Tri Âm Quán - Lục Ngạn - Bắc Giang
Chào bạn đã ghé thăm Tri Âm Quán_Thị Trấn Chũ_Lục Ngạn_Bắc Giang!
Diễn Đàn là nơi giao lưu kết bạn, sưu tầm, lưu trữ, học hỏi và chia sẻ kiến thức.
Để cùng nhau tiến bộ trên con đường hướng thiện.
Chúc bạn sức khỏe và có nhiều thành công mới trong cuộc sống!

Om mani pad me hum
Tri Âm Quán - Lục Ngạn - Bắc Giang
Chào bạn đã ghé thăm Tri Âm Quán_Thị Trấn Chũ_Lục Ngạn_Bắc Giang!
Diễn Đàn là nơi giao lưu kết bạn, sưu tầm, lưu trữ, học hỏi và chia sẻ kiến thức.
Để cùng nhau tiến bộ trên con đường hướng thiện.
Chúc bạn sức khỏe và có nhiều thành công mới trong cuộc sống!

Om mani pad me hum
Tri Âm Quán - Lục Ngạn - Bắc Giang
Bạn có muốn phản ứng với tin nhắn này? Vui lòng đăng ký diễn đàn trong một vài cú nhấp chuột hoặc đăng nhập để tiếp tục.
Tri Âm Quán - Lục Ngạn - Bắc Giang

Mỗi người đều nhận được hai thứ giáo dục: một thứ do người khác truyền cho; một thứ, quan trọng hơn nhiều, do mình tự tạo lấy.
 
Trang ChínhTrang Chính  Luận Anh Hùng - Page 2 Icon_portal  Latest imagesLatest images  Đăng kýĐăng ký  Đăng NhậpĐăng Nhập  
Chào mừng các bạn đã ghé thăm Tri Âm Quán_Thị Trấn Chũ_Lục Ngạn_Bắc Giang! Chúc các bạn sức khỏe và thành đạt! Tri Âm Quán_Thị Trấn Chũ_Lục Ngạn_Bắc Giang.

 

 Luận Anh Hùng

Go down 
Chuyển đến trang : Previous  1, 2
Tác giảThông điệp
Tri Âm Quán
Thành Viên Tích Cực
Thành Viên Tích Cực
Tri Âm Quán


Tổng số bài gửi : 6340
Reputation : 2
Join date : 31/07/2013
Đến từ : Thị Trấn Chũ

Luận Anh Hùng - Page 2 Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Luận Anh Hùng   Luận Anh Hùng - Page 2 EmptyWed Oct 01, 2014 10:35 am

DỊCH TRUNG THIÊN
LUẬN ANH HÙNG
HẢI THỤY
- 2 -
Con người không hợp thời
khác với hai lần bãi quan trước, lần này, rất ít người đồng tình với hành động của Hải Thuỵ. Lý lẽ rất đơn giản: Hai lần trước, Hải Thuỵ phản đối cá nhân (là Hồ Tôn Hiến, Yên Mậu Khanh hoặc hoàng đế Gia Tĩnh), nhưng lần này, Hải Thuỵ phản đối cả giới quan trường. Đối thủ của Hải Thuỵ lần này, bất kể là ai, cũng luôn có hai hậu thuẫn rất kiên cường: Một là truyền thống quan trường thâm căn cố đế, rất khó thay đổi, hai là tập đoàn quan văn đông đảo, một thế lực cũ ăn sâu bám rễ lâu đời, rất khó xoá bỏ. Hải Thuỵ lại chỉ có một mình. Vũ khí của Hải Thuỵ chỉ là mấy điều đạo đức trống rỗng, từ lâu người ta đã bỏ trên gác cao hoặc coi đó là vật trang trí. Vốn liếng của Hải Thuỵ chỉ là tiếng tăm, không sợ chết, một khi đắc tội với toàn thể quan liêu, thì vốn liếng đó chẳng đáng một xu. Cho nên, việc Hải Thuỵ phát lệnh tấn toàn bộ quan liêu chỉ như trứng chọi đá, không sứt đầu mẻ trán mới là lạ!
Hiển nhiên, Hải Thuỵ hoàn toàn xa lạ với giới quan trường. Đây là lần thứ ba đấu tranh với bọn chúng, lần này Hải Thuỵ hoàn toàn bị cô lập, ngay cả những người trước đây từng ủng hộ Hải Thuỵ và những người có tiếng tăm khác đều đứng sang phía địch. Vậy, vì sao Hải Thuỵ lại chỉ có một mình, vì sao Hải Thuỵ không thể sống chung với họ?
Xem ra, chúng ta cần phải nói lại từ đầu.
Hải Thuỵ, tự Nhữ Hiền, một tự khác là Quốc Khai, hiệu là Cương Phong, sinh vào tháng mười hai năm Chính Đức thứ chín (năm 1515), tổ tiên ở Phúc Kiến. Giữa những năm Hồng Vũ, Hải Đáp Nhi - ông nội của Hải Thuỵ đã từ Quảng Châu theo quân đến Hải Nam, về sau định cư ở huyện Quỳnh Sơn. Có học giả cho rằng, Hải Đáp Nhi đều là người dân tộc thiểu số, thậm chí có khả năng là người nước ngoài. Vì, từ đòi Nguyên có mấy người tên là Hải Đáp Nhi là người tộc Hồi. Ở Ba Tư, vào thế kỷ XIV có trướng quan địa phương tên là Hải Đáp Nhi. Dù nói thế nào thì họ Hải tên Đáp Nhi luôn có phần quái dị. Không biết thứ tính khí quái dị trong con người Hải Thuỵ có can hệ gì với nhân tố di truyền đặc biệt đó hay không?
Hải Thuỵ từ bé đã nghèo khổ và bất hạnh. Năm lên bốn tuổi, cha mất, còn lại mẹ, họ Tạ (khi đó hai mươi tám tuổi) hai mẹ con, cô nhi quả phụ nương tựa vào nhau, dựa vào mấy mẫu ruộng cằn cỗi, vào nghề may vá thêu thùa của mẹ làm kế sinh nhai. Hoàn cảnh sống của Hải Thuỵ rất tệ, Hải Nam xưa nay vốn là vùng đất biên cương xa xôi heo hút của đất nước, Quỳnh Sơn là vùng nghèo khổ. Văn nhân mặc khách coi đó là vùng đất đáng sợ, đời đời các hoàng đế lại coi đó là nơi tốt nhất để trừng phạt, đầy đoạ bọn phạm nhân. Tể tướng Lý Đức Dụ đời Đường và bốn vị tể tướng hoặc phó tướng khác thời Tống như Lỵ Cương, Triệu Đỉnh, Lý Quang và Hồ Thuyên đều bị lưu đầy ra đây, còn có Tô Đông Pha nổi tiếng nữa. Cho dù mảnh đất lưu đày và cuộc sống lưu đày của họ luôn được nhà văn nào đó miêu tả đầy thi vị thì tôi vẫn nghĩ chẳng có vị hôn quân và gian thần nào lại có lòng tốt, sắp xếp cho địch thủ chính trị của mình một nơi nghỉ ngơi dưỡng lão hay ho như vậy. Tuổi thơ của Hải Thuỵ đã trải qua những ngày buồn tẻ và nghèo khó, đồng thời cũng rất bế tác. Đâu có khí thế huy hoàng nơi kinh đô; cảnh tượng phồn hoa nơi thành thị; văn nhân tụ hội nơi thành cổ và những âm thanh dạt dào bên sóng nước. Vì vậy trên người Hải Thuỵ cũng không có những thứ đối ứng với chúng, như phong Thái Ung dung cao quý cần có của một vị quan cấp cao, gần như cũng không có cái gọi là khí linh tú, vị nhân tình, ngược lại chỉ thấy có hẹp hòi, nhỏ nhen và lắm chuyện. Kẻ thù chính trị công kích Hải Thuỵ là “không hiểu đại thể”, toàn là những lời không phải vu cáo. Vì Hải Thuỵ từng quỵ định với thuộc hạ, phải giao lên một tờ công văn chính thức, mới được nhận lại mộr tờ giấy công văn còn để trắng.
Cuộc sống gia đình của Hải Thuỵ cũng thật bất hạnh. Có ba điều bất hạnh lớn trong con mắt người dân Trung Quốc: Tuổi thơ mất cha, trung niên mất vợ, về già mất con, Hải Thuỵ đều có đủ. Hải Thuỵ kết hôn ba lần, có hai người thiếp. Hai người vợ đầu đều vì bất hoà với mẹ chồng đã phải ra đi, trong đó người vợ thứ hai mới về nhà chồng được chừng một tháng. Người vợ thứ ba chết không được rõ ràng lúc Hải Thuỵ năm mươi lăm tuổi. Người vợ thứ ba và một người thiếp, trước sau đã sinh được ba con trai, nhưng đều chết yểu. Bất hiếu có ba điều, điều lớn nhất là không có con để nối dõi, huống chi Hải Thuỵ lại là con một, nên còn là bất hạnh lớn.
Cứ thế mà tính, có thể người mẹ: Tạ lão phu nhân là người sống lâu nhất cùng Hải Thuỵ. Tạ thị là người kiên cường, trong điều kiện cực kỳ khó khăn đã nuôi dạy Hải Thuỵ nên người, có thể coi là dốc hết tâm huyết, nếm đủ mùi gian khổ. Vừa là người mẹ nhân từ vừa là người cha nghiêm khắc, bà từng truyền dạy kinh thư cho con, về sau lại chọn thầy vừa nghiêm khắc vừa cẩn thận cho Hải Thuỵ. Hải Thuỵ cảm tạ và hiếu thuận với mẹ, mỗi lần đến nhận chức ở Nam Bình, Thuần An, Hưng Quốc hay Tô Châu đều mời mẹ đi cùng. Hải Thuỵ chịu ảnh hưởng từ mẹ rất lớn. Mỗi khi nói tới lòng lương thiện, sự trung thành, cương nghị và chính trực của Hải Thuỵ, các sử gia luôn cho rằng đó là bóng dáng của người mẹ.
Có điều, một bà lão goá chồng khi còn trẻ, sống cùng đứa con lớn, thì ít nhiều về mặt tâm lý sẽ có một số vấn đề, quan hệ với con dâu cũng không dễ dàng chút nào, và một người sống trong một gia đình bất hạnh, thì quan hệ giữa người với người cũng không mấy thoải mái. Sử liệu chứng minh, gia đình Hải Thuỵ bất hoà, không chỉ đã trở thành lời công kích bên phía địch mà còn là nỗi bất bình trong thời luận, “nặng tình nghề nghiệp, mỏng bề khuê các”. Đây là tám chữ lời bình trong văn tế Hải Thuỵ nghe đã thấy nặng nề, nếu là lời nói của phía địch thù còn khó nghe hơn nữa. Người Trung Quốc rất xem trọng sinh hoạt gia đình. Luân lý của gia đình cũng là luân lý của đất nước. Mọi người tin rằng, một người hiếu kính với cha mẹ cũng sẽ trung thành với vua với nước (không ai nghi ngờ lòng trung thành của Hải Thuỵ) và một người có quan hệ vợ chồng không hay cũng sẽ không thể hoà thuận được với đồng liêu (đây là điểm mà địch thủ công kích Hải Thuỵ nhiều nhất). Phần lớn người Trung Quốc đều cho rằng, một người không biết thưởng thức mùi vị của thức ăn, nhất định sẽ không thưởng thức nghệ thuật; một người thiếu tình nam nữ cũng nhất định không thông hiểu được tình người. Vì vậy, địch thủ chính trị của Hải Thuỵ thường bàn luận chuyện bất hoà của gia đình Hải Thuỵ với giọng điệu giễu cợt hả hê, coi đó là chứng cứ cho việc ông không thể hợp tác suôn sẻ với ai.
Lúc nhỏ, Hải Thuỵ sống trong gia đình bất hạnh và đơn điệu, nên thú vui duy nhất của Hải Thuỵ là công việc. Chỉ có làm việc như điên như dại mới bù đắp nổi những khiếm khuyết trong tâm hồn Hải Thuỵ. Đúng là Hải Thuỵ làm việc như điên. Chỉ cần có việc là Hải Thuỵ làm, không tiếc sức lực, không ngại khó ngại khổ. Lúc làm tuần phủ Ứng Thiên, theo lệ mỗi tháng có hai ngày là mùng hai và mười sáu nhận cáo trạng, mỗi lần phải xử lý hơn ba, bốn ngàn án, chưa kể những án hàng ngày về nhân mạng, trộm cướp và tham ô. Đối với những việc khác, không bao giờ Hải Thuỵ từ chối, luôn luôn tận tuy, gần như không có ngày nghỉ. Tác phong đó sẽ không phù hợp với không khí nơi quan trường, chỉ biết ăn chơi hưởng lạc. Sẽ không có ai muốn cộng tác với Hải Thuỵ, con người khô cứng, chăm chỉ, làm việc như điên như dại, nhưng lại không biết nể mặt, không thông hiểu nhân tình thế thái, chúng càng không muốn để Hải Thuỵ là mẫu hình của bọn quan lại, vì chúng không thể làm được như Hải Thuỵ.
Nhưng Hải Thuỵ làm được.
Hải Thuỵ là người biết suy nghĩ. Theo ý Hải Thuỵ, nhu cầu của con người không chỉ là lợi và nghĩa. Nếu muốn mưu cầu lợi, thì chỉ cần làm nghề nông, công hay thương. Nghề nông, công, thương là nghề kiếm lợi, lợi hậu hĩnh không đâu bầng. Nếu là sĩ là quan thì không thể cầu lợi, chỉ có thể tận trung với nước, làm việc vì dân. Vì sĩ mưu cầu nghĩa. Trên đời này, sở dĩ có sự phân biệt giữa sĩ, nông, công, thương, vì có sự phân biệt giữa lợi và nghĩa. Nghĩa cao hơn lợi, nên sĩ cao hơn nông công thương. Một sĩ nhân nếu cũng theo đuổi danh và lợi thì y sẽ không đủ tư cách là sĩ, cũng không đủ tư cách là quân tử. Vì vậy, một người quân tử làm quan, chỉ có thể lợi nước, lợi dân, lợi công, quyết không thể có tư lợi, như vậy, đương nhiên là rất cao quý, rất vĩ đại, rất đáng được kính phục và noi theo. Nhưng nếu lấy đó là yêu cầu phổ biến và cơ bản của mọi quan viên thì e là không thực tế và cũng chưa hẳn đã đúng đắn.
Trước hết, phải thừa nhận quan hay sĩ đều là người, người cần được sinh tồn, cần được sống những ngày tươi đẹp. Đó là lợi và cũng là tư, không thể trách cứ điều tư lợi đó. Cho nên, một người nếu đạt được chí công vô tư, công mà quên tư, hiển nhiên là người quân tử, là người cao thượng. Thậm chí, nếu một người đạt được công tư đều lợi, người và ta đều lợi, hoặc lợi tư để vì công, lợi ta không hại người, như vậy không phải là kẻ xấu. Chúng ta có thể chia con người thành năm loại: 1. Chí công vô tư, luôn để người lợi. 2. Công trước tư sau, người trước ta sau. 3. Công tư đều lợi, người ta đều lợi. 4. Tư để vì công, lợi ta không hại người. 5. Hại công lợi tư, hại người lợi ta. Trong đó, loại một là thánh nhân, loại hai là quân tử, loại ba là người tốt, loại bốn không phải người xấu, chỉ có loại năm là người xấu. Thánh nhân rất ít, quân tử và người xấu cũng không nhiều, nhiều nhất là số người trung gian, ở giữa, đại thể là còn tốt và không tốt không xấu. Họ không phải là quân tử cũng không là tiểu nhân, có thể gọi là người thường.
Tình cảm của người thường cũng tức là tình cảm thường thấy của con người, trong đó bao hàm cả những người đã biến đổi hoàn cảnh, nâng cao địa vị, tăng thêm của cải… Vì vậy, dù là người tốt nói chung, cũng không tránh khỏi có một chút quyền thuật, mộr chút mẹo vặt, một chút thủ thuật, một chút tính toán. Đương nhiên, cứ theo nguyên tắc lượng biến thành chất của đạo đức thì chút quyền thuật cũng có thể biến thành quỷ kế lớn, chút mẹo vặt cũng có thể biến thành âm mưu lớn, chút thủ thuật cũng có thể biến thành tội ác lớn, chút tính toán cũng có thể biến thành dã tâm lớn, nhất là lúc con người đó đã có được một số quyền lực nhất định, lại càng là như vậy. Chúng ta không thể không đề phòng, nhưng chỉ có thể dựa vào thể chế và chế độ để đề phòng và ngăn ngừa, bao gồm việc hạn chế quyền lực, trừng trị hủ bại, nâng lương để bồi dưỡng sự thanh liêm… Vì xu lợi tránh hại là việc thường tình của con người. Bạn không thể yêu cầu mọi người luôn phải quên sống quên chết, gò ép bản thân vì việc công, quên mình làm lợi cho người, chỉ có thể nhân thế mà được lợi, chỉ có thể xuất phát từ tình thương của con người xu lợi tránh hại, thông hiểu được lợi hại, ràng buộc bơi hình pháp, để con người hiểu được, tham ô là có tội, lấy quyền mưu cầu riêng là hành vi đáng sợ sẽ dẫn tới khuynh gia bại sản, thân bại danh liệt, ít ra cũng là cuộc mua bán không có lợi, để con người hiểu được, cũng chẳng có cách gì để tìm sự may mắn, để mưu cầu tư lợi, dù muốn lao vào một cuộc lầm lỡ lớn trong thiên hạ. Điều đó chỉ có thể dựa vào chế độ, không dựa vào đạo đức.
Đạo đức luôn luôn là cần thiết. Người được là người, vì có đạo đức. Không có đạo đức, người sẽ biến thành thú; chỉ có đạo đức, người mới thành thần. Người không thể biến thành thú, cũng không biến được thành thần. Cho nên người không thể không có đạo đức, cũng không thể chỉ nói đến đạo đức. Đạo đức chân chính cao thượng chỉ là lý tưởng. Loại cảnh giới đó đáng để phải truy tìm, cũng nên truy tìm, nhưng luôn tìm mà không được, truy mà không kịp, không có ít người không đạt được trình độ đó. Vì vậy cái gọi là đạo đức cao thượng, cần phải đề xướng, cũng chỉ có thể đề xướng, không thể yêu cầu khắt khe. Đã không có cách gì để yêu cầu khắt khe từng người phải có đạo đức cao thượng, nên cũng không thể dựa vào việc đề xướng đạo đức cao thượng để xoá bỏ hành vi phi đạo đức, hành vi phạm tội trong đời sống chính trị xã hội, chỉ có thể dựa vào chế độ và luật pháp để phòng ngừa. Chúng ta thường nói “phản hư xướng liêm” (phản đối hủ bại, để xướng thanh liêm), tức là đã ý thức được đầy đủ, liêm khiết phải dựa vào việc đề xướng đạo đức, hủ bại cần phải dựa vào pháp luật để loại bỏ.
Về Đầu Trang Go down
https://triamquan.forumvi.com/
Tri Âm Quán
Thành Viên Tích Cực
Thành Viên Tích Cực
Tri Âm Quán


