúc an vui.
Pháp cú 317, Phật nói: “không đáng sợ lại sợ, việc đáng sợ lại không”. Thế nào là việc không đáng sợ lại sợ? Sợ là một trong những nỗi lo âu lớn nhứt của con người. Khi mở mắt chào đời, thì con người đã có sự sợ hãi rồi. Lớn lên người ta lại thêm lo sợ đủ thứ. Sợ nghèo, sợ bệnh, sợ khổ v.v…nhưng điều sợ cuối cùng là người ta sợ chết. Vẫn biết chết không ai tránh khỏi, nhưng nói đến chết là người ta lo sợ. Nếu như lo sợ mà tránh khỏi, thì cũng nên lo sợ. Bệnh và chết có ai tránh khỏi đâu. Thế thì tại sao chúng ta phải lo sợ? Đó là Phật nói cái không đáng sợ lại sợ. Sợ hãi là con đẻ của tâm vọng tưởng điên đảo bất an. Ở đời có trăm thứ ngổn ngang lo sợ. Học sinh chưa vào phòng thi là đã lo sợ hồi hộp bị đánh rớt rồi. Đó là vì họ thiếu tự tin.
Phật nói việc đáng sợ lại không là sao? Việc đáng sợ là đọa lạc vào con đường sanh tử khổ đau. Bởi do tạo nghiệp ác mà phải chịu nổi trôi lang thang mãi trong vòng sanh tử luân hồi. Đó là nổi khổ truyền kiếp của chúng sanh. Đó là điều mà ta cần phải quan tâm lo sợ. Muốn hết nổi ưu tư lo sợ này, Phật chỉ cho chúng ta con đường hành thiện. Có diệt trừ nguyên nhân gây ra đau khổ, thì chúng ta mới mong chấm dứt vòng luân hồi khổ đau bất tận. Nguyên nhân đó là gì? Là những thứ vô minh phiền não. Chính những thứ này, là nguyên động lực thúc đẩy chúng ta tạo nhiều nghiệp bất thiện để rồi phải chiêu cảm thọ báo ác thú khổ đau. Thế nên, muốn không sợ chết, thì ta nên cố gắng làm nhiều việc lành: bố thí, cúng dường, ăn chay, niệm Phật, tham thiền, quán tưởng v.v… Nói chung, là chúng ta làm những điều gì có lợi cho mình cho người và vật trong hiện tại và mai sau. Đó là chúng ta khéo biết chuẩn bị cho ngày ra đi của mình có một hướng đi rõ rệt. Một hướng đi chỉ có hoa và trái hạnh phúc mà thôi.
318. Không lỗi tưởng là lỗi, có lỗi lại tưởng không, cứ ôm tà kiến ấy, địa ngục khó lánh xa.
Faults they see where fault is not but where is fault they see it not, so by embracing evil views beings go to an evil birth.
Kệ tụng
Không lỗi, lại thấy lỗi
Có lỗi, lại thấy không
Do chấp nhận tà kiến
Chúng sanh đi ác thú.
319. Lỗi biết rằng lỗi, không lỗi biết rằng không lỗi, giữ tâm chánh kiến ấy, đường lành thấy chẳng xa.
A fault they understand as such, they know as well where fault is not, so by embracing righteous views
beings go to a happy rebirth.
Kệ tụng
Có lỗi, biết có lỗi
Không lỗi, biết là không
Do chấp nhận chánh kiến
Chúng sanh đi cõi lành.
Lược giảng
Hai pháp cú này, Phật dạy tại tinh xá Kỳ Viên, có liên quan đến một số cư sĩ ngoại đạo.
“Có một đám trẻ chơi chung với nhau, con nhà ngoại đạo và con các Phật tử. Khi các trẻ em ngoại đạo về nhà, cha mẹ chúng cấm không cho chào hỏi các Sa môn đệ tử Phật và không được vào tinh xá. Họ bắt chúng phải giữ lời thề. Và sang ngày khác, khi bọn trẻ chơi đùa gần tinh xá Kỳ Viên, chúng bị khát nước. Các trẻ con ngoại đạo phải nhờ một bạn Phật tử vào tinh xá xin nước uống. Em này vào tinh xá, gặp đức Thế Tôn, và kể lại câu chuyện cho Ngài nghe.
Phật dạy:
- Uống nước xong, các con ra kêu các bạn vào đây uống.
Tất cả bọn vào gặp Phật. Ngài kể cho các em nghe một câu chuyện dễ hiểu, giảng pháp, khiến các em có niềm tin vững mạnh rồi khiến các em quy y và giữ giới. Các trẻ em ngoại đạo về nhà, kể chuyện lại cho ba má. Họ giận dữ, khóc lóc rên rỉ:
- Con chúng ta đã theo thầy tà.
Khi ấy, một người láng giềng có trí tuệ ở gần đó, sang an ủi họ, giảng giải cho họ nghe. Chừng đó, họ nhận thấy Phật pháp lợi ích bèn quyết định:
- Chúng ta chỉ cho các con đi theo sự hướng dẫn của Ngài Cồ Đàm.
Với bà con dòng họ đông đảo, họ đưa nhau đến tinh xá lễ Phật, nghe pháp. Phật quan sát tâm tư của họ và nói hai pháp cú trên”. (Trích nguyên văn Tích Truyện Pháp Cú tập III, Viên Chiếu, tr 183).
Pháp cú 318, Phật nói có lỗi hoặc không lỗi, do tâm tưởng điên đảo khởi vọng chấp tà kiến, đó là hậu quả dẫn tới con đường khổ đau. Xã hội loài người sở dĩ khổ đau triền miên cũng chính vì do nhận định bảo thủ lộn ngược đầu này. Trắng họ cho là đen, đen họ cho là trắng, phải họ cho là quấy, quấy họ cho là phải, giả họ cho là thật, thật họ cho là giả vân vân và vân vân. Bởi do nhìn lộn ngược (điên đảo) như thế, nên mới có những thiên kiến cố chấp. Ai cũng thấy mình đúng, người khác sai, từ đó gây nên bao cảnh chiến tranh thù hận chém giết lẫn nhau. Tình thương yêu đồng loại không còn, bởi do vọng tưởng tri giác sai lầm này. Từ cá nhân, gia đình, đoàn thể, xã hội đều tạo nên mâu thuẫn chống đối nhau, tất cả đều do vọng tưởng tà kiến mà ra.
Pháp cú 319, Phật dạy rằng: “lỗi biết rằng lỗi, không lỗi biết rằng không lỗi, giữ tâm chánh kiến ấy, đường lành thấy chẳng xa”. Chỉ cần chúng ta thay đổi cách nhìn đúng theo lẽ thật, thì mọi khổ đau sẽ chấm dứt. Có lỗi biết có lỗi, không lỗi biết rõ là không lỗi, đó là chánh kiến thấy đúng sự thật. Khi đã thấy đúng sự thật ở nơi các pháp, thì mọi vọng chấp tri giác sai lầm sẽ không còn. Vọng chấp không còn, thì ngay đó là giải thoát, là chấm dứt khổ đau. Chỉ có con đường chánh kiến mới dẫn hành giả đúng theo lộ trình tiến đến Phật quả mà thôi.
Chuyện dẫn chứng trên, cho ta thấy, trẻ em rất hồn nhiên ngây thơ thật là dễ thương. Chúng đùa giỡn vui chơi với nhau rất thân tình. Chúng nào có để tâm phân biệt: “đây là Phật tử, kia là ngoại đạo đâu”. Trước mặt chúng chỉ là những đứa bạn thân thiết vui chơi với nhau mà thôi. Ngoài ra, chúng không có tâm niệm phân chia kia, đây gì cả. Vậy ai là người phân cách tình bạn của chúng nó? Ai là người mang đầu óc bệnh hoạn kỳ thị phân chia ranh giới: đây là ngoại đạo, kia là Phật tử? Ai là người bắt chúng nó phải thề thốt không được chào hỏi các vị Sa môn và vào tinh xá?
Ai đó? Phải chăng tất cả đều do những con người mang danh mình là người lớn để tạo ra sự phân chia ngăn cách? Những con người bởi do huân tập những tri giác sai lầm, mang nặng những căn bệnh cận thị, cuồng tín, tà kiến, cố chấp, kỳ thị, nhìn sự vật theo lăng kính chủ quan của mình, nên mới thốt ra những lời cấm đoán đó. Làm cho tình thân trở nên thù hận. Chính con người gây ra làm mất đi giá trị cao đẹp tình người. Đôi lúc chúng ta mang danh là người lớn (chỉ có lớn xác), nhưng nhìn lại, thực chất tâm hồn của chúng ta thật quá nhỏ bé thấp hèn! Vẫn còn mang nặng những bệnh trạng: “ích kỷ, hẹp hòi, kỳ thị, ác ý, thù hận, ganh ghét, chia rẽ, khủng bố, tàn sát”, và luôn luôn hiềm thù chống đối gây khổ đau cho nhau.
Chúng ta chưa thật sự mở rộng cõi lòng và chưa thật sự học được bài học tình người: “trong dòng máu cùng đỏ và trong nước mắt cùng mặn”. Ngày nào nhơn loại còn mang nặng những thiên chấp dị biệt, còn nô lệ cho vọng kiến phân chia nhân, ngã, bỉ, thữ, còn ngập chìm trong vòng vọng chấp ý thức hệ nhị nguyên đối đãi, thì ngày đó nhơn loại vẫn còn tranh chấp thù hận gây nên tang tóc khổ đau cho nhau dài dài. Do vọng kiến, nên chúng ta nhìn sự vật méo mó, theo lăng kính “tỷ lượng” và “phi lượng”. Chúng ta chưa thực sự sống với “hiện lượng”. Chúng ta vẫn còn thích mang những cặp kính màu để nhìn sự vật. Quả chúng ta chỉ biết “đùa vui theo sóng mà quên nguồn suối trong”.
Nói rõ hơn, là chúng ta chỉ thấy hoa đốm lăng xăng mà quên mất bầu trời trong tạnh. Bầu trời trong lúc nào cũng hiện hữu với chúng ta. Nói cách khác, là chúng ta vốn sẳn có tánh giác sáng suốt thanh tịnh, nhưng khổ thay! vì vọng tưởng điên đảo, như người bị bệnh nhặm mắt, nên chúng ta vẫn còn bị mê lầm không nhận ra được tánh giác. Do đó, mà chúng ta mãi sống trong vòng vọng chấp mê lầm. Đó là đời sống phóng thể quên mất cội nguồn tâm linh. Đạo đức nhân bản ngày càng bị mất gốc, gây nên tình trạng khủng hoảng tinh thần trầm trọng. Và đó cũng chính là hệ quả của những cuộc tranh chấp, gây hấn trả thù sát phạt nhau: “giữa quốc gia này với quốc gia nọ, giữa dân tộc này, với dân tộc khác, giữa tôn giáo này với tôn giáo kia, giữa chủ nghĩa này với chủ nghĩa nọ v.v…” Thật chưa biết ngày nào nhơn loại mới thật sự tháo gỡ những cặp kính màu vọng kiến, để thật sự nhìn nhau và thương yêu nhau trong tình đồng loại:
Bây giờ rõ mặt đôi ta
Biết đâu rồi nữa chẳng là chiêm bao.
Đó là hai câu thơ bất hủ trong Truyện Kiều mà cụ Tiên Điền Nguyễn Du nhằm nhắn gởi kêu gọi thức nhắc chúng ta.
Ca dao Việt Nam cũng có câu:
Bầu ơi! Thương lấy bí cùng
Tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn.
Nhìn trên mặt hiện tượng, thì ta thấy có muôn vàn sai biệt, nhưng nhìn sâu vào mặt bản thể, thì nào có khác chi đâu. Vì vạn vật đồng nhứt thể kia mà! Có khác chăng chỉ là những giả tướng, giả danh, do con người vọng tưởng giả lập mà thôi. Đó là do thức biến: “Chấp thủ tướng và kế danh tự tướng”. Hơn lúc nào hết, con người hiện đang sống ở thế kỹ thứ 21, “phải là thế kỹ của tình người, của văn minh tân tiến về mặt đạo đức, phát huy phẩm chất làm người cao thượng trong chiều hướng thánh thiện, làm đẹp con người và cuộc đời”. Có thế, thì nhơn loại mới thực sự sống còn và không hổ thẹn với đất trời muôn thuở.
Điều đáng cho những người lớn cần lưu tâm học hỏi ở trẻ thơ, đó là đức tánh hồn nhiên và trong sáng. Dù bị ba má chúng cấm đoán nghiêm khắc, nhưng chúng vẫn tìm cách vào tinh xá và gặp được Phật nghe Phật thuyết giảng. Khi hay tin, ba má chúng tỏ ra phản kháng dữ dội, nhưng sau đó lại hồi tâm chuyển ý theo Phật, do một Phật tử tại gia dùng trí tuệ chuyển hóa họ. Thế mới biết, chỉ có trí tuệ mới đích thực là ngọn hải đăng soi sáng đưa người ta đến chỗ giác ngộ giải thoát hoàn toàn mà thôi.

MỤC LỤC
Trang
Lời đầu sách. 3 - 5
XVI - Phẩm Hỷ Ái 6 - 52
XVII - Phẩm Phẫn Nộ 53 - 95
XVIII - Phẩm Cấu Uế 96 - 153
XIX - Phẩm Pháp Trụ 154 - 189
XX - Phẩm Đạo 190 - 246
XXI - Phẩm Tạp 247 - 296
XXII - Phẩm Địa Ngục 297 – 338
CÚNG DƯỜNG PHÁP LÀ TỐI THƯỢNG NHẤT
The gift of truth surpasses all other gifts
***********
Phương Danh Ấn Tống
List of Virtuous Sponsors
Tổ Đình Phước Huệ
Chư Tăng Ni
I,040
Chơn Phúc Đạo
10
Thầy Phước Thái
50
Diệu Lai
10
Quincy Trí Việt
40
Diệu An
10
Emmy Phùng
20
Trần Thị Ngày
10
Tâm Như
20
Chơn Huyền Hiền
20
Quảng Thanh
10
Gđ Hạnh Thắng
30
Chúc Hương
10
Ẩn danh
7
Viên Hoa
20
Hoàng Quý
20
Nguyễn Thị Vân
20
Minh Đạt
20
G/đ Hạnh Thông
20
Diệu Quả
20
Diệu Hiền
10
Lệ Mỹ
20
Hạnh Ngộ
10
Tâm Thạnh
30
Chúc Chúc
10
Triệu Việt Hoàn
20
Đức Ngọc
10
Chúc Thọ
20
Trần Công Thân
30
Gđ đ/h Thủy
50
Gđ Diệu Ngọc
Diệu Hiền
Ý Ngọc
50
10
10
C/s h/l Vương Lệ Trinh
Minh Quang & Diệu Huệ
100
50
Chùa Quang Minh
Tâm Trúc
40
Võ Thị Hoàng
30
Diệu Liên 2
5
Tâm Chiếu
40
Tâm Tiên
30
Tâm Thanh
10
Chí Phước
20
Lệ Báo
30
GĐ Thanh Liên
20
Tịnh Từ
50
Diệu Ngà
50
Thúy Phượng
100
Nguyên Lạc
20
Diệu Huệ
20
Diệu Thảo
20
Diệu Lượng
20
Gđ Chiếu Bạch
10
Tâm Bảo
10
Viên Hảo
40
Diệu Lộc 2
50
Diệu Nguyện 1
20
Diệu Châu 1
5
Gđ Quỳnh Mai
10
Tâm Hải
50
Gđ Tâm Liên
30
Diệu Thông
20
Hatty
50
Diệu Ngọc 2
50
Mãn hạnh Toàn
10
Diệu tuyết
30
Ẩn danh
20
Chiếu Hoằng
20
Thanh Châu
20
Ẩn danh
15
Ẩn danh
30
Ẩn danh
30
An Hỷ
20
Minh Đức
10
Chân Hiền Đạo
20
Chiếu Thiện
10
Nguyên Phương
20
Diệu mãn
10
Từ Hương
50
Ẩn danh
30
Bảo Tín
50
Diệu châu 2
50
Tâm Đắc
20
Diệu Phước
10
Diệu Huệ 1
50
Viện Định
20
Diệu Lạc
20
Diệu Minh
5
Viên Hiệp
50
Viên Nguyện
20
Viên Thật
70
Diệu Phụng
20
Diệu Pháp 2
20
Hoa Lộc
10
Diệu Huệ 2
20
Viên Trực
20
Diệu Hạnh
20
Nguyên Thuần
50
Tâm Đạo
20
Nguyệt Đạo
50
Diệu Thánh
10
Diệu Quang 4
50
Hạnh Nghiêm
20
Diệu Quang 5
10
Diệu Huệ 5
20
Thanh Thể
20
Nhật Thiện + GĐ
20
Thanh Nhơn
10
Thế Niên
20
Diệu Nghiêm
5
Diệu Viên
50
Thông Ngọc
20
Nguyên Dung
20
Huệ Hiền
25
Diệu Quang (PT)
50
Quảng Thọ
25
Lệ Tâm
20
Thiện Minh
50
Phước Ngọc
20
Đức Ngọc
20
Chân Mỹ Thu
20
Gđ Tắc Hoàng
30
Huệ Hòa
50
Quảng Đài
20
Diệu Pháp
5
Gđ Tắc Huệ
30
Viên Thành
20
Huệ Dung
5
Huỳnh Mỹ Anh
25
Linh Diệu
20
Tịnh Trang
20
Nguyên Chơn
20
Diệu Đức
10
Minh Chiếu
5
Diệu Từ
15
Phổ Đức Huyền
10
Huỳnh Mỹ Châu
10
Diệu Sương
20
Hạnh Hải
50
Tâm Hưng
55
Minh Lượng
20
Chí Phước
20
Diệu Quang 3
10
Diệu Lương
50
Chơn Trì
20
Tốn Ngọc
20
Chơn Thọ
50
Nguyên Hồng
20
Diệu Nhàn
20
Trần Tú Nhi
20
Diệu Như
10
Duyên Ngọc
20
Nhật Diệu
50
Như Nghinh
20
Nguyệt Phước
10
Như Lữ
50
Quảng Lưu
10
Viên Hoa
20
Thanh Huyền
20
Như Phẩm
50
Tắc Hương
20
Tâm Hoàn
20
Thiện Trí
20
Hoa Quang
10
Tony Lương
20
Tâm Khiết
50
Trúc Ngọc
20
Tâm Nguyện 1
10
Victor Lâm
10
Tín Chánh
50
Viên Như
10
Viên Thành TĐ
10
Võ Thị Thu
100
HỒI HƯỚNG CÔNG ĐỨC
Nguyện đem công đức nầy
Trang nghiêm Phật Tịnh Độ
Trên đền bốn ơn nặng
Dưới cứu khổ ba đường
Nếu có ngườì thấy nghe
Đều phát lòng Bồ Đề
Hết một báo thân này
Sanh qua cõi Cực Lạc
Nam mô A Di Đà Phật
DEDICATION OF MERIT

May the merit and virtue
accrued from this work
adorn Amitabha Buddha’s Pure Land,
repay the four great kindnesses above,
and relieve the suffering of
those on the three paths below.
May those who see or hear of these efforts
generate Bodhi-mind,
spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
and finally be reborn together in
the Land of Ultimate Bliss.
Homage to Amita Buddha!
NAMO AMITABHA
KINH PHÁP CÚ

SONG NGỮ CHÚ GIẢI
TẬP 3

Biên soạn: Thích Phước Thái
Ấn hành lần thứ nhất
Chùa Quang Minh
2008
SÁCH ẤN TỐNG ĐỂ BIẾU TẶNG

KHÔNG ĐƯỢC BÁN

The book is strictly for free distribution, it is not for sale.

Printed by: ALL-VILLA PRINT Tel: 02 9724 7012

[1] Hâm mộ suông: Ý nói những Tỳ kheo vì bị dục lạc mê hoặc, bỏ việc hành đạo để sinh hoạt theo thế tục, sau thấy kẻ khác tu hành có kết quả lại tỏ lòng hối tiếc hâm mộ, nhưng kỳ thật tự mình thì trống rỗng không được gì cả.
[2] Bậc thượng lưu (Ubddharmsoto), chỉ cho quả vị Bất hoàn (Anagami) gần đến Niết bàn A la hán.
[3] Danh sắc (Namarapa): danh là tên gọi, sắc là màu sắc vật chất, tức là chỉ cho tinh thần và vật chất hay thân và tâm. Danh là chỉ cho tâm, sắc là chỉ cho thân.
[4] Cầm cương hộ : Ý nói, người nào nếu tự chủ, ngăn trừ nóng giận kịp thời, mới thực sự là người chế ngự giỏi, ngoài ra toàn là những kẻ cầm cương hờ mà thôi, chớ chưa có thể chế ngự được con ngựa hoang.
[5] Người xin: trong nguyên văn là chữ “thiểu”, có nghĩa là ít (Appam) , tức là mình có vật gì, cũng có thể chia sớt cho người đến xin được.
[6] A đa la (Atula) : Đây là tên của một người Phật tử thời xưa.
[7] Diêm phù kim (Jambunaba) là tên đặc biệt để chỉ một thứ vàng phẩm chất rất quý. Ý nói vàng nầy từ sông Diêm phù mà có.
[8] Thánh cảnh chư Thiên: Chỉ cho 5 cõi trời Tịch cư (Panca Anddhvasabhumi): Vô phiền (A-viha), Vô nhiệt (Atappa), Thiện hiện (Suddassa), Thiện kiến (Suddssi), Sắc cứu cánh (Akanittha) là năm chỗ của hàng A na hàm ở.
[9] Hư vọng : Nguyên văn là Papanca, gồm có nghĩa hư vọng và chướng ngại. Ở đây đặc biệt chỉ cho Ái (Tanha), Kiến (Ditthi), Mạn (Manno)
[10] Pháp trụ : Pháp trụ (Dhammattha) có nghĩa là thực hành đúng pháp, an trụ phụng thờ đúng pháp, nên cũng dịch là « phụng pháp ».
[11] Lỗ mãng : Lỗ mãng (Sahara), bao hàm nghĩa cẩu thả, khinh xuất, độc đoán. Ở đây chỉ cho cái quan niệm bất chính xác, bởi chịu ảnh hưởng của tham, sân, si, bố úy mà sinh ra.
[12] Do thân (Kayena), nguyên chú thích là « do danh thân » (Namakayena). Trong văn Pali chia năm uẩn ra hai loại : Danh thân (Namakeyena) , tức danh uẩn là thọ, tưởng, hành, thức. Sắc thân (Rupakayena) tức là sắc uẩn. Như vậy, do thân thật thấy chánh pháp, là do tự nội tâm chứng ngộ Chánh pháp, đích thực, chứ không vịn lấy chỗ ngộ do người làm cho mình ngộ... Chữ thân là một chứa nhóm, đồng nghĩa với chữ uẩn.
[13] Trưởng lão (Thera), tiếng tôn xưng người đã giữ giới Tỳ kheo mười năm trở lên, nhưng vốn trọng về thực tu thực chứng, nếu không thì chỉ là cách gọi suông.
[14] Chân thật : chỉ cho lý Tứ diệu đế, đó là bốn chân lý chân thật.
[15] Pháp hành : Chỉ cho bốn quả thánh, bốn hướng (Tu đà hoàn hướng, Tư đà hàm hướng v.v... và Niết bàn.
[16] Tiết chế : Chỉ cho hết thảy giới luật, vì giới luật có công năng tiết chế điều phục mọi dục vọng buông lung ở nơi tâm ý.
[17] Điều phục : Đặc biệt chỉ cho điều phục năm căn.
[18] Bỏ thiện: thiện đây là chỉ cho cái thiện hữu lậu, là cái thiện làm với tâm bỉ thử ngã nhân.
[19] Biết: biết giới, biết định, biết tuệ.
[20] Thánh hiền: Chữ Ariya có nghĩa là hiền đức, cao thượng. Phật đối với người đánh cá tên Ariya mà nói ra Pháp cú này.
[21] Đầu đà: Trung Hoa dịch là Đẩu tẩu nghĩa là lối tu khổ hạnh. Hạnh tu kham khổ, tiết chế trong việc ăn, mặc, ở, để dứt sạch phiền não, gồm có 12 hạnh. Riêng cho một số người tu.
[22] Cụ nhãn: chỉ cho đức Phật, vì đức Phật có đủ năm mắt: nhục nhãn (mamsa- cakkhu), thiên nhãn (dibhacakkhu), huệ nhãn (Panna cakkhu), Phật nhãn (Buddha-cakkhu), Nhất thế trí nhãn (Samanta-cakkhu)
[23] Con đường này: chỉ cho Tứ Đế, Bát chánh đạo và Niết bàn.
[24] Trừ diệt chông gai: chỉ cho Tam độc: tham, sân, si.
[25] Các hành: chữ hành nguyên nghĩa đen của nó là đi, là di chuyển, biến động. Tức chỉ chung cho mọi hiện tượng sinh lý hay tâm lý đều biến dịch luôn luôn thay đổi, không thường còn, khác nào như một dòng nước chảy trôi.
[26] Vô thường: chỉ chung cho mọi sự vật trên thế gian này không thường còn với thời gian. Tất cả đều bị chi phối bởi thời gian, không có gì tồn tại.
[27] Du già: (yoga) tức là định. Đây là thuật luyện khí của Ấn Độ, gần giống như thuật luyện khí của Đạo Tiên.
[28] Thiện Thệ: là khéo vượt qua biển sanh tử đến Niết bàn. Thiện Thệ là một trong mười hiệu Phật. Mười hiệu Phật gồn có: Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhơn Sư, Phật, Thế Tôn.
[29] Lậu tập: lậu nghĩa đen là rơi rớt từng giọt nhỏ xuống. Nghĩa bóng là chỉ cho những thứ phiền não cấu nhiễm. Chữ tập là nhóm hợp, là thói quen. Những hành động làm đi làm lại nhiều lần thành ra quen thuộc, gọi là tập. Lậu tập là những thói quen cấu nhiễm xấu ác do những thứ phiền não kết hợp tác động gây nên.
[30] Mẹ - Mata, tiêu biểu tâm ái dục (tanha ), vì chính ái dục dẫn dắt chúng sanh đi tái sanh.
[31] Cha – Pita, tiêu biểu tánh ngã mạn, chấp cái ta, và tự phụ, kiêu căng
[32] Diệt hai giòng Sát đế lợi: dụ cho hai phái ngoại đạo thời Phật là Thường kiến và Đoạn kiến.
[33] Diệt Vương quốc: chỉ cho 12 xứ: lục căn và lục trần.
[34] Quần thần: chỉ sự dục lạc (nadirago)
[35] Bà la môn vô ưu: chỉ quả vị lậu tận A la hán.
[36] Kiều Đáp Ma: ( Gotama) chỉ cho đức Phật.
[37] Niệm tưởng sắc thân: Quán thân bất tịnh gồm có 32 thứ: tóc, lông, móng, răng, da, thịt xương, gân v.v…
[38] Thánh tài: nói đủ là thất thánh tài, tứ gia tài của bậc thánh giả. Thất thánh tài gồm có: tín, giới, tàm, quý, văn, xả, huệ.
***

Published by:
Quang Minh Temple
18 Burke St. Braybrook,Victoria 3019 AUSTRALIA
Tel: 61 3 9017 2999
Fax: 61 3 9311 0278
Email: thichphuocthai@gmail.com
Website: http://www.quangminh.org.au
National Library of Australia
Cataloguing-in Publication entry:
ISBN 978-0-9803726-2-5
KINH PHÁP CÚ SONG NGỮ CHÚ GIẢI

Tập 3
Ven.Thích Phước Thái @ 2008
First edition 2008
1000 copies
**************************
Proof Reader: Sư cô Phước Thanh, Diệu Lương
Book Designer: Hồ Sĩ Trung

Cover Designer : Thích Phước Quảng
***************************

***

Chân thành cảm tạ Thầy Phước Thái & Thầy Phước Viên đã gởi tặng Trang Nhà Quảng Đức phiên bản điện tử tập sách này (T.Nguyên Tạng, 1-6-2014)
Về Đầu Trang Go down
https://triamquan.forumvi.com/
Tri Âm Quán
Thành Viên Tích Cực
Thành Viên Tích Cực
Tri Âm Quán


Tổng số bài gửi : 6340
Reputation : 2
Join date : 31/07/2013
Đến từ : Thị Trấn Chũ

Kinh Pháp Cú chú giải (tập 1) - Page 2 Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Kinh Pháp Cú chú giải (tập 1)   Kinh Pháp Cú chú giải (tập 1) - Page 2 EmptySun Nov 16, 2014 12:07 pm

Kinh Pháp Cú chú giải (tập 4)
Thích Phước Thái 

Phật lịch 2553
Dương lịch 2009 - Việt lịch 4888
THÍCH PHƯỚC THÁI
KINH PHÁP CÚ

SONG NGỮ CHÚ GIẢI
TẬP 4
NHÀ XUẤT BẢN QUANG MINH


Ơn chúng sanh hằng tâm ghi nhớ
Ơn nước nhà cũng chớ có quên
Ơn Thầy, ơn Tổ, đáp đền
Ơn cha, ơn mẹ, trọn nên thân người.