Tổng số bài gửi : 6340
Reputation : 2
Join date : 31/07/2013
Đến từ : Thị Trấn Chũ

Luận Anh Hùng - Page 2 Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Luận Anh Hùng   Luận Anh Hùng - Page 2 EmptyWed Oct 01, 2014 11:43 am

Pháp chế và đạo đức có quan hệ bổ trợ lẫn nhau. Pháp chế mang tính chất phòng ngừa, đạo đức có tính chất hướng dẫn. Pháp chế quy định không cho làm những gì hoặc không cho làm như thế nào; đạo đức yêu cầu chúng ta nên làm gì hoặc nên làm như thế nào. Không thể thiếu một trong hai thứ đó, vì chúng có nhiệm vụ khác nhau. Ví như lúc có cháy, đạo đức cho chúng ta hay, cần phải đến chữa chúng, pháp chế chỉ quỵ định không được phóng hoả. Người không đi chữa cháy không phạm pháp, cũng không hẳn là người vô đạo đức, vì có rất nhiều nguyên nhân khiến người đó không đi chữa cháy, như người đó không có khả năng. Chỉ có những người có khả năng, nhưng thấy chết mà không cứu, mới là người vô đạo đức; chỉ có những người thấy chết mà không cứu, còn vui mừng trước tai nạn của người khác, mới là kẻ thất đức; cũng chỉ có những người cháy nhà mà hôi của, mới là người phạm tội. Rõ ràng đạo đức và pháp luật không thể thay thế cho nhau, cũng không thể lạm dụng tuỳ tiện. Nếu chỉ có đạo đức không có pháp luật, sẽ có người phóng hoả để cướp của mà không bị trừng phạt; nếu chỉ có pháp luật không có đạo đức, sẽ chẳng có cách gì để chê trách những kẻ vui mừng trước hoạn nạn của người khác, lấy gì để kêu gọi nghĩa và dũng?
Nhưng học thuyết Nho gia chỉ thấy tác dụng của đạo đức, hoàn toàn xem nhẹ ý nghĩa của pháp luật. Khổng Tử nói: “Đạo chi dĩ chính, tề chi dĩ hình, dân miễn nhi vô sỉ. Đạo chi dĩ đức, tề chi dĩ lễ, hữu sỉ thả cách”. Tức là nói, lấy pháp luật trị nước, nhiều lắm là đảm bảo mọi người không dám phạm tội, nhưng không thể đảm bảo rằng mọi người không muốn phạm tội. Lấy đức trị quốc, lấy lễ trị quốc, mới có thể đảm bảo người người không muốn phạm tội, muốn làm người tốt. Nói như vậy, không phải không có lý, nhưng quá lý tưởng hoá. Giáo dục đạo đức, đúng là có những tác dụng như vậy (người có đạo đức sẽ không phạm tội). Nhưng không có gì để đảm bảo sẽ có hiệu quả, tức là không có gì đảm bảo, người người đều có đạo đức.
Vì vậy, đức trị hay lễ trị, đều chẳng có cách gì để ngăn ngừa tội phạm phát sinh.
Các bậc đế vương qua các thời đại chỉ cần có chút trí tuệ, là rõ ngay đạo lý này. Đối sách của họ là, vừa hô hào đạo đức Nho gia, vừa dùng chế độ Pháp gia để phòng ngừa. Vì vậy, triều đại nào cũng có hình luật và pháp điển, hơn nữa hễ sử dụng là vô cùng khủng khiếp, như lăng trì, chém ngang lưng… Đương nhiên, Hoàng đế Chu Nguyên Chương - người sáng lập vương triều Minh cũng không phải ngoại lệ, Chu Nguyên Chương cũng định ra hàng loạt pháp lệnh, hành động nhằm hô hào liêm khiết, chống lại hủ bại. Nhưng những pháp luật, hành động đó đều được xác lập trên cơ sở quan niệm đạo đức xã hội trống rỗng, vừa chưa hợp lý, vừa khó thực hành. Như lương bổng của quan lại đều rất thấp, không nuôi nổi một gia đình nhiều nhân khẩu. Như vậy, nói sao được “lương cao để dưỡng liêm”, mà thực tế là “bức con gái nhà lành đi làm đĩ”. Rõ ràng là không thực tế, nếu yêu cầu các quan viên khác phải trồng thêm rau như Hải Thuỵ, hoặc ngày sinh nhật mẹ chỉ mua vài cân thịt, tất nhiên sẽ dẫn tới kết quả, quan viên câu kết, trên dưới nắm tay nhau, lấy của công để tiêu riêng hoặc coi trăm họ như cá thịt. Cũng như quỵ định mọi viên quan không được ra ngoài thành khi chưa được phê duyệt, thực buồn cười làm sao! Làm vậy thì dân khỏi bị sách nhiễu, nhưng lại cắt mất sự liên hệ giữa dân với quan, chủ nghĩa quan liêu sẽ ngày một nghiêm trọng hơn, thực tế thì được không bằng mất. Lại như quỵ định, những quan viên tham ô từ tám mươi quan trở lên, đều bị xử cực hình, lóc da nhét cỏ (lóc da phạm nhân rồi nhét cỏ vào bụng), quả rất hoang đường. Tám mươi quan tiền là nhỏ nhặt, lóc da nhét cỏ lại là nặng nề, thực không tương xứng, khiến mọi người có cảm giác hết sức hoang đường. Nếu thực hành điều này, e mọi quan viên sẽ phải chết bằng hết, còn lại một mình Hải Thuỵ. Đưa ra một pháp luật không có khả năng thực thi, thì mọi người sẽ xem thường. Những pháp lệnh của triều Hồng Vũ, trong thời đại của Hải Thuỵ mọi người đã quên sạch sành sanh từ lâu.
Nhưng Hải Thuỵ lại rất nghiêm túc.
Hải Thuỵ cho rằng, Thái Tổ Hồng Vũ là vị vua lập nên triều đại, là vua nên không nói chơi, vậy những pháp lệnh do Thái Tổ quy định, tất sẽ phù hợp với lý tưởng của thánh nhân, vậy phải kiên quyết chấp hành, giữ nguyên giá trị. Hải Thuỵ không hề nghĩ tới những khó khăn khi chấp hành. Vì vậy, Hải Thuỵ làm việc hết sức, không một lời oán trách vì mấy đồng lương bèo bọt, quyết tâm nổi lửa chống lại mọi sự hủ bại, giống như đấu sĩ hết sức dũng cảm.
Thực tế thì Hải Thuỵ rất ngây thơ. Hải Thuỵ không biết, chủ trương của Khổng Tử chỉ là một loại lý tưởng, ông cũng không biết bản triều dựng nước đã qua hai trăm năm. Những chính lệnh tâm huyết của hoàng đế Hồng Vũ, dù là lúc đó, cũng chỉ là một đống giấy. Đương nhiên, Hải Thuỵ càng không biết, những tệ nạn trong giới quan trường không chỉ có tham ô, mà còn có những việc quan trọng hơn, như chia bè chia phái, tranh chấp lẫn nhau.
Thực tế thì ngay từ đầu Hải Thuỵ đã bị cuốn vào cuộc đấu tranh bè phái, có điều, Hải Thuỵ không hề biết. Hải Thuỵ vừa là người bị hại trong đấu tranh và cũng là người được lợi trong đấu tranh. Mấy lần thăng quan và bãi quan của Hải Thuỵ, trừ một lần vì đắc tội với hoàng đế, còn lại đều liên can đến cuộc đấu tranh bè phái này. Lần thăng quan đầu tiên, từ tri huyện Hưng Quốc điều lên là chủ sự bộ Hộ, vì Nghiêm Tung bị đổ và Hải Thuỵ từng phản đối bè đảng của Nghiêm Tung, lần thăng quan thứ hai, vì được Từ Giai tiến cử và Từ Giai phản Nghiêm, Hải Thuỵ lại bị bãi quan, vì Trương Cư Chính chủ chính, mà Hải Thuỵ lại không cùng phe với Trương; lần thứ ba được phục hồi, vì Trương Cư Chính đã mất và bị hỏi tội. Nhưng Hải Thuỵ không nghĩ tới sự liên quan giữa thời cục biến đổi và sự thăng nhiệm của mình. Hải Thuỵ luôn nghĩ, đó là kết quả đấu tranh giữa thiện và ác trong đạo đức: bản thân được trọng dụng vì chính khí vượt trội, bản thân bị phế truất là tà ác chiếm thượng phong. Vì vậy Hải Thuỵ dựa vào những suy nghĩ đơn giản của mình về Nhị nguyên luận thiện ác, để phán đoán đúng sai, quyết định làm tiếp hay dừng: Là thiện thì nên ủng hộ, là ác phải phản đối, bất kể đối phương thuộc phe phái nào, bất kể giữa mình và họ có ân hay oán.
Vì vậy, khi vừa nhận chức tuần phủ úng Thiên, Hải Thuỵ liền ra dao với Từ Giai.
Từ Giai luôn ủng hộ Hải Thuỵ, thậm chí còn là ân nhân cứu mạng Hải Thuỵ. Hải Thuỵ vì mắng chửi hoàng đế nên bị giam vào ngục, chiểu theo điều khoản con cái mắng chửi cha mẹ, bộ Hình chủ trương phải xử giảo Hải Thuỵ, nhưng Từ Giai đã ngăn lại. Bản thân hoàng đế Gia Tĩnh vẫn lưỡng lự nên giết Hải Thuỵ hay không? Gia Tĩnh lúc thùa nhận Hải Thuỵ nói đúng, lúc lại nghĩ không thể không giết tên súc sinh không coi vua cha ra gì.
Từ Giai liên tìm cơ hội, nói nhó với Gia Tĩnh: “Không đáng để phải nổi giận với một thằng điên, nhà quê như Hải Thuỵ. Không phải hắn không biết hoàng thượng là thánh minh, nhưng lại cố ý tìm ra vài sơ hở, để được hư danh là trong sạch. Hoàng thượng giết hắn là làm hắn thêm hoàn mỹ. Chi bằng không xét tội, để hắn không có hư danh và mọi người càng thêm ca tụng hoàng thượng đức trùm bốn biển”. Lời nói tuy bình thường, nhưng đã giúp Hải Thuỵ rất nhiều, Hải Thuỵ không còn là kẻ mắng chửi thậm tệ, và nếu không như thế thì có thể cứu được một người từ trong miệng hổ của tên bạo chúa không? Lúc đó, nếu Từ Giai to nhỏ, thêm mắm thêm muối bên tai Gia Tĩnh thì chắc chắn Hải Thuỵ đã thịt nát xương tan.
Sau khi Hải Thuỵ ra tù, Từ Giai càng thêm tín nhiệm, gia tăng quan tước. Trong giai đoạn này nhờ có Từ Giai, con đường làm quan của Hải Thuỵ thênh thang rộng mớ. Hải Thuỵ tuy là viển vông, nhưng cũng chưa đến đoạn không nhận ra đúng sai. Nhìn vị thủ phụ có ân cứu mạng, có ân cất nhắc, Hải Thuỵ vô cùng cảm kích. Sau khi Từ Giai chủ chính, đã làm được một số việc tốt, như thanh trừ bè đảng của Nghiêm Tung, loại bỏ mấy tên thầy cúng dùng pháp thuật hại dân, miễn giảm hơn bốn mươi vạn lạng bạc thuế muối, được nhân dân ủng hộ, Hải Thuỵ cũng ủng hộ. Thế rồi, trong lòng Hải Thuỵ, Từ Giai trở thành chính nhân quân tử. Lúc Từ Giai bị bọn Cao Củng, Lý Phương công kích, Hải Thuỵ đã kiên quyết đứng về phía Từ Giai. Từ Giai bị công kích từ bốn phía, tuổi lại cao, nên có ý định lúc gặp nạn sẽ lui, cáo lão về quê, Hải Thuỵ đã khuyên can nói, “bọn tiểu nhân mưu cầu tư lợi, biện loạn đúng sai”, chính sách của Từ Giai không sai, chính tích cũng không phai mờ. Thời đó, Hải Thuỵ đối với Từ Giai có thể nói là cảm kích, kính trọng và sùng bái nữa.
Nhưng sau khi đến nhận chức tuần phủ úng Thiên, Hải Thuỵ đã nhìn Từ Giai bằng con mắt khác. Vì lúc đến nhận chức, Hải Thuỵ đã phát hiện ra vấn đề xã hội nghiêm trọng nhất ở địa phương này, như hương thân hào cường đã chiếm dụng phần lớn đất đai, người cày không có ruộng, thuế má nặng nề, đương nhiên nông dân muốn lấy lại số đất đai đó. Nghe nói có đại lão gia thanh liêm không sợ cả hoàng đế là Hải Thuỵ đến, những người nông dân khốn khổ không biết kêu ai, đã tấp nập kéo tới tố cáo với Hải Thuỵ, nghe nói chỉ riêng huyện Hoa Đình phủ Tùng Giang (Thượng Hải ngày nay) đã có hơn vạn nông dân đến tố cáo. Huyện Hoa Đình phủ Tùng Giang là quê hương của Từ Giai và Từ Giai cũng chính là tên đại địa chủ xâm chiếm đất đai của nông dân nhiều nhất, bị các hộ nông dân căm ghét nhất. Từ Giai sống trong một đại gia tộc, nhiều đời sống chung, nên bao gồm mấy ngàn thành viên. Số đất đai họ chiếm hữu vô số, nghe đã thấy kinh, có người nói là hai mươi tư vạn mẫu, có người khác nói là bốn mươi vạn mẫu(1). Đất đai nhiều như vậy, đương nhiên không phải là thành quả gia tộc họ lao động mà có, chỉ có thể là của cưỡng bức, cướp đoạt. Điều nghiêm trọng nhất là, sau khi đã cướp hết đất đai, họ còn ỷ thế bắt dân phải nộp thuế. Các quan địa phương vì sợ thân thích của quan lớn Từ Giai nên không dám từ chối, đành phải vơ vét nhiều thêm nữa từ các hộ nông dân đang canh tác, để hoàn thành nhiệm vụ thuế má. Những người nông dân khốn khổ đã cùng đường, đành phải mang ruộng đất đi cầm cố hoặc hiến dâng cho họ Từ, mong được bảo hộ. Sự độc ác đó cứ tuần hoàn, kết cục là: Trời oán, người oán, dân không còn đường sống.
Hành vi tổn công (đất nước), tổn người (nông dân) để lợi mình của gia tộc Từ Giai làm cho một người thanh liêm chính trực như Hải Thuỵ hết sức kinh ngạc, và hình tượng Từ Giai trong mắt Hải Thuỵ đã từ trên cao rơi xuống ngàn trượng. Hải Thuỵ có cảm giác Từ Giai không còn là chính nhân quân tử gì gì nữa, mà đơn giản chỉ là nguỵ quân tử. Thực không hiểu nổi, Từ Giai là vị quan thanh liêm chính trực ở trong triều, vì sao ở quê lại trở thành ác độc đến nhường ấy? Con người thực là khó hiểu! Đương nhiên, những hành vi phạm pháp kể trên đều do em trai và cháu chắt của Từ Giai thực hiện. Từ Giai từng đã khuyên can, nhưng khuyên can không được, đành phải mắt nhắm mắt mở, nuông chiều để chúng sinh hư. Hải Thuỵ thấy khó chịu, như có gai trong mắt, hơn nữa việc đó còn va rất mạnh vào nguyên tác của Hải Thuỵ: Tức là không phù hợp với lí tưởng - mong có một xã hội giàu nghèo không chênh lệch là bao, không phù hợp với tiêu chuẩn chính trị - liêm khiết vì công, giữ gìn kỷ cương, tôn trọng pháp luật của Hải Thuỵ, đương nhiên Hải Thuỵ không thể nhẫn nhịn và tha thứ.
Kết quả cuối cùng của sự việc là: Con cả, con thứ của Từ Giai và hơn chục hào nô bị xử xung quân, con thứ ba bị cách quan, có đến tám, chín phần trong số mấy ngàn gia nô cho đi chỗ khác, hơn một nửa sô ruộng đất của nông dân từng bị cướp đoạt được hoàn trả.
Cuối cùng thì ai đã xử lý phần việc của Từ gia, các sử gia mỗi người nói theo một cách. Có người nói, người chủ trì là Cao Củng và Sái Quốc Hỵ, có người lại quỵ công cho Hải Thuỵ. Cao Củng là kẻ thù chính trị của Từ Giai, từng bị Từ Giai lật đổ. Từ Giai thoái lui, Cao Củng được phục chức, liền cử môn sinh của mình là Sái Quốc Hy là tri phủ Tô Châu, sau này lại điều nhiệm về Tùng Giang, lo đối phó với Từ Giai. Giờ đã nắm quyền trong tay, lý gì chúng lại không trả thù rửa hận. Còn như Hải Thuỵ, có thể trong lòng còn nhiều mâu thuẫn. Hải Thuỵ không muốn biết sự việc đầy căm phẫn đó lại do ân nhân làm, lại không thể không nhìn vào sự thực, kiên trì nguyên tắc. Hải Thuỵ còn một nguyên tắc khác: Đối việc không đối người. Việc Hải Thuỵ cần làm là chỉnh đốn kỷ cương, và không chỉnh người. Vì vậy, trọng tâm của công việc là hoàn trả lại đất và hy vọng Từ Giai có thể chủ động trả lại đất. Hải Thuỵ biết, ruộng đất của dân được trả lại thì lòng căm phẫn của dân cũng sẽ dịu đi. Lúc này cần giúp Từ Giai một tay và đó không phải là chuyện khó. Tiếc là Từ Giai không hề tự giác, lại hết sức hẹp hòi, chỉ hoàn trả lại một ít, gọi là tượng trưng. Từ Giai muốn phô diễn, muốn mơ mơ hồ hồ cho qua chuyện. Hải Thuỵ là người cả tin, chưa bao giờ làm việc đó, nên đã đến giục. Nhưng Từ Giai lại thoái thác, nói ruộng đất đó là của con trai, không tiện làm chủ. Như vậy là quá kém, một chút phong độ của tể tướng cũng không còn! Lần nữa Hải Thuỵ lại đến thúc, nói gần đây tra duyệt danh sách trả lại ruộng đất, được biết thịnh đức của các hạ lớn lao ngoài sức tưởng tượng của mọi người, đáng tiếc con số trả lại chưa nhiều, hi vọng được thanh lý nhiều hơn. Trước kia một số người con có thể sửa chữa sai lầm của cha mẹ, nay các hạ là cha, sửa chữa sai lầm của con cái, có gì là không được? Đồng thời, Hải Thuỵ còn có thư cho thủ phủ Lý Xuân Phương, nói: “Từ Giai bị lũ tiểu nhân bưng bít, nên tài sản quá lớn đến mức khiến người ta kinh hãi. Nay “dân phong hiểm ác”, nếu Từ Giai không hoàn trả hơn nửa ruộng đất, e sẽ bất lợi cho ông ấy”. Hải Thuỵ tuy không chịu hỵ sinh nguyên tắc của mình, nhưng vẫn muốn ủng hộ Từ Giai. Rõ ràng, Hải Thuỵ có công lớn trong việc hoàn trả ruộng đất, còn việc sung quân, bãi quan phần nhiều là công của hai vị Cao, Sái, và đều là những việc xảy ra sau khi Hải Thuỵ đã bị bãi quan.
Hải Thuỵ chỉ muốn sửa chữa những sai lầm của Từ Giai, không muốn đẩy Từ Giai vào chỗ chết. Hải Thuỵ đã lao tâm khổ tứ tìm cách bảo toàn Từ Giai trong trường hợp không phải hỵ sinh nguyên tắc, nhưng như vậy, khác gì đã trở mặt với Từ Giai. Theo Hải Thuỵ, chỉ cần tự vấn lương tâm thấy không hổ thẹn: Trên không hổ với cha với vua với đất nước, dưới không hổ với lê dân trăm họ, ở giữa không hổ thẹn với ân nhân đã cứu mạng. Nhưng Hải Thuỵ lại không biết, trong chốn quan trường chỉ có thân sơ, không có đúng sai. Với logic lấy người thân làm ranh giới, giới quan trường coi Hải Thuỵ là kẻ phản bội Từ Giai, và trở thành đồng bọn với Cao Củng. Lần này Hải Thuỵ đã đắc tội với toàn bộ tập đoàn Từ Giai.
Tập đoàn Cao Củng cũng không nể rình, vì Hải Thuỵ từ lâu đã đắc tội với Cao Củng. Vào năm Long Khánh thứ nhất (năm 1567), Từ và Cao đã đấu với nhau. Đồng đảng với Cao Củng - Tề Khang hạch tội Từ Giai, nói con cái và gia nhân Từ Giai hoành hành bá đạo, làm nhiều điều xấu ở thôn quê. Đó là sự thực, vì thế Từ Giai đành phải xin được nghỉ hưu. Lúc đó, quan viên phụ trách giám sát trong triều đều là thân tín của Từ Giai đã hợp lại phản công. Âu Dương Nhất kính là người đầu tiên quả quyết Cao Củng, Tề Khang là gian đảng. Tề Khang cũng phản đối, nói Au Dương Nhất kính là gian đảng. Khi hai bên tranh cãi tới mức Hải Thuỵ lên tiếng. Hải Thuỵ dâng sớ trách cứ mạnh mẽ Tề Khang, nói mục đích Tề Khang hạch tội Từ Giai là để Cao Củng được nắm quyền, Tề Khang là loài “ưng khuyển”, tay sai của Cao Củng, là kẻ “chỉ biết đến tước lộc của mình, không lo cho sự an nguy của thiên hạ”, vì vậy Cao Củng đáng phải bãi quan, Tề Khang đáng phải xử hình(2). Lúc đó, tiếng tăm Hải Thuỵ đang nổi như cồn. Bản tấu của Hải Thuỵ đã giáng một đòn nặng nề vào Cao Củng. Kết cục, Cao Củng từ chức, Tề Khang bãi quan, về sau, lúc Cao Củng xuất hiện trở lại, đương nhiên phải báo thù Hải Thuỵ. Cao Củng quyết không tha Hải Thuỵ dù Hải Thuỵ muốn Từ Giai trả lại ruộng đất.
Lần này, Hải Thuỵ còn đắc tội cả với Trương Cư Chính. Trương Cư Chính vốn cùng phe với Từ Giai. Nhờ được Từ Giai tiến cử, Cư Chính trở thành đại thần trong nội các. Sau khi vào nội các, Cư Chính luôn đứng về phía Từ Giai. Sau khi nghỉ chức, vì sợ Cao Củng báo thù, nên Từ Giai luôn phải giữ quan hệ với Cư Chính, còn mong Cư Chính làm trung gian hoà giải. Trương Cư Chính thấy việc đó rất đơn giản: Tri phủ Tô Châu tuy là Sái Quốc Hỵ, nhưng tuần phủ Ứng Thiên lại là Hải Thuỵ! Hải Thuỵ chịu ơn Từ Giai, lý gì lại không quan tâm? Nhiều lắm cũng chỉ là một cuộc làm quen. Thế là, Trương Cư Chính có thư gửi Hải Thuỵ, nói khéo, mong Hải Thuỵ lưu tâm một chút. “Tồn Lão chi thể diện, Huyên ông chi mỹ ý. Tôn Lão là Từ Giai. Từ Giai tự là Tồn Trai, nên còn gọi là Tồn Lão. Huyền Ông là Cao Củng. Cao Củng tự là Trung Huyền, nên gọi là Huyền Ông. Lúc đó, Cao Củng là thủ phụ, Trương Cư Chính là thứ phụ. Trương Cư Chính muốn giúp Từ Giai, lại không muốn đắc tội với Cao Củng, nên mới nói như vậy. Cư Chính không ngờ, Hải Thuỵ là người rất nguyên tắc, Hải Thuỵ luôn muốn báo thù Cao Củng, Hải Thuỵ rất không hài lòng với cảnh đó, nên không những không giữ được thể diện của Từ Giai mà Cư Chính cũng mất luôn cả thể diện. Sau khi Hải Thuỵ bị bãi quan, đã có người muốn đề cử Hải Thuỵ, nhưng vì có Trương Cư Chính giở trò ở bên trong, nên Hải Thuỵ mới không được phục chức.
Trương Cư Chính không muốn Hải Thuỵ được phục chức, đương nhiên còn một nguyên nhân nữa, đó là ông ta cảm thấy, một người không dung hoà được với bất kỳ sự kiện nào như Hải Thuỵ, nếu giữ lại ở chốn quan trường thì có hại. Ngược lại, lúc này Hải Thuỵ đã đắc tội với Từ Giai, Cao Củng, ai vào thời đó thế lực của ba người này trong giới quan trường là rất mạnh. Đắc tội với họ ngang như đắc tội với toàn bộ giới quan trường.
Nhưng gần như Hải Thuỵ chưa đã nghiền. Sau khi bị lũ Thư Hoá, Đới Phượng Tường hạch tội, Hải Thuỵ có thư gửi Cao Củng, nói “nhân tình thế thái, việc thiên hạ chỉ có thế thôi ư! Liệu còn gì hay hơn không!”. Hải Thuỵ rất phẫn nộ, nói thêm, muốn Hải Thuỵ này vứt bỏ niềm vui thiên luân giữa mẹ con, vứt bỏ cái đẹp tự nhiên của núi rừng, để bàn bạc đúng sai với lũ tiểu nhân, để mất bao nhiêu sức lực mới thành công một sự việc, phỏng có ích gì! Xem ra đại sự trong thiên hạ, chỉ còn biết trông cậy ở các hạ! Nói điều này ngang như đã chỉ thẳng vào mặt Cao Củng mà chửi. Mắng Cao Củng còn là chuyện nhỏ, Hải Thuỵ còn có hai lần viết thư gửi hoàng đế, mắng chửi triều đình, lần thứ nhất nói “kẻ sĩ cả triều, giống như lũ đàn bà”, lần thứ hai nói “Nho sĩ nhu nhược ngang lũ đàn bà”. Chửi như vậy, ngang như cự tuyệt tập đoàn quan văn. Nghe nói, ngay như ngài Lý Xuân Phương - người nổi tiếng, cũng thấy rất khó có thể tiếp nhận. Lý Xuân Phương nói với mọi người, nếu cách nói của Hải Thuỵ được chấp nhận, thì chẳng phải ta cũng là một mụ già rồi sao?
Nhìn chung, lúc này Hải Thuỵ đã đắc tội với mọi người trong triều. Dù số người đó không xung đột trực tiếp với Hải Thuỵ, thi họ cũng không chấp nhận hành động và tư tưởng của Hải Thuỵ. Không nghi ngờ gì, Hải Thuỵ là người tốt, là vị quan tốt. Hải Thuỵ lương thiện, chính trực, cương nghị, quyết đoán, dám chịu trách nhiệm, không sợ khó khăn, thà gãy chứ không cong, quyết không thoả hiệp, ý chí kiên cường, dũng mãnh tiến lên trước. Nhưng chính vì những phẩm hạnh ưu tú đó, mà Hải Thuỵ luôn va vào tường, bước vào ngõ cụt, Hải Thuỵ như con hươu con, ngây thơ hiền lành, sơ ý đã rơi vào bầy hồ lỵ, lang sói, nhưng vẫn cứ tưởng mình là một chú sư tử dũng mãnh.
Thực lòng ủng hộ Hải Thuỵ lúc này, chỉ có thể là trăm họ và những người nông dân nghèo khổ. nhưng vào thời đó, sự ủng hộ của họ, liệu có tác dụng gì!
Chú thích