Thành kính tri ân:
Sách nầy được hình thành là nhờ công ơn của:
- Các dịch giả của các dịch phẩm như đã nêu ra ở
phần đầu sách.
- Thượng Tọa Thích Phước Tấn đã tận tình hỗ trợ.
- Quý học chúng Tăng, Ni tại Tổ Đình Phước Huệ.
- Quý Đại Đức Thích Phước Viên, Thích Phước
Quảng, Sư cô Thích Phước Thanh và các đạo hữu:
Hồ Sĩ Trung, Minh Quang, Diệu Lương, Tâm
Kiên, đã tận tình giúp cho phần đánh máy, kỹ
thuật trình bày và sửa bản in.
- Chư Tôn Đức Tăng Ni, quý liên hữu của hai đạo
tràng: Quang Minh và Phước Huệ cùng chư Phật
tử xa gần đã phát tâm ủng hộ hỷ cúng tịnh tài ấn
tống.
Xin tất cả nhận nơi đây lòng tri ân chân thành của soạn giả.
Nguyện đem công đức pháp thí nầy hồi hướng cho quý ân nhân cùng pháp giới chúng sanh đều trọn thành Phật đạo.
Thích Phước Thái.



Kinh Pháp Cú
Song Ngữ Chú Giải


Lời đầu sách


Kinh Pháp Cú là những câu nói ngắn gọn do Đức Phật nói ra tùy theo từng trường hợp. Những lời dạy nầy nhằm mục đích thức nhắc đương cơ lưu tâm để áp dụng tu hành cho có kết quả tốt đẹp. Những lời dạy nầy về sau đã được chư Tổ kết tập lại thành Kinh gọi là Kinh Pháp Cú. Mỗi lời dạy đều có ghi rõ lý do xuất xứ.

Toàn Kinh gồm có 26 phẩm và có tất cả là 423 câu. Kinh nầy nằm trong Tiểu bộ (Khuddaka - Nikaya) của tạng Kinh Pali và đã được dịch ra nhiều thứ tiếng ở Á Châu và Âu Mỹ. Đại Đức Narada đã dịch ra bản chữ Anh, xuất bản tại Tích Lan. Một bản chữ Anh khác của giáo sư C.R Lanman, do Đại học đường Haward tại Mỹ quốc xuất bản; bản chữ Nhật của Phước đảo Trực Tứ Lang xuất bản tại Nhật và các bản Hán dịch rất cổ với danh đề là Pháp Cú Kinh, Pháp tập yếu tụng v..v

Kinh nầy rất được phổ cập tại các nước Phật giáo Nguyên Thủy như Tích Lan, Miến Điện v..v.. Có thể nói Kinh nầy như là một quyển Kinh nhật tụng của giới Tăng già và cư sĩ ở các quốc gia đó. Họ coi như là một quyển kinh gối đầu giường. Đại đa số đều nhớ nằm lòng. Họ thường xuyên đem ra áp dụng vào đời sống thực tế hằng ngày. Kết quả rất có lợi ích.

Riêng những bản chữ Việt, chúng tôi thấy có một vài bản dịch ra Việt văn như sau:
1. Bản dịch của Hòa Thượng Thích Thiện Siêu do nhà xuất bản Phú Lâu Na ấn bản tại Hoa Kỳ Phật lịch 2546 - 2002.
2. Kinh Lời Vàng Dhammapada do Hòa Thượng Thích Minh Châu dịch từ nguyên bản Pali theo thể văn kệ.
3. Bản dịch của các Ni sinh thuộc thiền viện Viên Chiếu dịch theo bản chữ Anh của học giả Eugène Valson Buxlingame. Nhà học giả nầy đã căn cứ trên nguyên tác Pháp Cú sơ giải bằng tiếng Pali, do nhà xuất bản Thành phố Hồ Chí Minh ấn hành năm 1999. Đặc biệt bản dịch nầy, sau mỗi câu Kinh đều có nêu rõ điểm xuất xứ Phật dạy và có kèm theo sau đó là một mẫu chuyện, nêu rõ lý do chính yếu Phật nói ra câu Kinh đó.
4. Bản dịch của luật sư Đinh Sĩ Trang dịch đề là Lời Phật Dạy ấn hành tại Úc năm 1997.
Ngoài ra, còn những quyển nào khác nữa, thì chúng tôi chưa được biết đến.

Nay chúng tôi y cứ vào bản dịch Việt ngữ của Hòa Thượng Thích Thiện Siêu làm tài liệu chính để giảng giải cho Tăng, Ni và chúng tôi cũng có thêm phần kệ tụng do Hòa Thượng Thích Minh Châu dịch. Đồng thời, chúng tôi cũng có thêm phần đối chiếu Anh ngữ trong quyển DHAMMAPADA của dịch giả Àcharya Buddharakkhita. Tác phẩm đã ấn hành vào ngày 16 tháng 10 năm 1986. Sở dĩ chúng tôi cho thêm phần Anh ngữ nầy, với mục đích là muốn giúp cho quý Tăng, Ni sinh tại Tổ đình Phước Huệ tiện đối chiếu học hỏi. Đồng thời sau mỗi câu Kinh chúng tôi có thêm phần chú thích từ ngữ và lược giảng.

Tài liệu biên soạn nầy, nhằm mục đích hướng dẫn, giúp thêm tài liệu cho quý Tăng Ni sinh tu học trong khóa an cư kiết đông tại Tổ đình Phước Huệ 2008. Việc biên soạn nầy, dù có cố gắng đến đâu, chúng tôi cũng không tránh khỏi những thiếu sót sai lầm. Kính mong chư Tôn Đức cùng các bậc thức giả từ bi chỉ giáo, chúng tôi xin chân thành đa tạ.
Tổ Đình Phước Huệ
Ngày đầu an cư 08/06 /2009
Nhằm ngày 16/04 âm lịch năm Kỷ Sửu.
Thích Phước Thái

Kinh Pháp Cú Tập 4

XXIII. Phẩm Voi
(Nagavaggo)
320. Voi xuất trận nhẫn chịu cung tên như thế nào, ta đây thường nhẫn chịu mọi điều phỉ báng như thế ấy. Thật vậy, đời rất lắm người phá giới, (thường ghét kẻ tu hành).
As an elephant in the battlefield withstands arrows shot from bows all around, even so shall I endure abuse. There are many, indeed, who lack virtue.
Kệ tụng
Ta như voi giữa trận
Hứng chịu cung tên bắn
Nhận chịu mọi phỉ báng
Đời nhiều kẻ phá giới.
321. Luyện được voi để đem dự hội, luyện được voi để cho vua cỡi là giỏi, nhưng nếu luyện được lòng ẩn nhẫn trước sự chê bai, mới là người có tài điêu luyện hơn cả mọi người.
A tamed elephant is led into a crowd, and the king mounts a tamed elephant. Best among men is the subdued one who endures abuse.
Kệ tụng
Voi luyện đi dự hội
Voi luyện được vua cưỡi
Kẻ luyện, người tối thượng
Nhận chịu mọi phỉ báng.
322. Con la[1] thuần tánh là con vật lành tốt, con tuấn mã tín độ[2] là con vật lành tốt, con voi lớn Kiều la[3] cũng là con vật lành tốt, nhưng kẻ đã tự điều luyện được mình lại càng lành tốt hơn.
Excellent are well trained mules, thoroughbred Sindhu horses and noble tusker elephants. But better still is the man who has subdued himself.
Kệ tụng
Tốt thay con la thuần
Tốt thay loài ngựa sind
Tốt thay đại tượng Kũnj
Tự điều mới tối thượng.
Lược giảng
Ba pháp cú trên, đức Phật dạy và thuật kể lại câu chuyện cho đại chúng nghe, khi Ngài đang ngự tại tinh xá Kỳ Viên.
Theo truyện tích ghi lại, cô Magandiya (câu chuyện xảy ra và đã được đề cập đến ở Pháp Cú 179, tập 2 trang 200) sau khi bị Phật từ chối, nàng ta vô cùng thất vọng và bị xúc phạm làm tổn thương lòng tự ái của cô ta rất nặng. Bấy giờ, nàng ta ôm ấp nuôi dưỡng mối hận thù thầm kín rất thâm trọng. Về sau, khi trở thành một vị hoàng hậu, nàng nhứt quyết phải trả cho được mối hận thù nầy. Nàng dùng thủ đoạn độc ác là bỏ tiền ra thuê mướn một số người nghèo khổ thất học, có tánh ngang ngược côn đồ để mắng chửi hạ nhục Đức Phật.
Nàng bảo, khi Sa môn Cồ Đàm đến nơi nầy khất thực, thì các ngươi hãy cùng nhau tụ tập bu chung quanh ông ta, rồi dùng những lời lẽ tục tằn, xấu ác thô bạo nhứt mà mắng chửi thóa mạ ông ta cho thật thậm tệ. Đồng thời, các ngươi hãy nên xua đuổi ông ta phải đi nơi khác.
Bấy giờ, Đức Phật và Tôn giả A nan trên đường giáo hóa khất thực đến nơi nầy, dân chúng trong thành gồm những người không tin Tam bảo và những tay côn đồ đã được thuê mướn liền theo sau mắng chửi mạt sát Đức Phật và ngài A nan rất nặng nề. Nghe bọn họ mắng chửi mạ nhục, Đức Phật vẫn điềm nhiên. Trong khi đó, ngài A Nan không thể chịu nổi, nên bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn, dân cư nơi nầy chửi mắng chúng ta, xin hãy đi nơi khác.
- Phật hỏi: chúng ta đi đâu, A Nan?
- Đi đến thành phố khác, bạch Thế Tôn.
- Nếu như dân ở thành phố đó, họ cũng mắng chửi chúng ta thì sao?
- Thì chúng ta đi đến thành phố khác, bạch Thế Tôn.
- Nếu như đến nơi đó cũng bị mắng chửi?
- Đi đến chỗ khác nữa, bạch Thế Tôn.
- Nầy A Nan! Chúng ta không nên làm như thế. Bất cứ nơi nào có rắc rối, phiền não nổi lên, chúng ta nên ở lại đó cho đến khi chúng lắng dịu hẳn, và chỉ khi đó chúng ta mới nên đi nơi khác. Nhưng ai đã chửi mắng chúng ta?
- Bạch Thế Tôn, những kẻ hạ tiện, nô tỳ, tất cả đều chửi mắng.
- Nầy A Nan! Ta như con voi đã ra trận. Và như con voi giữa trận hứng chịu tên bay từ bốn phía, bổn phận ta phải nhẫn nại nghe những lời ác độc thốt ra.
Sau khi nghe Phật nói ba pháp cú trên, quần chúng ở hai bên đường, ở ngã ba, ngã tư, những kẻ ăn tiền chửi mướn đều chứng từ Sơ quả đến Tam quả. (Hết phần lược dẫn cốt chuyện).
Người tu hành muốn thành tựu được đạo quả, tất phải có sức nhẫn nại chịu đựng dẻo dai trước mọi nghịch cảnh xảy đến. Phật dùng hình ảnh con voi khi lâm trận, phải hứng chịu nhiều lằn tên mũi đạn, từ tứ phía bắn tới, để thí dụ cho sức nhẫn nhục của người tu, mà Đức Phật là một minh chứng cụ thể điển hình. Dù voi đã bị không biết bao nhiêu mũi tên độc hại bắn vào, nhưng voi vẫn không hề tỏ ra một chút nao núng sợ hãi. Vì voi có đủ năng lực chịu đựng. Cũng thế, Đức Phật đã bị những kẻ ác tâm dùng mọi mưu chước thủ đoạn hãm hại, nhưng Đức Phật vẫn an nhiên nhẫn nhịn. Được thế do đâu? Do vì Đức Phật đã không còn những độc tố vô minh phiền não. Nhờ lòng từ bi, nên Ngài càng cảm thấy thương họ nhiều hơn.
Trên bước đường tu hành, dù xuất gia hay tại gia, tất nhiên, chúng ta sẽ không làm sao tránh khỏi những chướng duyên thử thách. Có thử thách, khảo đảo, mới biết được sức nhẫn nhục của sự tu hành. Cũng như muốn biết vàng thiệt hay giả, cần phải có thử lửa. Những ngọn lửa “bát phong” luôn luôn thổi tới. Nếu chúng ta không biết cách dập tắt, chuyển hóa, thì ắt không thể nào tránh khỏi họa lửa cháy và tất nhiên, sẽ phải chuốc họa vào thân. Tu hành, tự bản chất của nó đã nói lên một sự tuyên chiến dũng mãnh trước ma lực. Một là thắng, hai là thua. Thắng là vượt qua tất cả. Thua là đầu hàng khổ nhục. Thắng thì lòng vẫn an nhiên nhẹ nhàng tươi mát. Muốn thế, thì chúng ta cần phải vận dụng công phu nỗ lực huân tu cho đạo lực của chúng ta ngày càng thêm già dặn, thâm hậu. Có thế, thì chúng ta mới có thể khắc phục chiến thắng vượt qua những ma chướng khảo nghiệm. Ngược lại, nếu sức huân tu của chúng ta còn quá thô thiển yếu kém, thì chúng ta sẽ không thể nào khắc phục vượt qua những thử thách khó khăn đó được.
Chúng ta đừng quên rằng, hiện chúng ta đang sống trong thời pháp nhược ma cường. Đã thế, thì thử hỏi chúng ta làm sao có thể tránh khỏi những ma chướng nhiễu hại. Nội ma và ngoại ma chúng luôn luôn đe dọa khuấy nhiễu người tu hành. Ngoại ma, tuy là một chướng duyên rất lớn, nhưng nếu ta đã hàng phục được nội ma phiền não rồi, thì ngoại ma cũng không làm sao phá hại chúng ta được. Do đó, người tu không dẹp trừ được phiền não ma, thì không thể nào có được nhẫn lực thâm hậu. Đức Phật sở dĩ bị người ta mắng chửi thóa mạ hạ nhục như thế, mà Ngài vẫn an nhiên, không chút lộ vẻ bất bình khó chịu, là vì do Ngài đã diệt hết vô minh phiền não. Như con voi nhờ có sức mạnh vô song nên khi ra trận chiến đấu, vẫn xông pha hiên ngang mãnh liệt dũng tiến giữa rừng gươm giáo mà không một chút lộ vẻ sợ hãi thối lui. Người tu hành phải trang bị cho mình có một nhẫn lực hùng dũng như voi khi lâm trận vậy.
Người mắng chửi ta, mà ta không chút hờn giận họ, đó là ta đã vượt qua một cái ải ma chướng. Chẳng những ta không chút buồn giận họ, mà ta còn tỏ ra cám ơn họ. Vì nhờ họ mà ta mới biết được sức nhẫn nại chịu đựng của ta. Chính họ là người giúp cho ta chóng đạt thành đạo quả. Nếu như họ mắng chửi mạ nhục ta, mà ta cũng phùng mang trợn mắt mắng chửi lại họ, thì ta và họ có khác gì nhau đâu. Có đôi khi ta còn thua sút hơn họ rất nhiều, vì họ là người không biết tu, mà ta là người đang tu. Nếu ta cũng quyết ăn thua đủ với họ, thì quả thật ta đâu phải là người tu. Ta và họ cũng đồng khổ như nhau. Muốn đánh giá được người có thật tu hay không, chính là lúc ta bị người mắng chửi sỉ nhục thậm tệ, mà ta không một chút lộ vẻ bất bình tức giận họ. Đó là ta đã tiến rất xa trên đường tu giác ngộ giải thoát rồi.
Nhẫn là một sức mạnh mà từ cổ chí kim, không một bậc Hiền Thánh nào không trải qua. Đức điềm đạm, đó là cái dũng của thánh nhơn. Người quân tử khác hơn kẻ tiểu nhơn là ở chỗ điềm đạm. Người quân tử lúc nào cũng tỏ ra bình tĩnh sáng suốt. Dù gặp nghịch cảnh nguy nan, thiệt hại đến tánh mạng, nhưng các ngài cũng vẫn thản nhiên như hư không. Các ngài không còn là đối tượng tranh chấp. Từ đó, kẻ manh tâm ác ý muốn hãm hại các ngài, tất nhiên là không còn hiệu quả nữa. Vì một cú đấm mạnh vào hư không, chỉ là một cú đấm vô ích và đôi khi trở thành phản tác dụng có hại cho kẻ đấm. Sự tranh chấp hơn thua, bao giờ cũng phải có năng sở đối nghịch. Nhưng nếu chỉ có năng mà không có sở, nói một cách khác chỉ có chủ thể mà không có khách thể (đối tượng), thì chủ thể kia sẽ trở thành vô hiệu quả, vì không còn có sự tranh chấp hơn thua.
Người chân tu hơn người đời là ở chỗ đó. Vì người chân tu là người không còn chấp nặng dính kẹt vào ngã tướng. Ngã không có thì làm gì có nhơn tướng. Nhơn tướng đã không, thì chúng sanh và thọ giả tướng cũng không. Đến đây, thì những danh từ đối đãi nhị nguyên: tranh chấp, phải quấy, hơn thua v.v… tất cả đều không còn tác dụng nữa. Đó là hình ảnh của một con người siêu thoát hùng tráng hiên ngang hành hóa giữa lòng cuộc đời. Họ là hạng người cư trần bất nhiễm trần, hay hoa sen nở trong lò lửa. Dù lửa có cháy đến đâu, thì hoa sen vẫn an nhiên tươi mát. Đến đây, mới thực sự tột cùng của sức nhẫn nhục, tức hành giả đã đạt được vô sanh pháp nhẫn rồi vậy.
Pháp Cú 320, Phật nói kẻ phá giới bao giờ cũng tìm cách chỉ trích bươi móc nói xấu người giữ giới. Người giữ giới là người luôn sống trong đạo đức. Kẻ có đạo đức bao giờ cũng là đối tượng thù ghét của những con người vô đạo đức hãm hại. Điều nầy, ta thấy rất rõ trong trường đời cũng như trường đạo. Người tu hành muốn vượt thắng đạt đến sự an lạc giải thoát, tất nhiên, phải thật hành hạnh nhẫn nhục. Thiếu nhẫn nhục, thì không thể nào thành công được.
Pháp Cú 321, Phật so sánh cho chúng ta thấy giữa sự điều luyện voi và ngựa giỏi của người huấn luyện, nhưng không bằng sự điều luyện an nhẫn của người đã bị người ta chê bai kích bác nặng nhẹ nói xấu đủ điều. Đó là một sức mạnh vượt trội hơn mọi người. Về sự nhẫn nại (khanti) trong Kinh có nêu ra ba trường hợp:
1. Nhẫn nại đối với cái khổ, là nguyên nhân do sanh tham.
2. Nhẫn nại đối với cái khổ, là nguyên nhân do sanh sân.
3. Nhẫn nại đối với cái khổ, là nguyên nhân do sanh si.
Nhẫn nại trong điều thứ nhứt, Phật khuyên chúng ta phải nhẫn nhịn những điều do lòng dục vọng ham muốn thèm khát kích thích sai sử. Lắm người vì không ngăn chế được lòng tham muốn sai khiến, nên đã gây ra bao điều xấu xa tệ hại: trộm cắp, cướp giựt, giết người, hãm hiếp dâm ô đồi bại v.v… cuối cùng, họ phải lãnh lấy quả báo khổ đau nặng nề.
Nhẫn nại trong điều thứ hai, Phật khuyên chúng ta phải nhẫn nhịn những gì bất như ý, khi chúng ta bị kẻ khác gây xúc phạm làm tổn thương đến danh dự lòng tự ái của ta. Thường tình ở đời, ai cũng thích khen hơn là bị chê. Có lắm người, vì không nhịn nổi những lời chỉ trích nói xấu trước mặt hoặc sau lưng, nên họ đã gây ra bao thảm họa cho mình và người phải chịu đựng khổ đau. Đó là vì họ không ngăn chặn được cơn giận tức, nên mới gây ra cớ sự như thế. Có khi họ phải chịu tù tội suốt cả cuộc đời.
Nhẫn nại trong điều thứ ba, Phật khuyên chúng ta nên ý thức kiểm soát kỹ lưỡng trong tâm tưởng của mình. Đừng vì một phút si mê tăm tối mà chúng ta không kềm chế được rồi tạo ra lắm điều khổ lụy cho mình. Từ si mê dẫn đến lòng tham, tham không được thì nổi sân, đó là ba nguyên nhân gây ra cho ta và người biết bao khổ hận. Vì một phút si mê mà ta xuôi tay nghe theo lời xúi giục của con quỷ dục vọng, rồi tạo nên lắm điều khổ hại cho mình và người. Cuối cùng, đời ta phải chịu nhiều đau khổ, cũng chỉ vì thiếu ánh sáng trí huệ soi xét nên mới tạo ra nghiệp quả như thế.
Pháp Cú 322, Phật nêu ra ba con vật: voi, ngựa, lừa đã được người chủ điều luyện tốt, nghĩa là người chủ bắt nó phải hành động theo ý muốn của họ. Quả là những con vật đã được huấn luyện thành những con vật thuần ngoan. Dù vậy, nhưng so với con người khi người đó đã tự điều luyện mình có những đức tánh như nhẫn nhục cao thượng, diệt trừ dục vọng, giới đức nghiêm minh, thì Phật nói làm sao có thể đem những con thú kia có thể so sánh với con người cho được. Dù rằng tánh hung hăng của chúng đã được khiển trừ, nhưng Phật nói chúng vẫn còn thua xa con người. Nhưng phải là con người có thực chất mang tính hiền hòa thuần thiện. Đó là hạng người đã được trau dồi giới đức, có đức nhẫn nại cao mới có thể điều phục chế ngự được cái tâm xấu ác của mình.
323. Chẳng phải nhờ xe hay ngựa mà đến được cảnh giới Niết bàn, chỉ có người đã điêu luyện lấy mình mới đến được Niết bàn thôi.
Not by these mounts, however, would one go to the Untrodden Land (Nibbana), as one who is self-tamed goes by his own tamed and well- controlled mind.
Kệ tụng
Chẳng phải nhờ xe nầy
Đưa người đến Niết bàn
Chỉ có người tự điều
Đến đích, nhờ điều phục.
Lược giảng
Pháp cú nầy, Phật dạy tại tinh xá Kỳ Viên, có liên quan đến một thầy Tỳ kheo từng là quản tượng.
Truyện tích kể lại: “Một ngày nọ, một vị Tỳ kheo trước kia từng là quản tượng, đứng bên bờ sông Aciravati thấy một người quản tượng đang cố gắng huấn luyện một con voi. Thấy người ấy không đạt kết quả, thầy muốn mách nước, bèn nói với các thầy Tỳ kheo đứng gần:
- Nếu đánh con voi ở chỗ nầy, chỗ nầy… nó sẽ nghe lời ngay thôi.
Người quản tượng nghe được, làm theo lời, và chẳng bao lâu con voi tuân theo ý ông.
Các vị Tỳ kheo bạch Phật câu chuyện. Phật cho gọi thầy Tỳ kheo ấy lên hỏi:
- Có phải thật ông nói như thế?
- Bạch Thế Tôn, vâng!
Phật quở:
- Ngươi vô tích sự, ngươi thi thố tài nghệ với người luyện voi, luyện thú để làm gì? Không phải leo lên lưng những con thú đó là có thể đi đến nơi muốn đến mà chưa đến được. Chỉ có trong tự huấn luyện bản thân mới có thể đến được nơi khó đến. Từ đây ngươi hãy tự điều phục chính mình, đừng làm trò huấn luyện thú như thế nữa”. (Trích nguyên văn Tích Truyện Pháp Cú Tập III, Viên Chiếu, tr 191).
Qua câu chuyện trích dẫn trên, Phật nhằm dạy cho chúng ta một bài học về việc tự điều phục khắc kỷ ở nơi mình, chớ không phải chế phục ở nơi ngoại cảnh. Người thực sự tu hành, là phải thường xuyên quán chiếu lại mình. Có quán chiếu nhìn kỹ lại mình, thì chúng ta mới thấy được những lỗi lầm của ta.
Trong các hệ thống kinh điển, từ kinh điển thuộc hệ giáo lý Nguyên Thủy (Tiểu thừa) đến kinh điển thuộc hệ giáo lý Phát Triển (Đại thừa), Kinh điển nào Phật cũng đều dạy rõ: người tu muốn được giải thoát thì phải thu nhiếp ở nơi sáu căn. Chính sáu căn là nguyên động lực gây ra nhiều tội lỗi. Người tu mà buông lung ở nơi sáu căn, thì chẳng khác nào tự mình rước giặc vào nhà. Cho nên, trong kinh thường gọi đó là lục tặc. Kinh Lăng Nghiêm Phật dạy cho Ngài A Nan :“Luân hồi hay giải thoát cũng từ nơi sáu căn của ông mà ra”. Nếu hành giả khéo thu nhiếp sáu căn, thì sáu trần không thể nào khuấy phá được. Trong Tín Tâm Minh, Tổ Tăng Xán cũng có nói:
Dục thú Nhứt thừa
Bất ố lục trần
Lục trần bất ố
Hoàn đồng chánh giác.
Tạm dịch:
Muốn đến Nhứt thừa
Đừng ghét lục trần
Lục trần chẳng ghét
Hoàn đồng Chánh giác.
Người tu muốn đạt đến quả vị Nhứt thừa hay còn gọi là Phật thừa, thì không nên oán ghét lục trần. Vì sao? Vì lục trần có lỗi gì đâu mà chúng ta phải ghét chúng. Nếu đối với sáu trần (sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp) mà tâm ta không dính mắc, đắm nhiễm, thì sáu trần kia sẽ trở thành là sáu cảnh. Và sáu căn ta sẽ trở thành là sáu thần thông. Nghĩa là sáu căn không có gì bị nhiễm trước ngăn ngại. Dụ như chúng ta mang máy quay phim hay máy chụp hình, mà ta không quay chụp, thì làm gì có hình ảnh trong phim. Mà không có hình ảnh trong phim, tất nhiên là chúng ta không có gì để rửa. Chư Phật, chư Tổ, các Ngài cũng mang máy quay phim hay máy nhíếp ảnh giống như chúng ta (nghĩa là các Ngài cũng có đầy đủ sáu căn như chúng ta), mà các Ngài không bao giờ quay chụp. Như thế, nên các Ngài luôn sống trong an lạc giải thoát. Ngược lại, hằng ngày sáu căn của chúng ta khi đối cảnh xúc duyên, dù duyên tốt hay duyên xấu, chúng ta cũng đều thu nhiếp hết, như vậy bảo sao chúng ta không khổ cho được? Thế thì, có phải tự chúng ta trói buộc lấy chúng ta không?
Xưa kia, Ngài Phú Lâu Na muốn tu nhanh chóng để đạt thành thánh quả, Ngài liền đến bạch Phật nhờ Phật chỉ dạy một pháp môn tối thiết yếu, thật ngắn gọn, dễ nhớ và dễ thật hành. Phật dạy: “Ông chỉ cần thu nhiếp sáu căn, đừng cho sáu căn (mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý) của Ông dính mắc đắm nhiễm vào sáu trần, thì ngang đó tức Ông sẽ được giải thoát”. Ngài Phú Lâu Na nghe theo lời Phật dạy, Ngài đi sâu vào trong rừng để quán chiếu hành thiền. Quả thật, không bao lâu Ngài đã đạt thành sở nguyện, tức chứng quả A la hán.
Trong Kinh Lăng Nghiêm ở đoạn Phật bảo hai mươi lăm vị Thánh trình bày lại chỗ sở tu, sở chứng của mình. Trong số những vị Thánh đó, có Ngài Đại Thế Chí. Ngài trình bày về pháp tu của Ngài không có chi lạ, chỉ là chuyên niệm Phật để thu nhiếp sáu căn mà thôi. Nhờ Ngài khéo thu nhiếp sáu căn mà tịnh niệm được nối luôn, nên Ngài được chánh định (tam ma địa) hiện tiền.
Người tu thời nay, thường mắc phải cái chứng bệnh hay đổ thừa cho ngoại cảnh mà không tự xét lại mình. Tu không được, liền đổ lỗi tại, bị, cho cái nầy, cái kia. Tại, bị ngũ dục lục trần khuấy nhiễu làm tôi tu không được. Tôi muốn tu, nhưng tại vì hoàn cảnh khó khăn gia đình, nên chưa tu được. Còn biết bao nhiêu cái đổ thừa cho hoàn cảnh khác. Đó là cái bệnh nặng mà hiện chúng ta đều mắc phải. Nếu chúng ta tu mà hay đổ thừa như thế, thì quả thật chúng ta chưa hiểu rõ nghĩa của chữ tu. Nghĩa của chữ tu là sửa đổi. Sửa quấy thành phải, sửa dở thành hay, sửa tà thành chánh, sửa xấu thành tốt v.v… Hiểu nghĩa của chữ tu như thế, thì thử hỏi có cảnh nào mà chúng ta không tu được? Chỉ cần chúng ta chịu khó hãy nhìn kỹ lại mình. Có nhìn kỹ quán chiếu lại mình, thì mình mới sửa đổi chuyển hóa những phiền não lỗi lầm sai trái. Cứ lo dọn quét nhà mình cho sạch sẻ đi, đừng bao giờ để ý lo quét dọn nhà của thiên hạ. Nhưng khổ nỗi, cái bệnh của chúng ta thời nay, thì thích cầm chổi quét nhà thiên hạ hơn là quét nhà mình, dù vẫn biết nhà mình đầy ngập rác rến. Ít có ai thấy lỗi mình nhiều hơn thấy lỗi người. Nếu chúng ta chịu khó thường xuyên nhìn lại lỗi mình để lo sửa đổi chuyển hóa, thì chắc chắn đời tu của chúng ta sẽ tiến bộ rất xa trên đường giác ngộ giải thoát.
Nếu tu khá hơn nữa, thì Phật Tổ thường dạy, khi đối cảnh xúc duyên, chúng ta nên vô tâm đối với vạn vật. Sơ Tổ Trúc Lâm có nói: “Đối cảnh vô tâm mạc vấn thiền”. Nghĩa là, khi đối cảnh xúc duyên, mà tâm ta không chạy theo ngoại cảnh để phân biệt tốt xấu, hay dở… Không phân biệt, thì niệm thương ghét không phát sanh. Ngay đó là giải thoát, là Niết bàn an lạc. Được vậy, thì còn hỏi thiền chi nữa. Vì thiền là tỉnh giác, là an lạc giải thoát, như vậy, càng hỏi, thì chỉ càng chuốc thêm lỗi lầm mà thôi. Như thế, thì ngay nơi Ta bà nầy là Cực lạc rồi. Trong cảnh ràng buộc mà được giải thoát, trong sanh tử mà đạt được Niết bàn.
Ngày xưa, khi vua Trần Thái Tông còn ngồi trên ngôi vua cai trị, hằng ngày có biết bao nhiêu công việc triều chánh để giải quyết. Thế mà, Ngài vẫn tu được và vẫn đạt ngộ lý thiền, giải thoát. Người tu không phải chạy trốn sáu trần, mà làm sao trốn thoát được. Không trốn thì phải đối diện. Đối diện nhưng không bị dính mắc, đó là giải thoát. Ngược lại, đối với sáu trần mà tâm ta còn dính mắc nhiễm trước, chính cái dính mắc nhiễm trước đó mới gọi là trần. Còn đối với những ai khi đối với sáu trần mà không có nhiễm trước, thì phải gọi nó là sáu cảnh, chớ không thể gọi là trần được. Cũng thí như cây cần sa có hại là đối với những người bị bệnh ghiền. Ngược lại, đối với những người không ghiền, thì nó lại là vị thuốc hay để chữa bệnh. Cùng một cảnh, đối với người mê thì khổ, nhưng đối với người tỉnh ngộ, thì lại an vui, đó là Niết bàn. Như vậy, tìm Niết bàn không phải ở ngoại cảnh, mà chính ở nơi tâm ta.
Bởi thế, pháp cú trên Phật nói rất rõ: “Không phải nhờ xe hay ngựa mà đến được cảnh giới Niết bàn, chỉ có người khéo điều luyện lấy mình mới đến được Niết bàn mà thôi”.
Về Đầu Trang Go down
https://triamquan.forumvi.com/
Tri Âm Quán
Thành Viên Tích Cực
Thành Viên Tích Cực
Tri Âm Quán