(1) Nghe nói, con số thực là sáu vạn mẫu, đều bị tịch thu. Sự việc xảy ra sau khi Hải Thuỵ bị bãi quan (Tác giả).
(2) Thực ra, Cao Củng cũng không tệ lắm, về tài trí, khí phách đều hơn Từ Giai, sinh hoạt cũng giản dị chất phác. Môn sinh của Cao Củng là Sái Quốc Hy cũng xứng đáng với chức tri phủ Tô Châu, hợp tác rất tốt với Hải Thuỵ. Vì vậy, khi biên tập văn tập sau này, Hải Thuỵ đã phải nhìn nhận lại bản tấu sớ này (Tác giả).
Về Đầu Trang Go down
https://triamquan.forumvi.com/
Tri Âm Quán
Thành Viên Tích Cực
Thành Viên Tích Cực
Tri Âm Quán


Tổng số bài gửi : 6340
Reputation : 2
Join date : 31/07/2013
Đến từ : Thị Trấn Chũ

Luận Anh Hùng - Page 2 Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Luận Anh Hùng   Luận Anh Hùng - Page 2 EmptyFri Oct 10, 2014 1:15 pm

DỊCH TRUNG THIÊN
LUẬN ANH HÙNG
HẢI THỤY
- 3 -
Một thời đại hết thuốc chữa
Thực ra, rất nhiều người thừa nhận chính tích của Hải Thuỵ.
Sau khi Hải Thuỵ bị miễn chức tuần phủ úng Thiên, người kế nhiệm là Chu Đại Khí. Cao Củng và Trương Cư Chính luôn có thư cho Chu Đại Khí, bàn về chuyện phải như thế nào với chính sách của Hải Thuỵ. Cao Củng và Trương Cư Chính tuy là địch thủ, đều chủ trương bãi miễn Hải Thuỵ, nhưng gần như đều nhất trí đánh giá cao Hải Thuỵ. Thứ nhất, không thể phủ nhận toàn bộ những việc Hải Thuỵ đã làm, Cao Củng ngay từ đầu đã nói rõ ý chính: “Những việc Hải Thuỵ đã làm, nếu nói đúng cả, chưa hẳn; nếu nói sai cả, cũng chưa hẳn”. Thứ hai, bọn họ đều cho rằng, mục đích của Hái Thuỵ là trừ ác, động cơ là vì dân, chí có cách làm là chưa thoả đáng. Thậm chí Trương Cư Chính còn dùng khẩu khí biện giải thay cho Hải Thuỵ: “Cách làm tuy có quá đáng, nhưng lòng dạ lại vì dân”, tóm lại xuất phát điểm của động cơ là rất tốt. Thứ ba, bọn họ đều cho rằng chính sách của Hải Thuỵ chỉ có thể điều chỉnh, không thể vứt bỏ. Trương Cư Chính có phần khách khí hơn, nói: “Sau khi xuống tuyết, cho thêm hơi ấm, người ta sẽ hoài xuân, chẳng cứ phải thay đổi hết phép tắc để theo người”. Cao Củng lại nói như đinh đóng cột: “Nếu không điều chỉnh chỗ quá khích, bất cận nhân tình của ông ta thì hẳn là không được, nếu lại bỏ hết chỗ đau xót vì tệ nạn, làm chủ cho dân, thì lại càng không được. Cái chữ càng trong càng không được chí rõ, điều khẳng định của Cao Củng về việc làm của Hải Thuỵ nhiều hơn hẳn những điều phủ định, thậm chí còn không muốn phủ định những chỗ chưa đủ của Hải Thuỵ, cũng không thể phủ nhận phương hướng loại bỏ tệ nạn, làm chủ cho dân của Hải Thuỵ.
Xem ra, không thể coi Cao Củng và Trương Cư Chính là hai kẻ xấu, càng không phải là những kẻ tầm thường. Họ đều rất tỉnh táo, rất hiểu biết. Cả hai đều không vì chán ghét con người Hải Thuỵ mà phủ nhận nhân phẩm, nhân cách của Hải Thuỵ cùng những phương hướng chính xác của Hải Thuỵ, cũng không vì Hải Thuỵ đã bị bãi quan mà như đá ném xuống giấy, truy bức tới cùng, nói là Hải Thuỵ sai lầm hoàn toàn. Hai vị nguyên lão này có phần như là “chèo thuyền trong bụng tể tướng”. So ra thì, Hải Thuỵ có phần trẻ con khi chửi mắng tất cả.
Điều mà Cao Củng, Trương Cư Chính không hợp với Hải Thuỵ chính là phương thức và phương pháp. Cao Củng nói Hải Thuỵ là quá khích, Trương Cư Chính nói là quá đáng, về phần mình, Hải Thuỵ có cảm giác là chưa đủ. Với vẻ lo nghĩ, buồn rầu, Hải Thuỵ từng nói, lúc này chữa bệnh cho đất nước chỉ còn một vị thuốc là: Cam thảo. Thuốc để xử thế chỉ là hai chữ: Hương nguyện! Hương nguyện còn là hương nguyên, Mạnh Tử định nghĩa là: “Hoà cùng thói tục, hợp với đời dơ, ăn ở dường như trung tín, hành động dường như liêm khiết, mọi người đều ưa thích, tự cho là phải, mà không thể cùng vào đạo của Nghiêu Thuấn. Rõ ràng, hương nguyện là giá dối, là phô diễn, lấy lòng bốn phương, lung lạc tán thưởng, không nói tới nguyên tắc, bề ngoài là liêm khiết, tự khép mình, thực tế là cùng với hủ tục, hợp với đời bẩn. Người như vậy, kê đơn chữa bệnh cho đất nước, đương nhiên, chỉ có một vị ngon ngọt là cam thảo, trị không khỏi bệnh và cũng trị không chết người. Hải Thuỵ cho rằng phải dùng tới loại thuốc mạnh. Hải Thuỵ có tấu sớ dâng lên hoàng đế Gia Tĩnh, đó chính là vị thuốc mạnh, vị dẫn thuốc là sinh mạng của chính mình. Hải Thuỵ hy vọng vị thuốc đó có thể làm cho hoàng đế bừng tỉnh và đất nước phấn chấn lên. Tiếc là bệnh về thể xác và tư tưởng của vị hoàng đế đã nhập vào xương rồi, cuối cùng thì ô hô mất mạng. Chả trách, khi được tin, Hải Thuỵ đã khóc rống lên, Hải Thuỵ khóc vì cái chết của hoàng đế và cũng khóc vì phương thuốc đó không hiệu nghiệm.
Lúc này, khó khăn lắm Hải Thuỵ mới có cơ hội chữa bệnh cho đất nước, đương nhiên không thể bỏ qua. Vì vậy, vừa đến nhận chức tuần phủ úng Thiên, Hải Thuỵ đã giơ dao múa búa, sấm chớp vang trời, thậm chí không sợ sửa sai quá mức. Lúc Từ Giai vừa hoàn trả ruộng đất, lẽ ra Hải Thuỵ đã nên thôi. Vì nó đã có ảnh hưởng tốt, lũ đại địa chủ như Thẩm Khải thấy ngay cả với Từ Giai Hải Thuỵ cũng không bỏ qua, đành phải chủ động hoàn trả số ruộng đất đã cướp đoạt. Lúc đó Hoàng Nhân Vũ cũng nói: “Nếu Hải Thuỵ dùng phương thức trừng trị một cảnh cáo trăm, tuyên truyền rộng rãi án của Từ gia và một số kẻ khác làm gương, bọn nhà giầu lừa dối người nghèo sẽ phải khiếp sợ”, thế thì “trong không khí ngoài cứng trong mềm, Hải Thuỵ sẽ thành công^”, nhưng Hải Thuỵ gần như không hiểu “đạo của văn võ là khi cứng thì mềm”, nhiệt tình làm việc của Hải Thuỵ không chỉ không giảm, mà còn gấp bội mỗi khi nghe tin thắng lợi. Hải Thuỵ thấy không vui, nếu chỉ ngồi ở nha môn nhận đơn tố giác (như đã nói, mỗi tháng có tới bảy, tám ngàn lá đơn), Hải Thuỵ còn đến tận phủ huyện để nghe tố tụng, hỏi han từng đơn, thẩm lý từng đơn, đã làm là làm tiếp, dây cương đấu tranh ngày một căng.
Chỉ riêng Hải Thuỵ mới có nhiệt tình đó. Sở dĩ phải làm việc như điên như dại, vì vừa chân ướt chân ráo đến nơi, Hải Thuỵ đã phát hiện thấy những việc cần làm đang rối như tơ vò và cần phải chấn hưng ngay mọi việc đã bê trệ. Hải Thuỵ thấu hiểu, một người không phải là tiến sĩ, không có chỗ dựa là các ông lớn, được gánh vác trọng trách là điều đặc biệt trong những điều đặc biệt, vậy chỉ còn cách là ra sức làm việc, mới có thể báo đáp đất nước, không phụ hoàng ân. Hơn nữa, lúc này Hải Thuỵ đã hơn năm mươi tuổi, thời gian làm việc không còn nhiều, đúng là “thời gian không biết chờ đợi”. Vì vậy Hải Thuỵ luôn bị áp lực, giống như Hàn Dũ năm nào “muốn làm thánh minh trừ thói tệ, chịu đan mục nát tiếc năm tàn”. Ngoài ra, Hải Thuỵ còn có suy nghĩ: Trên đời này không có bữa tiệc nào là không tàn, không có chức quan nào là mãi mãi, Hải Thuỵ này lại càng như thế, chỉ có thể một ngày làm quan thì một ngày phải hết sức, có thể làm được bao nhiêu thì làm bấy nhiêu. Để đẩy nhanh tiến độ công trình trị thuỷ sông Tùng Giang, Hải Thuỵ cho dựng văn phòng làm việc ngay tại công trường, cho giết ba tên giám quan bất lực và thi thể của chúng được cuốn chiếu, chôn trước văn phòng. Kết quả, tiến độ công trình trở nên rất nhanh. Một viên tuần án ngự sử vốn muốn cản trở và hãm hại Hải Thuỵ chưa kịp ra tay thì công trình đã hoàn thành. Viên tuần án nọ chỉ còn biết ôm đầu thở dài: “Công trình để đời đã bị hắn giành mất”. Đương nhiên, khi viên tuần án kia cho người đào mồ ba kẻ bị giết, thấy có ba con lợn béo, ba tên giám quan đã được Hải Thuỵ giấu ra nơi khác.
Công trình thuỷ lợi có thể được tiến hành khẩn trương như vậy, nhưng công trình chính trị thì không hề đơn giản. Lúc này nhìn lại, thấy việc làm của Hải Thuỵ lúc đó có phần giản đơn. Hải Thuỵ thụ án nhiều đến như vậy, cũng có thể coi là đơn giản. Nhưng vấn đề đụng tới lại là những vấn đề hết sức phức tạp: Như là đo đạc lại ruộng đất, hoàn trả nông điền, bình phản oan ngục, chỉnh đốn trị an, sửa sang thuỷ lợi, giải tán mộ binh, chỉnh đốn lại trị, khảo hạch quan viên, quyết định một loại thuế mới, đâu đâu cũng là việc cũ, ăn sâu bám rễ rất khó bỏ, đã tiến hành là động tới toàn thể, nhưng lực lượng của Hải Thuỵ lại rất mỏng, đã không có điều khoản pháp luật chính xác, cũng không có cơ cấu chuyên môn đắc lực, chỉ bằng vào nhiệt tình chính trị, cùng những trực giác về thiện và ác, đã hỵ vọng nhanh chóng gỡ hết mớ bòng bong, chỉ một buổi đã thanh trừ hết những tệ nạn của trăm năm, điều đó không thể thành công, đương nhiên không cần phải nói.
Bọn chúng thường lấy việc Hải Thuỵ cải cách ở úng Thiên để hạch tội Hải Thuỵ, chúng ra tay rất hăng và khí thế ghê gớm. Cấp sự trung Đới Phượng Tường còn nói bừa, dưới sự cai trị của Hải Thuỵ, tá điền không dám nộp tô cho nghiệp chủ, người vay tiền không dám trả lại, dân gian lưu truyền câu nói “trồng ruộng tốt không bằng tô cáo vặt”. Nếu Hải Thuỵ không thanh liêm đến nhường ấy, e đã được coi là khốc lại kiểu như Chu Hưng và Lai Tuấn Thần. Nội các cũng rất lo lắng về cách làm của Hải Thuỵ. Họ nghĩ ngay tới một vị thầy thuốc, vị này từng cho bệnh nhân ăn rất nhiều ba đậu, còn hùng hồn kể rằng, sách thuốc từng viết “phải cẩn thận khi dùng ba đậu”, đương nhiên, cần phải trọng dụng loại người này. Còn như, vị thầy thuốc là Hải Thuỵ, nội các thấy cần phải nhanh chóng thu lại chức tuần phủ, để đất nước Đại Minh vốn đã bị bệnh, không bị Hải Thuỵ nhiệt tình chữa trị quá mức, khiến người nghiêng ngựa ngả.
Hải Thuỵ quyết định cầu cứu Trương Cư Chính.
Lúc còn ở kinh thành, chừng như Hải Thuỵ đã gặp gỡ Trương Cư Chính. Theo Hải Thuỵ, Trương Cư Chính là người có đầu óc, không như lũ quan viên chuyên ngồi không ăn sẵn, hệt như lũ đàn bà. Lúc này, Trương Cư Chính đã có ba năm ở nội các, là thượng thư bộ Lại, là đại học sĩ điện Vũ Anh. Vì vậy Hải Thuỵ mong muốn Trương Cư Chính sẽ đứng ra chủ trì công lý. Cũng như Hải Thuỵ, Trương Cư Chính từng chủ trương đổi mới chính trị, tăng cường pháp luật và cũng căm ghét bọn địa chủ Tô (Tô Châu), Tùng (Tùng Giang), nhưng lại tỏ ra bất lực trước sự cầu viện của Hải Thuỵ. Trương Cư Chính có thư cho Hải Thuỵ, nói: “Luật ba thước không thi hành ở nước Ngô lâu rồi, nay mà gò vào khuôn phép hẳn không chịu nổi”. Còn nói thêm, lúc này triều đình đã bàn nhiều về Hải Thuỵ: “Ngoa ngôn sôi sục, người nghe lo sợ”. Vì vậy, Trương Cư Chính tự thấy hổ thẹn trước miếu đường và cũng hổ thẹn là người nắm giữ pháp luật mà không làm được gì.
Xưa nay, người người luôn chê trách lá thư của Trương Cư Chính, cho rằng Cư Chính lúc đồng tình lúc chê trách, thật dối trá vô cùng. Tôi lại nghĩ, Cư Chính đã nói lên sự thực. Đúng, cả triều đình lúc đó đã coi Hải Thuỵ như cái gai trong mắt, cần phải vứt bỏ nhanh, Trương Cư Chính nói giúp Hải Thuỵ mấy câu, liệu có gì là hay ho, huống chi Cư Chính vẫn còn chưa đồng tình với cách làm của Hải Thuỵ. Đương nhiên, không nên trách Trương Cư Chính.
Vậy, bản thân Trương Cư Chính đã làm như thế nào? Hình như cũng chẳng làm gì cả.
Trương Cư Chính được coi là một trong số những chính trị gia nổi tiếng nhất thời Minh. Vào năm hoàng đế Vạn Lịch đăng cơ (năm 1572), bằng phương thức tập kích bất ngờ, như tiếng sét ngang tai. Cư Chính đã đánh đổ Thủ Phụ Cao Củng, đến năm Vạn Lịch thứ mười (năm 1582) qua đời, có hơn mười năm là Nguyên Phụ Kiên đế sư. Trước lúc qua đời chín ngày, Cư Chính được gia phong hàm thái sư, trở thành người có vinh dự đặc biệt ở triều Minh. Trong mười năm đó, Vạn Lịch hoàng đế là học trò của Cư Chính (Vạn Lịch đăng cơ lúc mới có chín tuổi), Từ Thánh hoàng thái hậu ân sủng, tín nhiệm Trương Cư Chính hết mức, vì vậy, trong mười năm đó ý chỉ của Trương Cư Chính cũng là thánh chỉ của hoàng đế, đồng ý chỉ của thái hậu. Phần lớn văn võ trong triều là người Cư Chính bồi dưỡng và đề bạt. Đương nhiên, Hải Thuỵ không dám quay lưng lại với một người quyền lực như vậy.
Địa vị của Trương Cư Chính và Hải Thuỵ tuy có khác biệt, nhưng tác phong của hai người phần lớn là giống nhau: Luôn hăng say làm việc, có nhận thức có trách nhiệm, không hề run sợ, tác phong mạnh mẽ… Có điều Trương Cư Chính ít liêm khiết, nhiều quyền mưu hơn Hải Thuỵ. Không nên nghi ngờ gì về tài năng chính trị của Trương Cư Chính, sức hút của con người này cũng khiến người ta phải nghiêng ngả. Trương Cư Chính thông minh tuyệt đỉnh, nhạy bén hơn người, hiểu sâu nhớ dai, hơn nữa còn biết trọng lễ nghĩa, tu nhân tích đức, trong ngoài luôn biểu hiện phong độ cần có của vị hiền tướng. Lúc hoàng đế Long Khánh tạ thế, Cư Chính và Cao Củng đều có mặt trong nội các. Cao Củng là thủ phụ, Cư Chính là thứ phụ. Thời Minh không có chế độ tể tướng, chỉ có chế độ các thần (đại thần trong nội các), nên thứ phụ có nghĩa gần như “phó thủ tướng thứ nhất”. Nhưng mọi đình thần thời đó đều ác cảm với các thần số một Cao Củng và thiện cảm với các thần số hai Cư Chính. Để bài xích Cao Củng, được hoạn quan Phùng Bảo vẽ đường mách lối, Trương Cư Chính đã có một hiệp định bí mật về chính trị với mẹ đẻ của Vạn Lịch là Lý quý phi, điều kiện là tôn Lý quý phi làm “Từ Thánh hoàng thái hậu” ngang hàng với “Nhân Thánh hoàng thái hậu” đích mẫu(Ạ) của Vạn Lịch. Hành vi không đẹp với các đồng liêu chính phái rốt cuộc vẫn được chấp nhận. Lúc đó, nhân duyên của Trương Cư Chính là tốt, uy vọng cao quý, nói chung là toàn vẹn.
Tiểu hoàng đế Vạn Lịch nhìn Trương Cư Chính vừa kính vừa ngại. Hoàng đế Vạn Lịch tên là Chu Dực Quân, Vạn Lịch là niên hiệu, khi chết, miếu hiệu là Thần Tông. Trước thời Minh, có rất nhiều niên hiệu của một hoàng đế, trong số đó, niên hiệu của Võ Tắc Thiên là nhiều nhất, có lúc đổi hiệu đến mấy lần trong một năm, vì vậy lịch sử thường xưng hô các vị hoàng đế bằng thuỵ hiệu hay miếu hiệu, như Hán Vũ đế, Đường Thái Tông. Hai triều Minh, Thanh hoàng đế chỉ có một niên hiệu (trừ Minh Anh Tông Chu Kỳ Trấn có hai lần đăng cơ). Mọi người đều quen xưng hô bằng niên hiệu, như Vạn Lịch thời Minh, Ung Chính thời Thanh. Vạn Lịch và hai người mẹ của mình luôn có sự kính trọng đặc biệt với Trương Cư Chính, thường gọi là “Nguyên phụ Trương tiên sinh”. Vì Trương Cư Chính đã giúp họ, cô nhi quả mẫu, loại bỏ Cao Củng - một thủ phụ hoành hành bá đạo, luôn có bụng không thần phục. Thực ra, đó là âm mưu của Trương Cư Chính và Phùng Bảo. Lúc khóc trước linh cữu, Cao Củng nói: “Thái tử mười tuổi trị thiên hạ thế nào đây”, từ đó, Phùng Bảo đổi thành “thằng bé mười tuổi, làm thiên tử thế nào đây”, lúc câu nói sau truyền đến hậu cung, hai cung thái hậu hết sức kinh ngạc, hoàng đế Vạn Lịch mặt cũng biến sắc. Sau đó, với sự sắp đặt tinh tế của Trương Cư Chính, vào một buổi sáng, đột nhiên Cao Củng bị tước mất toàn bộ quan hàm chức vị, bị đuổi khỏi kinh thành, trở về nguyên quán, được giao cho địa phương quản thúc nghiêm ngặt. Nghe nói, lúc đó Cao Củng đang quỳ trước trăm quan, và bất thần như bị sét đánh, đã gục xuống và bất tỉnh, cuối cùng lại là Trương Cư Chính đến vực dậy, Cao Củng mới thất thểu bước ra ngoài.
Về Đầu Trang Go down
https://triamquan.forumvi.com/
Tri Âm Quán
Thành Viên Tích Cực
Thành Viên Tích Cực
Tri Âm Quán


Tổng số bài gửi : 6340
Reputation : 2
Join date : 31/07/2013
Đến từ : Thị Trấn Chũ

Luận Anh Hùng - Page 2 Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Luận Anh Hùng   Luận Anh Hùng - Page 2 EmptyTue Oct 14, 2014 11:23 am