Tổng số bài gửi : 6340
Reputation : 2
Join date : 31/07/2013
Đến từ : Thị Trấn Chũ

Kinh Pháp Cú chú giải (tập 1) - Page 2 Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Kinh Pháp Cú chú giải (tập 1)   Kinh Pháp Cú chú giải (tập 1) - Page 2 EmptySun Nov 16, 2014 12:10 pm

324. Con voi tên Tài hộ (Dhamapala: hộ vệ tài sản) nhưng đến kỳ phát dục[4] thì hung hăng khó trị, khó buộc trói, lại ăn nhiều và tâm thường nhớ mẹ ở rừng sâu[5].
Musty during rut, the tusker named Dhanapalaka is uncontrollable. Held in captivity, the tusker does not touch a morsel, but only longingly calls to mind the elephant forest.
Kệ tụng
Con voi tên Tài Hộ
Phát dục, khó điều chế
Trói buộc, không ăn uống
Nhớ rừng sâu, voi mẹ.
Lược giảng
Pháp cú trên Phật dạy khi Ngài ở Xá Vệ, Ngài nói với một Bà la môn già bị các người con hất hủi.
Theo truyện tích, một Bà la môn già có bốn người con trai, khi bốn người con trai lớn lên ông lần lượt cưới vợ cho chúng. Đồng thời, ông phân chia tiền bạc cho mỗi đứa con đồng đều. Ông có gia tài được tám trăm ngàn đồng tiền vàng. Ông phân phát cho mỗi đứa con một trăm ngàn đồng. Sau khi vợ ông chết, các người con sợ ông có người khác mà không được hưởng trọn số tiền còn lại, nên họ bàn tán với nhau, bằng cách là cùng nhau săn sóc người cha để hưởng trọn gia tài.
Thế là, cả bốn người hợp nhau lo cho ông rất chu đáo, từ cái ăn, cái mặc v.v… mọi việc không thiếu thốn thứ gì. Cuối cùng, bọn chúng yêu cầu ông cho chúng luôn số tiền còn lại. Ông chiều theo và cho luôn, tức mỗi đứa có thêm một trăm ngàn đồng nữa. Bấy giờ ông đã trắng tay. Từ đó, mấy người con dâu đối xử với ông rất là tệ bạc. Ông đến nhà đứa con nào cũng bị chúng nó hất hủi đuổi ông ra khỏi cửa. Trước tình cảnh ngược đãi đó, buồn quá, ông phải đi lang thang rày đây mai đó để xin ăn.
Ngày kia, ông trực nhớ đến Đức Phật. Ông liền đi đến gặp Phật. Sau khi trình bày về nỗi khổ đau của ông bị các đứa dâu con hất hủi, ông liền được Đức Phật an ủi và Phật nói cho ông nghe bài kệ:
Chúng là những đứa con khi sanh ra tôi vui mừng, mong mỏi.
Vậy mà chúng nghe lời vợ xúi giục, đuổi tôi như xua chó.
Chúng gọi tôi “Cha thân yêu…” thật ác độc và rỗng tuếch.
Quỷ đội lốt con trai, chúng bỏ rơi tôi khi tuổi già, như bỏ đói con ngựa già vô dụng.
Làm cha một lũ ngu, phải xin ăn lang thang từng nhà.
Một cây gậy còn tốt hơn lũ con bất hiếu.
Gậy còn đuổi được bò rừng chó dữ.
Gậy dẫn đường trong đêm tối, đỡ chân qua vũng nước bùn lầy.
(Bản dịch trong Tích Truyện Pháp Cú tập III của Viên Chiếu, tr 195)
Phật bảo ông nhớ học thuộc lòng bài kệ. Trong một buổi họp mặt đông đủ dòng Bà la môn và có những đứa con trai của ông tham dự, ông liền đọc bài kệ đó cho mọi người nghe. Các đứa con của ông nghe qua đều hốt hoảng kinh sợ, vì theo luật pháp thời bấy giờ đã ấn định: “Nếu người nào hưởng gia tài của cha mẹ mà không nuôi dưỡng cha mẹ, thì sẽ bị tội tử hình”. Nghe thế, các người con của ông khẩn cầu van xin ông tha tội chết. Với tấm lòng rộng lượng của người cha nên ông đã tha thứ cho các con. Từ đó, chúng hết lòng săn sóc hầu hạ ông như xưa và không dám đối xử tệ bạc với ông nữa. Và cũng từ đó, ông và các đứa con của ông thường hay phát tâm cúng dường thức ăn cho Đức Phật. Bọn chúng quỳ lạy và hứa trước Đức Phật, kể từ nay trở đi, chúng con phải chăm sóc lo cho cha chu đáo, không dám lơ là. Phật khen và dạy cho họ hãy noi gương con voi Tài Hộ mà đối xử tốt với người cha. Sau khi nghe Phật dạy, ông và các con dâu của ông đều chứng Sơ quả. (Hết phần lược dẫn cốt chuyện).
Sống trong cuộc đời tương đối, cái gì nó cũng có hai mặt: lợi và hại. Tiền bạc của cải … cũng thế. Đứng về mặt lợi của tiền bạc, thì sống trên đời nầy, hầu hết nhơn loại ai cũng phải cần đến nó. Vì nó là huyết mạch luân lưu của sự sống. Đời sống vật chất không có thứ gì mà không cần đến tiền. Người ta chế tạo ra đồng tiền là để giao dịch mua bán đổi chác cho tiện lợi trên thương trường. Người ta thường nói, có tiền là có tất cả. Nói một cách khẳng quyết mạnh mẽ hơn: “chỉ cần có tiền là người ta mua tiên cũng được”. Nói thế, để thấy sức mạnh vạn năng của đồng tiền. Dù nó chỉ là một tờ giấy mỏng vánh, nhưng nó lại có một sức mạnh vạn năng phi thường. Nó chi phối tất cả mọi việc trên đời. Bởi thế ca dao Việt Nam có câu:
Đồng tiền là chúa cái khôn ngoan
Đủ mặt vuông tròn với thế gian.
Hay:
Vai mang túi bạc kè kè
Nói bậy nói bạ thiên hạ nghe rầm rầm.
Lời nói của người xưa là cả một kinh nghiệm sống. Cứ nhìn vào cuộc sống thực tế, ta thấy rất rõ điều đó. Bạn chỉ cần có nhiều tiền lắm của, thì bạn có thể giải quyết suông sẻ hết mọi vấn đề. Kể cả những vấn đề nan giải rắc rối nhứt trong cuộc đời bạn. Ngoại trừ cái chết của bạn. Có tiền, trắng người ta cũng có thể đổi thành đen. Họa cũng có thể chuyển thành phước. Kẻ có tội cũng trở thành vô tội. Ngược lại cũng thế. Người có tiền, lời nói đùa giỡn mua vui của họ, người ta cũng thấy nó có giá trị vô song. Ngược lại, kẻ rách rưới đói khát không tiền, dù có làm hay, nói giỏi người ta cũng khinh khi chê dở. Như vậy, đứng về mặt lợi của đồng tiền, thì nó ứng phó đủ muôn mặt, diễn ra thiên hình vạn trạng, nói không thể hết.
Ngược lại, đứng về mặt hại của nó, thì họa hại của nó cũng không lường. Nó có thể gây ra cho người ta điên đầu mất ăn mất ngủ. Chính vì nó có một sức mạnh vạn năng tiện lợi lớn lao như thế, nên ai cũng muốn chiếm hữu tranh giành. Do lòng tham lam của con người quá độ, nên ai cũng muốn chiếm đoạt tiền bạc tài sản cho nhiều về mình. Đó là mối họa hại rất lớn. Họ tranh giành chiếm đoạt bất chấp mọi thủ đoạn gian ác. Thậm chí ngay trong tình thân nhân ruột thịt máu mủ trong gia đình, người ta cũng có thể ra tay tàn sát lẫn nhau một cách không biết gớm tay. Chính cái lòng dục vọng si mê quá độ đó, nó che khuất làm mờ ám lương tâm, lương tri của con người. Quả đúng như một thi nhân nào đó đã nói:
“Tiền với bạc là nhân nạn khổ
Tiền xô người vào chỗ u minh
Tiền tài thay đổi tánh tình
Tiền gây nên cảnh đệ huynh tương tàn”.
Xét cho cùng, thì đồng tiền tự nó cũng không lợi mà cũng không hại. Lợi hay hại là do người ta sử dụng. Người ta làm ra tiền, nhưng phải khéo biết sử dụng nó. Xem nó như là một phương tiện giao dịch trong cuộc sống tạm bợ. Chúng ta quyết không làm nô lệ cho nó sai khiến. Đừng để nó sai khiến chúng ta làm những điều tội lỗi sai trái bất chánh. Có nhiều người họ khéo biết lợi dụng đồng tiền để làm những điều phước đức. Họ làm nhiều việc từ thiện bố thí thi ân giúp cho những người bất hạnh như: tàn tật, đau ốm, nghèo khổ v.v... Họ là người xem trọng đạo đức thương người nặng hơn đồng tiền. Đó là những con người thật đáng cho chúng ta noi gương và kính phục.
Qua câu chuyện lược dẫn trên, đủ chứng minh cho ta thấy rõ điều đó. Các người con chỉ vì lòng tham lam, muốn lấy hết tiền bạc của người cha, nên họ đã dùng mưu chước thủ đoạn độc ác. Bề ngoài tưởng là họ có hiếu lắm, nhưng kỳ thật trong lòng thì họ muốn lấy hết tài sản của người cha. Đến các người con dâu cũng thế. Họ cùng toa rập đồng lỏa với nhau. Mục đích của họ là phải vơ vét cho sạch túi ông già.
Sau khi vét sạch túi rồi, họ trở mặt hất hủi bỏ bê người cha. Họ đối xử tệ bạc với người cha còn thua người dưng nước lã. Thế là, ông già chỉ còn có nước phải ôm hận nuốt tủi gạt lệ khóc thầm mà bỏ nhà ra đi. Ông đi lang thang rày đây mai đó để xin ăn. Tất nhiên là ông phải ngủ nơi đầu đường xó chợ, lấy đất làm chiếu, lấy sương làm mền. Ngẫm kỹ lại, con ruột của mình mang nặng đẻ đau nuôi dưỡng không biết bao công lao mồ hôi khó nhọc, mà nó còn đối xử tệ bạc với mình như thế, trách gì là dâu rể. Nói thế, chúng ta cũng không nên quơ đũa cả nắm. Xét ra, ở đời, cũng có người vầy người khác.Vì tập khí nghiệp tánh sâu cạn của mỗi người có sai biệt. Có những người dâu, rể họ rất kính nể biết điều. Họ đối xử rất tốt với cha mẹ vợ hoặc chồng, có đôi khi còn hơn con ruột của mình nữa. Họ là người biết tôn trọng lễ giáo. Họ luôn tỏ ra lòng kính trọng biết ân đối với các đấng sanh thành giáo dưỡng. Tuy nhiên, hạng người nầy, phải thành thật mà nói rất là hiếm có trên đời. Nếu không muốn nói là lác đác thưa thớt như lá mùa thu. Chính vì cái hiếm có đó, nên các bậc làm cha mẹ mới yêu thương quý mến họ rất mực.
Ông già tuy bị dâu con hất hủi, nhưng ông cũng còn có phước duyên đến gặp Phật. Ông đã được Đức Phật chỉ bày phương cách để thuyết phục các con. Mục đích là để cho chúng nó biết lỗi mà hồi tâm phục thiện. Cuối cùng, ông cũng đã được các người con đem về nuôi dưỡng chăm sóc tử tế đàng hoàng. Điều quan yếu hơn nữa, là ông và các người con đều phát tâm cúng dường phẩm vật cho Phật và chúng Tăng. Đồng thời nghe Phật giảng dạy khuyên bảo nên cả nhà đều được chứng Sơ quả Tu đà hoàn.
Pháp cú trên, Phật nói con voi Tài Hộ (Dhamapalako), nghĩa là bảo hộ tài sản. Con voi này tuy đến kỳ phát dục thì nó hung hăng khó trị, khó buộc trói, lại bỏ ăn mà tâm thường chỉ tưởng nhớ rừng sâu. Nhớ rừng sâu là nhớ nơi nguồn gốc trú ẩn an toàn của nó. Dù là hung hăng dữ tợn, nhưng voi vẫn nhớ đến cội nguồn. Nói lên điều nầy, Đức Phật nhằm thức nhắc con người dù có hung ác đến đâu, cũng phải nhớ đến cội nguồn. Cội nguồn đó chính là tổ tiên ông bà cha mẹ. Nói rõ ra là các đấng sanh thành dưỡng dục. Rộng hơn là quê hương đất nước nơi mà mình đã sanh ra và trưởng thành. Là con người, tất nhiên chúng ta phải có lòng tri ân và báo ân đối với các bậc tôn trưởng. Nhất là đối với bốn ân sâu nặng lớn: “Cha mẹ, thầy tổ, đàn na thí chủ và quốc gia thủy thổ”. Nếu con người quên mất cội nguồn nầy, thì Phật nói, không bằng con voi, tức thua loài thú vật vậy.
325. Như heo kia ưa ngủ lại tham ăn, kẻ phàm ngu vì tham ăn ưa ngủ, nên phải bị tiếp tục sanh mãi trong vòng luân hồi.
When a man is sluggish and gluttonous, sleeping and rolling around in bed like a fat domestic pig, that sluggard undergoes rebirth again and again.
Kệ tụng
Người ưa ngủ, tham ăn
Lăn lóc nằm qua lại
Chẳng khác heo no bụng
Tục sanh mãi luân hồi
Lược giảng:
Pháp cú nầy Phật dạy tại tinh xá Kỳ Viên, có liên quan đến vua Ba tư nặc.
Truyện tích kể lại: “Có một lúc, vua Ba tư nặc thường ăn rất nhiều cơm nấu với càri, nước sốt gia vị. Ngày kia, sau bữa điểm tâm dồi dào quá độ, cơ thể và tâm tư ngầy ngật, nhà vua đến chỗ Phật, đi tới đi lui trước mặt Ngài với vẻ thật mệt mỏi. Nhà vua chỉ muốn nằm lăn ra ngủ mà không được nên đến ngồi xuống một bên Phật. Đức phật thấy thế bèn hỏi:
- Đại vương, trước khi đến đây Ngài chưa được ngủ nghỉ chăng?
- Bạch Thế Tôn, không phải. Con luôn khó chịu sau khi ăn no.
- Nầy Đại vương! Ăn uống vô độ thường đưa đến sự mệt mỏi.
Nhân đó, Phật nói Pháp cú trên. Muốn giúp nhà vua Phật dạy thêm:
Người khôn ăn uống vừa chừng
Thân tâm nhẹ nhỏm, lâu già, sống vui.
Phật bảo hoàng tử Uttara (Uất đà):
- Con hãy học thuộc bài kệ nầy, và mỗi khi nhà vua ngự yến, con đọc lên theo cách sau và nhà vua sẽ tự ngừng.
Xong, Phật dạy cho hoàng tử cách làm. Hoàng tử tuân theo lời Phật dạy. Và sau một thời gian nhà vua ăn uống nhỏ nhẹ, giảm bớt trọng lượng và trở nên dễ chịu. Nhà vua thường xuyên đến thăm Phật, tổ chức lễ hội dâng cúng phẩm vật tối thắng trong bảy ngày. Khi Đức Thế Tôn nói lên lời hồi hướng, cả hội chúng triều đình đều được ích lợi lớn”. (Trích nguyên văn Tích Truyện Pháp Cú Tập III, Viên Chiếu, tr 198)
Ăn uống tuy là để nuôi sống giúp cho người ta có thêm sức khỏe cường tráng để hoạt động, làm công kia việc nọ. Nhưng nếu người ta không khéo biết điều chế ăn uống, thì nó cũng trở thành một họa hại rất lớn. Bởi thế nên người xưa nói: “họa tùng khẩu xuất, bệnh tùng khẩu nhập”. Câu nói nầy như là một định lý bất di bất dịch. Ở đời có lắm kẻ chết vì cái lỗ miệng và cũng có nhiều người chết vì ăn uống. Nhất là ở các xứ văn minh tân tiến, vật chất dồi dào, thực phẩm thừa thải. Là con người ai lại không thích ăn uống. Ăn uống cũng là một cách hưởng thụ khoái lạc của con người. Vì nó là một trong “tứ khoái”. Hơn nữa, nó lại là một trong năm món dục lạc: “tài, sắc, danh, thực, thùy”.
Đối với thực phẩm ngày nay, có chứa quá nhiều độc tố. Bởi do ảnh hưởng nhiều thứ hóa chất đều do con người tạo ra. Thậm chí, những thức ăn thiên nhiên, không còn tinh khiết như ngày xưa nữa. Khắp mặt đất, thậm chí dưới sông, dưới biển, nơi nào cũng có chất độc. Thử hỏi những chất độc nầy do đâu mà ra? Một câu trả lời ngắn gọn: xin thưa: “tất cả đều do loài người tạo ra”. Chính con người giết chết con người chớ không ai khác.
Người ta vì lòng tham vọng quá lớn lao, ai cũng muốn làm bá chủ hoàn cầu, nên họ thi đua với nhau tạo ra đủ loại vũ khí hạt nhân nguyên tử. Để biết sự tác hại của nó tới đâu, người ta không ngần ngại mang nó ra đem thử dưới lòng biển, hoặc trên đất liền. Như thế, thì thử hỏi làm sao nhơn loại có được một môi trường sống an lành trong sạch cho được? Ngoài ra, hằng ngày họ còn cho thải ra không biết bao nhiêu lượng khí độc làm ô nhiễm bầu khí quyển. Con người sống cũng phải nhờ vào sự hít thở không khí của trời đất ban cho mà sống. Nhưng không khí hiện nay đã bị ô nhiễm đến mức độ phải báo động trầm trọng. Các nhà bảo vệ môi sinh phải la làng kêu gọi cầu cứu. Kêu gọi mọi người hãy ý thức cùng nhau bảo vệ môi sinh. Nếu không, thì họa hại không thể lường được.
Thế thì, thử hỏi làm sao con người không sanh ra nhiều thứ chứng bệnh nan y cho được? Con người đâu phải chỉ có ăn và uống không mà có thể sinh tồn, tất nhiên, còn phải nhờ vào những thứ khác nữa, mà cái quan trọng nhứt giúp cho người ta sống được đó là nhờ hít thở không khí. Một mặt, các nhà khoa học, ngày đêm miệt mài cặm cụi nghiên cứu tìm đủ mọi phương cách để chữa trị nhiều chứng bệnh nan y cho con người. Mục đích là để cứu vãn duy trì mạng sống, vì mạng sống của con người rất quý giá. Mặt khác, người ta lại vì túi tham không đáy, muốn giàu có, quyền uy thế lực cao tột nhứt thiên hạ, nên họ bất chấp những hậu quả tai hại của chất độc, họ sống vô ý thức cứ tiếp tục gây ra, ai chết mặc ai. Nhưng họ lại quên rằng, trong đó có họ, thân bằng quyến thuộc và đồng loại của họ. Đó là một hậu quả tai hại rất lớn, chính do lòng tham dục cao độ của con người gây ra.
Ngày xưa, người ta sống ít bệnh đau, là nhờ ăn uống có điều độ và thức ăn thiên nhiên tuy đơn sơ, nhưng có nhiều sinh tố thanh khiết, như các loại ngũ cốc hoa quả v.v... Nhờ ăn uống đơn giản đạm bạc mà đời sống tinh thần của họ cũng được thoải mái. Người ta ít có lo âu, sầu muộn, tính toán, dự án, mưu mô, thủ đoạn gian xảo v.v… nhiều như thời đại khoa học điện tử máy móc hiện nay.
Ngày nay thì có khác. Người ta bị nhiều chứng bệnh nan y phần lớn là do ăn uống mà ra. Theo thống kê cho biết, mỗi năm ở Mỹ, có hơn 500.000 người chết vì bệnh ung thư. Trong số đó 1/3 những cái chết liên quan đến việc ăn uống và thiếu vận động. Nhất là đối với người trọng tuổi, thiếu vận động thể dục, thể thao, nên rất dễ gây ra bệnh hoạn. Một câu hỏi được đặt ra là: muốn ngừa bệnh ung thư phải ăn uống như thế nào? Vấn đề nầy đã có nhiều sách vở hướng dẫn của các bác sĩ. Theo bác sĩ Nguyễn văn Đức, trong bài viết: “Sống sao để tránh ung thư” đăng trong quyển Y Học và Đời Sống, xuất bản năm 2003, có đoạn ông viết: “Hiện tại, người ta chưa thực hiểu rõ vai trò của thực phẩm đối với ung thư, nhưng, các điều tra dân số cho thấy trong nhóm những người ăn nhiều rau trái, ít thịt, ít mỡ động vật, số người bị các loại ung thư thường xảy ra giảm thiểu hơn những người trong nhóm thích ăn thịt, mở động vật, ít dùng rau trái”.
Nhìn lại, thời xưa, đời sống của Đức Phật và các thánh chúng, phần nhiều các Ngài ít có bệnh đau. Lý do tại sao? Vì các Ngài khéo biết điều hòa sự ăn uống và ngủ nghỉ. Đời sống của các Ngài thật đơn giản. Các Ngài chú trọng đến đời sống tinh thần nhiều hơn. Phần lớn các Ngài chuyên tâm thiền định. Đạo lực của các Ngài rất thâm hậu. Tâm có an thì thân mới lạc. Các Ngài một ngày ăn chỉ một bữa. Và nhất là các Ngài thường xuyên đi bộ. Không phải như ngày nay, hễ chúng ta bước chân ra khỏi nhà là leo lên xe. Chúng ta không có thói quen đi bộ. Có nhiều người rất lười đi bộ. Dù biết rằng, đi bộ là cách vận động tốt nhứt cho thân thể. Nhưng vì thói quen đi xe, nên dù khoảng cách rất gần nhà cũng phải lái xe đi. Các bác sĩ thường khuyên mọi người nên năng vận động bằng cách đi bộ. Đi bộ không tốn tiền mà lại vô cùng hữu ích cho cơ thể. Nhất là đối với người trọng tuổi, bác sĩ khuyên mỗi ngày đi bộ ít nhất là hai lần: buổi sáng và buổi chiều. Đi bộ vào buổi sáng khi mặt trời lên khoảng từ 8 đến 9 giờ, thì tốt nhất.
Đến vấn đề ăn uống cũng thế. Nhiều người lười nấu nướng hay đi ăn ở nhà hàng cho tiện. Thức ăn ở nhà hàng rất béo bổ ngon miệng. Càng béo bổ ngon miệng, càng giết chết con người. Lúc ăn uống thưởng thức món ngon vật lạ, có mấy ai nghĩ đến cái hậu quả của nó. Có người còn nói, sống mà không ăn uống hưởng thụ đủ hết mọi thứ mùi vị trên đời, nữa chết thành con ma đói khát thèm thuồng. Vì nghĩ thế, nên họ tha hồ thụ hưởng, tới đâu hay đó.
Có người lại thích ăn vặt, đồ ăn vặt thì chứa cất đầy tủ. Buồn miệng thì cứ lấy ra mà ăn. Thật là quá tiện lợi. Cứ tập thói quen ăn như thế, bảo sao không mập phì cho được. Càng mập phì lên cân chừng nào, thì càng sanh ra nhiều thứ bệnh chừng nấy. Nhất là bệnh tim mạch và các thứ bệnh khác. Sống, thì muốn sống lâu, nhưng ăn thì lại không chịu kiêng cử. Ngẫm lại, đời sống con người sao mà có quá nhiều mâu thuẫn?!
Nghĩ lại, ngày nay, chúng ta ăn uống thì nhiều, một ngày ba bữa ăn, mà sự vận động thì ít. Chính vì thiếu sự vận động đi bộ, thể dục, thể thao, nên cơ thể của chúng ta không được mạnh khỏe và hay sanh ra nhiều thứ bệnh hoạn.
Câu chuyện dẫn chứng trên là một minh chứng cụ thể. Vua Ba tư nặc, Ông có thói quen ăn nhiều quá mà không vận động thể dục, thể thao, nên cơ thể của ông càng lúc càng phát phì. Vua thì ăn toàn đồ bổ dưỡng, các loại trân tu sơn hào hải vị, thử hỏi làm sao mà không phát phì cho được. Nhất là ăn vào thì lại buồn ngủ. Ngồi đâu thì muốn ngủ đó. Đây là bệnh trạng của người già. Thấy thế, Phật khuyên ông nên ăn ít lại và bảo đầu bếp phải chọn lựa nấu thức ăn thích hợp cho ông. Nhờ thế, mà nhà vua giảm cân, bớt béo phì. Những người béo phì, thì khó mà sống lâu được. Tất cả cũng đều do ăn uống mà ra. Thiết nghĩ, chúng ta nên lấy đó làm một bài học và nghe theo lời Phật dạy mà điều chế sự ăn uống để có được sức khỏe sống lâu.
Pháp cú trên, Đức Phật cảnh giác thức nhắc chúng ta, không nên tham ăn mê ngủ giống như con heo, ăn rồi lăn ra nằm. Đời sống chỉ biết có ăn và ngủ, thì thật là đời sống vô vị, thừa thải. Nếu con người sống chỉ biết có ngần ấy, thì thật là uổng phí cho kiếp làm người!
326. Trong những thời quá khứ, ta cũng từng thả tâm theo dục lạc, tham ái và nhàn du, nhưng nay ta đã điều phục được tâm ta như con voi đã bị điều phục dưới tay người quản tượng tài giỏi.
Formerly this mind wondered about as it liked, where it wished and according to its pleasure, but now I shall thoroughly master it with wisdom as a mahout controls with his ankus an elephant in rut.
Kệ tụng
Trước tâm này buông lỏng
Chạy theo ái, dục, lạc
Nay tâm Ta điều phục
Như quản tượng điều voi.
Lược giảng
Pháp cú nầy Phật dạy tại tinh xá Kỳ Viên, có liên quan đến chú tiểu Sànu.
Theo truyện tích, chú tiểu Sànu là con nhà mộ đạo. Sau khi được nhận vào Tăng đoàn, chú rất nhiệt tâm tu hành và có đạo hạnh. Chú làm tròn bổn phận đối với các bậc tôn túc. Chú có giọng tụng kinh rất hay. Các thầy Tỳ kheo khác thấy chú siêng năng cần mẫn chịu khó học tập, thường hay khuyến tấn và thích nghe giọng tụng kinh của chú. Khi các ngài yêu cầu tụng đọc, thì chú không bao giờ từ chối.
Khi trưởng thành tâm tánh của chú có đổi khác. Chú hay lười biếng và sống không có oai nghi đạo hạnh như xưa. Chú có ý muốn trở về nhà sống với cha mẹ. Bà mẹ của chú thấy chú về nhà một mình không có các thầy Tỳ kheo khác đi theo chú, mới hỏi lý do, chú bày tỏ là vì chú bất mãn, không muốn tiếp tục sống trong Tăng đoàn nữa. Nghe thế, bà mẹ hết lời khuyên bảo chú và tìm đủ mọi phương cách để thức nhắc ngăn cản chú. Bấy giờ có con quỷ Dạ xoa (bà mẹ tiền thân của chú) nhập vào xác của chú làm cho chú cả mình mẫy run lên giãy giụa bất tỉnh. Quỷ Dạ xoa không có ác ý muốn hại chú, mà chỉ là muốn thức tỉnh chú thôi. Thấy thế, bà mẹ ruột của chú ôm chú vào lòng và mọi người chạy đến cấp cứu cho chú tỉnh lại.
Sau khi đối đáp qua lại bằng những bài kệ giữa người mẹ ruột và quỷ Dạ xoa, cả hai đều ngầm ý khuyên chú nên tiếp tục tu hành. Chú không nên hoàn tục mà phải chịu nhiều đau khổ. Bằng những lời lẽ khuyên bảo thiết tha chân tình của hai người, cuối cùng, chú Sànu quyết từ bỏ ý định hoàn tục.
Sau đó, chú đã được bà mẹ dâng bình bát và đủ ba y cúng dường để cho chú thọ Tỳ kheo giới. Thế là, chú đã được Phật cho vào Tăng đoàn và Phật dạy: “Nếu một người để tư tưởng mình rong ruổi xa xôi, lâu dài, suy nghĩ đủ mọi chuyện mà không cố gắng kiểm soát, người ấy không thể đạt được giải thoát. Vì thế, phải nỗ lực kiểm soát tư tưởng, như người nài voi kiềm thúc con voi trong thời phát dục bằng móc sắt”.
Sau khi nghe Phật dạy, cả thính chúng và Sànu đều chứng được pháp nhãn. Về sau thầy Sànu trở thành một vị giảng sư tài giỏi thông suốt Tam tạng, sống 120 tuổi (Hết phần lược dẫn cốt chuyện).
Đọc qua pháp cú trên, ta thấy Đức Phật lấy kinh nghiệm bản thân của Ngài trong quá khứ mà thức nhắc chúng ta không nên buông lung tâm ý. Vì đời sống buông lung phóng túng, là đời sống của con người sa đọa trụy lạc. Nhất là buông lung ở nơi tâm ý. Như nhiều lần Đức Phật đã từng dạy và nhấn mạnh đến hành động phóng dật của ba nghiệp: thân, ngữ, ý. Đời sống của người có đạo hạnh là nhờ họ khéo biết điều phục được tâm. Vì tâm là chủ động tạo tác. Lời nói và hành động của thân, đều do tâm sai sử.
Tâm là biết, là hiện tượng suy tính. Đã là hiện tượng, tất nhiên nó là bóng mờ giả dối không thật. Nó từ bản thể khởi lên và không rời bản thể. Cũng như sóng từ nước dấy lên và sóng không bao giờ tách biệt khỏi nước. Làm sao sóng và nước có thể tách biệt ly khai thành hai phạm trù đối nghịch nhau cho được? Như vậy, điều phục tâm ý là Phật dạy chúng ta phải tu ở nơi cái gốc. Cái gốc vọng tưởng đã dừng, thì cái ngọn ở nơi lời nói và hành động cũng theo đó mà không còn tạo nghiệp. Nghiệp có ra là từ tâm vọng dấy khởi. Tức từ suy nghĩ tính toán của con người làm chủ động. Ở bình diện tương đối, thì Phật dạy người Phật tử phải nên suy nghĩ điều lành. Tâm nghĩ lành, miệng nói lành, thân làm lành, đó là con đường hành thiện để tiến dần đến Diệu Quả Bồ Đề. Tu ở nơi ba nghiệp, đó là người Phật tử tự khéo biết xây dựng đời mình trên căn bản của đạo lý giác ngộ giải thoát. Khi ba nghiệp được thanh tịnh, thì người Phật tử đã giải thoát ngay trong cuộc đời nầy rồi. Đó là con đường ngắn nhứt dẫn người Phật tử chóng đạt được Niết bàn an lạc.
Cuộc đời nầy sở dĩ dẫy đầy những nỗi thống khổ đau thương, là vì nhơn loại không biết kềm chế ở nơi ba nghiệp. Cam phận làm nô lệ cho lòng dục vọng sai khiến. Tâm muốn điều gì thì chúng ta lại chiều theo điều ấy. Dù biết rằng, điều ấy sẽ đưa đến hậu quả rất xấu xa và tai hại. Biết thế mà vẫn làm, không tỉnh thức ngăn ngừa. Người ta cứ sống thả trôi theo dòng nước tâm ý xấu xa, mà không phút giây ngăn chận. Từ đó, gây ra muôn ngàn nỗi khổ đau cho nhau. Đức Phật khuyên bảo chúng ta, khoan vội tu ở đâu xa, mà chỉ tu ở nơi ba nghiệp. Đó là phương cách tu hành gọn nhứt và đạt được hiệu quả tốt đẹp rất cao.
Hòa bình, hạnh phúc, thật sự lòng người ai cũng mong muốn, chỉ trừ những kẻ mất hết tính người. Vì tham vọng của họ quá lớn, nên họ mới chủ trương chiến tranh mà thôi. Chiến tranh là mối thảm họa lớn nhứt của nhơn loại. Là con người đúng nghĩa thực chất của nó, thiết nghĩ không ai lại không chán ghét chiến tranh. Ước vọng chung của con người là muốn sống chung hòa bình. Nhưng xét kỹ lại, quả đó chỉ là ảo tưởng. Thực tế, thì thật khó mà có được. Vì con người còn quá nhiều tham vọng, mê chấp, bản ngã, ai cũng thấy mình là trung tâm của vũ trụ. Đã thế, thì làm sao mưu cầu hạnh phúc sống chung hòa bình cho được? Cho nên câu nói: “tâm bình thế giới bình”, đó chẳng qua chỉ là một ước vọng xa vời. Dù rằng, thực nghĩa của nó là như thế. Đức Phật thức nhắc mọi người, muốn có cuộc sống tương đối an vui hạnh phúc, thì mỗi người hãy tự điều chế tu ở nơi ba nghiệp, giống như người quản tượng điều phục được con voi hung hăng. Được thế, thì đó mới thật là người quản tượng giỏi.
Qua câu chuyện lược dẫn trên, cho ta một bài học về tâm buông lung của chú Sa di Sànu. Đó là cái bệnh chung của người tu. Lúc đầu thì chú rất siêng năng tinh tấn tu hành, nhưng chỉ được một thời gian ngắn. Sau đó, thì cái tâm ban đầu tinh tấn kia càng ngày càng lui sụt. Tâm Bồ đề càng lúc càng thối thất. Người mới tu giống như giây đờn căng thẳng. Tu được một thời gian, thì giây đờn càng lúc càng chùng xuống dần. Ban đầu thì âm thanh của giây đờn khảy nghe rất trong thanh lảnh lót êm tai, nhưng được một chập, thì âm thanh kia không còn nghe được nữa. Chú Sa di Sànu lúc đầu thì tinh tấn, ai thấy cũng thầm khen ngợi, nhưng càng lớn lên, thì tâm tu hành của chú càng lười biếng chểnh mãng. Cuối cùng, thì chú thối tâm muốn bỏ cuộc. Cũng may, nhờ có bà mẹ của chú là người rất mực yêu thương chú và bà đã đánh thức chú bằng mọi cách, để cho chú tiếp tục tu hành. Rồi chú nhờ Phật chỉ điểm khuyến giáo, nên kết quả chú đã đạt thành sở nguyện. Chú đã trở thành một bậc Sa môn gương mẫu và thông suốt tam tạng ( Kinh, Luật, Luận ). Quả đó là một bài học gương mẫu cảnh tỉnh thức nhắc chúng ta.
327. Hãy vui vẻ siêng năng, gìn giữ tự tâm để tự cứu mình ra khỏi nguy nan, như voi gắng sức để vượt khỏi chốn sa lầy.
Delight in heedfulness! Guard well your thoughts! Draw yourself out of this bog of evil, even as an elephant draws himself out of the mud.
Kệ tụng
Hãy vui không phóng dật
Khéo nhiếp phục ý tâm
Kéo mình khỏi ác đạo
Như voi bị sa lầy.
Lược giảng
Pháp cú nầy Phật dạy tại tinh xá Kỳ Viên, có liên quan đến con voi tên là Pàveyyaka.
Theo tuyện tích, “Vua Ba tư nặc có một con voi tên Pàveyyaka. Khi còn nhỏ nó rất mạnh, nhưng trở về già sức lực yếu đi. Một ngày nọ, nó lội ngang các hồ lớn, bị lún chân xuống bùn không bước được. Dân chúng kháo nhau:
- Xem kìa! Con voi hồi nhỏ mạnh như thế, bây giờ yếu như thế.
Nhà vua nghe tin, lập tức ra lệnh cho người quản tượng:
- Hãy kéo con voi ra khỏi đám bùn.
Người quản tượng đi đến bờ hồ, giả cách để cho voi thấy như mình sắp ra trận, đầu đội mũ sắt, trống đánh vang lừng.
Kiêu khí của con voi trổi dậy. Nó đứng lên mau mắn, và rút chân ra khỏi sình, bước liền lên đất khô. Các vị Tỳ kheo chứng kiến sự việc, về bạch Phật, Phật dạy:
- Nầy các Tỳ kheo, con voi đã tự kéo mình ra khỏi sình lầy. Nhưng các ông bị đắm nhiễm trong bãi lầy dục vọng, hãy cố gắng với tất cả sức lực của mình để thoát ra”. (Trích nguyên văn Tích Truyện Pháp Cú Tập III, Viên Chiếu, tr 206).
Pháp cú nầy, Phật mượn hình ảnh con voi mạnh, yếu, sa lầy, rút chân ra khỏi sình lầy để so sánh với người tu hành. Voi lúc còn nhỏ thì mạnh, khi trở về già thì yếu. Điều nầy Phật muốn ám chỉ, người ta lúc mới tu, tức mới bước chân vào đạo, xem có vẻ tinh tấn lắm, như voi đang lúc mạnh khỏe, nhưng dần dần về sau thì lại lười mỏi không chịu tu học như trước, giống như con voi già yếu suy nhược.
Phật dạy, người tu hãy vui vẻ siêng năng, giữ gìn tự tâm để tự cứu mình ra khỏi nguy nan, như voi gắng sức để vượt khỏi chốn sa lầy. Lời dạy nầy, Phật nhằm cảnh giác chúng ta mỗi người phải tự nỗ lực tu hành, không nên ỷ lại vào tha nhân. Tu hành mà còn ỷ lại tin cậy vào những hiện tượng bên ngoài, thì đó chưa phải là người tu học theo đạo lý giác ngộ. Bởi vì đạo Phật là đạo giác ngộ, tỉnh thức. Từ ngữ Buddha, có nghĩa là con người tỉnh thức. Phải hằng tỉnh thức ở nơi tự tâm. Phật bảo: “giữ gìn tự tâm để cứu mình ra khỏi nguy nan”. Muốn ra khỏi nguy nan, nghĩa là những nỗi khổ đau trong đường dài sanh tử, thì chỉ có chính mình tự cứu lấy mình mà thôi.
Những lời Phật dạy, chỉ có tác dụng giống như ngón tay chỉ mặt trăng. Người tu học là phải nương theo ngón tay Phật chỉ để nhìn thấy mặt trăng. Ngón tay chưa phải là mặt trăng. Kinh điển chưa phải là giác ngộ. Nhưng khi chưa nhìn thấy mặt trăng, thì chúng ta chớ nên vội xa lìa ngón tay. Chưa đạt ngộ chân lý, chớ nên rời lìa kinh điển. Kinh điển là dụ như ngón tay để chúng ta nương vào đó mà tu học, vì đó thuộc về văn tự Bát nhã. Một khi đã đạt ngộ chân lý rồi, tức chứng được Thật tướng Bát nhã, thì không cần phải nương vào văn tự bát nhã nữa. Vô lý, đã thấy mặt trăng rồi mà còn chấp chặt vào ngón tay. Đó là thái độ của kẻ khùng điên.
Đạo Phật dạy chúng ta phải tự mình mạnh dạn đứng lên để tự cứu lấy đời mình. Đời mình vui hay khổ là chính do mình định đoạt lấy. Không có một bàn tay thần thánh nào cứu giúp cho mình thoát khổ. Đời mình mở ra hay buộc vào cũng chính do mình tự tạo. Mình tự trói buộc mình vào ngũ dục, lục trần, thì cũng chính do mình hãy tự tháo gỡ nó ra. Hiểu như thế, là hiểu đúng theo tinh thần giác ngộ của đạo Phật. Con voi kia, sở dĩ nó bị lún sâu vào sình lầy, là tại vì, một phần nó bị yếu đuối và một phần tự nó bước xuống bùn lầy. Không một ai bắt nó phải xuống đó để chiêu họa vào thân. Muốn cho nó rút chân ra khỏi sình lầy, thì chỉ có người quản tượng hiểu được nó. Và chính người quản tượng kia cũng không dùng tay của mình mà kéo dắt nó lên. Mà ông chỉ khéo léo dùng phương chước như một kẻ sắp ra trận, đánh trống la ó cổ võ làm cho voi hưng chí mà tự mình phấn đấu vượt thoát. Đó là cái khôn khéo dùng phương tiện của người quản tượng. Vì chỉ có chính ông mới hiểu ý con voi mà thôi.
Cũng thế, không ai bắt ta phải chui vào địa ngục thọ khổ, mà chính do ta tạo ra. Đức Phật dụ như người quản tượng, còn chúng sanh dụ như con voi kia. Chỉ có Đức Phật mới thấu hiểu hết căn bệnh tham ái của chúng sanh, nên Ngài dùng mọi phương chước, đánh trống pháp lớn, thổi pháp loa lớn, dùng mọi phương tiện pháp môn, để khéo dẫn dụ giảng dạy cho chúng sanh hiểu rõ để tự họ tu hành thoát khổ. Đó là tinh thần từ bi cứu khổ của đạo Phật. Còn chạy theo nương cậy vào bên ngoài, mà không tự xoay về mình để quán chiếu tỉnh thức, thì đó không phải là người tu theo đạo Phật. Đạo Phật không chấp nhận vào sự ỷ lại tin cậy như thế. Bản thân Đức Phật là một chứng minh cụ thể. Chính Ngài tự cứu lấy đời Ngài. Ngài không bao giờ tin cậy vào bất cứ thần lực nào ngoài Ngài. Không ai có đủ quyền năng thưởng phạt cho mình. Thưởng hay phạt, Niết bàn hay địa ngục… tất cả đều do chính mình tự tạo lấy mà thôi.
328. Nếu gặp bạn đồng hành hiền lương, giàu trí lực, hàng phục được gian nguy, thì hãy vui mừng mà đi cùng họ.
If for company you find a wise and prudent friend who leads a good life, you should, overcoming all impediments, keep his company joyously and mindfully.
Kệ tụng
Nếu được bạn hiền trí
Đáng sống chung, khéo xử
Hãy chung sống hoan hỷ
Chánh niệm, diệt hiểm nguy.
329. Nếu không gặp được bạn đồng hành hiền lương, giàu trí lự, thì hãy như vua tránh nước loạn, như voi bỏ về rừng.
If for company you cannot find a wise and prudent friend who leads a good life, then, like a king who leaves behind a conquered kingdom, or like a lone elephant in the elephant forest, you should go your way alone.
Kệ tụng
Không gặp bạn hiền trí
Đáng sống chung, khéo xử
Như vua bỏ nước bại
Hãy sống riêng cô độc
Như voi sống rừng sâu.
330. Thà ở riêng một mình hơn cùng người ngu kết bạn. Ở một mình còn rảnh rang khỏi điều ác dục như voi một mình thênh thang giữa rừng sâu.
Better it is to live alone; there is no fellowship with a fool. Live alone and do no evil; be carefree like an elephant in the elephant forest.
Kệ tụng
Tốt hơn sống một mình
Không người ngu kết bạn
Độc thân, không ác hạnh
Vô lự, như voi rừng.
Lược giảng
Ba pháp cú nầy, Phật dạy cho các thầy Tỳ kheo, khi Phật ở trong một khu rừng với con voi chúa Pàveyyaka.
Theo truyện tích, khi Phật ở Kosambi, các thầy Tỳ kheo thường hay xảy ra bất hòa tranh cãi với nhau. Đức Phật giải hòa nhưng không ai chịu nghe theo. Sau đó, Đức Phật bỏ đi vào rừng sâu một mình và Ngài làm bạn với con voi chúa tên là Pàveyyaka. Con voi chúa nầy hầu hạ Ngài rất chu đáo. Trong lúc đó, thì các hàng đệ tử xuất gia và tại gia, họ đều tỏ ra rất lo lắng cho Ngài. Mọi người yêu cầu Tôn giả A Nan cho họ gặp Đức Phật để nghe Phật thuyết pháp. Trước tình thế đó, Ngài A Nan không thể từ chối và rồi Ngài hướng dẫn năm trăm Tỳ kheo đi vào rừng gặp Phật. Khi đến gần khu rừng, Ngài A Nan tự nghĩ, giữa lúc nầy mà ta dẫn năm trăm Tỳ kheo đến, không biết có thích hợp và Phật có chấp nhận cho gặp Ngài hay không. Tốt hơn hết là ta nên đi một mình vào gặp Phật trước. Con voi chúa thấy tôn giả A Nan đến, liền tỏ ra không hài lòng và nó có ý tung vòi tiến tới để quấn lấy tôn giả A Nan, khi ấy Đức Phật bảo:
- Hãy lui, Pàveyyaka, đừng xua đuổi người ấy. Đó là thị giả của Như Lai.
Voi chúa liền cuốn vòi lại và biểu lộ thái độ lễ phép với ngài A Nan. Sau khi đảnh lễ Phật, ngài A nan liền bạch với Đức Phật rằng, ngài có hướng dẫn năm trăm Tỳ kheo đến để ra mắt Phật, nhưng hiện giờ họ còn chờ đợi ở ngoài rừng. Đức Phật cho phép họ vào. Sau khi đảnh lễ Phật, họ đều bày tỏ nỗi lòng lo lắng trong thời gian Phật sống một mình không có ai chăm sóc cho Phật. Hiểu ý, Phật nói:
- Nầy các Tỳ kheo, voi chúa Pàveyyaka đã làm giúp ta tất cả mọi việc. Đươc một người bạn như thế, sống độc cư cũng tốt. Và nếu không có bạn như thế, tốt hơn là nên sống một mình. (Hết phần lược dẫn cốt chuyện).
Nội dung ba pháp cú trên, Đức Phật nhằm nói lên việc kết bạn và sống chung trong tinh thần hòa hợp hỗ trợ cho nhau. Sống ở đời, dù người có khó tánh đến đâu, ít ra cũng phải có đôi bạn để tâm giao. Bạn hiền trí là người có thể giúp đỡ ta qua nhiều phương diện. Khi ta gặp cảnh ngộ hoạn nạn khó khăn hay những lúc ta bị bế tắc đau khổ về tinh thần, thì chính những người bạn hiền tốt sẽ giúp ta thoát qua cơn nguy nan đó. Muốn thế, thì Đức Phật khuyên chúng ta nên giao du và chọn bạn hiền. Nhưng phải là bạn đồng hành hiền trí. Bạn đồng hành có thể là cùng một nghề nghiệp hay cùng một lý tưởng. Như thế, thì tình giao kết giữa ta và bạn sẽ dễ cảm thông nhau hơn.
Pháp cú 328, Phật đã khuyên chúng ta như thế. Khi kết bạn để giao du, ta cần phải có sự chọn lựa kỹ càng. Ta nên phân biệt cho rõ qua những người bạn mà ta kết giao. Đối với những người bạn mà ta không coi trọng họ ở một vài phương diện cá tính nào đó, thì ta không nên lân la gần gũi thân cận với họ nhiều. Vì như thế, sẽ không có lợi ích gì cho ta cả. Còn đối với những người bạn mà ta thấy họ đối xử với ta một cách chân tình, không giả dối bề ngoài, không có ý đồ lợi dụng, không tìm cách bôi nhọ nói xấu nhau, đó là những người bạn hiền lương chân thật mà ta nên kết thân. Nhưng dù bạn chí thân đến đâu, ta cũng nên tiếp xử với bạn có giới hạn chừng mực và phải có lòng tôn kính bạn. Sự tôn trọng với nhau, đó là điều ta không nên coi thường, nếu như ta muốn tình bạn qua lại lâu dài. Đừng vì quá thân thiện mà ta không để ý đến lời nói và hành động của ta. Bởi tất cả đều còn là con người trần tục như nhau. Những thất tình, lục dục hỷ nộ ái ố v.v… vẫn còn mạnh bạo và nó hiện ẩn tàng trong mỗi con người. Chính vì còn quá nhiều tham, sân, si phiền não, nên khi giao tiếp với nhau, ta cần phải cẩn trọng. Không nên xem thường quá suồng sã mà sẽ có ngày xa nhau ân hận. Từ bạn chí thân trở thành thù địch, đó là chuyện thường tình ở thế gian. Ta phải cẩn trọng để ý điều nầy. Phật nói đối với những người bạn tốt, bạn hiền, biết cách cư xử, nghĩa là biết người, biết ta, cần giúp đỡ cho nhau, khi bạn bị hoạn nạn. Với hạng người như thế, thì Phật khuyên chúng ta nên hãy vui mừng mà đi cùng họ.
Pháp cú 329, Đức Phật nhắc nhở chúng ta: “nếu không gặp được bạn đồng hành hiền lương, giàu trí lự, thì hãy như vua tránh nước loạn, như voi bỏ về rừng”. Bạn đồng hành mà phải hiền lương, hiền lương không chưa đủ mà cần phải có trí tuệ. Người có trí tuệ là người phán đoán nhận xét mọi việc rất sâu sắc. Họ không phải là hạng người bốc đồng nông nổi, nghe đâu theo đó, vui đâu chúc đấy. Đó là hạng người thuộc dạng “ba phải”, ta không nên giao du với họ. Đối với người bạn theo tiêu chuẩn mà Phật nói ở đây, trong xã hội ngày nay cũng không phải dễ kiếm. Ba yếu tố thiết yếu: đồng hành: cùng có chung một lý tưởng phục vụ. Hiền lương: tánh tình chân thật đạo đức, hòa ái, trung hậu. Giàu trí lự: phải có lý trí, khéo biết dung hòa giữa tình và lý trong tương quan nhận thức. Đó là ba yếu tố thiết yếu Phật dạy, khi chọn bạn kết thân, ta cần phải để ý.
Pháp cú 330, Đức Phật nhắc nhở chúng ta không nên kết bạn với những hạng người ngu dốt. Trong phẩm Hiền Trí, Đức Phật cũng đã từng dạy chúng ta không nên kết bạn với người kém hèn, mà phải kết bạn với những người lành, có chí khí cao thượng. Đọc lời Phật dạy đây, qua kinh nghiệm bản thân cũng như đối với bạn bè, ta thấy rất rõ khi giao tiếp hay sống chung với những người bạn kém học thức, thiếu suy nghĩ, họ làm cho ta thật nhức đầu bực mình về những ngôn từ và hành động của họ. Gặp phải những hạng người nầy, thì như lời Phật dạy, thà ở một mình còn khỏe trí hơn khi gần gũi tiếp xúc với họ. Như thế, là ta mới thật sự sáng suốt khi chọn bạn để giao du kết thân.
Qua những pháp cú trên, chúng ta chỉ tìm hiểu sơ qua về những việc cư xử giao tiếp qua lại thường tình của con người. Nhưng, thật ra, thâm nghĩa Phật dạy không hẳn chỉ có ngần ấy. Nó còn chứa đựng những ý nghĩa thâm trầm hơn. Tìm được một người bạn đồng hành, theo nghĩa lý sâu xa, cũng không phải là chuyện dễ dàng. Một người bạn, hơn nữa là một người thầy giác ngộ tỉnh thức chân lý, giữa thế gian nầy đâu phải dễ tìm. Một người bạn vượt thoát những ước lệ phàm tục, những giáo điều trói buộc, những tập quán thường tình, những tôn giáo nhãn hiệu, những quyền lực cai trị, nói chung, là những pháp thế gian hữu vi sinh diệt, còn nằm trong phạm trù nhị nguyên đối đãi. Có được người bạn như thế, thì chính đó mới thật sự là người bạn mà Phật dạy ta nên kết giao. Còn bằng không, thì chỉ còn có cách là phải đơn thân độc hành sống một mình trong cô đơn. Cô đơn không nằm trong ý nghĩa thường tình mà phải vượt lên trên vô thức. Làm một con người trần trụi buông thỏng hai tay giữa thế giới cuồng nhiệt tranh chấp hỗn loạn của cõi đời nầy.
Câu chuyện lược dẫn trên, cho ta thấy, Tăng đoàn thời Phật không phải tất cả đều giữ hòa khí hết. Đối với người lậu hoặc phiền não không còn, thì đương nhiên những việc tranh cãi hơn thua bất hòa không có. Nhưng những vị mới tu, phiền não chưa sạch, tất nhiên không sao tránh khỏi những sự bất đồng. Dù đã được phước duyên lớn sống gần Phật, nhưng không phải việc gì các ngài cũng nghe theo lời Phật dạy hết. Điều nầy cho ta một bài học về giá trị của Lục Hòa. Sở dĩ có chuyện tranh cãi hơn thua, là vì các ngài không nghiêm chỉnh thật hành sáu phép hòa kính. Nếu trong một tăng thân, ai ai cũng tôn trọng giữ gìn Lục Hòa một cách nghiêm túc, thì chắc chắn đảm bảo sẽ không có chuyện tranh cãi phải trái hơn thua xảy ra.
Đó là bài học lớn mà chúng ta cần phải quan tâm thật hành. Nhất là, hiện ta đang sống trong đoàn thể tu hành. Nói rộng ra, là trong gia đình, xã hội, quốc gia cũng thế. Khi không dàn xếp được sự tình, Phật liền bỏ đi vào rừng. Sự bỏ đi của Phật không có nghĩa là Phật buồn giận (làm gì có chuyện đó). Nhưng thâm ý của Phật là nhằm thức tỉnh các vị Tỳ kheo tranh cãi nầy. Đó cũng là một phương cách giáo hóa của Phật. Thật vậy, khi vắng Phật, mọi người xôn xao bàn tán và muốn đi tìm gặp Phật. Những vị đó thỉnh cầu Tôn giả A Nan giúp hộ.
Dù là một bậc Thầy đáng kính, nhưng khi có mặt thường xuyên răn nhắc dạy dỗ, thì lại bị người ta coi thường. Chính cái niệm coi thường đó, nên gây ra nhiều việc bất ổn không hay. Ở đây, ta thấy sự vắng mặt của Phật thời gian tuy ngắn, nhưng đã gây cho mọi người sanh lòng hối tiếc. Đó cũng là một sự cảnh giác thức nhắc của Phật. Như thế, mới thấy sự hiện diện của Phật thật là vô cùng quý giá. Ngày nay, chúng ta thấy, có nhiều bậc Thầy đáng kính, thỉnh thoảng cũng vắng bóng lánh mặt ở trong chúng một thời gian, vì lý do nào đó xét thấy cần răn nhắc khuyến cáo trong chúng, phải chăng các vị đó cũng học theo phương cách giáo dục của Phật ở đây!
Khi các vị đó gặp Phật, Phật đem con voi chúa Pàveyyaka ra để chứng minh. Chính con voi nầy đã giúp hầu Phật đủ mọi thứ. Nhân đó, Phật dạy, sống chung mà không hiểu, thương, cảm thông, giúp đỡ lẫn nhau, thì tốt hơn hết là nên sống một mình.
Về Đầu Trang Go down
https://triamquan.forumvi.com/
Tri Âm Quán
Thành Viên Tích Cực
Thành Viên Tích Cực
Tri Âm Quán


Tổng số bài gửi : 6340
Reputation : 2
Join date : 31/07/2013
Đến từ : Thị Trấn Chũ

Kinh Pháp Cú chú giải (tập 1) - Page 2 Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Kinh Pháp Cú chú giải (tập 1)   Kinh Pháp Cú chú giải (tập 1) - Page 2 EmptySun Nov 16, 2014 12:11 pm