Trương Cư Chính có công hộ giá cần vương, thêm nữa, Cư Chính phong thái trang trọng, đạo mạo trang nghiêm, thông minh tuệ trí, bác học đa tài, từng câu chữ đầy lý lẽ, mỗi việc làm luôn thoả đáng, từng cử chỉ luôn hợp lý hợp thể, khiến cho vị hoàng đế mười tuổi và hai bà mẹ phải phục sát đất, đương nhiên, Cư Chính được coi là tổng thiết kế sư việc triều chính và là tổng trưởng giáo dục của hoàng đế.
Nhưng Trương Cư Chính bị đổ còn thảm hơn Hải Thuỵ nhiều. Sau khi qua đời được nửa năm, Cư Chính bị phát giác và phê phán về mọi mặt, gồm những tội danh khi quân hại dân, thu nhận hối lộ, mua quan bán tước, nhiệm dụng người của mình, buông thả lũ nô bộc, kết bè lập đảng, thao túng triều chính, lòng dạ phản trắc, thậm chí còn có người tố giác Cư Chính có ý soán vị mưu phản. Hai năm sau, tức là vào năm Vạn Lịch thứ mười hai (năm 1584), gia sản bị tịch thu bằng sạch, con trai đầu đã tự sát trong quá trình gọi là “truy thu tang vật”. Bốn tháng sau, tội của Cư Chính được ban bố thành năm hạng mục: Vu cáo thân vương, chiếm đoạt vương phủ, kìm chế ngôn quan, bưng bít thánh đế, chuyên quyền loạn trị. Với những tội ác đó, lẽ ra phải mở quan tài băm nát thi thể, nay gia ân xá miễn, nhưng mấy người em và hai con trai đều phải sung quân ra vùng đất hiểm.
Có đúng là Trương Cư Chính đã phạm những tội ác vừa nói ở trên không còn là vấn đề chưa rõ và cũng không quan trọng. Trong đấu tranh chính trị ở thời cổ đại Trung Quốc, những nguyên nhân khiến một nhân vật hàng đầu thân bại danh liệt, thường bị những lời nói đường hoàng, có vẻ như thật che khuất. Trương Cư Chính từ chỗ được ‘Vạn người xưng tụng” đã biến thành kẻ bị “vạn người chửi rủa”, nguyên nhân thực sự là đã đắc tội với toàn bộ giới quan trường, chẳng khác gì nguyên nhân làm Hải Thuỵ bị bãi quan. Có điều, tội của Hải Thuỵ là huỷ hoại quỵ chế của quan trường, còn Cư Chính đã đụng tới bát cơm của chúng. Họ giống nhau ở chỗ, đều nhận thấy tệ nạn quá nhiều, cần phải sửa đổi, làm mới. Chỗ khác biệt là Hải Thuỵ chú ý tới liêm chính, vì thấy phải làm chủ cho dân; Cư Chính chú ý tới hiệu suất, vì mục đích là nước giàu binh mạnh. Muốn loại bỏ hủ bại hô hào liêm chính, chỉ cần đề cao tinh thần đạo đức, khôi phục chế độ thời Hồng Vũ là xong; còn như muốn nâng cao hiệu suất vận hành cả bộ máy nhà nước thì nhất thiết phải biến pháp. Biến pháp là động tới toàn bộ hệ thống thần kinh của giới quan trường, tổn hại đến lợi ích đã có hoặc sắp có của nhiều người, khiến cho kế hoạch thăng quan phát tài của nhiều người trở thành bong bóng. Vì vậy “sự phẫn nộ của giới quan lại” đối với Cư Chính càng lớn.
Ít ra cũng có tới hai sự kiện khiến bọn quan văn căm hận Trương Cư Chính.
Sự kiện thứ nhất, Trương Cư Chính đã mượn danh nghĩa hoàng đế trách cứ và lệnh cho các địa phương phải thu đủ mọi khoản thuế theo quỵ định. Nhìn bề ngoài thì mệnh lệnh đó không có gì là không thoả đáng; làm ruộng nộp thuế để đất nước có lương thực, là việc thiên kinh nghĩa địa xưa nay phải làm. Nếu không nộp đủ, phải bổ sung là đương nhiên, trừ trường hợp có thiên tai, triều đình sẽ có lệnh đặc biệt để miễn giảm. Nhưng tình hình thực tế hiện nay là: Khắp nơi trong toàn quốc, bất kể là huyện giàu hay nghèo, bất kể là năm thiên tai hay năm được mùa, thuế má không bao giờ nộp đủ. Nguyên nhân đại thể là thế này: Triều đình có một ngàn một trăm huyện, tình hình sẽ khác nhau là lẽ tự nhiên, vì thế ngạch thuế và mức thuế ở các huyện cũng khác nhau. Nghe nói tổng số thuế ở huyện khá giả gấp ba trăm đến bốn trăm lần một huyện còn nghèo khổ, khó khăn. Điều này sẽ tạo nên một tâm lý bất bình đẳng. Ở một huyện nghèo, ý thức nộp thuế của mọi người rất thấp. Với họ, được nộp thuế ít là việc đương nhiên, thiếu một ít thuế cũng chẳng là gì. Vì ai cũng hiểu là họ nghèo, không đủ tiền nộp thuế. Thế là, họ không nộp bất kể một thứ thuế nào, so với những vùng giàu có, mức sống quá ư tồi tệ, nếu đóng đủ thuế, thì còn gì để sống? Hơn nữa, thuế má vốn đã rất nhẹ, nếu đóng đủ cũng chẳng là mấy, việc gì cứ phải cân đo đong đếm? Đất nước Đại Minh, đất rộng người đông, tài nguyên phong phú, còn phải nghĩ tới mấy đồng tiền bọ kia làm gì? Những vùng giàu có bớt ra một chút của giắt răng là đủ. Nông dân và địa chủ những vùng còn nghèo khó, đều đã làm việc như đã thấy, tự nhiên có thể nộp thì cứ nộp, không nộp thì thôi.
Nông dân và địa chủ những vùng giàu có lại nghĩ khác. Họ cho rằng “khắp gần trời nay đều là đất của vua, mọi người đều là bề tôi của vua” phải được đối xử công bằng như nhau, dựa vào đâu bảo chúng tôi phải đóng nhiều, người khác được đóng ít. Huyện nghèo đất hẹp người thưa, tổng ngạch thuế má ít đi một chút thì đã sao, nhưng không thể có hai loại thuế suất. Thực tế thì khác biệt lại quá lớn, như thuế ruộng ở phủ Tô Châu, chiếm chừng 20% thu nhập của nông thôn còn ở huyện Tào, Sơn Đông chiếm 9%. Ở Lật Dương càng ít, chỉ từ 1% đến 5%. Lật Dương cách Tô Châu không là bao, nhưng thuế suất lại khác biệt một trời một vực, chẳng trách tâm lý dân Tô Châu là không bình thường. Tính ra, những vùng giàu có chỉ cần nộp 60% tiền thuế, đã bằng tổng số tiền thuế những vùng nghèo khó, đã cống hiến không ít. Số tiền còn lại, tự nhiên có thể nộp thì cứ nộp, không nộp thì thôi.
Kết quả, bất luận là huyện giàu, huyện nghèo, chỉ có thể thu được sáu phần tiền thuế, bốn phần còn lại chưa có hồi kết. Con số đó cũng đáng kể. Mọi người đều hiểu, chống lại việc nộp thuế là phạm vương pháp. Điền chủ không thể không nộp một ít, quan địa phương không thể không thu một ít, bằng không sẽ mất mũ ô sa. Nhưng nếu chỉ thu được sáu phần, tuy gọi là quá bán, cũng đủ để nói dân chúng chống thuế, quan lại vô năng. Vì đã có con sô 60% làm vật đệm, nên mọi người không hề sợ sệt, không phải đóng tiếp bốn phần thuế còn nợ, và đó đã trở thành luật, được ngầm ước định giữa quan và dân.
Còn một điểm nữa cũng rất quan trọng, tức là phần thu thêm, ngoài số tiền thuế quỵ định để dân chúng phải nộp như thóc gạo hao hụt trong quá trình vận chuyển, như bạc vụn đã đúc thành khối cũng không khỏi có hao hụt. Để bổ sung vào chỗ hao hụt đó, lúc thu thuế còn phải thu thêm một khoản khác, gọi là “mễ hao” và “hoả hao”. Khoản tiền thu thêm “thường lệ” này thực chất là thu nhập thêm của quan lại các cấp, ngay cả Hải Thuỵ cũng có phần, có điều Hải Thuỵ tuyên bố là mình không nhận. Các quan lại địa phương khác đều nhận số tiền này. Thực tế, một viên quan địa phương nếu có khéo léo lập thêm một danh mục khác, ngoài các khoản thu thông thường, thì vẫn được coi là quan thanh liêm, như ở phần trước đã nói, tiền lương của quan lại triều đình rất thấp, lương bổng hàng năm của quan lớn nhị phẩm cũng chỉ được một trăm năm mươi hai lạng bạc, không đủ để chi tiêu. Để duỵ trì cuộc sống tươm tất một chút, họ không thể không có “thu nhập không minh bạch”. Quan kinh thành phải dựa vào sự “hiếu kính” của quan địa phương; quan địa phương phải bám vào phần “lệ thường” này. Cho nên phần thu nhập này, nói thẳng ra là tham ô, nhưng lại được công nhận là hợp lý hợp pháp, ít ra cũng là bình thường, nên gọi là “lệ thường”. Một chế độ coi “tham ô là hợp pháp” thì tính hợp lý của chế độ đó đã có vấn đề lớn, nhưng không có ai dám tỏ ra nghi ngờ chế độ.
Người dân có thể nợ thuế nhà nước, nhưng đối với các khoản thu thường lệ thì không được thiếu. Các quan địa phương tuy không thu đủ được tiền thuế nộp vào quốc khố, nhưng các khoản thu thường lệ thì không thiếu một xu. Như vậy, việc nợ bốn phần thuế còn lại, là có lợi cho dân, không hại gì cho quan, chỉ có đất nước là thiệt thòi. Đất nước thiệt thòi, không người xót xa. Thứ nhất, đất nước rộng lớn, giàu có, có thiệt thòi một chút cũng chẳng sao. Thứ hai, đất nước là cao quý, vời vợi, thiệt hay không thiệt liên quan gì tới bọn tiểu dân. Hơn nữa, đất nước thu được nhiều thuế như vậy, nhưng chắc gì đã thu cho dân, để dân dùng, mà để phụng dưỡng hệ thống quan liêu đông đảo và số ít kẻ hoang phí. Số tiền dùng để bảo vệ biên cương, tu sửa công trình thuỷ lợi chắc cũng không quá nhiều. Còn như tiền để phát triển kinh tế, nâng cao sức sản xuất hoặc làm lợi cho số đông những người nộp thuế chắc gì đã có ai nghĩ tới. Đã vậy, chúng ta nộp nhiều như thế để làm gì?
Đương nhiên, trách nhiệm vẫn còn, quan địa phương cũng thúc cũng giục, nhưng một khi cả trăm ngàn chủ hộ dây dưa kéo dài để không nộp thuế thì cũng chẳng có quan địa phương nào ứng phó mãi được. Vì các hộ lớn có chỗ dựa vững chắc, một viên huyện lệnh thất phẩm, vị tất đã dám dây vào. Còn như một tên dân đen cùng khổ, thấp cổ bé họng, cũng tự có cách riêng của mình, tức là “cần lương không có, cần mạng chỉ có một”. Cố nhiên, bọn huyện lại có thể trói người không nộp thuế để xử trị, nhưng pháp luật không trị tội số đông, nên chỉ có thể trừng trị một để đe doạ trăm. Có điều việc nợ thuế đã thành việc của toàn bộ nông hộ, nên cách trừng phạt đó cũng không mấy hiệu quả. Nhưng thuế cũ chưa nộp xong, sẽ thành gánh nặng cho thuế mới. Về phía các quan, họ tìm đủ mọi cách để có thể miễn giảm phần thuế chưa thu, và nếu được thì quan nào đề xuất ra biện pháp đó sẽ được coi là quan tốt quan thanh liêm, là quan “làm chủ cho dân”, là quan phụ mẫu “yêu dân như con”. Làm như vậy khác gì khích lệ việc nợ thuế. Cuối cùng thì việc nợ thuế cũng như việc thu khoản phụ thu trở thành “lệ thường”.
Để nước giàu binh mạnh, đương nhiên Cư Chính không thể để thói xấu đó tồn tại. Và như vậy, Cư Chính không còn là “đầy tớ của dân” mà trở thành “kẻ thù của dân”. Đây là áp lực lớn với các phủ, huyện địa phương và lê dân trăm họ cũng hết lời oán than. Ngay cả các đại thần chính phái trong triều khi nghe tin, cũng không đồng tình. Họ hiểu rõ, để phủ, huyện bỏ tiền túi ra nộp thuế, khác gì muốn lấy da hổ? Số tiền nợ thuế phải là lông dê lấy từ thân dê, do những người dân quê cắt xén trên thân một chú dê non. Họ cũng hiểu, mỗi tờ lệnh của đất nước phải được các quan lại thi hành, trong quá trình thi hành lại bị dưới bớt xén, trên vơ vét, gánh nặng trên vai dân chúng càng thêm nặng, thu nhập của quốc khố chắc gì đã thêm nhiều? Vì thế, họ mới hỏi: Kho bạc kinh thành và địa phương đã được chất đống như núi, sao còn phải tranh lợi với dân? Thế chẳng phải đã bức các quan lại địa phương phải gõ đầu dân đen, thậm chí là đánh đập cho đến chết: Thế rồi từ vấn đề về pháp chế là cần hay không cần có quy tắc nghiêm túc trong chuyện thu thuế của đất nước, được chuyển hoá dần thành vấn đề về đạo đức là cần hay không cần thể tình trăm họ, làm lợi cho dân, cần hay không cần xây dựng một xã hội như thời Nghiêu Thuấn. Một khi lập luận này được hình thành thì “đúng sai” sẽ bị đảo lộn, quan lại địa phương bê trễ không nộp thuế là quân tử, Trương Cư Chính bảo vệ chính sách pháp kỷ nghiêm túc trở thành tiểu nhân.
Vì người trước trọng nghĩa, kẻ sau là hám lợi, người trước thể tình dân chúng, kẻ sau bóc lột trăm họ. Nhưng vấn đề ở ba chỗ: Những điều phái phản đối nói lại hoàn toàn là sự thực, không thể nói họ sai lầm. Thương dân gắn bó với yêu nước, và đất nước hết thuốc chữa cũng là điều đương nhiên.
Sự việc thứ hai khiến Cư Chính “mất lòng dân” là “khảo thành pháp” mới do ông đưa ra. Thi cử, sử dụng, đề bạt và khảo sát, xưa nay vẫn là bộ phận quan trọng trong chế độ chính trị đất nước. Hai việc trước còn có phần dễ dàng, vì có chế độ khoa cử và tiến cử. Ngược lại khảo sát thành tích lại là việc quan trọng khiến người ta phải đau đầu, nó liên quan tới việc thăng nhiệm hoặc bãi miễn quan chức, và vô cùng lợi hại đối với mọi quan viên, đã không thể không lưu tâm lại không thể quá lưu tâm. Không lưu tâm, việc khảo sát thành tích là vô bổ; quá lưu tâm không tránh khỏi đắc tội với người khác, dẫn tới đấu tranh giữa các phe phái trong quan trường, làm cho cục diện không yên, đất nước rối loạn.