331. Gặp bạn xa lâu ngày là vui, sung túc phải lúc là vui, mệnh chung có được thiện nghiệp là vui, lìa hết thống khổ là vui.
Good are friends when need arises; good is contentment with just what one has; good is merit when life is at an end, and good is the abandoning of all suffering (through Arahatship).
Kệ tụng
Vui thay gặp bạn cũ!
Vui thay sống biết đủ!
Vui thay chết có đức!
Vui thay thống khổ diệt!
332. Được kính dưỡng mẹ hiền là vui, kính dưỡng thân phụ là vui, kính dưỡng Sa môn là vui, kính dưỡng thánh nhơn là vui.
In this world, good it is to serve one’s mother, good it is to serve one’s father, good it is to serve the monks, and good it is to serve the holy men.
Kệ tụng
Vui thay kính dưỡng mẹ!
Vui thay kính dưỡng cha!
Vui thay kính Sa môn!
Vui thay kính hiền thánh!
333. Già vẫn giữ giới là vui, thành tựu chánh tín là vui, đầy đủ trí tuệ là vui, không làm điều ác là vui.
Good is virtue until life’s end, good is faith that is steadfast, good is the acquisition of wisdom, and good is the avoidance of evil.
Kệ tụng
Già có giới là vui
Tin chắc thật là vui
Đủ trí tuệ là vui
Ác không làm là vui.
Lược giảng
Ba pháp cú nầy, Phật dạy cho các ma vương khi Ngài ẩn tu trong núi Tuyết thuộc vùng Hy mã lạp sơn.
Truyện tích kể lại: “Khi đức Bồ tát còn ở trong thời kỳ tu ẩn dật ở trong dãy núi Tuyết (Himalaya), chế độ cai trị của các quốc vương khắc nghiệt. Và đức Thế Tôn trông thấy dân chúng bị nhiều hình phạt độc ác, Ngài động lòng thương xót. Ngài tự nhủ: “Tại sao không thực hành một chế độ công bình, chính trực, không có giết chóc, chinh phạt đau khổ”.
Khi ấy ma vương bắt gặp tư tưởng trên thoáng qua trong đầu đức Phật, hắn nghĩ: “Sa môn Cồ đàm vừa nghĩ đến việc cai trị. Có lẽ bây giờ ông ấy muốn làm vua, đó là một dịp cho ông ấy tán tâm. Nếu ông ấy ra nắm quyền cai trị, ta có thể cám dỗ ông ấy. Ta sẽ đến để gợi lòng tham ông ấy.”
Ma vương đến chỗ Phật và bảo:
-Thưa Ngài, hãy để đức Thế Tôn cai trị, hãy để bậc Tối Thắng cai trị, sẽ không có giết chóc, chinh phạt và khổ đau, mà chỉ có công bằng và chánh trực.
- Nầy Ma vương! Ông thấy ta thế nào mà nói như vậy?
- Thưa Ngài, một vị Phật có thể thi triển bốn phép mầu. Chỉ cần Ngài ra lệnh: Ngọn núi Himalaya hãy biến thành vàng, lập tức nó sẽ biến thành vàng. Tôi cũng sẽ lấy tài lực nầy để thực hiện tất cả những việc có thể thực hiện bằng tài lực. Như thế, Ngài sẽ cai trị công bằng chánh trực. Phật bảo:
Lòng tham người không thỏa
Dù có núi tử kim
Biết vậy, người khôn tìm
Đường thẳng ngay tiến bước.
Người đã sớm vẽ trước
Người nhân của khổ đau
Đâu có thể nào giao
Đời mình cho lạc thú?
Hãy để người đã thấu
Nhân sanh tử luân hồi
Tự tu tập điều phục
“Lưới ái” buộc bao đời.
Phật cảnh cáo Ma vương:
- Nầy Ma vương, ta khuyên ông một lần nữa, Ta không giống ông. Đó là điều Ta muốn nói”. (Trích nguyên văn Tích Truyện Pháp Cú Tập III, Viên Chiếu, tr 210)
Qua ba pháp cú Phật dạy trên, pháp cú 331, ta thấy Đức Phật nêu ra có 4 điều vui:
1.Gặp bạn xa lâu ngày là vui. Đây là tâm lý rất thường tình. Nếu là người bạn chí thân của ta, tức là bạn đồng hành, đã từng vào sanh ra tử với ta, khi xa vắng nhau lâu ngày, nay tình cờ bỗng gặp lại nhau, thì quả thật cả hai đều vui mừng không thể nào tả xiết. Điều nầy là một chứng nghiệm thực tế.
Đó là luận theo nghĩa thường tình trong cách đối nhân xử thế. Nếu luận về nghĩa lý thâm sâu hơn, thì chữ bạn mà Phật nói ở đây, đó là người bạn không tên tuổi, người “Bạn” mà không làm bạn với muôn pháp. Đây là người bạn mà ông Bàng Long Uẩn đã hỏi đức Mã Tổ: “Người không cùng với muôn pháp làm bạn là người gì?” Đức Mã Tổ bảo: “khi nào ông uống một hớp mà hết nước sông Giang Tây, thì ta sẽ nói cho ông nghe”. Người mà ông Bàng đã hỏi, không nằm trong bình diện là người thường nữa. Mà là một Người không tên tuổi họ hàng, siêu xuất thế gian, nhưng thực tế cũng không có gì là siêu xuất cả. Đối với người Bạn nầy, ta đã cách biệt quá lâu đời, từ vô lượng kiếp đến nay. Hôm nay, bỗng dưng gặp lại (tức nhận ra tánh giác hay bản tâm của mình) thì thử hỏi còn niềm vui nào có thể so sánh đây?! Đó mới thật là niềm vui tuyệt vời không lời diễn tả.
2. Sung túc phải lúc là vui. Sung túc là dồi dào đầy đủ. Sung túc phải lúc là như thế nào? Sung túc có hai nghĩa: vật chất và tinh thần. Sung túc về vật chất, nếu sự sung túc đó chính do bàn tay ta tạo dựng nên, bằng tất cả tâm huyết mồ hôi nước mắt, tạo dựng sự nghiệp chánh đáng lương thiện, thì Phật nói đó là sung túc phải lúc. Ngược lại, xây dựng sự giàu sang bằng cách vơ vét bóc lột xương máu của kẻ khác, thì đó không phải là sung túc phải lúc. Mà sự sung túc đó là bất nhân, bất nghĩa, phi pháp. Vơ vét của người làm của mình, đó là kẻ chuyên hút máu người để sống. Sống như thế, thật không hơn gì loài muỗi.
Sung túc về tinh thần, đây mới là sự sung túc đáng kể. Vì sung túc phần vật chất, chỉ là tạm bợ, vô thường, nay có, mai không, thay đổi bất thường. Còn sung túc phần tinh thần, tức là dồi dào phần giới hạnh đạo đức. Sung túc tinh thần, là do người ta khéo biết xây dựng đời mình trên căn bản đạo đức thanh cao. Nhờ có đạo đức tình người thanh cao sung mãn đó, nên tâm hồn của họ lúc nào cũng an vui, thanh thoát nhẹ nhàng thoải mái, không có gì ràng buộc họ. Đó là tinh thần giải thoát. Thứ sung túc đạo đức chân thật nầy, mới thật sự là bền bỉ lâu dài, xài hoài không hết. Đây mới thật sự là chơn hạnh phúc vậy.
3. Mệnh chung có được thiện nghiệp là vui. Thiện nghiệp là nghiệp lành. Có hai thứ nghiệp căn bản mà ta cần chú ý: thiện nghiệp và ác nghiệp. Nhờ tích lũy nghiệp lành trong đời sống hằng ngày, nên khi mạng chung, ta không còn lo âu sợ hãi. Vì ta biết chắc là ta sẽ đi theo thói quen lành mà ta đã gây tạo. Khi nhắm mắt đi theo hướng lành để thọ quả báo vui. Nếu khi sắp chết, ta có được một trợ duyên tốt, có bạn hiền nhắc nhở trợ niệm, khi đó, ta khởi niệm lành trong lúc tắt thở, thì chắc chắn là ta thác sanh vào cảnh giới an lành. Đó là cận tử nghiệp, tức thói quen niệm lành lúc gần chết. Ngược lại, thì là nghiệp báo khổ.
4. Lìa hết thống khổ là vui. Điều vui nầy rất là cụ thể rõ ràng. Không cần phải lý luận dài dòng. Hết khổ là vui, đó là điều thực tế nhứt. Nhưng Phật nói hết khổ ở đây, ta phải hiểu rõ nguồn gốc của nó. Cái gì gây ra cho ta phải chịu khổ? Khổ tuy rất nhiều, nói không thể hết, nhưng tóm lại, Phật nói chỉ có ba khổ và tám khổ. Ba khổ gồm có: Khổ khổ, hành khổ và hoại khổ. Tám khổ gồm có: sanh, già, bệnh, chết, thương yêu nhau mà phải xa lìa, mong cầu mà không được toại ý, oán ghét gặp nhau, năm ấm sung mãn lừng lẫy. Đó là tám nỗi thống khổ lớn của con người. Sở dĩ có những nỗi thống khổ lớn nầy, tất cả đều do vô minh phiền não gây ra. Muốn dứt khổ, thì phải diệt trừ hết vô minh phiền não. Khi tập nhân phiền não không còn, thì mọi quả khổ đau ngang đó chấm dứt. Đó là Niết bàn an lạc. Đây mới là cái vui cùng tột vậy. Nhưng điều quan trọng là làm sao mới diệt hết vô minh phiền não? Đây là cả một vấn đề khó khăn, mà bất cứ hành giả nào cũng phải nhắm tới.
Đến pháp cú 332, Phật cũng nêu ra 4 điều vui:
1. Ở đời được kính dưỡng mẹ hiền là vui. Đây là niềm vui lớn nhứt trong cuộc đời của những ai còn mẹ để phụng dưỡng. Vì mẹ là cả một bầu trời dịu ngọt thương yêu. Công lao của mẹ thật không sao kể xiết. Tình thương của mẹ đã dành hết cho con. Con là núm ruột của mẹ. Người ta thường nói còn mẹ là còn tất cả, mất mẹ là mất tất cả. Thế mà, ở đời có những người con, khi mẹ còn sống lại đối xử với mẹ mình một cách tàn nhẫn tệ bạc. Họ tính với mẹ từng đồng từng cắc, không mẻ một đồng xu. Trong khi đó, họ quên công ơn sanh thành giáo dưỡng của mẹ như trời cao bể rộng. Đúng là tình mẹ bao la như bể đại dương. Chính vì sự tính toán đó, nên ca dao Việt Nam mới có câu:
Mẹ nuôi con như biển hồ lai láng
Con nuôi mẹ tính tháng tính ngày.
Khi mẹ còn thì đối xử tệ bạc như thế, đến khi mẹ mất, thì họ lại ăn năn hối tiếc. Sự ăn năn hối tiếc đã quá muộn màng. Chi bằng khi mẹ còn sống ta hết lòng chăm nom phụng dưỡng. Được thế, thì dẫu cho sau nầy mẹ có mất đi, thì ta cũng đã mãn nguyện, không có gì phải hối tiếc khó chịu trong lòng.
2. Kính dưỡng thân phụ là vui. Đây là niềm vui khi được phụng dưỡng người cha. Cha với mẹ cả hai đều có công lao giáo dưỡng con cái rất lớn. Vậy bổn phận làm con, chúng ta phải lo đền đáp báo ân cho cha mẹ. Lòng tri ân và báo ân là nghĩa cử cao đẹp tối cần thiết của đạo làm người. Mất đi yếu tính nầy, thì đạo làm người đã mất. Nói cách khác, là ta không còn ý nghĩa của một con người nữa. Ta nên lưu ý điều nầy, khi chăm sóc lo lắng phụng dưỡng cho cha mẹ, ta cần phải biểu lộ có thái độ cung kính. Nếu thiếu sự cung kính, thì dù cho ta có dâng lên bao thứ vật phẩm có giá trị cao, cũng không thể nào làm cho cha mẹ vui lòng được. Cho nên, sự phụng dưỡng không phải chỉ biểu lộ bằng vật chất không thôi, mà cần phải biểu lộ bằng tinh thần. Tinh thần, đó là sự cung kính bằng tất cả tấm lòng. Khi cha mẹ vui, thì chính ta mới có được niềm vui rất lớn. Nên Phật nói: kính dưỡng thân phụ là vui.
3. Kính dưỡng Sa môn là vui. Sa môn là những vị xuất gia đã thọ đại giới (giới luật của Tỳ kheo 250 giới). Những vị chân chánh tu hành có giới đức cao, ta phải hết lòng kính trọng. Được duyên lành cúng dường cho các ngài, đó là điều diễm phúc rất lớn. Sự cúng dường nầy, ta phải biểu lộ bằng tất cả tâm thành. Ta nên nhớ, cúng dường phải được biểu lộ cả hai: vật chất và tinh thần. Vật chất là tùy khả năng chúng ta có, nhiều ít không thành vấn đề. Nhưng điều quan trọng là biểu lộ lòng thành cung kính. Chính sự cung kính nầy, mới là căn bản của sự cúng dường. Vì có cung kính, thì cả hai: người nhận và người cúng thí mới được lợi lạc. Lợi lạc là chúng ta được tăng trưởng phước đức. Nếu cúng dường bằng thái độ thiếu cung kính, thì chẳng những ta không được phước đức mà còn mang thêm cái trọng tội là cống cao ngã mạn khinh người. Như vậy, thì làm sao ta có được niềm vui. Muốn có được niềm vui trọn vẹn, thì ta nên vâng theo lời Phật dạy, phải thành tâm cung kính cúng dưòng các bậc Sa môn chân chánh tu hành.
4. Kính dưỡng Thánh nhơn là vui. Thánh nhơn là những vị tu hành đã dứt hết cội gốc phiền não. Thánh nhơn cũng có nhiều bậc cao thấp khác nhau. Như Phật là bậc Thánh nhơn cao tột trong các bậc Thánh. Thấp hơn là các vị Bồ tát hoặc A la hán trở xuống. Trong tứ quả Thanh Văn của hàng tiểu thừa, đều gọi chung là Thánh nhơn. Tức từ quả vị Tu đà hoàn trở lên. Trong hàng Bồ tát, cũng có nhiều cấp bậc khác nhau. Sự khác biệt nầy là căn cứ trên vấn đề diệt trừ phiền não, lậu hoặc, vô minh, nhiều ít. Kinh nói, hành giả diệt một phần vô minh là chứng được một phần pháp thân. Đối với các bậc nầy, mà ta thành tâm cúng dường, tất nhiên chúng ta sẽ được phước báo rất lớn. Cho nên, Phật nói: “kính dưỡng Thánh nhơn là vui”.
Pháp cú 333, Phật cũng nêu ra bốn điều vui:
1.Già vẫn giữ giới là vui. Người già thường là kém minh mẫn, trí nhớ lẩm cẩm, hay lẫn lộn. Nhưng đối với những giới luật đã thọ, mà vẫn nhớ gìn giữ đúng pháp, thì quả đó là niềm vui. Niềm vui là vì mình vẫn còn tâm trí sáng suốt, khéo biết phân biệt tà giới và chánh giới. Có nhiều người, khi còn trẻ mạnh khỏe, thì giữ giới rất nghiêm minh, nhưng đến khi già, thì lại hay sanh tật phá trai phạm giới. Có đôi khi lại còn trở đũa ngã mặn. Cho rằng, vì già yếu cần phải bổ dưỡng.
Xưa kia, ăn trường chay, nay lại ăn chay kỳ, thậm chí có người không còn giữ ăn chay ngày nào nữa cả. Họ còn lý luận ngụy biện là xưa kia, Phật có ăn chay lạt ngày nào đâu mà Ngài vẫn thành Phật. Thật là tội lỗi ! Họ quên rằng, Phật thì không còn vô minh phiền não. Ngài ăn không có phân biệt ngon dở, ăn chỉ cốt để có sức khỏe mà làm lợi ích cho chúng sinh. Ngược lại, chúng ta còn là phàm phu vô minh phiền não dẫy đầy, ăn thì còn chê khen ngon dở, rồi sanh tâm đắm nhiễm, khởi phiền não ghét thương, để rồi tạo nghiệp thọ khổ. Thế mà dám so sánh ngang hàng với Phật được ư? Quả thật, họ là hạng người điếc không sợ súng, không sợ đọa địa ngục. Đó là gì? Là do họ quá coi trọng xác thân mà phải phá trai phạm giới đã thọ. Đó là một sự thật, không thể biện minh chối cãi. Có thể họ vui với vật chất, vui trong đau khổ, chớ không phải cái vui của người tu hành lạc đạo, pháp hỷ sung mãn ở nơi tâm hồn.
2. Thành tựu chánh tín là vui. Chánh tín là ngược lại với tà tín. Tà tín thì không tin Tam bảo, nhân quả nghiệp báo. Đã thế, tất nhiên, là họ dễ sa đọa. Ngược lại, người có lòng tin chân chánh đúng hướng nhân quả, thì họ không gây tạo ác nghiệp. Không gây tạo ác nghiệp, thì họ không sa đọa vào tam đồ ác đạo. Nghĩa là họ không đi vào con đường đau khổ. Chẳng những họ không gây tạo ác nghiệp, mà họ còn biết gây tạo nghiệp lành. Khi tạo nghiệp lành ở nơi ba nghiệp, tất nhiên là hiện đời họ không gặp quả khổ, mà tương lai họ cũng được hưởng những quả lành. Thế thì, có niềm vui nào bằng! Sở dĩ họ được an hưởng niềm vui đó, là do họ có niềm tin chân chánh vào Tam bảo và lý nhân quả. Tất nhiên, họ đã thành tựu trọn vẹn được niềm tin chân chánh vậy.
3. Đầy đủ trí tuệ là vui. Người tu học Phật, nếu thiếu trí tuệ, thì khó có thể thành công trong sự tu hành. Trí tuệ là sự nghiệp quan trọng vĩ đại của người tu. Nhờ có trí tuệ, mới phân biệt được lẽ chánh tà chân ngụy. Nếu không có trí tuệ, thì sự tu hành giống như kẻ mù lòa đi trong đêm tối. Đã thế, tất nhiên khó tránh khỏi rơi hầm sụp hố. Hầm và hố sâu tội lỗi đang chờ đón họ. Người có trí tuệ giống như kẻ có con mắt tinh sáng. Nhìn xa thấy rộng và tránh khỏi nạn té hầm sụp hố. Tức tránh được những tội lỗi sai lầm. Do nhờ trí tuệ mà đưa hành giả mau đến bến bờ giải thoát an vui. Như thế, thì thử hỏi có niềm vui nào bằng. Nên Phật nói: “đầy đủ trí tuệ là vui”.
4. Không làm điều ác là vui. Người nào đã gây tạo nghiệp ác, chắc chắn lòng họ khó có được giây phút an vui. Vì sao? Vì khi gây điều ác, lòng họ luôn bồn chồn bứt rứt không an. Họ luôn lo sợ đủ thứ. Thí như kẻ đã ra tay giết người, thử hỏi lòng họ sẽ như thế nào? Có thể họ sẽ thỏa mãn lòng sân hận nhứt thời trong khi họ ra tay hành hung hạ sát đối phương, nhưng sau đó, họ phải lãnh lấy cái quả báo thê thảm. Cõi lòng họ ảm đạm như bãi tha ma. Họ không có được giây phút nào an ổn. Pháp luật sẽ không dung tha họ. Phải trừng trị thích đáng cái nhân ác mà họ đã gây. Và hình ảnh giết người kia, nó luôn luôn ám ảnh bám sát theo họ. Hình ảnh đó nó đã ăn sâu vào tâm thức của họ. Thế là, họ sẽ đối diện trong nỗi khổ cô đơn tuyệt vọng, với bốn bức tường đen tối mà họ đã bị giam cầm. Đó là một ngục tù hành hạ họ cả thể xác lẫn tinh thần. Một sự đau khổ cùng cực, ăn ngủ không yên. Nhất là, mỗi khi họ nhớ lại hình ảnh hung bạo giết chết mạng người rùng rợn khiếp đảm đó. Đó là chưa nói đến sự báo oán trả thù sau nầy. Cho nên, người nào muốn được hiện đời và đời sau an vui, thì Phật dạy, không nên gây tạo điều ác.
Qua câu chuyện trích dẫn trên, có một vài đặc điểm mà chúng ta cần chú ý:
Điểm thứ nhứt, khi Đức Phật khởi nghĩ, ma vương thấy rõ điều Phật suy nghĩ. Đối với các loại quỷ thần, chúng nhìn thấy rõ tư tưởng của ta. Khi chúng ta nghĩ điều lành, điều dữ, điều xấu, điều tốt, chúng nhìn thấy một cách rõ ràng. Vì thế, nên người đời thường nói, không thể qua mắt quỷ thần là vậy. Mình có thể che giấu việc làm tội lỗi phi pháp của mình với người đời, nhưng làm sao có thể che giấu với quỷ thần. Quỷ thần còn không che giấu được, nói chi đến Phật, Bồ tát. Tại sao chúng thấy rõ như vậy? là vì khi chúng ta dấy niệm khởi nghĩ là nó có hình bóng của cái khởi nghĩ. Như chúng ta khởi nghĩ cái nhà, thì hình ảnh cái nhà liền in trên tâm thức ta. Còn nếu ta không khởi nghĩ bất cứ cái gì hết, thì quỷ thần không tài nào thấy được. Đó là đến chỗ bặt hết dấu vết. Người tu hành mà tâm được an định như thế, thì chắc chắn sẽ được giải thoát.
Điểm thứ hai, ma vương cám dỗ khuyến dụ khi chúng ta khởi nghĩ điều ác. Đó là cơ hội tốt nhứt để ma vương dẫn dắt xúi giục chúng ta hành động sai trái. Do đó, tốt nhứt là khi khởi nghĩ, chúng ta không nên nghĩ điều xấu ác. Mà có lỡ khởi nghĩ, thì chúng ta phải cắt đứt ngay, đừng để kẻ hở cho ma vương lợi dụng xúi giục. Khi chúng ta đã nghe theo mệnh lệnh của chúng xúi giục sai khiến rồi, liền đó chúng ta thể hiện ra hành động ở nơi ba nghiệp sai lầm, thì đó là một tai hại rất lớn. Thế nên, chúng ta cần phải cẩn trọng dè dặt đề phòng.
Điểm thứ ba, chúng ta hằng phải có chánh kiến, chánh niệm. Có chánh niệm, tất nhiên chúng ta sẽ nhận rõ những ý niệm sái quấy, tội lỗi. Nhất là ý niệm tham lam theo danh lợi. Mà đầu mối của nó là vô minh. Chúng ta cương quyết không làm nô lệ cho vô minh lộng hành sai sử. Muốn thế, thì chúng ta cần phải có trí huệ. Có trí huệ mới có thể chiếu phá vô minh được. Vô minh phiền não không dấy khởi, thì ngay đó là chúng ta sẽ được giải thoát mọi khổ đau trói buộc vậy.
XXIV Phẩm Ái Dục
(Tanhavaggo)
334. Nếu buông lung thì tham ái tăng lên hoài như giống cỏ Tỳ la na mọc tràn lan, từ đời này tiếp đến đời nọ như vượn chuyền cây tìm trái.
The craving of one given to heedless living grows like a creeper. Like the monkey seeking fruits in the forest, he leaps from life to life (tasting the fruit of his kamma).
Kệ tụng
Người sống mặc buông lung
Ái tăng như dây rừng
Sống đời này đời khác
Như vượn tham quả rừng
335. Nếu ở thế gian này, mà bị ái dục buộc ràng, thì những điều sầu khổ càng tăng mãi như loài cỏ Tỳ la gặp mưa.
Whoever is overcome by this wretched and sticky craving, his sorrows grow like grass after the rains.
Kệ tụng
Ai sống trong đời này
Bị ái dục buộc ràng
Sầu khổ sẽ tăng trưởng
Như cỏ Bi gặp mưa.
336. Nếu ở thế gian này, mà hàng phục được những ái dục khó hàng phục, thì sầu khổ tự nhiên rụng tàn như nước giọt lá sen.
But whoever overcomes this wretched craving, so difficult to overcome, from him sorrows fall away like water from a lotus leaf.
Kệ tụng
Ai sống trong đời này
Ái dục được hàng phục
Sầu khổ tự tiêu dần
Như nước giọt lá sen.
337. Đây là sự lành mà Ta bảo với các ngươi: các ngươi hãy dồn sức vào để nhổ sạch gốc ái dục, như người muốn trừ sạch giống cỏ Tỳ la phải nhổ hết gốc nó. Các ngươi chớ lại để bị ma làm hại như loài cỏ lau gặp cơn hồng thủy!
This I say to you: Good luck to all assembled here! Dig up the root of craving, like one in search of the fragrant roots of birana grass. Let not Mara crush you again and again, as a flood crushes a reed.
Kệ tụng
Đây sự lành Ta dạy
Các ngươi tụ họp đây
Hãy nhổ tận gốc ái
Như nhổ gốc cỏ Bi
Chớ để ma quân hại
Như nước tràn cỏ lau.
Lược giảng:
Bốn pháp cú trên Phật dạy tại tinh xá Kỳ Viên, có liên quan đến câu chuyện con cá vàng Kapilamaccha.
Theo truyện tích, thuở xưa, thời đức Phật Ca Diếp, có hai anh em sanh trưởng trong một gia đình quý tộc, lớn lên xuất gia làm Sa môn. Người anh tên Sodhana và ngưòi em tên Kapila. Người mẹ Sàdhini và cô em gái Tàpanà cũng xuất gia làm Tỳ kheo ni. Sau khi xuất gia, hai anh em đều làm tròn bổn phận của một vị Sa môn. Một hôm, họ hỏi thầy Giáo thọ một người xuất gia có bao nhiêu bổn phận chánh yếu? Thầy Giáo thọ trả lời: có hai bổn phận chánh yếu: học và thiền định.
Nghe thế, người anh quyết tâm tu tập thiền quán và kết quả chứng A la hán. Ngược lại, người em thì chuyên tâm học hỏi thông suốt Tam tạng, không tu thiền định, bị con ma tham danh lợi quyến rũ, lại tự cao tự phụ, cậy mình học giỏi, khinh miệt các bậc tôn túc giới đức, kết bè lập phái, bất chấp lời khuyên giải của người anh, một bề hống hách, cuối cùng, thầy Kapila bị đọa vào địa ngục A tỳ.
Thời ấy, có năm trăm tên cướp, bị luật pháp truy tầm, nên cả thảy chạy vào rừng sâu ẩn náu. Bấy giờ, bọn họ gặp một vị ẩn sĩ và xin vị đó cho họ nương tựa. Vị ẩn sĩ bảo họ: không có nơi nương tựa nào an ổn bằng nương tựa vào đạo đức. Vậy, các anh có thể giữ năm giới được không? Tất cả đều đồng ý. Vị ẩn sĩ lại khuyên họ, các anh đã nguyện giữ năm giới cấm, từ nay về sau gặp phải bất cứ nghịch cảnh khó khăn nào, dù nguy hại đến tánh mạng, các anh cũng không được phạm giới. Họ nguyện quyết tâm vâng giữ.
Không bao lâu, dân làng biết được chỗ ẩn náu của họ, nên bọn họ đều bị dân làng giết sạch. Nhờ giữ giới luật trong sạch, nên tất cả đều được sanh lên cõi trời. Trải qua nhiều kiếp tái sanh đều được hưởng phước báo ở cõi trời.
Khi hưởng hết phước báo ở thượng thiên, cả bọn họ đều tái sanh ở nhân gian. Họ cùng tái sanh trong một ngày, vào thời của đức Phật Thích Ca còn tại thế. Riêng Kapila, sau khi mãn kiếp địa ngục, do dư báo của nghiệp ác, nên thầy tái sinh làm con cá nơi dòng sông Aciravati. Mình cá thì vàng óng nhưng hơi thở thì hôi thúi vô cùng.
Cá vàng lọt vào lưới của bọn trai dân chày trong làng. Biết được loại cá quý, bọn họ mang cá lên yết kiến nhà vua. Nhà vua nhìn thấy lấy làm lạ mới đem trình lên Phật và hỏi nguyên do về con cá vàng đó. Phật kể lại tự sự về tiền kiếp của Kapila trong thời Phật Ca Diếp. Tuy mang nghiệp ác mắng nhiếc các bậc Sa môn chân chánh tu hành, nhưng nhờ tụng đọc kinh điển, giảng pháp tán Phật, nên kết quả thân cá mới có được màu vàng đó.
Sau khi nghe Phật kể xong tiền kiếp của Kapila và những người thân trong gia đình, bà mẹ và người em gái cũng bị đọa địa ngục, vì tội phỉ báng Sa môn, chỉ có người anh là Sodhana nhờ tu thiền định mà được giải thoát. Nghe xong, tất cả thính chúng đều xúc động, lông tóc dựng ngược cả lên. Nhân đó, đức Phật nói bài kệ:
Hằng sống trong chánh kiến,
Hằng tu hạnh thanh tịnh,
Đấy hạt ngọc sang đẹp,
Quý hơn trong tất cả.
(Hết phần lược dẫn cốt chuyện)
Ái dục nguyên tiếng Phạn là Tanhà, nó có nghĩa là luyến ái, khát khao, bám víu. Có ba loại ái dục:
1. Dục ái: lòng ham muốn đam mê đắm nhiễm không rời ngũ dục, lục trần.
2. Hữu ái: thích thụ hưởng những thứ khoái lạc vật chất làm thỏa mãn ở nơi thân thể. Trong lúc thụ hưởng dục lạc, nghĩ rằng, sau khi chết không còn gì cả, đây là chủ trương thỏa mãn dục tính của phái Đoạn Kiến. Không sợ tội lỗi luân hồi nghiệp báo.
3. Vô hữu ái: Trong khi đam mê thụ hưởng khoái lạc vật chất, nghĩ rằng, đời đời sanh ra sẽ tiếp tục thụ hưởng, đây là thuộc về phái Thường Kiến hữu ái (Bhavatanha). Họ cho rằng, việc thụ hưởng khoái cảm vật chất nầy sẽ vĩnh cửu trường tồn bất diệt.
Bhavatanha (hữu ái) có khi được giải thích là sự đam mê luyến ái bám víu theo sắc giới và Vibhavatanha (hy hữu ái) là sự luyến ái đeo níu theo vô sắc giới.
Ái và dục là căn nguyên của sanh tử luân hồi. Trong Kinh Đại Bảo Tích ở phẩm Nhựt Mật Bồ Tát, Phật dạy: “ái là căn bản trong tất cả phiền não”.Từ ái sanh dục, từ dục sanh ưu, từ ưu sanh khổ não. Đó là một vòng tròn lẩn quẩn khổ đau mà hết thảy chúng sanh đều bị vướng mắc. Trong mười hai nhân duyên “Ái” và “Thủ” là đầu mối hay nguyên nhân gây ra quả khổ đau trong hiện tại. Luận cho cùng, ái và dục cũng phát sanh từ tâm vọng khởi. Vậy tâm mới thật sự là cội gốc. Nếu chúng ta muốn thoát khỏi gốc rễ luân hồi thọ khổ, thì không còn cách nào hơn là phải đoạn trừ ái dục. Đây là nói đối với những hành giả tu theo hạnh xuất thế. Tức tu theo hàng Nhị thừa, hay Bồ tát thừa hoặc là Phật thừa. Ngược lại, nếu chúng ta tu theo Nhân và Thiên thừa, tất nhiên, không thể nào đoạn hết ái dục được. Vì ái dục nó có dục thiện và dục ác. Người tu theo hai thừa căn bản nầy, thì cần phải khử trừ dục ác mà giữ lại dục thiện. Vì nhờ có dục thiện, nên người ta mới tạo nhiều việc phúc thiện và làm lợi ích cho mọi người. Kinh nói: “tu hành vô dục, đạo quả nan thành”. Dục thiện là ước muốn hướng thượng cao đẹp, nhằm xây dựng bản thân, gia đình và xã hội có đời sống thánh thiện an vui hạnh phúc. Tuy nhiên, nếu bạn muốn tu hạnh xuất thế, quyết vượt thoát khỏi vòng sống chết khổ đau, thì bạn phải hoàn toàn đoạn dục khử ái. Vì chính nó luôn làm cho bạn bất an. Nó khuấy động dẫn dắt bạn chạy theo nó không phút giây dừng nghỉ. Thất tình, lục dục là những thứ luôn làm cho mọi người phải bị điên đầu, điêu đứng vì nó.