Hơn nữa, khi sự việc được tiến hành cụ thể, lại nẩy sinh hai vấn đề lớn: Một là, ai khảo sát. Hai là, khảo sát như thế nào. Xét từ mặt lý luận, hoàng đế là người có tư cách khảo sát quan viên nhất. Đây là việc nói thì dễ, làm thì khó. Chưa nói tới một hoàng đế trẻ con chừng mười tuổi như Vạn Lịch không làm được mà ngay như hoàng đế tinh anh như Đường Thái Tông Lý Thế Dân chắc gì đã nắm hết được chính tích cùng những biểu hiện của mọi quan viên trong triều? Lúc Trương Cư Chính còn tại chức, vương triều Đại Minh có hơn một ngàn một trăm huyện, có hơn hai vạn quan văn các cấp. Quan viên nhiều như vậy, ai là người biết được hết? Ngay như hoàng đế, cũng không thể nhận biết hết hai ngàn quan viên ở kinh thành.
Cho nên việc khảo sát quan văn, chỉ có thể nhờ vào người khác, khảo sát quan kinh thành phải dựa vào cấp trên của họ, khảo sát quan viên địa phương phải dựa vào các quan kinh thành. Nhưng các quan kinh thành lại không ưu việt, hơn hẳn các quan viên địa phương như sách vở từng nói. Các quan kinh thành, lương bổng đã thấp lại không có khoản thu thường lệ, nên hầu hết phải dựa vào sự “hiếu kính” từ các quan lại địa phương. Đốc phủ các tỉnh, mỗi lần có lễ phẩm dâng lên lục bộ thượng thư, giá trị của lễ vật tương đương mười lần lương bổng cả năm của các vị. Người bị khảo sát chính là “cha mẹ lo bề ăn mặc” của người đi khảo sát, vậy tính chính xác và tính tin cậy, liệu có bị thay đổi nhiều không?
Ngoài tiền vàng ra còn có tình người. Nếu là người cùng huyện cùng tỉnh còn có “hương nghị”, nếu là trúng tuyển cùng năm còn có “niên nghị”, nếu là sui gia của các con, còn có “nhân nghị”. Thực tế thì các quan kinh thành và các quan địa phương luôn có những mối quan hệ đó. Hoặc là môn sinh, hoặc là chỗ quen biết cũ, hoặc là mới biết, từng người đều có phe phái, đều có chỗ dựa. Đối với người cùng phe phái, người có quan hệ, nếu không chiếu cố thì đừng mơ tới chuyện còn tồn tại ở chốn quan trường. Thế là kết quả của khảo sát lần nữa lại bị thay đổi.
Khảo sát thế nào cũng là vấn đề rất lớn. Khảo sát chính tích thời Minh chia làm ba cấp, gọi là xứng chức, bình thường và không xứng chức. Cụ thể có tham, khốc, phù phiếm, không đủ (không đủ tài lực), lão, bệnh, bãi (tức là phế, nhu nhược vô năng), bất cẩn. Lão bệnh nên từ chức nghỉ ngơi, là phù phiếm và không đủ nên giáng chức điều đi nơi khác, là bãi (phế) và bất cẩn nên đổi cho chức danh nhàn rỗi, là tham và khốc nên cách chức làm dân. Một chế độ như vậy được xem là cẩn thận tỉ mỉ, nhưng thực tế lại là hàm hồ sơ lược.
Như một viên quan nào đó, sau ba năm nhận chức chưa làm được gì, nhưng cũng không có sai sót lớn thì được bình là bình thường, chưa đủ, cũng có thể được bình là ổn định, không phù phiếm. Còn như muốn biết một người được bình như thế nào, cần phải xem quan hệ của anh ta với người khác như thế nào, công sức anh ta bỏ ra bợ đỡ cấp trên, lấy lòng quan kinh thành là bao nhiêu.
Việc khảo sát chính tích làm như thế này rất khó có được sự công bằng và công tâm. Nhưng sự ổn định của đại cục quan trọng hơn nhiều so với tiền đồ của một số người. Vì muốn duy trì sự ổn định của triều cục, một số người ưu tú phải chịu thiệt thòi một chút, cũng là sự hy sinh cần thiết. Hơn nữa, công việc khảo sát chính tích được tiến hành chặt chẽ không buông lỏng, còn phải xem nhu cầu chính trị để thường xuyên có sự điều chỉnh. Nếu triều đình cảm thấy không khí trầm lắng, việc làm hiệu suất thấp, cần phải chấn hưng tinh thần, bỏ cũ lấy mới, thì tiêu chuẩn sẽ chặt chẽ hơn. Ngược lại, khi thấy chính cục lung lay, lòng người dao động, nguy cơ từ bốn phía, cần phải ổn định lòng dân, vỗ về trăm quan, thì tiêu chuẩn sẽ nới lỏng ra một chút. Vì vậy tiêu chuẩn của khảo sát là trừu tượng mơ hồ, để có thể phù hợp với nhu cầu tiến thoái của nền chính trị.
Nhưng Trương Cư Chính lại cho là không thể hàm hồ. Cư Chính làm việc cần mẫn, thiên về lý, luôn tự mình đối chiếu các con số thống kê, thậm chí còn soạn ra các biểu mẫu khai báo, quy định thời hạn báo cáo, rất nhiều những chi tiết nhìn qua là nhớ. Khảo sát quan viên là việc lớn biết chừng nào? Đương nhiên, không thể qua loa, càng không thể ấp úng mù tịt. Vì vậy Cư Chính quy định, các quan lại địa phương phải có những câu trả lời về chính tích của mình, các cơ quan trung ương, khoa, bộ phải ghi chép lại theo tháng, năm, còn quy định các hạng mục cụ thể, như thu nộp các loại thuế thiếu, khả năng truy bắt lũ cướp, phỉ… phải có con số cụ thể, ngày giờ đạt được các hạng mục đó. Như huyện lệnh huyện A thu hồi toàn bộ số thuế nợ, thời hạn không quá nửa năm; huyện lệnh huyện B chỉ thu được một nửa, với thời gian là một năm; huyện lệnh c không thu được đồng nào, tự nhiên A là thượng đẳng, B là trung đẳng và c là hạ đẳng. Vì có đáp án đã ghi chép, có con số để so sánh, nên huyện c không phục cũng hết đường nói.
Rõ ràng, cách nói cách nghĩ của Cư Chính giống hệt cung cách của Hải Thuỵ. Sau khi nhận chức tuần phủ Ứng Thiên, Hải Thuỵ cảm thấy xót xa về cách khảo sát quan viên “toàn những câu có nhiều ý, rất ít những vấn đề cụ thể, hiện thực, lời lẽ không rõ ràng”, nên đã quỵ định ra “Khảo ngữ sách thí”, nội dung gồm: Tài thức, trị dân, trị binh, giáo hoá, ngục tụng, quân điền, khai khẩn, tích cốc, trong mỗi hạng mục có nhiều mục nhỏ, để các quan phụ trách khảo tích cứ từng mục từng mục điền vào, không lẫn lộn. Và cũng không thể lẫn lộn được. Vì ngoài hạng mục “tài thức” ra, các hạng mục khác đều rất cụ thể, làm được thì làm, không làm được thì không làm; làm đúng hay sai đã có sự thực và con số làm chứng. Nếu chính tích các hạng mục đều ở mức bình thường thì không thể bình hạng mục tài thức thuộc loại trên.
Cung cách làm việc của Hải Thuỵ và Trương Cư Chính thể hiện đầy đủ tác phong quan viên phái thực tế và biện pháp khảo tích khác trước. Nhưng tác phong và cách làm này vừa ngược lại với chính sách cơ bản của đất nước, vừa trái với lề thói truyền thống của giới quan trường. Kể từ ngày hoàng đế Hồng Vũ dựng nước, vương triều Đại Minh chưa hề nghĩ phải làm gì để nước giàu dân mạnh. Trọng tâm và xuất phát điểm của mọi chế độ chính trị kinh tế là để vương triều được ổn định, chính quyền vững mạnh và nhất là đảm bảo cho ngôi vị hoàng đế không dao động, đại quyền tồn tại mãi mãi. Vì vậy cần phải duy trì nền kinh tế tiểu nông ở mức thấp - tương ứng với đó, việc quản lý của chính phủ phải đơn giản, qua loa và ở mức thấp; còn như hiệu suất hành chính quá cao là không đúng, vì lúc đó địa phương cơ sở sẽ lo sợ, sẽ bị chê trách là “dân không còn đường sống”, khiến hoàng đế cũng thấy bị uy hiếp và bị chê trách là “mưu đồ không chính đáng”. Hải Thuỵ đã để lại phiền hà như ở loại thứ nhất; Trương Cư Chính phạm phải điều cấm kỵ như ở loại thứ hai.
Rõ ràng, thất bại của Hải Thuỵ và Trương Cư Chính là ở chỗ, họ muốn đưa toàn bộ đất nước vào quỹ đạo chính trị được bản thân họ thiết kế. Điều đó giống như là cưỡng chế hoặc thuyết phục con người phải giảm béo vì sắc đẹp, tất nhiên sẽ tự chuốc lấy sự nhàm chán. Thế là, trong bọn họ một bị bãi miễn khi còn sống, một bị thanh toán sau khi đã chết. Vì lý do đó, một thuộc hạ cũ của Trương Cư Chính là Thẩm Thời Hành sau khi nhận chức thủ phụ, đã ra sức sửa đổi cách làm của họ, mọi thứ đều ngược lại. Nhưng có một điều thú vị là, Thẩm Thời Hành cũng chẳng hay ho gì. Sau khi đã hành động ngược lại hoàn toàn với hai người kia, năm Vạn Lịch thứ mười chín (năm 1591), Thẩm Thời Hành hết cách lấy lại thăng bầng cho hoàng đế và các triều thần, phải từ chức và trước đó còn mang tiếng là “hai mặt”. Những tin tức được tiết lộ qua đó thật là đáng để suy ngẫm.
Thẩm Thời Hành là viên quan được Trương Cư Chính cất nhắc, là thủ phụ trong chín năm sau khi Trương Cư Chính qua đời. Lần thứ ba Hải Thuỵ được phục chức, có thể là do Thời Hành sắp xếp. Vì vậy, Thời Hành mới có thư gửi Hải Thuỵ. Thẩm Thời Hành, người huyện Ngô, Tô Châu, so với các vị: Hải Thuỵ người Quỳnh Sơn, Hải Nam; Trương Cư Chính người Giang Lăng, Hồ Bắc; Cao Củng người Tân Trịnh, Hà Nam thì có phần khôn khéo giảo hoạt hơn một chút, và cũng vui vẻ nho nhã hơn một chút; về tính cách không khác mấy với Từ Giai người cùng quê Tùng Giang, Hoa Đình (nay là Thượng Hải). Vì vậy dư luận nhất trí công nhận ba vị thủ phụ Cao Củng, Trương Cư Chính và Thẩm Thời Hành: Cao Củng độc đoán, Trương Cư Chính bá đạo, Thẩm Thời Hành khiêm tốn hoà nhã. Thêm vào đó, Thẩm Thời Hành giữ nghiêm phận quân thần với Vạn Lịch, không coi mình là thầy của vua, vì vậy trong thời gian nhận chức thủ phụ, Thời Hành luôn được Vạn Lịch tôn trọng và tín nhiệm, cũng được gọi là “tiên sinh”, không phải là “khanh”. Sau khi Thẩm Thời Hành rời chức dưỡng lão, Vạn Lịch luôn quan tâm và quyến luyến Thẩm Thời Hành, thường cử người đến gia đình thăm hỏi, tặng lễ vật. Thẩm Thời Hành có hai mươi ba năm nghỉ ngơi yên vui, tại quê hương yên tĩnh và qua đời lúc tám mươi tuổi ngay tại dinh thự của mình, có một kết cục tốt đẹp hơn Hải Thuỵ, Trương Cư Chính và Cao Củng.
Thẩm Thời Hành thông minh, biết làm người, lòng dạ cũng không tồi. Thời Hành tự tư một chút, nhát gan một chút, giỏi mẹo một chút, không làm những việc xả thân vì người và cũng không làm những việc hại người lợi mình. Với những việc không tổn hại đến lợi ích của mình, Thẩm Thời Hành cũng có thể nói vài câu đạo lý, hoặc ngấm ngầm giúp đỡ, thể hiện tình cảm chính nghĩa. Trương Cư Chính đưa Thẩm Thời Hành vào nội các, bồi dưỡng thành người kế tục, và cũng mong muốn có người lưu tâm đến mình sau khi đã qua đời. về điểm này, Thẩm Thời Hành không làm được và cũng không thể làm được. Sau khi gia sản Trương Cư Chính bị tịch thu, Vạn Lịch không chỉ tức giận mà còn tức giận hơn trước nhiều. Lúc đó nói đỡ cho Trương Cư Chính khác gì tự đưa cổ mình vào máy chém, đương nhiên Thẩm Thời Hành không làm. Nhưng khi có người dâng sớ xin xử Trương Cư Chính tội đại nghịch bất đạo, phải mở quan tài băm xác, Thẩm Thời Hành hết sức bất mãn với thái độ giậu đỗ bìm leo đó. Thế là Thẩm Thời Hành đã nói với Vạn Lịch, bằng lời lẽ mù mờ, rằng sớ tấu đã vu cáo hãm hại người khác mưu phản, chỉ sợ nay mai lôi kéo theo những lời gièm khác, đó không phải là không khí cần có một triều đại sáng sủa. Điều đó đã đánh trúng vào lòng dạ Vạn Lịch: Vạn Lịch sợ nhất là bị người khác nói mình là hôn quân nên đã đồng ý không truy cứu tiếp. Thẩm Thời Hành đã từ bốn lạng loại bỏ ngàn cân, cứu được Trương Cư Chính, loại bỏ nốt tệ nạn vu cáo, đây chính là điểm thông minh của Thẩm Thời Hành.
Còn một điểm nữa cũng đáng nói. Sau khi đã qua đời, Trương Cư Chính còn bị cả triều công kích, Thẩm Thời Hành là người kế nhiệm, ông đã không phủ nhận sai lầm để thoát thân, cũng không khuếch đại sai lầm làm vốn nắm quyền của riêng mình. Thẩm Thời Hành thực sự cầu thị, đánh giá công bằng tội của Trương Cư Chính, để sửa sai và điều chỉnh. Theo Thời Hành, Trương Cư Chính ngoài những vấn đề như quá tự tin, nghiêm khắc tỉ mỉ, thấy đúng thì không nhường, tác phong sinh hoạt chưa phải bàn, những sai lầm lớn khác, sai lầm cơ bản là chưa làm rõ được tính chất của đất nước, chưa hiểu rõ rằng để duy trì sinh mạng của đất nước phải dựa vào trung ương tập quyền và chủ nghĩa quan liêu. Nhìn bề ngoài, tưởng như trung ương tập quyền, chủ nghĩa quan liêu là hai thứ khác nhau. Nhưng nghĩ xem, vào thời buổi không có phương tiện hiện đại như điện báo, điện thoại… một văn kiện từ địa phương gửi trung ương phải mất cả tháng. Hoàng đế không ra khỏi cung, cách biệt với tình hình địa phương, quan lại kinh thành không có mặt ở hiện trường nên vị tất đã phán đoán chính xác. Thêm nữa, lời lẽ trong sớ tấu lại hoa mỹ, khiến người đọc không hiểu rõ nội dung, không nắm được điểm chính, thậm chí không hiểu đầu của tai nheo ra sao, vì vậy khi có quyết sách và phán đoán, tránh sao khỏi sai lầm của chủ nghĩa quan liêu. Nhưng nếu không thỉnh thị với từng sự việc thì cũng chẳng có cách gì để thể hiện quyền ở trung ương cho nên, phản chủ nghĩa quan liêu là phản trung ương, tập quyền. Trung ương tập quyền đẻ ra chủ nghĩa quan liêu, nay dựa vào trung ương tập quyền để phản đối chủ nghĩa quan liêu, chẳng phải là ta có thù với ta, cùng là ta mà lại không chung sống được sao?
Về Đầu Trang Go down
https://triamquan.forumvi.com/
Tri Âm Quán
Thành Viên Tích Cực
Thành Viên Tích Cực
Tri Âm Quán


Tổng số bài gửi : 6340
Reputation : 2
Join date : 31/07/2013
Đến từ : Thị Trấn Chũ

Luận Anh Hùng - Page 2 Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Luận Anh Hùng   Luận Anh Hùng - Page 2 EmptyTue Oct 21, 2014 2:43 pm

Rõ ràng, muốn duy trì trung ương tập quyền, cần phải ủng hộ chủ nghĩa quan liêu; và muốn ủng hộ chủ nghĩa quan liêu, cần phải duy trì hiện trạng, ủng hộ tập đoàn quan văn. Mục tiêu chính trị của đất nước vốn không cao, chỉ cần trăm họ không đói không rét, quan viên giữ yên vị trí, tức là thiên hạ thái bình, vận nước hưng thịnh, vậy cần năng lực mạnh, hiệu suất cao như vậy để làm gì? Ngược lại, chính lệnh cứ như sấm sét, khảo tích phải công bằng, đúng mức, chỉ tổ làm cho tập đoàn quan văn thấy sợ hãi và bất an, vậy thì nhiệm vụ tể tướng là phải giữ cho được một chính phủ năng lực thấp, hiệu suất thấp. Ở đây, ổn định là trên hết. Điều quan trọng nhất là không để tập đoàn quan văn chia rẽ. Dù chưa thể đồng tâm hiệp lực thì ít ra cũng là yên ổn vô sự. Cho nên, dù Từ Giai bị chửi là “tay điều đình trong nước”, Thẩm Thời Hành bị trách là “nghênh đón cả bốn phía”, nhưng cả hai con người thông minh tới từ Giang Nam đều cho rằng đó chính là chức phận cần phải thực hiện. Thủ phụ tuy không là tể tướng, nhưng cũng tương đương như tể tướng. Chức phận của tể tướng là những gì? Không phải là thu thuế, quản lý tài chính tốt (là việc của bộ Hộ), không phải là luyện quân lính bảo vệ biên cương (là việc của bộ Binh), không phải là thẩm lý án kiện, trừng trị tội phạm (là việc của bộ Hình), thậm chí cũng không phải là nhiệm mệnh quan lại, phân xử liêu thuộc (là việc của bộ Lại) hay sao? Tể tướng luôn phải cai quản những việc đó, nhưng điều quan trọng hơn, là “điều chỉnh âm dương”, giải quyết tốt mối quan hệ giữa quân và thần, thần và thần, thần và dân, phải giữ được “sinh thái cân bằng” trong lĩnh vực chính trị. Nói trắng ra, tể tướng phải là “người hoà giải công việc”, tức là phải lấy lòng cả tám mặt, lôi kéo cả tám mặt. Có thể lấy được lòng là tốt, chỉ sợ không được lòng người! Bi kịch của Thẩm Thời Hành là ra sức để lấy lòng tất cả nhưng đều phí công vô ích. Vì thế, Thẩm Thời Hành cảm thấy đau lòng và ấm ức.
Phải nói là Thẩm Thời Hành đã gắng công hết sức. Năm Vạn Lịch thứ mười ba (năm 1585), Thẩm Thời Hành tấu xin hoàng đế bệ hạ bãi bỏ cách thức khảo sát của Trương Cư Chính, cho rằng biện pháp đó là không hợp lý, không công bằng. Việc có thu được đủ thuế hay không, không tuỳ thuộc vào năng lực và sự cố gắng của các quan; liệu bọn giặc phỉ có đến cướp vào lúc thu thuế, còn nhiều nguyên nhân khách quan khác. Nếu lấy đó làm giá trị để bình giá khảo sát, chỉ dẫn tới các quan viên cơ sở làm giả báo giả, bức họ phải vu cáo người lương thiện thành đạo tặc, đó không phải là không khí của thánh triều, vậy cứ nên làm như cũ, mơ hồ mê muội tiến hành khảo sát là tốt nhất. Trong việc “kinh sát” hai năm sau đó, Thẩm Thời Hành đã giơ cao tay, tung lưới vây mở ra một mặt, quan viên lớn bé ai nấy đều được yên vị, chỉ có ba mươi ba người bị bãi miễn hoặc giáng chức, và họ đều thuộc bộ môn không quan trọng. Việc Thẩm Thời Hành làm được coi là biểu hiện chấp hành chế độ khảo tích nghiêm túc. Thế là, Thẩm Thời Hành được dân chúng hoan hô, long nhan hoàng đế bệ hạ cũng ngời ngời, tỏ ý hài lòng.
Nhưng bốn năm sau đó, uy vọng của Thẩm Thời Hành đã hạ xuống tới mức thấp nhất. Nguyên nhân cơ bản là Thẩm Thời Hành chỉ nhìn thấy mặt yêu cầu được ổn định của tập đoàn quan văn, chưa nhìn thấy mặt yêu cầu có biến động của họ. Điều này giống như lúc đánh bài. Nếu chỉ cứ rửa bài không, thì không thể xuất hiện người thắng mới, và cuộc chơi sẽ bị ngừng lại. Như vậy thì, cái gọi là sự đoàn kết ổn định vĩnh viễn, về cơ bản là không thể. Rồi sẽ có người xuất hiện, sinh sự đúng sai, mượn gió bẻ măng, hòng lấy hạt dẻ trong lửa, khuấy nước bắt cá, và tốt nhất là vứt bỏ nhà cái tể tướng hoặc thủ phụ là nhà cái (cứ coi hoàng đế là ông chủ của sòng bạc, bất luận ai thắng ai thua, ông chủ luôn có “tiền hồ”, cho nên có hoàng đế còn khích lệ trò chơi này), tự nhiên người ta xông vào người đứng đầu. Huống chi lúc đó, phần tử gây rối lại có miệng lưỡi rất hay(1). Thẩm Thời Hành đành phải xin lui. May sao có sự ủng hộ của Vạn Lịch, việc xin lui của Thẩm Thời Hành không mất nhiều sĩ diện.
Hải Thuỵ, Trương Cư Chính, Thẩm Thời Hành, ba người có tính cách, quan điểm, tác phong khác nhau, nhưng đều thất bại bởi cùng một đối tượng - tập đoàn quan văn hoặc quan trường, còn ba người họ lại luôn muốn cải thiện hoặc ủng hộ quan trường. Hải Thuỵ lấy mình làm nguyên tắc, muốn lấy đạo đức để loại bỏ tệ hại, kết quả là tiếng oán than khắp nơi; Trương Cư Chính muốn cách tân, lấy pháp lệnh để thúc đẩy tinh thần kết quả là nhiều người chống lại; Thời Hành lại thoả hiệp vỗ về, mong điều hoà và duy trì đoàn kết, kết quả bạn bè phản lại, người thân xa rời. Họ đều thất bại, “thương thay vô bổ, hao tổn tinh thần”. Rõ ràng, đất nước đã hết thuốc chữa!
Chú thích