Pháp cú 334, Phật dạy nếu buông lung thì tham ái tăng lên hoài. Thật vậy, lòng tham muốn khát vọng của con người, thật không bao giờ biết đủ dừng lại. Biển sâu đến đâu, người ta cũng còn có thể dò được, còn biển lòng của con người có đáy đâu mà đo! Quả đúng với câu nói của người xưa: “túi tham không đáy, đựng hoài không đầy, muốn mãi không thôi”. Nhưng người ta quên rằng càng tham muốn nhiều chừng nào, thì tất khổ lụy nhiều chừng nấy. Đời sống của những người không biết đủ, chắc chắn đời họ sẽ không bao giờ có hạnh phúc an vui. Bạn có thể cho rằng, những nhà tỷ phú, giàu có nhứt thế giới, đời sống của họ chắc là hạnh phúc lắm phải không? Nghĩ thế, bạn sẽ lầm to. Bề ngoài, tưởng là họ có nhiều tiền của hẳn là hạnh phúc lắm, nhưng kỳ thật, lòng họ không lúc nào an ổn. Họ là người luôn sống trong cô đơn và buồn chán. Đời họ chưa bao giờ có được hạnh phúc. Họ là người tính toán khổ tâm nhiều nhứt. Đầu óc của họ khó có được những giây phút an lạc thảnh thơi.
Ngược lại, đối với những người nghèo khổ, bạn cho rằng, đời họ sẽ không bao giờ có hạnh phúc. Sự đoán định đó của bạn, theo tôi, cũng chưa hoàn toàn đúng hẳn. Ở đời, có lắm người nghèo khổ, nhưng lòng họ cảm thấy rất hạnh phúc, vì họ khéo biết đủ. Lòng họ lúc nào cũng tươi mát. Họ không tranh giành bon chen với đời. Họ là hạng người: “khéo ăn thì no, khéo co thì ấm”. Chỉ cần, khéo biết an phận tùy thời, thì đời họ sẽ có rất nhiều an lạc hạnh phúc. Tuy hai chữ hạnh phúc rất khó định nghĩa cho chuẩn xác, nhưng, theo tôi, thì lúc nào tâm bạn thật sự bình an, không làm nô lệ cho dục vọng sai khiến, dẫn dắt, thì chính ngay giây phút đó là bạn mới thật sự là người có hạnh phúc nhất trên trần gian nầy.
Đối với người không biết đủ để hạn chế bớt lòng tham dục, thì Phật nói, giống như loại cỏ Tỳ la na la mọc tràn lan từ đời nầy đến đời nọ và như vượn chuyền cây tìm trái. Phật nêu ra thí dụ cụ thể để so sánh tâm buông lung ham muốn vô độ của con người. Hình ảnh con vượn chuyền cây tìm trái, thật quá rõ ràng. Tâm chúng ta giống như con vượn chuyền nhảy phan duyên không lúc nào yên. Nó chuyền nhảy để tìm trái, đó là trái ngũ dục, lục trần. Khi nào vượn không còn chuyền nhảy tìm trái nữa, thì khi ấy, vượn mới thật sự có hạnh phúc. Cũng thế, chỉ có khi nào tâm ta chịu dừng lại, không còn săn đuổi đắm nhiễm theo sáu trần, thì khi ấy đời ta mới thật sự có hạnh phúc an lạc.
Pháp cú 335, Phật dạy, nếu ở thế gian nầy mà bị ái dục buộc ràng, thì những điều sầu khổ càng tăng trưởng mãi như loài cỏ Tỳ la gặp mưa. Ai cũng biết, ái dục từ tư tưởng sanh, nếu tư tưởng không sanh khởi thì làm gì có ái dục? Loài cỏ Tỳ la bản chất của nó là mọc lan tràn, đã thế, mà còn gặp mưa nữa, thì nó lại càng tăng trưởng tốt tươi mạnh mẽ hơn. Cũng vậy, lòng người vốn là ham muốn không dừng, nay lại gặp những thứ vật chất, toàn là những thứ đầy sức quyến rũ hấp dẫn, thử hỏi làm sao tâm người ta không buông lung tham đắm cho được? Khi khởi một niệm tham muốn thèm khát một đối tượng nào đó, là ta đã bị cái đối tượng đó nó ràng buộc siết chặt ta rồi. Siết chặt như niềng kim cô trên đầu Tôn Hành Giả. Mỗi lần bị siết chặt đau đớn khó chịu như thế, ta thấy thật là tội nghiệp cho Tôn Hành Giả quá! Ngẫm kỹ lại, ta đã bị những niệm tham dục thèm khát, chúng siết chặt ta đau đớn sầu khổ không khác gì thân phận của Tôn Hành Giả. Muốn tránh nỗi khổ đau đó, chỉ có cách là ta phải gấp rút chuyển hóa những hạt giống thèm khát tham muốn của ta. Có thế, thì đời ta mới thật sự an vui hạnh phúc vậy.
Pháp cú 336, Phật dạy: “nếu ở thế gian nầy mà hàng phục những ái dục khó hàng phục, thì sầu khổ tự nhiên rụng tàn như nước giọt lá sen”. Lời Phật dạy tuy nhiều, nhưng ta có thể tóm gọn trong bốn chữ: “Giác ngộ giải thoát”. Giác ngộ là nhận diện trực giác cái hiện hữu đang xảy ra. Giải thoát là mở trói tháo gỡ những buộc ràng. Sự tháo gỡ không phải từ bên ngoài, mà chính trong tâm thức của mỗi người. Vì trong tâm thức của mỗi người có quá nhiều phiền não rối rắm, nội kết. Gốc của “nội kết” làm ta đau khổ là ái dục. Đó là thứ nội kết lớn. Thứ nội kết nầy không phải dễ hàng phục chế ngự. Nếu người nào hàng phục và chế ngự được nó, thì hẳn nhiên người đó sẽ là kẻ chiến thắng. Một sự chiến thắng hùng dũng oanh liệt nhứt. Đó mới thật sự giải thoát. Đã thế, thì mọi ưu tư sầu khổ, sợ hãi sẽ không còn nữa. Nên Phật nói: “như nước giọt lá sen”. Nước và lá sen không hề dính dáng gì nhau. Nghĩa là tâm và cảnh không còn liên quan dính mắc nữa. Tâm là tâm, cảnh là cảnh. Đến đây, mới thật sự như Ông Bàng Long Uẩn đã nói:
Tâm cảnh như như chỉ giá thị,
Hà lự Bồ đề đạo bất thành.
Pháp cú 337, Phật bảo chúng ta phải nhổ sạch gốc ái dục, giống như nhổ cỏ phải nhổ cho hết gốc rễ của nó. Phật còn thức nhắc chúng ta thêm rằng: “các ngươi chớ để bị ma làm hại như loài cỏ lau gặp cơn hồng thủy”. Ái dục có gốc rễ rất sâu dày. Muốn nhổ tận gốc rễ của nó, thật không phải là chuyện dễ dàng. Người tu, nếu không có ý chí kiên quyết mãnh liệt và thanh kiếm trí tuệ sắc bén, thì khó có thể đoạn trừ ái dục lắm. Thường chúng ta rất yếu đuối, luôn bị nó khống chế sai sử. Nó sai sử chúng ta không phải trong hiện đời nầy thôi, mà còn trải qua vô lượng đời trong quá khứ. Do đó, nên Phật nói gốc rễ của nó rất sâu dày. Khi nó không hoạt động, ta cứ ngỡ là nó không có, nhưng sự thật, đó là lúc nó đang phục kích tiềm ẩn. Bởi bản chất của nó là tập khí. Bình thường ta không thấy hơi hám của nó ở đâu, nhưng khi đối cảnh xúc duyên, thuận hoặc nghịch cảnh, thì chừng đó ta mới thấy nó xuất đầu lộ diện. Nếu là thuận cảnh thì nó hiện tướng khoái cảm thích thú. Nếu là nghịch cảnh không vừa ý, thì nó hiện tướng hung hăng dữ tợn, thật đáng ghê sợ. Muốn mà không đáp ứng đúng theo nhu cầu thỏa mãn, thì nó có thể phá tung cả thế giới. Bao cuộc chiến tranh, tàn sát đẩm máu, đại loạn, đó là hậu quả của lòng tham sân mà ra.
Đức Phật đã từng trải nghiệm và nhận diện rất rõ loại ma ái dục nầy. Nó luôn luôn khát vọng đòi hỏi mọi thứ nhu cầu thỏa mãn. Phải thỏa mãn qua ba nhu cầu thiết yếu: vật lý, sinh lý và tâm lý. Nhưng làm sao thỏa mãn cho lòng ham muốn? Biết sao cho vừa túi tham. Nhưng chúng ta đừng quên rằng: “Nhơn tham tài tắc tử, điểu tham thực tắc vong”. Nghĩa là con người vì ham tiền bạc của cải mà chết, chim vì tham ăn mà mất mạng. Đó là câu nói đầy kinh nghiệm của người xưa. Con người vì tham tiền bạc giàu có mà chết. Có biết bao người bị treo cổ hoặc tử hình, nhẹ hơn thì bị tù tội giam cầm cho đến chết, cũng chỉ vì nghe theo lời xúi giục của con ma tham mà buôn lậu nha phiến. Còn biết bao thực trạng đau khổ ngút ngàn khác, chung quy cũng chỉ vì không thắng nổi bọn ma ái dục nầy. Phật nói: “giống như loài cỏ lau gặp cơn hồng thủy”. Đó là một họa hại không thể lường được.
Qua câu chuyện lược dẫn trên, có hai đặc điểm đáng để cho chúng ta lưu ý ghi nhớ lấy đó làm bài học:
Thứ nhứt, mặc dù hai anh em đều xuất gia tu hành, nhưng người anh nhờ chuyên tu thiền quán, nên kết quả được giải thoát. Ngược lại, người em, thì lại chuyên tâm học hỏi, không lo tu hành thiền định, lại dựa vào sở học của mình mà khinh chê coi thường các bậc chân chánh tu hành, nên kết quả bị sa đọa. Như vậy, người tu mà chỉ một bề nghiên cứu nặng phần triết lý, chỉ ham đa văn lý thuyết suông, không chịu thật hành, kết quả không được lợi lạc trong sự nghiệp giải thoát.
Thứ hai, là chuyện của bọn giặc cướp. Bọn họ tuy làm ác, nhưng sau khi thức tỉnh hồi đầu, gặp được bậc thiện tri thức khai thị chỉ giáo, nên bọn họ quyết tâm nguyện vâng giữ năm giới cấm căn bản đạo đức của con người. Dù tất cả đều bị dân làng đuổi giết, nhưng đồng bọn thà chết, chớ không phá giới. Nhờ đó mà họ được sanh lên cõi trời hưởng nhiều phước báo. Ngược lại, thầy Kapila vì tạo nhân ác nên phải chiêu cảm đọa vào địa ngục A tỳ. Mãn kiếp địa ngục liền tái sanh làm con cá vàng mình mẩy hôi thúi. Đồng thời, bà mẹ và cô em gái, vì nghe theo lời xúi giục của Kapila kết bè lập phái tạo nhiều nghiệp ác, nên cả hai cũng đều bị đọa vào địa ngục thọ khổ. Đây là bài học cho chúng ta thấy rõ định luật nhân quả không bao giờ sai lệch. Từ đó, ta nên tránh những điều ác mà cố gắng làm những điều lành và luôn giữ tâm ý mình cho trong sạch. Được thế, thì chắc chắn chúng ta sẽ hưởng được những quả báo tốt đẹp trong hiện tại và tương lai. Ngược lại, thì rất là đau khổ.
338. Đốn cây mà chưa đào lấy gốc rễ thì tược vẫn ra hoài, đoạn trừ ái dục mà chưa sạch căn gốc thì khổ não vẫn sanh trở lại mãi.
Just as a tree, though cut down, sprouts up again if its roots remain uncut and firm, even so, until the craving that lies dormant is rooted out, suffering springs up again and again.
Kệ tụng
Đốn cây chưa sạch gốc
Rễ bén vẫn sanh hoài
Ái dục chưa sạch gốc
Khổ não vẫn sanh hoài.
339. Những người có đủ 36 giòng ái dục, họ mạnh mẽ dong ruổi theo dục cảnh chẳng chút ngại ngùng, bởi vậy, người đã có tâm tà kiến, hằng bị những tư tưởng ái dục làm trôi giạt hoài.
The misguided man in whom the thirty-six currents of craving strongly rush toward pleasurable objects, is swept away by the flood of his passionate thoughts.
Kệ tụng
Ba mươi sáu dòng ái
Đẩy ngươi theo dục cảnh
Người có tâm ái dục
Bị dòng ái cuốn băng.
340. Lòng ái dục tuôn chảy khắp nơi như giống cỏ Man la mọc tràn lan mặt đất. Ngươi hãy xem giống cỏ đó để dùng tuệ kiếm đoạn hết căn gốc ái dục đi.
Everywhere these currents flow, and the creeper (of craving) sprouts and grows. Seeing that the creeper has sprung up, cut off its roots with wisdom.
Kệ tụng
Dòng ái dục chảy khắp
Như giây leo mọc tràn
Thấy giây leo vừa sanh
Dùng kiếm tuệ đoạn gốc.
341. Người đời thường ưa thích theo ái dục, ưa dong ruổi lục trần, tuy họ có hướng cầu an lạc mà vẫn bị quanh quẩn trong chốn trầm luân.
Flowing in (from all objects) and watered by craving, feelings of pleasure arise in beings. Bent on pleasures and seeking enjoyment, these men fall prey to birth and decay.
Kệ tụng
Người đời thích ái dục
Ưa dong ruổi lục trần
Tuy mong cầu hạnh phúc
Nhưng vẫn phải sanh già.
342. Những người trì trục theo ái dục khác nào thỏ bị sa lưới, càng buộc ràng với phiền não, càng trở lại chịu khổ lâu dài.
Beset by craving, people run about like an entrapped hare. Held fast by mental fetters, they come to suffering again and again and again for a long time.
Kệ tụng
Người bị ràng ái dục
Sợ như thỏ sa lưới
Càng buộc ràng phiền não
Càng chịu khổ lâu dài.
343. Những người trì trục theo ái dục, khác nào thỏ bị sa lưới. Hàng Tỳ kheo vì cầu vô dục nên phải tự gắng lìa dục.
Beset by craving, people run about like an entrapped hare. Therefore, one who yearns to be passion-free should destroy his own craving.
Kệ tụng
Người bị ràng ái dục
Sợ như thỏ sa lưới
Nên tự gắng lìa dục
Tỳ kheo dục vô cầu.
Lược giảng
Sáu pháp cú trên Phật dạy tại tinh xá Trúc Lâm, có liên quan đến cốt chuyện con heo nái tơ.
Chuyện kể rằng, một hôm Đức Thế Tôn vào thành Vương xá khất thực gặp một con heo nái tơ. Con heo nái nầy thường sống lăn lóc trong đống phân. Thấy thế, đức Phật mỉm cười và hào quang phát sáng từ răng của Ngài. Tôn giả A Nan liền thưa hỏi lý do, vì sao Phật lại cười? Nhân câu hỏi nầy, đức Phật liền kể lại câu chuyện tiền kiếp của con heo nái tơ cho Tôn giả A Nan nghe.
Phật nói vào thời đức Phật Kakusandha, con heo nái tơ nầy là một chị gà ở gần Thiền đường nọ. Nhờ chăm chú nghe âm thanh của một thầy Tỳ kheo khi niệm đề mục thiền quán, mà chị gà thoát kiếp sanh vào cung vua làm công chúa Ubbari.
Trong lúc đi cầu, cô chăm chú quan sát những con dòi lúc nhúc trong đống phân, tâm liền định tĩnh, vào được Sơ thiền. Mãn kiếp công chúa, cô tái sanh vào dòng dõi Bà la môn. Từ đó, cô lại tạo nhiều nghiệp ác, nên kết quả phải tái sanh làm con heo nái tơ nầy. Phật nói tiếp, vì biết rõ cảnh huống ấy nên Ta cười.
Trong khi đó, các vị Tỳ kheo khác đi phía sau Tôn giả A Nan, nghe Phật nói thế, các vị rất chạnh lòng xúc cảm. Sau khi tác động tâm tư họ, đức Phật liền giảng giải sự ngu si của tham ái, và rồi Phật nói những pháp cú trên.
Con heo nái tơ về sau trải qua mười ba kiếp tái sinh, khi thì bị đọa làm súc sinh, khi thì được làm người giàu có sang trọng v.v… Có một kiếp cô làm vợ của một vị tể tướng và khi ấy có vị trưởng lão Anula đi ngang qua nhà trông thấy cô bèn bảo các vị Tỳ kheo:
- Nầy chư huynh, con heo nái tơ đã trở thành phu nhân ngài Lakuntaka Atimbara, Tể tướng của đức vua, thật lý thú biết bao!
Nghe những lời nói ấy, bỗng nàng nhớ lại hết những tiền kiếp của mình và chứng được Túc mạng thông. Sau đó, nàng bỏ tục xuất gia làm Tỳ kheo ni Pancabalaca và không bao lâu chứng quả A la hán. Bấy giờ, cô kể lại đầu đuôi tự sự câu chuyện đã trải qua nhiều kiếp luân hồi của mình cho mọi người nghe. Kể xong, cô khuyên các vị: Xin chư vị mỗi người hãy tự mình chánh niệm tinh tấn đến giải thoát.
Nghe qua câu chuyện và lời khuyên của cô làm tứ chúng vô cùng xúc động. Sau đó, cô nhập Niết bàn. (Hết phần lược dẫn cốt chuyện)
Pháp cú 338, Phật so sánh sự đoạn trừ ái dục giống như người đốn cây. Muốn cho cây không còn đâm chồi nẩy tược nữa, thì chúng ta phải đào bứng lấy cho hết gốc rễ của nó. Nếu còn gốc rễ, thì cây sẽ còn đâm chồi nẩy tược hoài. Đoạn trừ ái dục cũng thế. Phải bứng tận gốc rễ của nó, mới mong không còn tái sanh. Nếu còn ái dục dù là một niệm ham muốn nhỏ nhiệm, vẫn còn phải tái sanh trong vòng sanh tử luân hồi. Thế nên, Phật dạy, muốn không còn tái sanh thọ khổ, thì hành giả phải đoạn trừ tận gốc rễ ái dục.
Pháp cú 339, Phật nói mỗi người chúng ta đều bị ba mươi sáu dòng thác đổ ái dục đang tuôn chảy mạnh mẽ xô đẩy chúng ta đi vào những con đường bất thiện. Con số ba mươi sáu Phật nói ở đây, là để tiêu biểu cho số nhiều, đó chỉ là một ẩn dụ. Kinh điển thường nêu ra gồm có 18 thứ: “sáu căn, sáu trần và sáu thức”. Gọi chung là thập bát giới. Thế nhưng ở đây, Phật nêu ra con số ba mươi sáu là nói ái dục chỉ có liên quan đến căn và trần. Sáu căn và sáu trần cộng lại là mười hai rồi đem nhân với ba đời: quá khứ, hiện tại và vị lai, thành ra con số ba mươi sáu. Nếu nói rộng ra, khi căn, trần và thức chúng duyên kết lại với nhau, sẽ tạo thành một năng lượng phân biệt kích thích cho sự thèm khát ham muốn.
Đời sống hiện hữu của chúng ta, luôn bị những dòng thác ái dục nầy chi phối tất cả. Chúng lôi kéo chúng ta chạy qua nhiều phương hướng khác nhau. Khi mắt chạm xúc với sắc trần, liền khởi phân biệt tốt xấu. Tốt thì ham thích, xấu thì ghét chê. Cả hai đều gây ra cho ta bất an đau khổ. Chính cái sắc trần tốt đẹp vừa ý đó, nó có một sức thu hút mãnh liệt lôi cuốn chúng ta phải chạy theo nó. Có biết bao người chết vì đam mê sắc dục. Sắc nói ở đây gọi chung là vật chất, trong đó dĩ nhiên là có nhan sắc duyên dáng của con người. Có biết bao cặp tình nhân nam nữ ngày nay đã tự tử, chỉ vì không thỏa mãn được lòng khát vọng cao độ của tình yêu. Một khi lòng dục vọng thèm khát lên đến mức cao độ như dòng thác chảy rồi, thì không có một mãnh lực nào có thể ngăn cản nó được. Ngăn cản là có sự kháng cự chống đối mãnh liệt. Đó là hậu quả của biết bao gia đình tan nát con cái ly tán, chỉ vì không đáp ứng đúng theo nhu cầu đòi hỏi sở thích của sắc dục.
Đến như thinh dục hậu quả tai hại của chúng cũng không lường. Thinh là nói về các thứ âm thanh của các loại âm nhạc. Có biết bao người say mê theo âm nhạc mà quên ăn bỏ ngủ, tán thân mất mạng. Có những người nghe tiếng sáo thổi lảnh lót du dương của một khúc nhạc trầm buồn tâm sự nào đó, mà người ta rụng rời cả tay chân và rồi sanh bệnh tương tư ngày đêm nhung nhớ. Trường hợp như câu chuyện giữa chàng Trương Chi và nàng Mỵ Nương chẳng hạn. Thuở xưa, có năm trăm vị Tiên nhơn tu luyện ở trong núi Tuyết, chỉ vì nghe tiếng ca của nàng Chân đà la mà mất Thiền định, tâm say mê đắm đuối cuồng loạn.
Chúng ta thử kiểm nghiệm qua năm loại dục: tài, sắc, danh, thực, thùy, hay sắc, thinh, hương, vị, xúc, thì đủ biết tai hại của chúng đến mức độ nào. Luận cho cùng, thì căn và trần, thật ra chúng không có lỗi chi cả, mà lỗi là do ở nơi ý thức tác ý phân biệt. Do thức phân biệt tốt xấu… nên mới sanh tâm thương và ghét. Đó là đầu mối của sự ràng buộc trong vòng sanh tử khổ đau.
Pháp cú 340, Phật nhấn mạnh rõ thêm về tai hại của lòng khao khát ham muốn. Vì lòng ham muốn của con người không có giới hạn, giống như cỏ man la mọc tràn lan mặt đất. Lòng ham muốn của con người chỉ muốn thêm, không bao giờ muốn bớt. Dù là kẻ giàu có nhứt xứ, nhưng lòng họ cũng không bao giờ biết đủ. Kẻ ăn xin nghèo khó khao khát giàu có đã đành, nhưng bạn thử nghĩ các ông hoàng đế thì sao? Các ông nầy còn khao khát tham vọng của họ đến mức độ nào. Bản chất khao khát ước vọng của hai người chẳng khác gì nhau. Chỉ khác nhau trên hình thức bên ngoài mà thôi. Một kẻ ăn xin nghèo và một kẻ ăn xin giàu. Khi hy vọng mong cầu điều gì đó, người ta lại quên rằng, trong cái hy vọng đó đã ngầm chứa cái thất vọng. Có thất vọng là có buồn khổ. Người nào mong cầu nhiều, thì người đó đau khổ nhiều. Trong kinh thường gọi là cầu bất đắc khổ, một trong tám nỗi thống khổ lớn của con người. Muốn giảm bớt khổ đau, Phật dạy người Phật tử nên hạn chế bớt lòng ham muốn. Cao hơn là phải đoạn trừ tận gốc rễ của chúng. Có thế, thì mới thực sự được an lạc giải thoát vậy.
Pháp cú 341, Phật nói rõ tai hại của người nặng lòng ái dục. Người nặng lòng ái dục thường bám víu chạy theo những ham thích ở nơi sáu trần, dù có tâm hướng cầu an lạc, nhưng rốt lại, họ vẫn bị quanh quẩn trong chốn trầm luân. Qua lời Phật dạy, ngẫm kỹ, trong đời sống của chúng ta sao có quá nhiều mâu thuẫn. Một mặt, khi gặp nghịch cảnh khổ đau tràn ngập, thì lúc đó ta không còn tha thiết gì đến việc hưởng thụ những dục lạc ở đời. Chỉ một bề mong sao thoát khỏi cảnh khổ đau đó càng sớm càng tốt. Nhưng khi qua cơn đau khổ ngặt nghèo rồi, thì ta lại quên đi ý niệm mong được thoát ly. Bấy giờ cái tâm tha thiết giải thoát kia, như không còn có mặt với ta nữa. Ta trở lại nguyên hình với cái tâm tham cầu đắm nhiễm đam mê ở nơi dục lạc.
Nghe nói đến Niết bàn an lạc hạnh phúc, dập tắt mọi khổ đau thì ta cũng thích. Nhưng sự hưởng thụ những dục lạc ở thế gian thì ta cũng ham. Đó là tâm trạng của con chó chết giữa dòng sông. Người kia nuôi một con chó. Một hôm, ông cùng với nó đi dạo ở bờ sông. Bỗng nó nghe bên kia bờ sông có mùi thịt nướng thơm phứt, nó liền bỏ chủ cắm đầu bơi lội xuống sông định sang bên kia bờ. Nhưng khi nó bơi lội ra giữa dòng sông, thì nó nghe tiếng kêu gọi của ông chủ, nó liền quay đầu lại, định bơi trở về, vì nó không đành bỏ chủ. Vừa quay đầu lại, mùi thơm bên kia lại phất qua nữa, nó lại quay đầu hướng về mùi thơm, định bơi qua bên kia bờ. Cứ như thế, nó quay tới, quay lui, cuối cùng, đuối sức quá nó đành phải chết đuối giữa dòng sông. Tiếng kêu gọi của chủ là dụ cho ân nghĩa đạo đức. Còn mùi thơm là dụ cho ngũ dục lạc và sáu trần. Rốt lại, đạo đức cũng không thành, mà dục lạc cũng không hưởng được. Tâm trạng của chúng ta cũng mâu thuẫn tương tợ như thế. Cuối cùng, chúng ta cũng chết đuối giữa dòng sông sanh tử, giống như con chó kia chết đuối giữa dòng sông vật lý không khác.
Pháp cú 342, Phật nêu ra hình ảnh con thỏ bị sa vào lưới, để dụ cho những ai đam mê theo ái dục, cũng giống như thế. Con thỏ một khi đã bị sa vào lưới rồi, thì dù cho nó có muốn vùng vẫy để thoát ra, nhưng không phải thoát được dễ dàng. Chắc chắn là thỏ sẽ bị chết trong tay của người thợ săn. Cũng thế, Phật dạy, hàng Tỳ kheo vì cầu vô dục, nên phải gắng sức xa lìa ái dục. Nếu không, thì cũng chết như thân phận của con thỏ kia không khác. Lửa ái dục một khi đã bốc cháy cao ngọn, thì nó có thể thiêu hủy tất cả. Trước hết là tự thiêu mình trước, rồi sau đó, nó đốt cháy lan lây đến những người khác. Thật là đáng khiếp sợ cho lòng ái dục!
Cứ nhìn vào hiện trạng xã hội hiện tại, ta thấy có biết bao người đã và đang bị sa vào lưới dục vọng ái tình. Nói rộng ra là lưới ngũ dục lục trần. Sự hưởng thụ khoái lạc của xác thân, có lắm người cho rằng, đó là nguồn vui sướng khoái cảm nhất trên đời. Quan niệm nầy thật là sai lầm. Nặng lời hơn, theo như ông OSHO (tác giả bộ sách “Con Đường Của Phật” do Thích Nữ Trí Hải tuyển dịch), thì cho là quá ngu xuẩn. Chúng ta thử sát nghiệm có đúng như thế không? Hay đó chỉ là một sự trá hình mà chúng ta bị nó lường gạt thật vô cùng đau khổ. Vì lạc thú của thân xác thật là mong manh, vui đó rồi khổ đó. Có biết bao người bị thân tàn ma dại, cũng chỉ vì ham mê mua vui trong chốc lát, mà phải chịu khổ hận suốt cả cuộc đời. Chẳng những khổ mình mà còn làm khổ lây đến những người thân khác.
Sự đam mê chạy theo dục lạc, khác nào như người bị bệnh cùi ngứa ngáy, thích nướng mình trên lò than lửa cháy đỏ rực. Tuy có đã ngứa thật trong chốc lát, nhưng chứng bệnh cùi kia cũng vẫn còn nguyên vẹn, và mỗi ngày căn bệnh lại càng tăng thêm. Nếu không chữa trị tận gốc rễ kịp thời, thì người bệnh khó thoát khỏi lưỡi hái của tử thần. Cũng thế, nếu không đoạn trừ được cái gốc ái dục, thì chúng ta sẽ mãi mãi trầm luân trong biển sanh tử khổ đau.
Pháp cú 343, Phật lặp lại và nhấn mạnh thêm một lần nữa, người nào muốn xa lìa khổ đau, thì phải mau trừ ái dục. Đặc biệt, Phật dạy người xuất gia, hơn ai hết, cần phải đoạn trừ ái dục. Nếu không thì cũng giống như con thỏ bị sa lưới. Đó là lưới phiền não buộc ràng. Người tu, dù xuất gia hay tại gia, mà không dứt trừ phiền não, thì chắc chắn sẽ không thể nào thoát khỏi nghiệp quả khổ đau. Phật khuyên bảo người xuất gia phải luôn ý thức đến sự sanh tử khổ đau, mà gấp mau nỗ lực đoạn trừ ái dục.
Qua câu chuyện lược dẫn trên, cho chúng ta một bài học về hiệu năng lực dụng của thiền quán. Con heo nái tơ, trong lúc đọa làm kiếp gà, chỉ chăm chú nghe một thầy Tỳ kheo niệm đề mục thiền quán, mà kết quả gà được tái sinh vào cung vua và làm công chúa. Nhờ chăm chú quan sát đám dòi, tâm công chúa được định tĩnh và chứng được Sơ thiền. Sau khi chết, công chúa được sanh vào dòng Bà la môn. Nhưng rất tiếc, do tạo nghiệp ác, nên phải thọ sanh làm con heo nái tơ. Như vậy, dù tu chứng Sơ thiền, nhưng cũng không lấy gì làm đảm bảo. Một khi tạo nghiệp ác, thì cũng vẫn bị sa đọa như thường. Đó là luật nhân quả rất công bằng. Làm lành được hưởng phước, làm ác bị đọa lạc. Gieo hạt giống nào, thì lên hạt giống nấy, không bao giờ lộn lạo. Không thể gieo hạt ớt mà lên cây cam được.
Trải qua nhiều kiếp tái sanh khổ vui đều có, nhưng cũng nhờ có chút ít phước lành, nên con heo nái tơ có một kiếp tái sanh làm phu nhân của một vị Tể tướng. Tuy sống trong cảnh giàu sang nhung lụa, quyền uy thế lực, nhưng khi nghe được chuyện tiền kiếp lăn lộn khổ đau của mình, do một vị Trưởng lão tu chứng kể lại, cô liền thức tỉnh bỏ tục xuất gia. Tu hành không bao lâu, cô chứng được quả A la hán.
Về Đầu Trang Go down
https://triamquan.forumvi.com/
Tri Âm Quán
Thành Viên Tích Cực
Thành Viên Tích Cực
Tri Âm Quán


Tổng số bài gửi : 6340
Reputation : 2
Join date : 31/07/2013
Đến từ : Thị Trấn Chũ

Kinh Pháp Cú chú giải (tập 1) - Page 2 Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Kinh Pháp Cú chú giải (tập 1)   Kinh Pháp Cú chú giải (tập 1) - Page 2 EmptySun Nov 16, 2014 12:12 pm

344. Người đã lìa dục xuất gia, vui ở chốn sơn lâm, rồi trở về nhà lại; ngươi hãy xem hạng người đó, kẻ đã được mở ra rồi lại tự trói vào.
There is one who, turning away from desire (for household life) takes to the life of the forest (i.e. of a monk). But after being freed from the household, he runs back to it. Behold that man! Though freed, he runs back to that very bondage!
Kệ tụng
Người lìa dục xuất gia
Sống vui trong rừng thẳm
Nay chạy ngược về nhà
Nên xem người như vậy
Được thoát, lại tự ràng.
Lược giảng
Pháp cú nầy, Phật dạy tại tinh xá Trúc Lâm, có liên quan đến một thầy Tỳ kheo hoàn tục.
Theo truyện tích, có một thầy Tỳ kheo vốn là đồ đệ của Trưởng lão Đại ca diếp. Nhờ tinh tấn tu tập, nên thầy đã đạt được Tứ thiền. Một hôm, thầy đến nhà của ông chú chơi, ông nầy hành nghề thợ bạc. Do trông thấy nhiều đồ trang sức quý giá, thầy động lòng tham luyến, nên từ bỏ tu hạnh xuất gia.
Sau khi hoàn tục về nhà, thầy ăn không ngồi rồi, nên bị đuổi ra khỏi nhà. Từ đó, thầy giao du với những bạn xấu ác chuyên hành nghề cướp bóc. Thầy bị bắt và bị tra tấn hành hình rất đau khổ. Thầy bị trói chặt và dẫn đi hành quyết. Bất thần, thầy gặp lại sư phụ. Sư phụ liền dùng thần lực làm cho dây trói lỏng đi và bảo thầy:
- Ông hãy quán tưởng lại đề mục thiền định như đã từng làm.
Vâng lời Sư phụ dạy, thầy liền nhập định Tứ thiền. Dù thầy đã bị bọn lính hành hạ đủ mọi cách hung bạo, nhưng thầy không chút tỏ ra run sợ. Thầy rất bình tĩnh trước mọi áp lực. Thấy thế, bọn lính rất kinh ngạc, thán phục và rồi bọn chúng tâu lên vua. Sau khi nghe thuật lại mọi việc, nhà vua ra lệnh thả thầy tự do.
Thấy việc xảy ra lạ lùng, bọn chúng kéo nhau đến bạch trình với đức Phật. Đức phật phóng quang và phân thân đến pháp trường nói kệ. Nhân nghe pháp âm Phật nói, thầy liền khởi quán tưởng đề mục sanh tử, thấu rõ ngã không và đắc quả Dự lưu. Và sau cùng thầy chứng quả A la hán. (Hết phần lược dẫn cốt chuyện).
Pháp cú trên, nhân chuyện xảy ra của một thầy Tỳ kheo hoàn tục, nên Phật dạy chung cho tất cả những vị xuất gia. Tuy đã xuất gia, nhưng tâm tham dục luyến ái vẫn còn, nên khi thấy những món đồ trang sức chưng bày ở nhà của người chú làm thợ bạc, thì lửa tham dục của thầy bốc cháy lên dữ dội. Do không chế ngự được lòng ham muốn, nên thầy từ bỏ đời sống cao đẹp phạm hạnh xuất thế. Thầy trở về với đời sống của người thế tục. Tuy tu hành chứng được Tứ thiền, (loại thiền của phàm phu, vẫn còn trong vòng sanh tử tam giới), nhưng không lấy gì làm đảm bảo. Sau khi trở về nhà, thầy lại bị cuốn hút vào con đường tội lỗi, trở thành một kẻ đạo tặc hành nghề cướp bóc. Thầy sống trên sự đau khổ nước mắt của người khác. Nhân nào quả nấy, cuối cùng, thầy bị sa vào lưới pháp luật. Dù vậy, nhưng thầy nhờ có một vị Sư phụ, đạo lực cao thâm, biết rõ căn cảnh của thầy, nên cứu thoát được thầy thoát khỏi ngục hình tử tội.
Nhờ tập quán công năng của thiền định; nhờ sự thức nhắc của một bậc Đại thiện tri thức, người mà xưa kia thầy đã hết lòng tin tưởng, nên thầy an trụ vào Tứ thiền, quên hết mọi cảnh vật chung quanh, lúc đó, dù thầy đã bị bọn lính hành hạ đủ mọi cách hung bạo, nhưng thầy hoàn toàn không lộ ra một chút lo âu sợ hãi. Thế mới biết, sức mạnh của thiền định như thế nào. Đó chỉ là cái định của phàm phu thôi, mà còn có hiệu quả mạnh mẽ như thế. Nói chi đến những loại thiền định của các bậc A la hán, Bồ tát hay Phật.
Qua đó, chúng ta thấy tập khí của ái dục rất sâu nặng. Đối với người xuất gia chúng ta, cần phải nỗ lực đề phòng cẩn trọng những thứ tập khí trong tâm ta. Đối với người tu, dù xuất gia hay tại gia, Phật dạy, chúng ta đều phải luôn luôn tỉnh thức. Có tỉnh thức, chánh niệm, chánh quán, chúng ta mới có thể làm chủ được mình phần nào. Nếu không, thì chúng ta là những kẻ hoàn toàn làm nô lệ cho những thứ dục vọng phiền não sai sử. Đã thế, thì không sao tránh khỏi sự sa đọa khổ đau.
345. Đối với người trí, sự trói buộc bằng dây gai, bằng cây, bằng sắt chưa phải kiên cố, chỉ có lòng luyến ái vợ con, tài sản mới thật là sự trói buộc chắc bền.
345-346 That is not a strong fetter, the wise say, which is made of iron, wood or hemp. But the infatuation and longing for jewels and ornaments, children and wives – that, they say, is a far stronger fetter, which pulls one downward and, though seemingly loose, is hard to remove. This, too, the wise cut off. Giving up sensual pleasure, and without any longing, they renounce the world.
Kệ tụng
Sắt, dây gai trói buộc
Người trí xem chưa chắc
Tham châu báu vợ con
Trói buộc mới thật bền.
346. Những kẻ dắt người vào sa đọa, là như sự trói buộc chắc bền, nó hình như khoan dung hòa huởn mà thật khó lòng thoát ra. Hãy đoạn trừ đừng dính mắc, lìa dục mà xuất gia.
Kệ tụng
Người có trí nói rằng:
“Trói buộc này rất chắc”
Rì kéo xuống, mềm mỏng
Nhưng thật sự khó thoát
Người trí cắt trừ nó
Bỏ dục lạc, không màng.
Lược giảng
Hai pháp cú trên, Phật dạy tại tinh xá Kỳ Viên, có liên quan đến ngôi nhà tù.
Một hôm, các tội phạm bị dẫn đến trước vua Ba tư nặc. Bọn họ phạm nhiều trọng tội như: trộm cướp, giết người, hiếp dâm v.v… Những tội nhân nầy đều bị trói chặt. Các thầy Tỳ kheo nhân trông thấy bọn tội phạm bị hành hạ tra tấn trong nhà tù, các thầy liền kéo nhau đến bạch trình thưa hỏi đức Phật.
Sau khi trình bày qua sự chứng kiến tận mắt về những tội nhân bị trói bằng gông, dây thừng, dây xích, thật là đau khổ, các ngài thắc mắc hỏi đức Phật, không biết có thứ gì trói buộc bền chắc hơn nữa không? Nhân câu hỏi nầy, Phật cho biết, những loại dây đó không có gì bền chắc, chỉ có những dây tham ái, si mê, mới là những thứ dây gông cùm trói buộc siết chặt chúng sanh chịu đau khổ lắm tang thương hệ lụy trải qua nhiều đời. Phật lại nói tiếp, tuy những sợi dây đó, nó có sức mạnh trói buộc gấp trăm ngàn lần hơn những thứ dây mà các ông thấy, nhưng đối với những bậc hiền trí, người ta cũng có thể cởi bỏ nó được dễ dàng.
Đức Phật kể chuyện quá khứ của Ngài. Thuở xưa, khi vua Brahmadatta trị vì ở Ba la nại, Ngài là một con trai của một gia đình nghèo khổ. Lớn lên, cha chết, Ngài phải đi làm thuê nuôi mẹ. Sau khi lập gia đình, mẹ mất, vợ chàng mang thai đứa con đầu lòng, nhưng chàng không hề hay biết. Một hôm, chàng nói với vợ là chàng muốn đi tu. Người vợ mới nói thật là mình đã có thai và xin chàng ở lại. Sau khi sanh con, chàng thực hiện ý định cũng không muộn. Sau khi sanh, chàng nói với vợ, bây giờ hãy để cho anh đi. Nhưng người vợ lại xin chàng ở nán lại chờ khi con dứt sữa hãy đi. Trong thời gian chờ đợi, người vợ lại có thai đứa con thứ hai.
Bấy giờ, chàng tự nghĩ, nếu tình trạng kéo dài như thế nầy, thì biết bao giờ chàng mới thực hiện được ý định. Chỉ còn có cách là phải bỏ trốn đi thôi. Thế là, chàng bỏ nhà trốn đi vào giữa đêm, không một lời từ giã. Dù bị lính gác bắt giữ, nhưng sau cùng chàng cũng được toại nguyện.
Chàng lên núi Hy mã lạp sơn sống đời ẩn sĩ. Không bao lâu, chàng đắc thần thông và những quả vị cao hơn. Chàng thầm nghĩ: “Ta đã bứt tung được sợi dây trói thật quá ư bền chắc, sợi dây tham dục xấu xa, sợi dây của lòng luyến ái vợ con”.
Kể xong chuyện quá khứ, đức Phật liền nói kệ để làm rõ nghĩa bài kệ của nhà ẩn sĩ. (Hết phần lược dẫn cốt chuyện).
Hai pháp cú trên, Phật nói rõ về sự ân ái quyến luyến trong tình gia đình vợ con. Phật cho rằng, đối với người trí, thì mọi thứ dây trên đời, không có dây nào trói buộc bền chắc cho bằng sợi dây ân ái. Đây là sợi dây tuy vô hình, nhưng nó có một sức mạnh trói chặt mãnh liệt. Ngoài sự luyến ái vợ con ra, người ta còn luyến ái của cải tài sản. Chính những thứ nầy, nó trói buộc chặt con người từ đời nầy sang đời khác. Hiểu được ý nầy, nên dân gian có câu nói: “Tu là cội phúc, tình là dây oan”. Sợi dây oan gia nầy mới đáng ghê sợ. Tuy biết là dây oan, nhưng nhìn lại, có mấy ai thoát khỏi sợi dây nầy. Thật là sông mê bể ái nghìn trùng. Xưa nay, sóng tình đã nhận chìm không biết bao anh hùng cái thế. Người ta có thể diệu võ dương oai, hò hét khét tiếng vang dậy khắp trong thiên hạ, nhưng bản thân họ thật sự lại rất yếu mềm hơn con bún thiêu trước sắc đẹp của mỹ nhân.
Thử nhìn lại, các ông vua, ông chúa, những ông tai to mặt lớn, đi đâu cũng được người ta tiền hô hậu ủng, oai phong lẫm liệt, mọi người trông thấy đều phải khúm núm sợ hãi trước oai quyền thế lực, nhưng cuối cùng, cuộc đời của các ông đó ra sao? Có phải phần lớn đều phải tán thân mất mạng, sự nghiệp tiêu tan, chỉ vì không qua khỏi cửa ải của mỹ nhân không?!
Người xưa có nói: “mưa không phải là cái khóa bằng sắt, mà nó có thể giữ lại người. Sắc đẹp không phải là sóng to, nhưng nó có khả năng nhận chìm con người. Xưa nay, có biết bao anh hùng đều chết vì nó, và có cả hằng trăm ngàn người đều phải bị sa vào hầm hố nầy”. (Vũ vô thiết tỏa năng lưu khách, sắc bất ba đào dị nịch nhân, thiên cổ anh hùng giai tạ thử, bá thiên đồng tác tự khanh trần).
Trong Kinh Tứ Thập Nhị Chương, có một bài kinh Phật nói về sự ân ái quyến luyến của tình thê tử. Phật dạy rằng: “Người bị ràng buộc bởi vợ con, nhà cửa còn quá hơn lao ngục, lao ngục còn có thời kỳ phóng thích, vợ con không có một ý niệm xa lìa. Một khi tâm thích về sắc đẹp, thì đâu còn sợ gì đến sự gian nguy. Dẫu cho có sự hoạn họa nơi miệng hùm, lòng cũng đành chịu. Vì tự đắm mình nơi lầy lội, gọi là phàm phu, nếu hiểu được lẽ ấy, chính là bực xuất trần La hán”. (Chương 23, giáo sư Thích Hoàn Quan dịch ).
Câu chuyện lược dẫn trên, Phật kể cho chúng ta biết về chuyện quá khứ của Ngài. Dù đôi lần muốn thoát ly, nhưng sự dứt khoát ra đi của Ngài quả là một vấn đề nan giải. Nhưng cuối cùng, Ngài cũng vẫn thực hiện được ý nguyện. Đó là nhờ căn lành trồng sâu trong nhiều đời, nên Ngài mới có được một ý chí cương quyết dứt khoát mãnh liệt. Nhờ đó, Ngài mới có thể cắt đứt sợi dây ái tình thê tử ràng buộc.
347. Những người say đắm theo dục, tự lao mình trong lưới buộc như nhện giăng tơ. Ai dứt được sự buộc ràng không còn dính mắc nữa, thì sẽ xa mọi thống khổ để ngao du tự tại.
Those who are lust-infatuated fall back into the swirling current (of samsara) like a spider on its self-spun web. This, too, the wise cut off. Without any longing, they abandon all suffering and renounce the world.
Kệ tụng
Người đắm say ái dục
Tự lao mình xuống dòng
Như nhện sa lưới dệt
Người trí cắt trừ nó
Bỏ thống khổ, không màng.
Lược giảng
Pháp cú nầy Phật dạy tại tinh xá Trúc Lâm, có liên quan đến câu chuyện của bà hoàng hậu Khema, vợ của vua Tần bà sa la.
Bà Khema là người có nhan sắc tuyệt đẹp, do đó, nên bà rất tự kiêu tự hào về nhan sắc của mình. Sở dĩ được thế, là nhờ bà khéo biết tu hạnh nhẫn nhục và có lời nguyền dưới chân đức Phật Padumuttara. Do lòng kiêu hãnh, nên bà không muốn gặp Phật, vì bà thường nghe người ta nói Phật hay quở trách về sắc đẹp. Nhà vua, vì muốn thức tỉnh bà, nên ông cho người sáng tác bản nhạc tán thán Trúc Lâm. Vua ra lệnh cho các nghệ sĩ hát bài ca ấy khắp nơi.
Nghe qua bài hát, bà rất ngạc nhiên và muốn biết về Trúc Lâm. Bà hỏi thăm các nghệ sĩ chỉ khu rừng Trúc cho bà. Thế là bà tìm đến. Khi đến, trong lúc Phật đang thuyết pháp và biết ý bà, nên Phật dùng thần lực hóa hiện một cô gái tuyệt đẹp cầm quạt hầu Phật.
Thấy thế, bà rất ngạc nhiên, tại sao có một cô gái quá đẹp như thế? So với nhan sắc của ta, thì nhan sắc của cô gái hơn ta gấp trăm ngàn lần. Bà tự hỏi, tại sao Phật thường chê trách sắc đẹp mà hôm nay Ngài lại cho một cô gái đẹp đứng hầu bên Ngài. Bà tự nghĩ, chắc chắn những gì mà người ta nói về đức Phật chê bai sắc đẹp không được đúng lắm.
Bà luôn để mắt chăm chú nhìn người con gái đó, mà không quan tâm gì đến lời Phật giảng. Biết thế, Phật liền biến người con gái đẹp kiều diễm kia thành bà già lụ khụ, rồi cuối cùng chỉ còn là một bộ da bọc xương. Thấy thế, bà liền thức tỉnh về sự tàn phai và hoại diệt của nhan sắc thật rất nhanh chóng. Quả thân nầy không thật chút nào!
Biết được ý nghĩ của bà, Phật liền bảo:
-Khema, bà nghĩ một cách sai lầm rằng sắc đẹp thể chất là có thật. Bà hãy xem cái không thật của nó kìa. Phật liền nói kệ:
Bà Khema có thấy
Mớ duyên hợp kia không?
Đầy bệnh hoạn thối ung
Đồ bất tịnh dơ xấu
Từng phút giây rỉ chảy
Chỉ những kẻ ngu si
Mới đắm say thứ ấy.
Nghe xong, hoàng hậu Khema đắc quả Dự lưu, đức Phật bảo bà:
- “Nầy Khema, chúng sanh trong thế gian nầy đắm say ái dục, bị lòng sân hận làm hư hỏng, bị ngu si đánh lừa, do đó dính chặt trong dòng sông tham ái, không thể vượt thoát ra nổi”.
Khi bài pháp kết thúc, bà đắc quả A la hán và cả hội chúng đều được lợi lạc. Về sau bà xuất gia trở thành một trong những Trưởng lão ni xuất sắc của Tăng đoàn đức Phật. (Hết phần lược dẫn cốt chuyện)
Kinh Tứ Thập Nhị Chương, có một bài kinh Phật nói: “Người say đắm ái dục khác nào như kẻ cầm đuốc đi ngược gió, tất không thể nào tránh khỏi nạn cháy tay”. Có biết bao người lâm vào khổ cảnh của nạn cháy tay nầy. Biết thế, nhưng con người vẫn thích đùa giỡn với cây đuốc ái dục. Khi nào bị cháy tay thiêu hủy tàn hại thân thể rồi, thì chừng đó người ta mới giựt mình ăn năn hối hận. Song rất tiếc, sự ăn năn đó đã quá muộn màng rồi! Chi bằng tránh cái nhân cầm đuốc đi ngược gió, thì làm gì có cái quả khổ nạn cháy tay. Không phải cháy tay trong hiện đời nầy thôi, mà nó còn kéo dài triền miên trong nhiều đời đau khổ nữa. Đó là hậu quả của những người say đắm đam mê theo sắc dục. Thực sự, họ không một chút tỉnh giác hồi đầu. Khác nào như con nhện tự sa vào lưới. Nhện giăng tơ dệt ra, rồi chính nó lại bị mắc kẹt trong đó. Dính kẹt một cách rất đau thương không còn cơ may vùng vẫy. Cũng thế, sắc dục do con người ham muốn gây ra, và rồi cũng chính con người tự hủy diệt đời mình. Không ai gây ra đau khổ cho mình, mà chính mình tự gây và tự chuốc lấy họa hại vào mình mà thôi. Khác nào như sắt sanh ra sét và chính chất sét trở lại phá hoại làm tiêu hủy hình hài của sắt.
Chuyện lược dẫn trên, khá khen cho bà hoàng hậu Khema. Nhìn thấy sự biến đổi vô thường nhanh chóng của nhan sắc, bà tự thức tỉnh giác ngộ ngay. Lòng kiêu hãnh, tự hào về sắc đẹp của bà, chỉ trong phút chốc đã tan biến hết. Mình đẹp có người đẹp hơn. Đời tương đối là thế. Có gì mà phải đắc ý kiêu hãnh. Nhưng cái đẹp của nhan sắc sao bằng cái đẹp của tấm lòng. Người có nhan sắc tuyệt trần, chim sa cá lặn, mà lòng dạ độc ác còn hơn quỷ Dạ xoa, thì cũng không ai thèm ưa thích. Bởi cái nết đánh chết cái đẹp kia mà. Nhưng ở đời người ta chỉ thích chuộng cái đẹp dáng vẻ bề ngoài, không mấy ai thấy được cái đẹp bên trong. Dù đẹp đến cỡ nào đi chăng nữa, cũng có ngày phải héo úa tàn phai!
Ở đây, ta thấy bà hoàng hậu Khema, đã thực sự hồi tâm tỉnh giác. Cuối cùng, bà đã xuất gia và trở thành một Trưởng lão ni gương mẫu. Đó là bài học cảnh tỉnh cho những ai còn quá coi trọng nhan sắc. Chính vì quá coi trọng nhan sắc mà gây lắm điều khổ hại cho mình và người. Chúng ta nên nhớ rằng, sắc đẹp ngoại diện chỉ là hào nhoáng giả dối và bất tịnh. Chúng không qua mắt lừa đảo phỉnh gạt được người có trí. Phật nói, chỉ có những kẻ ngu si mới bị chúng lường gạt đau khổ mà thôi. Quả thật, càng ham mê sắc đẹp, con người càng lao mình vào ngục tù đau khổ. Khác nào như con phù du đâm đầu vào ánh sáng để tự hủy diệt vậy.
348. Bỏ quá khứ, hiện tại, vị lai mà vượt qua bờ kia; tâm đã giải thoát tất cả, thì không còn bị sanh già trở lại.
Let go of the past, let go of the future, let go of the present, and cross over to the farther shore of existence. With mind wholly liberated, you shall come no more to birth and death.
Kệ tụng
Bỏ quá, hiện, vị lai
Đến bờ kia cuộc đời
Tâm giải thoát tất cả
Không còn bị sanh già.
Lược giảng
Pháp cú nầy Phật dạy tại tinh xá Trúc lâm, có liên quan đến câu chuyện của Uggasena.
Theo truyện tích, có một đoàn xiếc đến trình diễn bảy ngày tại thành Vương xá. Nhà vua và nhiều khán giả đến xem họ biểu diễn. Bọn họ được mọi người tán thưởng và hiến tặng quà cáp, tiền, vàng rất nhiều.
Trong đoàn có cô gái vừa có nhan sắc đẹp lại vừa biểu diễn rất hay, làm cho chàng trai con của ông chưởng khố nhìn say mê đắm đuối và sau khi về nhà chàng nói: “nếu cưới được nàng ấy, thì chàng mới sống, còn không thì chết cho xong”. Từ đó, chàng ta nhớ nhung nàng quá độ đến đỗi bỏ ăn mất ngủ. Ba mẹ chàng thấy thế, hết lời khuyên nhủ, nhưng chàng vẫn một mặt khư khư đòi tự tử, nếu không cưới được nàng ta. Thấy con quá đau khổ vì tình yêu, người cha đành phải chiều theo ý con bằng cách dùng tiền lo lót cho ông chủ đoàn xiếc, tức ba của cô gái để ông ta đưa người con gái đến gặp mặt con trai quý của ông. Ông chủ đoàn xiếc từ chối và ông ta đưa ra một điều kiện là, người con trai đó phải đi theo đoàn xiếc, thì ông mới gả con gái cho. Vì muốn được sống chung với người mình yêu, nên chàng ta đành phải chấp nhận gia nhập đoàn xiếc.
Sau khi cưới xong, chàng ta cùng đoàn xiếc đi biểu diễn khắp nơi. Chẳng bao lâu, cô vợ sanh một đứa con trai. Những lúc đùa giỡn với con, nàng ta có ý dùng lời châm biếm mỉa mai người chồng, bằng những câu nói khó nghe. Chàng ta hiểu ý, chạm lòng tự ái, nên chàng nói, nếu nàng còn nói bóng gió chê bai như thế, thì chàng quyết định bỏ nàng. Người vợ ỷ vào tài năng diễn xuất của mình, nên nàng tỏ ra bất cần chàng. Thấy vợ có vẻ kiêu ngạo khinh mình, chàng ta quyết định sẽ học làm xiếc. Chàng học với cha vợ thời gian không bao lâu, chàng ta trở thành người diễn xuất rất giỏi, được khán giả hoan nghinh ủng hộ nhiệt liệt.
Một hôm đoàn xiếc trở về biểu diễn ở thành Vương xá, chàng Uggasena trèo lên đầu cây cột cao ba chục mét và đứng lơ lửng trên đầu sào.
Hôm ấy, Đức Phật quán sát và muốn độ chàng, nên Phật nói bốn câu kệ. Nghe xong, chàng Uggasena liền đắc quả A la hán.
Hôm sau, đức Phật và các Tỳ kheo vào thành Vương xá khất thực, đến chỗ biểu diễn, mọi người trông thấy Phật, tất cả đều để ý chăm chú nhìn Phật, không còn ai để ý đến việc biểu diễn của Uggasena nữa. Chàng ta buồn tủi và vô cùng thất vọng. Chàng tự nhủ thầm, ta phải mất một năm luyện tập mới được thế nầy. Thế mà mọi người khi nhìn thấy đức Phật, không còn ai chú ý đến tài nghệ biểu diễn của ta. Thật là quá đau lòng! Vì hiểu được ý nghĩ tâm tư của chàng, nên Phật sai bảo Trưởng lão Mục Kiền Liên:
- Ông hãy đến bảo con viên chưởng khố ta muốn xem chàng biểu diễn tài nghệ.
Nghe thế, chàng ta rất mừng và liền biểu diễn cho Phật và mọi người xem. Đức Phật bảo:
- Nầy Uggasena, người trí phải biết cởi bỏ buộc ràng của thân ngũ uẩn trong quá khứ, hiện tại và vị lai. Như vậy, người ấy mới thoát được sanh, già, bệnh, chết. Sau khi nghe Phật dạy, mọi người đều được pháp nhãn thanh tịnh. (Hết phần lược dẫn cốt chuyện)
Pháp cú trên, đức Phật bảo chúng ta muốn thoát ly sanh, già, bệnh, chết, bốn nỗi thống khổ lớn của con người, thì phải mau quán chiếu xả ly ngũ uẩn. Sở dĩ ta đau khổ, vì ta còn quá coi trọng ngũ uẩn. Ngũ uẩn là do kết hợp bởi năm yếu tố: sắc, thọ, tưởng, hành và thức mà thành thân tâm. Như vậy, mạng sống của ta là do duyên hợp. Đủ điều kiện tương hợp, thì còn sinh tồn, khi thiếu một điều kiện nào đó, thì thân xác ta tan rã. Năm yếu tố trên, tóm gọn cho dễ nhận hiểu là: “vật chất và tinh thần”. Vật chất thuộc về tứ đại: đất, nước, gió, lửa. Tinh thần, là do bốn thứ: thọ, tưởng, hành và thức kết hợp. Phân tích ra từng yếu tố, ta thấy không có gì là mình, nên nói là vô ngã. Nghĩa là không có cái ta chân thật. Như vậy, cái mà ta gọi là mình hay tôi, ta, đó chẳng qua là tên gọi giả danh, rỗng tuếch mà thôi. Thực chất thì không có cái gì là cái ta cả. Cho nên, Kinh Bát Nhã nói: “Ngũ uẩn giai không là thế”. Nếu người nào hằng quán sát khế nhận tường tận như thế, thì Phật nói, người ấy sẽ vượt qua mọi khổ nạn. Ngược lại, thì khổ nạn dài dài, bởi do vọng chấp cho cái giả ngã là thật.