(1) Đề mục này chính là vấn đề lập tự của nhà vua, trong cuốn sách này không triển khai. Độc giả có hứng thú, xin tham khảo hai cuốn “Mười lăm năm Vạn Lịch” của Hoàng Nhân Vũ và “Đầu và cuối của ba vụ án” của Ôn Công Nghĩa (Tác giả).
Về Đầu Trang Go down
https://triamquan.forumvi.com/
Tri Âm Quán
Thành Viên Tích Cực
Thành Viên Tích Cực
Tri Âm Quán


Tổng số bài gửi : 6340
Reputation : 2
Join date : 31/07/2013
Đến từ : Thị Trấn Chũ

Luận Anh Hùng - Page 2 Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Luận Anh Hùng   Luận Anh Hùng - Page 2 EmptySun Oct 26, 2014 12:52 pm

DỊCH TRUNG THIÊN
LUẬN ANH HÙNG
HẢI THỤY
- 4 -
Việc làm khó thành công
Chúng ta vẫn nên so sánh một chút về Hải Thuỵ và Trương Cư Chính.
Họ là rất khác nhau: Cư Chính hiểu chính trị, năng lực cao; Hải Thuỵ không hiểu chính trị, làm việc theo ý riêng. Nghe đâu Trương Cư Chính lẽ ra không đen đủi. Sở dĩ đen đủi vì Trương Cư Chính không chỉ muốn làm quan, mà còn muốn làm việc, muốn cống hiến nhiều cho đất nước, Hải Thuỵ cũng như vậy. Tiếc là đất nước không cần người làm việc, chỉ mong với tiêu chuẩn thấp, trình độ thấp của đông đảo người dân nghèo khổ, được bình yên mãi mãi. Vì vậy, bất kỳ là ai muốn làm việc thì sẽ chẳng có gì là hay ho, ngược lại những viên quan chỉ quanh quẩn tối ngày lại có nhiều vận may. Có điều bản thân Trương Cư Chính cũng có những nhược điểm chết người, trình độ đạo đức không được như Hải Thuỵ. Hải Thuỵ trước sau như một, Trương Cư Chính thì lòng dạ khác với lời nói và việc làm.
Điều này tuy chưa phải là nguyên nhân cơ bản, nhưng lại là nguyên nhân trực tiếp khiến Trương Cư Chính bị thanh toán sau khi đã qua đời.
Vạn Lịch, vị hoàng đế nhỏ tuổi rất tôn trọng và có phần nể sợ Trương Cư Chính. Một trong những lý do, đó là vì hoàng đế coi Trương Cư Chính là mẫu mực về mặt đạo đức. Nền giáo dục xưa của Trung Quốc coi giáo dục đạo đức là quan trọng nhất. Muốn trị lý đất nước phải dựa vào đạo đức, lễ nghĩa. Nếu bản thân hoàng đế làm những việc thất đức vô nghĩa thì thiên hạ lao đao, trăm họ rồi sẽ ra sao? Vì vậy, Trương tiên sinh mới dạy nhiều dạy kỹ về đạo đức cho vị hoàng đế nhỏ tuổi, muốn làm vua tất phải nhân ái, tiết kiệm, khoan dung, cần mẫn, không thể thích gì làm nấy, chơi bời thối chí. Dưới sự giám sát của Trương tiên sinh, tiểu hoàng đế ngày nào cũng phải hoàn thành bài vở. Không dám lười biếng, bừa bãi, thậm chí không dám thích thú với nghệ thuật, vì ngài Trương đã từng cho hay: Các vị vua chúa các thời đại xưa nay đều vì thích thú nghệ thuật, tinh thông nghệ thuật mà mất nước như Trần Hậu chủ, Tuỳ Dạng đế, Lý Hậu chủ và Tống Huỵ Tông. Những điều hướng dẫn trên đều có huấn thị của thánh hiền hoặc giáo huấn của lịch sử làm căn cứ, nên rõ ràng là chính xác tuỵệt đối. Nếu tiểu hoàng đế dám vi phạm thì lập tức bị thái hậu phạt tội, bắt quỳ trước bàn thờ tổ tiên, phải khấu đầu khóc lóc xin đảm bảo lần sau không dám vi phạm, hoặc bị Trương tiên sinh cho viết “chiếu trị tội mình” (thực chất đây là bản kiểm điểm được phát biểu công khai), tận khi mặt mũi vị tiểu hoàng đế đỏ lựng mới thôi. Vì vậy, đời sống lúc nhỏ của tiểu hoàng đế là vô vị, thậm chí là khổ sở?
Nhưng bản thân Trương Cư Chính thì thế nào? Người phát giác đã báo với hoàng đế: Nơi ở của Trương Cư Chính rất phô trương, đời sống thì cực kỳ xa xỉ. Mấy năm trước, nghe tin Trương tiên sinh đang lo việc sửa chữa nhà cửa, tiểu hoàng đế suy nghĩ thấy lương bổng của thầy giáo còn thấp, đã cho tặng một ngàn lạng bạc giúp đỡ, nào ngờ việc sửa chữa lần này đã chi tới một vạn lạng, vậy số tiền kia ở đâu ra? Hơn nữa, trong lầu các hào hoa đó còn bao nhiêu là trân châu bảo ngọc, thư hoạ quý hiếm, còn rất nhiều mỹ nữ tuyệt sắc, vậy, những thứ đó, những người đó ở đâu ra? Tiểu hoàng đế còn được biết: Năm Vạn Lịch thứ sáu (năm 1578) lúc về quê làm lễ chôn cất cha, Cư Chính đã ngồi kiệu có ba mươi hai người khiêng, bên trong còn có chỗ nằm, chỗ ăn uống, còn có hai tên tiểu đồng hầu hạ. Chi phí dọc đường tốn kém đến kinh người. Mỗi bữa ăn có hàng trăm món, nhưng Trương Cư Chính còn nói chẳng biết gắp gì, ăn gì.
Bản cáo trạng hết sức chính xác. Sự phẫn nộ của Vạn Lịch lại bùng phát. Vị hoàng đế trẻ tuổi lại nghĩ tới chuyện lúc trước: Trong chục năm Cư Chính là tướng quốc, mình tuy xưng hiệu là thiên tử, có cả bốn biển, nhưng thực tế là rất nghèo, không một xu dính túi, có lúc đến thưởng cho cung nữ mấy đồng tiền lẻ, cũng phải viết giấy ghi nợ, chẳng khác gì mấy anh cán bộ làng, xã mấy trăm năm sau ở Trung Quốc. Một lần Vạn Lịch cùng mấy tiểu thái giám vui chơi, để hai cung nữ hát tiểu khúc (thực tế chưa hát), suýt nữa đã bị phế truất, để hoàng đệ là Lộ vương lên thay. Để tỏ lòng hiếu kính với mẹ, Vạn Lịch muốn tu bổ lại cung thất của thái hậu cũng bị Trương Cư Chính ngăn lại, còn được giảng giải hàng loạt điều đạo lý thương dân tiếc vật. Trường hợp ông ngoại của Vạn Lịch là Lý Vĩ mới càng thê thảm: Vì bổng lộc quá thấp, đành nhận một chút tiền hoa hồng khi bán vật công, liền bị thẩm vấn công khai trước quần chúng. Nhưng vị quan đạo mạo Trương Cư Chính khéo biết hạn chế dục vọng riêng của hoàng đế để đồng thời bành trướng dục vọng riêng của mình, được hời về mọi mặt. Chỉ riêng điểm này thôi, đáng phải ngàn vạn lưỡi dao băm vằm!
Hoàng đế Vạn Lịch từ chỗ phẫn nộ bội phần lại cảm thấy đau lòng và từ chỗ đau lòng lại cảm thấy thất vọng. Hoàng đế thực không hiểu, nếu ngay cả một người như Trương tiên sinh cũng không giữ được phẩm chất đạo đức thì liệu trong thiên hạ còn ai đáng tin? Nếu phẩm hạnh đạo đức người thiên hạ đều không đáng tin, liệu có nên lấy đạo đức lễ nghĩa làm cơ sở để dựng nước không?
Trong bối cảnh đó, Hải Thuỵ được phục chức, là điều có ý nghĩa đặc biệt.
Vạn Lịch và Thẩm Thời Hành khẳng định là còn hy vọng nhiều, lần nữa Hải Thuỵ lại xuống núi. Thực tế thì trong cả nước liệu có mấy viên quan thanh liêm, chính trực như Hải Thuỵ? Vì vậy họ mong muốn Hải Thuỵ có thể trở thành một tấm gương, một mẫu mực, ít ra cũng là một tượng trưng, một điểm sáng, về điểm này, Thẩm Thời Hành tỏ ra rất tỉnh táo, Thời Hành liền có thư cho Hải Thuỵ: “Công Tổ ở quê lâu ngày, chưa nắm được mọi điều nơi thánh triều”. Ý tứ rõ ràng: Lão huynh ở dưới quê lâu ngày, chưa nắm được nhiều tình hình ở triều đình cũng như quan trường. Nhưng dù là thánh triều có nền chính trị rõ ràng, cũng không thể thiếu được các vị quan thanh liêm như lão huynh. Lời nói tuy bóng bẩy nhưng cũng rất rõ ràng: Là trang trí cũng được và đừng gây ra chuyện gì!
Với lần thứ ba được phục chức, Hải Thuỵ có những suy nghĩ của riêng mình. Hải Thuỵ tự hỏi: Sau khi xuất hiện ông có thể làm gì, nên làm gì? Chẳng nhẽ lại chỉ nói mấy câu không quan trọng như Nguỵ Hoàn triều Hán: “Hậu cung có cả ngàn, nên giảm đi chăng?”. Từng trải nhiều năm, lúc này Hải Thuỵ không mấy lạc quan với cảnh tượng trước mắt.
Nhưng Hải Thuỵ lại vẫn là Hải Thuỵ. Dù không có nhiều hỵ vọng, vẫn như trước, Hải Thuỵ lại làm bùng lên làn gió liêm chính. Ngoài việc sử dụng nhiều biện pháp liêm chính, Hải Thuỵ còn chĩa đầu mâu vào hoàng đế, Hải Thuỵ có thư đến Vạn Lịch: “Nếu tuần phủ đều tham ô, có thể cấm tham ô được chăng? Nếu các bộ ở trung ương luôn nhũng nhiễu, có thể loại bỏ được nhũng nhiễu chăng? Nếu không làm rõ được những điều đúng sai dưới chân thiên tử thì chống hủ bại kêu gọi liêm khiết, liệu còn hy vọng không?”. Trong tấu sớ, Hải Thuỵ còn nói, muốn có liêm chính thì hoàng đế phải làm trước, như nên có nhiều cung nữ, nhiều thái giám ở trong cung như vậy không. Đương nhiên, Hải Thuỵ cũng sẽ không bỏ qua cho số tham quan ô lại. Hải Thuỵ đề xuất, bản triều sở dĩ được thanh liêm trong những năm dựng nước, vì đã dùng trọng hình, tham ô bất pháp nhận hối lộ tám mươi quan liền bị lóc da, nhét cỏ vào bụng, nay lại muốn xoá sạch tham ô, thì nhất thiết phải dùng trọng hình.
Bản tấu sớ đụng tới việc đúng sai của Hải Thuỵ lại làm bùng lên một làn sóng lớn, sớ tấu hạch tội Hải Thuỵ lại tới tấp bay đến trước ngự tiền. Có điều, sự công kích lần này mang màu sắc mới: Chê trách Hải Thuỵ là nguỵ quân tử.
Tấm gương đạo đức mẫu mực Hải Thuỵ trong ngoài thống nhất, lời nói và hành động thống nhất đã bị bọn họ vu khống là nguỵ quân tử, vốn dĩ bản thân việc này là một vở hài kịch. Đồng thời cũng nói rõ, đạo đức lúc đó đã xuống cấp đến chừng nào.
Chu Nguyên Chương phải nhờ vào ba cột trụ chống đỡ mới dựng nên vương triều Đại Minh - ba cột trụ ấy là: Kinh tế tiểu nông, đạo Khổng Mạnh và tập đoàn quan văn. Kinh tế tiểu nông là cơ sở của kinh tế, đạo Khổng Mạnh là hình thái ý thức, tập đoàn quan văn là thành phần hạt nhân của thượng tầng kiến trúc. Trong đó, đạo Khổng Mạnh là quan trọng nhất, vì bất luận là trọng nông ức thương, hay là nhà nho trị nước đều bao hàm đạo Khổng Mạnh trong đó. Hạt nhân của đạo Khổng Mạnh là lễ nghĩa đạo đức. Vì vậy, đạo đức trở thành một sự kiện quan trọng nhất của đất nước. Đạo đức là vốn để dựng nước, là đạo để trị nước, không chỉ có thể chỉ đạo hành chính còn có thể thay cho hành chính.
Có rất nhiều chính sách và chế độ giúp có được một thời đại sáng sủa và tất cả được chế định theo nguyên tắc của đạo đức. Theo nguyên tắc đó, quan văn có hai vai trò hoặc là hai nhiệm vụ đối với dân chúng, một là trị lý họ, hai là giáo hoá họ. Cũng có nghĩa là, quan văn không chỉ là người quản lý mà còn là nhà giáo dục, không chỉ là người chấp hành pháp lệnh của nhà nước mà còn là người tuyên truyền tinh thần của đất nước. Điều đó đòi hỏi mọi quan văn phải là mẫu mực đạo đức về mặt lý luận, đủ để làm mẫu cho dân chúng, cảm hoá dân chúng. Như vậy, mọi quan văn chỉ có thể nhận được đồng lương bèo bọt, sống một cuộc sống đơn giản chất phác.
Một chính sách lý tưởng hoá như vậy, trong quá trình chấp hành thực tế thấy không thông. Vì dù các quan đều liêm khiết, nhưng vẫn phải duy trì được mức sống tối thiểu, duy trì được thể diện cần thiết. Huống hồ chế độ lương thấp và thể chế quan trị lại không dung hoà được. Thực rất khó hiểu, một chế độ lấy “quan” làm “bản vị”, mà quan lại phải sống trong cảnh bần hàn thiếu thốn.
Vậy cách làm tốt nhất là “lương cao để dưỡng liêm”, mặt khác phải tinh giảm phần lớn những nhân viên dư thừa, mạnh dạn nâng cao lương bổng của quan viên, đồng thời cấm tiệt mọi thứ gọi là “tiểu phí”, xoá bỏ lệ lấy xe công dùng vào việc riêng, chi phí cho việc ăn uống… Nhưng không thể thực hiện việc đó (ngay cả một hoàng đế hùng tài đại lược như Khang Hy cũng không làm được, nhưng hoàng đế Ung Chính lại làm được. Sẽ nói rõ ở chương sau “Tác giả). Trước hết, không ai dám đề xuất, vì phương án “lương cao” không phù hợp với nguyên tắc đạo đức đã nói ở trên, không ai muốn mình mang tội danh vi phạm đạo đức. Thứ nữa, rất nhiều quan viên không muốn thay đổi chế độ, vì lương bổng có cao đến mấy cũng không thể vượt qua mức thu nhập mờ ám từ các địa phương. Nên đành phải mắt nhắm mắt mở với các loại phí thường lệ đã nói ở phần trước, đồng thời cho phép các quan lại địa phương thực hiện phí sinh hoạt, phí chiêu đãi, phí mua bán lễ vật đưa đón cấp trên… Cũng có thể dùng danh nghĩa việc chung để các quan địa phương phải chi, hoặc báo tiêu cho việc công.
Căn cứ để có biện pháp biến thông là từ Khổng Tử. Trong học thuyết của Khổng Tử vốn có hai chữ “kinh” và “quyền”. Kinh tức là bình thường, quyền tức là quyền biến, cũng tức là cho phép được châm chước trong tình trạng chưa cải biến chính sách, như vậy là đã có “căn cứ lý luận”. Nhưng điều đó đã tạo nên hậu quả rất nghiêm trọng: Các quan viên đã nói một đường làm một nẻo, không còn là tấm gương của dân chúng, khó có thể giữ được tiết tháo của bản thân.
Kết quả, về mặt đại thể có thể chia các quan thành ba loại, một loại cực liêm khiết như Hải Thuỵ, là rất hiếm; một loại cực tham như Nghiêm Tung, loại này cũng không nhiều; nhiều nhất là loại người ở giữa hai loại kia. Từ nhỏ, bọn này đã đọc nhiều sách vở, hiểu đức biết lễ, biết một người quân tử sau khi làm quan phải liêm khiết vì việc chung, phải hy sinh bản thân, nhưng lại không có cách gì để chế ngự những “ham muốn không sao ngăn được”. Vì vậy, phần lớn trong số họ, mặc cho sóng nước đưa đẩy đã nhận một số “lợi lộc” giá trị không lớn lắm. Vào lúc đó, như vậy là đã khá tốt.
Có điều, đạo đức cao thượng cần phải được biểu dương và khích lệ. Nhất là trong tình trạng đạo đức đang xuống cấp. Điều đó không chỉ là nhu cầu chính trị mà còn là rấm lòng của không ít người. Thế là một số người lại phát hiện ra một biện pháp hay để mưu cầu danh lợi, đầu cơ kiếm chác, đó là buôn bán đạo đức.
Đạo đức của quan viên, ngoài trung ra còn có hai loại là liêm và trực. Bất kể là có loại nào đều luôn có được danh dự và trở thành vốn liếng chính trị của bản thân. Nhưng dựa vào “liêm khiết” để có được “thanh danh” không bằng tự tạo ra “tiếng trực”, như thế sung sướng hơn nhiều. Cách làm cụ thể là: Tìm ra vấn đề nào đó để phê bình hoàng đế, phạm tội đại bất kính, chịu đình trượng, giáng chức, bãi quan, lưu đầy… nhưng lại được tiếng là trực thần, tạo nên cơ sớ ghi tên vào sử sách, xuất hiện sau này. Loại “khổ nhục kế” này còn được gọi là “giễu vua bán trực” cũng tức là giễu cợt quan viên, buôn bán chính trực. Quan lại dựa vào phỉ báng vua cha để có được thanh danh. Đương nhiên đây tuyệt không phải là tâm nguyện ban đầu của những người thiết kế ra chế độ, nhưng lại là sản vật tất yếu của chế độ. Như trên đã nói, chế độ đế quốc đã ngầm cho phép quan viên có cuộc sống kép, nhưng đồng thời cũng kiên quyết lấy đạo đức trị nước, không chịu thừa nhận đạo đức đó chỉ là cái bề mặt.
Cách làm của Hải Thuỵ được coi là “giễu vua bán trực” đúng như lời vu cáo. Ngón nghề đó quả là rất độc. Nhưng Hải Thuỵ vẫn không đổ, trước hết vì Hải Thuỵ đạo đức cao thượng. Nhưng nếu bị vu khống và đúng là “giễu vua bán trực” thì không chỉ hết cả cao thượng để nói, mà còn là kẻ tiểu nhân ti tiện nhất, nham hiểm nhất, mang tiếng xấu muôn đời. Thứ nữa, Vạn Lịch ghét nhất là “giễu vua bán trực”. Từng có quan giám sát tên là Trâu Nguyên Tiêu cũng bị vu khống như vậy. Lần này, nếu có thể chụp chiếc mũ đó lên đầu Hải Thuỵ thì suốt đời Hải Thuỵ sẽ không ngóc đầu nổi. Vì vậy, lần này chúng còn chụp lên đầu Hải Thuỵ chiếc mũ lớn hơn, nào là “đoạt uy của chủ”, “tổn nhục quốc thể”, “huỷ diệt Khổng Mạnh” và “ưa thích giả dối”… Tóm lại, chúng muốn tô vẽ Hải Thuỵ thành kẻ xấu, bán chủ cầu vinh, vừa kiêu vừa dối. Rõ ràng, âm mưu của kẻ thù không chỉ là quật ngã Hải Thuỷ mà còn muốn Hải Thuỵ thành kẻ xấu xa.
Về Đầu Trang Go down
https://triamquan.forumvi.com/
Tri Âm Quán
Thành Viên Tích Cực
Thành Viên Tích Cực
Tri Âm Quán