Sanh, già, bệnh, chết, suy cho cùng cũng chỉ vì có cái thân xác nầy. Đó là trạng thái biến dịch, vô thường, hoại diệt. Sinh, trụ, dị, diệt, là một chu kỳ thay đổi bất cứ một vật thể nào cũng đều phải nằm trong cái nguyên tắc căn bản của định luật đó. Còn luyến ái chấp chặt vào cái sắc thân ngũ uẩn, tất nhiên, ta còn phải đi lang thang trong tam giới khổ đau. Tất nhiên còn phải thọ thân qua ba thời gian: quá khứ, hiện tại, và vị lai, nếu như ta còn thấy thân tâm và vạn pháp là thật. Chính cái thấy thật nầy, đó là tà kiến, là tạo nghiệp, là thọ mạng trôi nổi trong biển sanh tử khổ đau mãi. Và tất nhiên, là ta sẽ cảm thọ những cái bất như ý của cái thân tâm giả hợp nầy.
Câu chuyện lược dẫn trên, cho ta một vài bài học đáng nhớ:
1. Duyên nợ khó tránh. Chàng trai Uggasena lần đầu gặp người con gái trong đoàn xiếc, tiếng sét ái tình đã nổ tung rung động trong trái tim chàng. Chàng đau tương tư quên ăn bỏ ngủ. Nhứt quyết phải cưới cho được nàng. Và mối si tình đó của chàng đã được toại nguyện. Âu đó cũng là do duyên nghiệp nhiều đời trong quá khứ.
2. Khích lệ người chồng. Sau khi hai người sống chung có con, nàng muốn cho chàng có tương lai sự nghiệp, nên trong lúc đùa giỡn với con, nàng nói những lời khó nghe để đánh mạnh vào lòng tự trọng, tự ái của chàng. Kết quả, người chồng đã chịu học hỏi và đã thành tài.
3. Nhân duyên khó lường. Biết rõ căn duyên của chàng Uggasena đã đến lúc chín muồi cần hóa độ, nên đức Phật hiện thân đến nói kệ và chàng ta nghe xong đã đắc quả A la hán. Thật là căn duyên của mỗi người khó mà đoán định. Chỉ có đức Phật mới thấu rõ mà thôi. Điều đó cho ta nhớ là chớ nên khinh thường ai. Vì duyên lành sâu dày của mỗi người không ai biết được. Mỗi người đều sẵn có chủng nhân Phật tánh.
4. Phá vỡ ngôi nhà ngũ uẩn. Muốn giải thoát sanh tử khổ đau, Phật dạy chúng ta phải cởi bỏ sự ràng buộc của ngũ uẩn. Vì chính ngũ uẩn là ngôi nhà giam hãm chúng ta trải qua nhiều đời, nay ta cần phải phá vỡ ngôi nhà nầy mới mong giải thoát.
349. Những kẻ bị tư tưởng xấu ác làm tao loạn, thường cầu mong dục lạc thật nhiều. Mong dục lạc tăng nhiều là tự trói mình càng thêm chắc chắn.
For a person tormented by evil thoughts, who is passion dominated and given to the pursuit of pleasure, his craving steadily grows. He makes the fetter strong indeed.
Kệ tụng
Người ác ý giao loạn
Tham dục nặng, lạc cầu
Ái tất phải tăng truởng
Tự trói chặt thân mình.
350. Muốn lìa xa ác tưởng hãy thường nghĩ tới bất tịnh. Hãy trừ hết ái dục, đừng để ác ma buộc ràng.
He who delights in subduing evil thoughts, who meditates on the impurities and is ever mindful – it is he who will make an end of craving and rend asunder Mara’a fetter.
Kệ tụng
Ai vui lìa ác tưởng
Quán bất tịnh, chánh niệm
Người ấy sẽ diệt ái
Cắt hẳn với ma vương.
Lược giảng
Hai pháp cú trên Phật dạy tại tinh xá Kỳ Viên, có liên quan đến câu chuyện của thầy Tỳ kheo trẻ tên Culla Dhanuggaha Pandita, có nghĩa là chàng xạ thủ tài ba.
Theo truyện tích, một hôm, có một thầy Tỳ kheo trẻ sau khi khất thực về, thấy hết nước uống, thầy liền đến nhà Đàn việt xin. Trong nhà có cô gái trẻ. Cô nầy vừa trông thấy thầy, cô liền khởi tâm luyến ái, cô nói:
- Bạch Đại đức, khi nào cần nước uống, xin ngài trở lại đây chớ đừng đi nơi khác. Từ đó, thầy Tỳ kheo thường đến nhà cô ta và được cô ta cúng dường thức ăn đủ mọi thứ. Đó là cái cớ để cho cô ta dễ lân la trò chuyện. Sau vài lần chuyện trò thân mật cởi mở, thầy Tỳ kheo có ý muốn hoàn tục cưới cô. Bấy giờ, thầy rơi vào tình cảnh phiền muộn tấn thối lưỡng nan. Một mặt, thì vẫn còn muốn tiếp tục tu hành; mặt khác, thì cảm thấy chán nản cho việc tu hành ép mình kham khổ. Ý nghĩ của thầy rất là mâu thuẩn, không dứt khoát. Các thầy Tỳ kheo khác thấy thế, mới trình lên thầy Giáo thọ. Thầy Giáo thọ đến trình bày với đức Phật. Đức Phật liền quở trách thầy Tỳ kheo đó. Phật nói, người xuất gia lẽ ra phải luôn sống trong an lạc giải thoát, tại sao thầy lại để cho phiền não sai sử hoành hành, khiến cho thầy phải sống trong bức bách đau khổ. Ông thật là có lỗi lớn. Nhân đó, Phật lại kể tiếp câu chuyện quá khứ giữa hai người.
Phật nói, một thuở xa xưa, Culla Dhanuggha là chàng trai có tên Xạ Thủ Tài Ba. Do tài nghệ bắn cung tên giỏi, nên chàng được vị thầy mà chàng theo học gả con gái cho chàng. Có một hôm, tại thành Ba la nại chàng dùng năm mươi mũi tên đã giết năm mươi tên cướp. Hết tên, chàng túm lấy đầu một tên cướp và kêu vợ đưa kiếm cho chàng. Vừa thấy tên cướp, vợ chàng say mê đắm đuối và trao kiếm cho tên cướp. Tên cướp sau khi giết chàng Xạ Thủ, liền dẫn cô đi theo. Nhưng không bao lâu, tên cướp bỏ rơi nàng, vì sợ nàng cũng giết chàng như nàng đã giết người chồng của nàng…
Thấy người đàn bà thay lòng đổi dạ chẳng những không chung tình với chồng, mà còn mượn tay người khác giết chồng, nên trời Đế Thích liền hóa hiện xuống để trêu chọc cho nàng phải xấu hổ. Khi hiện xuống, trời Đế thích có mang theo người đánh xe và viên nhạc thần. Trời Đế Thích hóa thành con chó rừng, người đánh xe hóa thân con cá và nhạc thần hóa làm con chim. Cả ba đều trêu chọc người đàn bà, bằng những lời lẽ mỉa mai châm biếm. Người đàn bà cảm thấy bị nhục và vô cùng xấu hổ.
Kể xong câu chuyện, đức Phật kết luận: kiếp ấy, ông là chàng xạ thủ trẻ, người đàn bà kia là cô gái cho uống nước đó. Vua Đế Thích chính là ta. Cô kia chỉ mới thấy tên cướp đã mê mệt, giết chết chàng trai tài giỏi nhất Ấn Độ. Nầy Tỳ kheo, ông hãy nhổ hết gốc rễ lòng tham ái trong ông đối với người đàn bà nầy. Khuyên răn xong, Phật liền nói hai pháp cú trên. (Hết phần lược dẫn cốt chuyện).
Pháp cú 349, Phật dạy: “những kẻ bị tư tưởng xấu ác làm tao loạn, thường cầu mong dục lạc thật nhiều”. Như đã nói, tất cả sự ham muốn của con người đều do từ tư tưởng sanh ra. Trong tâm thức của mỗi người chúng ta đều sẵn có tiềm tàng hai loại hạt giống thiện và bất thiện. Hai loại hạt giống nầy đều có khả năng hướng dục. Nếu nó khởi dục thiện, thì lời nói và hành động của chúng ta theo chiều hướng thiện, mà làm nhiều điều lợi ích cho mọi người. Ngược lại, khi nó khởi dục ác, thì lời nói và hành động của ta sẽ gây ra bao tai họa khổ đau cho người khác. Người biết tu, Phật dạy chúng ta nên luôn luôn nuôi dưỡng chăm sóc và làm tăng trưởng dục thiện. Đồng thời phải thường xuyên quán chiếu phá trừ dục ác. Tư tưởng của con người dụ như ông vua (tâm vương). Đã là vua, tất nhiên, ông vua nào cũng có cái uy quyền tột đỉnh và tham vọng rất lớn. Mọi việc trị nước đều do vua quyết định. Tuy nhiên, làm vua cũng có ông vua nhân từ đức hạnh và cũng có ông vua bạo ác u mê. Nếu là bậc minh quân trị nước, thì thần dân sẽ được an ổn, nước nhà thái bình thạnh trị. Ngược lại, nếu là bậc hôn quân vô đạo trị nước, thì thần dân rối loạn, nước nhà sẽ lâm nguy, giặc giã nổi lên chống đối mãnh liệt không lúc nào an ổn.
Đất tâm của con người cũng thế, tất cả đều do tư tưởng con người chỉ đạo. Nếu tư tưởng hiền lương sáng suốt (dụ như minh quân), thì nó ra lệnh cho thân và miệng (dụ như các vị cận thần) làm nhiều điều lợi ích cho chúng sinh. Ngược lại, thì sẽ gieo rắc gây ra bao thảm họa tang thương khổ đau cho muôn loài hứng chịu. Những hôn quân bạo ác, chắc chắn sẽ không tồn tại lâu dài, vì chính những tư tưởng xấu ác đó nó sẽ tự hủy hoại tiêu diệt họ. Như sắt sanh ra sét, và chính chất sét đó sẽ trở lại làm tiêu hình của sắt. Cũng thế, những tư tưởng xấu ác nó sẽ phá hại chúng ta, làm cho chúng ta phải bị trầm luân sa đọa. Chẳng những sa đọa trong hiện đời, mà chúng ta còn phải bị đọa lạc trầm luân trong nhiều kiếp nữa. Con người vì có quá nhiều tham vọng, say mê theo dục lạc không dừng, nên bị nó luôn luôn trói buộc siết chặt người ta trong đau khổ. Do đó, nên Phật nói: “Mong dục lạc tăng nhiều là tự trói mình càng thêm chắc chắn”.
Pháp cú 350, Phật bảo chúng ta phải thường nghĩ tới bất tịnh, để diệt trừ lòng đam mê ái dục, đừng để ác ma buộc ràng. Có hằng quán chiếu thân tâm nầy bất tịnh, bất an, thì lòng ham muốn luyến ái về nhan sắc hay vật chất của chúng ta mới có thể giảm bớt. Sâu hơn là đoạn trừ tận gốc rễ của nó. Có thế, thì mới mong thực sự được giải thoát.
Phật dạy, quán thân bất tịnh để thấy rõ yếu tính không sạch, bất an và vô thường của nó. Các nhà tâm lý cho chúng ta biết, sự khoái cảm của nhục thể chỉ là một cảm giác rất mong manh. Nó chỉ thoáng qua trong chốc lát, rồi dập tắt và sẽ hiện lại nguyên hình của sự mệt mỏi, uể oải chán chường và đau khổ. Đó là một sự thật mà không ai có thể chối cãi phủ nhận được. Trong cơn si mê ân ái, người ta có thể quên đi tất cả. Nhưng bản chất bất tịnh, vô thường, nó vẫn hiện bày ra trước mắt ta. Người trí, họ thấy rõ bản chất bộ mặt thật của nó. Cho nên, họ không bị sóng tình nhận chìm đắm. Có vận dụng trí huệ, hằng để tâm quán chiếu như thế, thì ta mới mong thoát khỏi sự đam mê ràng buộc của ái dục.
Chuyện lược dẫn trên cho ta thấy duyên nghiệp, nghiệp duyên liên hệ trải qua nhiều đời thật khó nghĩ bàn. Tuy có duyên xuất gia, nhưng những tập khí ái dục phiền não trong nhiều đời, thật không phải dễ dàng chuyển hóa. Nếu người tu hành không trau dồi tài bồi cho mình có sức huân tu đạo lực thâm hậu, thì khó có thể thoát khỏi lưới ma dục tình ràng buộc. Thầy Tỳ kheo nói trên, là một điển hình của tâm lý khát vọng thường tình của con người. Tuy thầy đang rơi vào một trạng huống tâm lý mâu thuẫn giữa đạo đức giải thoát và dục tính trầm luân, nhưng thầy còn có phước duyên là gặp được những bậc Đại thiện tri thức cao đức, mà cụ thể tiêu biểu là đức Phật. Chính đức Phật đã cứu thầy thoát khỏi ách nạn dục vọng trầm luân trong hiện đời và nhiều kiếp. Cuối cùng, thầy đã được giải thoát. Đó là chuyện xảy ra thời xưa. Còn thời nay thì sao?
Ngẫm lại, thời nay, cũng có biết bao người tu hành lâm vào tình huống giống như thầy Tỳ kheo kia không khác. Nhưng làm sao có được cái phúc duyên hy hữu gặp được những bậc Đại thiện tri thức như Phật mà cứu thoát được mình đây?! Thế mới biết, tâm dục thì có thể giống nhau, nhưng hoàn cảnh và môi trường thì rất là khác biệt. Thời nầy, không dễ gì chúng ta gặp được bậc Đại tri thức cao đức như thế. Nghĩ thế, chúng ta nên lấy đó làm gương để tự soi rọi lại mình và nỗ lực quyết chí vươn lên để tự cứu thoát lấy mình. Đó là con đường hay biện pháp hay nhất trong tinh thần cảnh tỉnh tự giác để được giải thoát.
351. Bước tới chỗ cứu kính thì không còn sợ hãi; xa lìa ái dục thì không còn nhiễm ô; nhổ lấy mũi tên sanh tử thì chỉ còn một thân này là cuối cùng, không bị tiếp tục sanh nữa.
He who has reached the goal, is fearless, free from craving, passionless, and has plucked out the thorns of existence – for him this is the last body.
Kệ tụng
Ai tới đích, không sợ
Lìa ái không nhiễm ô
Nhổ mũi tên sanh tử
Thân này là thân cuối.
352. Xa lìa ái dục không nhiễm trước, thông đạt từ vô ngại, thấu suốt nghĩa vô ngại, pháp vô ngại, và thứ lớp của tự cú [6], đó là bậc đại trí đại trượng phu, chỉ còn một thân này là cuối cùng, không bị tiếp tục sanh nữa.
He who is free from craving and attachment, is perfect in uncovering the true meaning of the Teaching, and knows the arranement of the sacred texts in correct sequence – he, indeed, is the bearer of his final body. He is truly called the profoundly wise one, the great man.
Kệ tụng
Ái lìa không chấp thủ
Cú pháp khéo biện tài
Thấu suốt từ vô ngại
Hiểu thứ lớp tự cú
Thân này là thân chót
Bậc đại trí đại nhân.
Lược giảng
Hai pháp cú trên, Phật dạy tại tinh xá Kỳ Viên, có liên quan đến ma vương.
Theo truyện tích, “Một hôm, nhiều Trưởng lão Tỳ kheo đến tinh xá Kỳ Viên không phải thời. Các thầy vào thất Trưởng lão La hầu la, đánh thức Tôn giả dậy. Thấy chẳng còn chỗ nào để ngủ, Tôn giả bèn đến trước hương thất Phật. Vị Trưởng lão tôn kính nầy tuy mới tám tuổi nhưng đã đắc quả A la hán. Ma vương Vasavatti thấy vậy bèn nghĩ: “Con của Sa môn Cồ Đàm đang nằm trước cửa hương thất, còn Sa môn Cù Đàm thì nghỉ ở trong. Nếu ngón tay người con bị kẹp đau, vị Sa môn cũng sẽ thấy đau như mình bị kẹp vậy”.
Rồi hắn biến thành voi chúa khổng lồ tiến đến bên vị Trưởng lão, dùng vòi quấn đầu Tôn giả và gầm lên thật to. Trong hương thất, đức Thế Tôn thấy hết, bèn nói:
Nầy ma vương, trăm ngàn kẻ như ngươi cũng không làm La hầu sợ hãi được. Người nầy không còn kinh sợ vì đã diệt trừ tham ái, mạnh mẽ hùng tráng, đại trí huệ. Nhân đó, Phật liền nói hai pháp cú trên, mọi người nghe xong, rất nhiều người đắc quả Tu đà hoàn, Tư đà hàm và A na hàm. Ma vương tự bảo: Sa môn Cồ Đàm thấy ta, hắn bèn biến mất”. (Trích nguyên văn Tích Truyện Pháp Cú Tập III, Viên Chiếu, tr 248)
Pháp cú 351, Phật nói: “Bước tới chỗ cứu cánh thì không còn sợ hãi”. Sợ hãi là một kinh nghiệm sống mà hầu hết chúng ta ít nhiều đều có. Có những cái sợ hữu lý theo nếp nghĩ thường tình, như sợ khổ, sợ bệnh, sợ chết v.v… nhưng cũng có những cái sợ vô cớ phi lý, như sợ ma, sợ quỷ v.v… Sự thật, ta chưa bao giờ thấy ma quỷ. Nhưng nghe ai nói đến ma quỷ, thì ta lại hình dung tưởng tượng rồi phát run sợ. Đó là cái sợ do ta phóng đại vọng tưởng. Ta thật quá dồi dào tưởng tượng biến kế. Sống trong ảo giác biến kế, là ta luôn luôn tiếp nhận khổ đau. Ta không đủ sức vươn lên để nhận diện chân lý. Dù rằng thực tại chân lý đang hiện hữu phô bày sờ sờ trước mắt ta. Ta bị vô minh vọng tưởng điên đảo che mờ không nhận rõ.
Ta có thể nghĩ ra hình thù của những con ma quái dị. Đó là do ta thiếu trí huệ suy xét nhận thức vào sự thật. Sự nhận thức của ta thật là hời hợt theo thói quen cảm tính. Nhưng khi ta có được cái nhìn thẩm thấu vào sự thật hiện hữu của vạn pháp, thì những nỗi lo âu sợ hãi của chúng ta tức khắc sẽ tan biến ngay. Đó là ta đang tiến bước trên lộ trình giác ngộ. Nhận rõ lý duyên sinh, vô ngã của vạn pháp, thì còn gì nữa đâu mà ta phải lo sợ? Nhận rõ mặt thật của vạn pháp không sinh, không diệt, tự thể vắng lặng sáng suốt bặt dứt mọi dấu vết, hằng an trụ nơi thật tướng, Phật nói, đó là ta bước tới chỗ cứu cánh thì không còn sợ hãi.
Sở dĩ ta bị đắm chìm trong ao tù ô nhiễm, là vì ta còn chứa chất quá nhiều lòng ích kỷ ái dục. Muốn thoát khỏi ao tù ái dục đó, Phật dạy, ta cần phải có chánh kiến nhận định đúng chân lý. Khi đạt ngộ chân lý, thì mọi sự cám dỗ của ái dục tất nhiên không còn. Phật nói đó là xa lìa ái dục không còn ô nhiễm. Như người bị tên cấm sâu, nay nhổ lấy mũi tên ra khỏi thân xác. Đó là nhổ mũi tên sanh tử không còn bị tiếp tục thọ sanh nữa. Đến đây, mới được gọi là bậc đại trí, đại nhân.
Pháp cú 352, đức Phật nói rõ sự xa lìa ái dục không nhiễm trước. Nhưng với điều kiện là phải thông đạt thấu suốt Tứ vô ngại biện tài. Đó phải là bậc A la hán, Bồ tát mới có khả năng phá vỡ mọi thứ lậu hoặc phiền não, đạt được quả vị Niết bàn an lạc. Tứ vô ngại biện, còn gọi là Tứ vô ngại giải hay Tứ vô ngại trí. Đây là Trí huệ biện tài thuyết pháp của các vị Bồ tát. Nếu đứng về ý nghĩa thì gọi là Giải, là Trí, còn đứng về mặt khẩu nghi thì gọi là Biện. Tứ vô ngại gồm có: 1. Nghĩa vô ngại: Có khả năng hiểu biết thông suốt hết mọi nghĩa lý thế gian và xuất thế gian. 2. Pháp vô ngại: Có khả năng hiểu biết thông suốt hết tất cả pháp. 3. Từ vô ngại: Có khả năng hiểu biết thông thạo hết các thứ tiếng. 4. Lạc thuyết vô ngại, còn gọi là Biện thuyết vô ngại: Có khả năng biện giải thông suốt hết cách trình bày và giảng nói một cách vui vẻ tự tại. Phật nói, người nào thấu suốt và hành trì đúng theo thứ lớp của tự cú, đó là bậc đại trí, đại trượng phu, chỉ còn thân nầy cuối cùng, không bị tiếp tục sanh nữa. Đối với các bậc A la hán, thì không còn sanh nữa, vì các ngài đã dứt hết Kiến Tư hoặc phiền não. Thế nhưng, đối với các vị Bồ tát thì vẫn còn tái sanh. Các Ngài tái sanh theo bản nguyện để độ sanh, chớ không phải tái sanh theo nghiệp lực để thọ khổ. Ngược lại, chúng ta cũng tái sanh, nhưng tái sanh theo dòng nghiệp lực để chiêu cảm thọ khổ. Đó là ý nghĩa của hai hướng tái sanh khác nhau rất xa. Xin mọi người chớ có lầm nhận.
353. Ta đã hàng phục tất cả, ta đã rõ biết tất cả, ta không nhiễm một pháp nào. Ta xa lìa hết thảy, diệt dục mà giải thoát và tự mình chứng ngộ, thì còn ai là thầy ta nữa?
A victor am I over all, all have I known. Yet unattached am I to all that is conquered and known. Abandoning all, I am freed through the destruction of craving. Having thus directly comprehended all by myself, whom shall I call my teacher?
Kệ tụng
Ta hàng phục tất cả
Ta biết rõ tất cả
Không nhiễm lụy pháp nào
Ái diệt, tự giải thoát
Ta đã tự chứng vậy
Còn ai thầy ta nữa?
Lược giảng
Pháp cú nầy Phật dạy có liên quan đến đạo sĩ khổ hạnh tên là Upaka thuộc giáo phái Ajivaka.
Theo truyện tích, “Sau khi thành đạo dưới cội Bồ đề, Phật lưu lại bảy tuần tại đó. Rồi ngài mang y, cầm bát lên đường đi mười tám dặm về Ba la nại để chuyển bánh xe pháp. Trên đường đi, Ngài gặp đạo sĩ thuộc giáo phái khổ hạnh Ajivaka. Đạo sĩ hỏi:
- Huynh đệ, các căn Ngài thật tịch tịnh, da sáng đẹp quá. Ngài theo ai xuất gia? Ai là thầy Ngài? Ngài tu theo giáo lý của ai?
Phật đáp:
Như Lai không có thầy tế độ, cũng không có giáo thọ. Phật liền nói pháp cú trên.
Upaka chẳng lộ vẻ đồng ý hay bất bình trước những lời của đức Như Lai. Đạo sĩ chỉ lắc đầu, chép miệng rồi rẽ vào đường tẻ, đi đến lều một thợ săn”. (Trích nguyên văn Tích Truyện Pháp Cú Tập III, Viên Chiếu, tr 252)
Đức Phật là người tỉnh thức, là bậc Đại giác ngộ. Ngài đã hàng phục chiến thắng tất cả ma quân. Trong nhà Phật thường nêu ra có bốn loại ma: phiền não ma, ngũ ấm ma, thiên ma và tử ma. Nói gọn là nội ma và ngoại ma. Các loại ma nầy đều bị Ngài hàng phục. Nên Phật nói: “Ta đã hàng phục tất cả”. Đức phật còn có danh hiệu là Chánh biến tri, hay Nhứt thiết chủng trí. Nghĩa là đối với muôn pháp, Ngài đều thấu suốt tất cả. Không có gì mà Ngài không biết rõ cội nguồn. Nên Phật nói: “Ta đã biết rõ tất cả”. Vì đã hàng phục tất cả vô minh phiền não, nên đối với vạn pháp, Ngài không một mảy may nhiễm trước, nên Phật nói: “Ta không nhiễm một pháp nào”.
Vì còn nhiễm là còn dính mắc vào trần cảnh. Còn dính mắc, thì sao gọi là Phật được? Do đó, đời sống của đức Phật hoàn toàn được tự do, tự tại, giải thoát. Cho nên Phật nói: “Ta xa lìa hết thảy, diệt dục mà giải thoát và tự mình chứng ngộ, thì còn ai là thầy ta nữa”. Lời nói nầy, là đức Phật đã minh định rõ “Trí vô sư tự ngộ”. Trong kinh thường nói có hai loại trí: Trí hữu sư và Trí vô sư. Trí hữu sư là trí còn nương thầy bạn học hỏi. Nhờ học hỏi mà có được phát sanh trí huệ hữu lậu. Nghĩa là trí huệ nhận xét còn có giới hạn. Ngược lại, trí vô sư là thứ trí huệ sẵn có. Trí huệ nầy là tên khác của Phật tánh hay pháp thân v.v… Vì là sẵn có, nên đức Phật sau khi thanh lọc chuyển hóa hết vô minh phiền não, thì cái trí huệ nầy hiện bày. Nên Phật nói là không nhờ thầy chỉ dạy. Do Ngài sống trọn vẹn với cái trí sáng suốt thanh tịnh nầy, nên gọi Ngài là Phật hay đấng Đại Giác thế thôi.
Về Đầu Trang Go down
https://triamquan.forumvi.com/
Sponsored content





Kinh Pháp Cú chú giải (tập 1) - Page 2 Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Kinh Pháp Cú chú giải (tập 1)   Kinh Pháp Cú chú giải (tập 1) - Page 2 Empty

Về Đầu Trang Go down
 
Kinh Pháp Cú chú giải (tập 1)
Về Đầu Trang 
Trang 2 trong tổng số 3 trangChuyển đến trang : Previous  1, 2, 3  Next
 Similar topics
-
» Kỳ Pháp Thập Bát Cục Triển Trạch Thông Thiên Khiếu CƯỚI GẢ HÔN LỄ NÊN CHỌN
» Tìm hiểu Kinh Pháp Cú
» Kinh Pháp Cú (có ảnh minh họa)
» Lý giải kinh nguyệt đều nhưng không rụng trứng
» Phương pháp ổn định chu kỳ kinh nguyệt

Permissions in this forum:Bạn không có quyền trả lời bài viết
Tri Âm Quán - Lục Ngạn - Bắc Giang :: Căn Bản Phật Pháp-
Chuyển đến