Tổng số bài gửi : 6340
Reputation : 2
Join date : 31/07/2013
Đến từ : Thị Trấn Chũ

Luận Anh Hùng - Page 2 Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Luận Anh Hùng   Luận Anh Hùng - Page 2 EmptySun Oct 26, 2014 1:08 pm

May sao Hải Thuỵ vẫn vững vàng, khí thế ngời ngời, không gì đả kích nổi. Hoàng đế Vạn Lịch cũng được coi là còn tỉnh táo. Sau khi nghe hai bên, kẻ công kích và người bị hại tranh luận, Vạn Lịch đã tỏ thái độ: “Mấy lần tiến cử Hải Thuỵ, là do đặc chỉ lựa chọn để dùng. Gần đây có điều trần về trọng hình là trái với thể chế, liên quan tới trẫm, lời lẽ gàn dở và trẫm đã tha thứ”. Còn việc sắp đặt cho Hải Thuỵ, Vạn Lịch nghe theo ý của bộ Lại: Bảo lưu chức vụ, nhưng không cho phụ trách việc gì. Vạn Lịch phê chuẩn, nói: Hải Thuỵ “cầm quyền e không hợp với sở trường, nhưng để trấn áp tà tục, chấn hưng phong khí, là có lợi, có thể để Hải Thuỵ giữ chức như cũ”. Thực là vô cùng hoang đường và giảo hoạt: Một người cao thượng kiên trinh chỉ có thể “trấn áp tà ác, chấn hưng phong khí” (nói trắng ra chỉ là vật trang trí) và không thể “cầm quyền”, hoá ra chỉ những kẻ đạo đức đồi bại, tác phong bất chính mới xứng đáng được trọng dụng? Xem ra, bản thân hoàng đế bệ hạ đã mất hết lòng tin vào cái gọi là lấy đức để trị nước.
Đương nhiên, mấy lời đó cũng có thể hiểu là: Chỉ những người vừa đạo đức cao thượng vừa giỏi làm việc mới là rường cột của đất nước. Nhưng người tương đối có phẩm hạnh đã thuộc loại lông phượng vuốt lân, quý hiếm, vậy biết tìm người tài đức vẹn toàn ở đâu?
Nếu Hải Thuỵ đọc được lời phê của hoàng đế Vạn Lịch chắc sẽ hết sức đau lòng. Vì bản thân Hải Thuỵ đã trở thành đồ trang trí của đế quốc và ngay cả cái vốn để dựng nước trước đây là cương thường luân lý, nhân nghĩa đạo đức cũng trở thành vật trang trí. Sau đó, Hải Thuỵ bảy lần dâng tấu lên hoàng đế xin từ chức, nhưng mỗi lần đều bị ngự phê là không chuẩn y. Điều này ngang với giam hãm Hải Thuỵ ở địa vị đó. Đau xót không gì lớn hơn trái tim nguội lạnh, huống hồ lúc này Hải Thuỵ đã là ông già ở tuổi bảy mươi, không lâu nữa sẽ có thể vì u uất mà chết ở nhiệm sở.
Thực ra, Hải Thuỵ chẳng cần phải đau lòng đến như vậy. Vì việc mà Hải Thuỵ muốn làm vốn là việc chẳng đem lại hiệu quả gì. Vì vậy, đối với việc đó, Hải Thuỵ nên nói mấy câu cho có hồn. Giống như mười lăm năm trước, khi từ quan, Hải Thuỵ từng nói: “Thế giới này thì làm nên sự nghiệp gì!”. Đã thế thì làm mà làm gì!
Có thể Hải Thuỵ chết mà không nhắm được mắt.
Hải Thuỵ là người có lý tưởng - một lý tưởng rất thực tế. Xét về đại thể, đúng như Đỗ Phủ từng nói: “Làm vua phải như Nghiêu Thuấn, mới có thể thuần hoá phong tục”. Xét về tiểu thể, cũng tức là tiêu trừ hủ bại. Hủ bại chẳng lợi lộc gì cho dân cho nước, vì sao chính phủ vẫn để nó phát triển? Vì sao hoàng đế vẫn dung túng nó? Hải Thuỵ nghĩ mà không hiểu.
Đúng là nghĩ mà không hiểu. Hải Thuỵ không hề biết, chính quyền lực đã tạo ra hủ bại, nhất là thứ quyền lực không bị hạn chế, luôn tiềm ẩn nhiều khả năng dẫn tới hủ bại. Lý lẽ thật đơn giản: Người có quyền lực dễ dàng đổi lấy lợi ích của nhiều người khác (tiền bạc, gái đẹp), nhất là khi quyền lực không hề bị hạn chế và trừng phạt, thử hỏi, mấy ai kìm nén được trước sự cám dỗ, giữ mình cho trong sạch? Thực là khó hiểu, giống như cho ai đó một ngân phiếu cỡ bự và cấm họ không được mua bất cứ một thứ gì.
Sự trao đổi giữa quyền và tiền đã tồn tại phổ biến nhiều năm trước khi Hải Thuỵ xuống núi. Thời đó còn có một kiểu buôn bán như thế này: Một số quan kinh thành vốn là kẻ cho vay nặng lãi, đã cho nhiều người nghèo khổ vay tiền. Một khi viên quan đó bị gạt ra ngoài làm quan địa phương, thì lợi tức mà hắn thu về là cực kỳ khả quan. Còn có người cho kẻ đi vay tiền để mua quan, thu hoạch sau này của họ, thật khó nói hết. Vì sao kiểu buôn bán đó luôn tồn tại và phát triển, vẫn là quyền có thể đổi thành tiền.
Các chính trị gia qua nhiều triều đại không thể không hiểu được chân lý đó. Những đơn thuốc của họ chỉ là tố cáo những hành vi đó và kỳ vọng vào sự tu dưỡng đạo đức của quan viên các cấp. Logic của họ là: Đế quốc quỵ định, chỉ những người có đạo đức mới được làm quan, có nghĩa là quan lại tất không hủ bại, vì hủ bại là vô đạo đức. Cách suy nghĩ đó nếu không phải là dối mình dối người thì cũng là ngây thơ lãng mạn. Dùng đạo đức để chế ngự quyền lực là không thể. Trước hết, đạo đức là loại khống chế mềm, nó chỉ có thể tố cáo mặt lương tâm, và một người đã mất lương tâm, thì đạo đức còn là gì đâu. Thứ nữa, người ta có thể nguỵ trang đạo đức và phẩm hạnh, “miệng nói nhân nghĩa đạo đức, nhưng đầy bụng nam là đạo tặc nữ là gái điếm”. Loại người như vậy đâu có ít. Điều thứ ba, đạo đức phẩm hạnh của một người có thể thay đổi. “Gần mực thì đen, gần đèn thì rạng”, nếu bên cạnh một người toàn là tham quan ô lại thì rất khó để người đó giữ mình, không để nhuốm bẩn. Vậy, đế quốc có biện pháp gì để phân biệt đúng sai đây? Không có. Có biện pháp gì để phòng bị ngăn ngừa đây? Cũng không có.
Con đường duy nhất trừ tận gốc hủ bại lại là hạn chế quyền lực. Quyền lực có khuynh hướng tự khuếch trương. Nếu không tăng cường hạn chế thì ác tính sẽ bành trướng. Một khi quyền lực bành trướng tới mức không từ việc gì không làm thì hủ bại có thể xảy ra bất cứ lúc nào. Nhưng để trị lý đất nước, không thể không có quyền lực, tiêu diệt quyền lực là cách suy nghĩ của chủ nghĩa vô chính phủ. Quyền lực không thể tiêu diệt, chỉ có thể hạn chế! Hạn chế quyền lực một cách hiệu quả, là cách tốt nhất để ngăn ngừa hủ bại.
Hải Thuỵ ra sức duy trì chế độ, nhưng lại không thể hạn chế được quyền lực. Quyền lực là cái gốc của chế độ, là thứ mà chế độ phải ra sức, bằng bất cứ giá nào, bảo vệ cho bằng được, làm gì có chuyện hạn chế nó? Đương nhiên, có thể hạn chế từng phần, như hạn chế tướng quyền, mục đích hạn chế là để đảm bảo quyền vua được nguyên vẹn. Cũng tức là, chế độ hạn chế quyền lực là đảm bảo cho một thứ quyền lực không bị hạn chế. Quyền của vua chính là thứ quyền lực tối cao, hoàn toàn không bị hạn chế. Và đây chính là căn nguyên chung dẫn tới mọi sự hủ bại. Bởi vì thứ quyền lực tối cao, tuyệt đối không bị hạn chế này chỉ có thể thông qua việc làm của hệ thống quyền lực từng tầng lớp ở bên dưới mới có hiệu quả. Đất nước Đại Minh vô cùng rộng lớn, dân chúng đông đúc, chỉ lệnh quân vương không thể trực tiếp đến tay người dân, dân chúng cũng chẳng có cách gì thể hiện lòng trung với vua, quan lại các cấp không thể không có hoặc thiếu tầng lớp trung gian. Vì vậy, bất cứ một quân vương độc tài nào cũng phải cho quan lại cấp dưới một số quyền lực nhất định, ít ra cũng phải bằng số quyền lực mà dân chúng có. Số quyền lực đó là không bị hạn chế, hoặc ít ra là không bị hạn chế khi sử dụng với dân chúng. Dù cho bất kỳ triều đại nào cũng có chế độ giám sát hạch tội, nhưng dần dà chế độ đó diễn biến thành công đấu tranh quyền lực. Các quan lại công kích nhau, chỉ trích nhau, mục đích là muốn có thêm quyền lực. Để đảm bảo rằng mình có thể thâu tóm tất cả, các bậc đế vương luôn giữ thái độ ngồi xem hổ báo đấu nhau, kết quả quyền lực không chỉ bị hạn chế mà còn dẫn tới sự hủ bại mới! Đồng thời muốn được các quan hết lòng trung hiếu, hoàng đế thấy cần phải cho chúng một ít lợi lộc, vì vậy, với việc giao dịch quyền lực, dùng quyền, mưu lợi chung chung, hoàng đế đành phải mắt nhắm, mắt mở, nghe đấy bỏ đấy, chỉ khi nào đến mức “không còn ra thể thống gì” thì mới ra tay loại bỏ. Rõ ràng, không có sự giám sát của dân chúng, quyền lực không hề bị hạn chế. Riêng việc này, dù có không ít các bậc đế vương trong lịch sử có ý đồ muốn trừ tận gốc hoặc hạn chế hủ bại, nhưng cuối cùng thì không thể hoàn thành triệt để, vì cái gốc của nó đang ở chỗ các vị.
Thậm chí, bản thân chế độ chuyên chế là sự hủ bại lớn nhất, tội ác lớn nhất. Những việc như, tư nhân xâm phạm lợi ích công chúng, chiếm đoạt sức lao động của người khác, cưỡng gian dân ý, chà đạp nhân quyền, tuỳ ý chém giết… luôn được chế độ chuyên chế coi là hợp pháp. Một khi không vui hay bực tức, quân vương có thể lấy mạng hay tịch thu gia sản người khác, không có mặt nào là không bằng lũ cướp biển, đoạt tài hại mệnh. So ra, việc làm lớn bé của bọn tham quan ô lại có thấm vào đâu!
Với một chế độ như vậy mà muốn loại bỏ hủ bại bằng cái gọi là “Vận động chấn hưng đạo đức”, thì nhất định sẽ không có kết quả, hơn nữa rất có khả năng biến tướng thành sự hủ bại khác. Bản thân chế độ chuyên chế đã là vô đạo đức. Nói một người có đạo đức là nói người đó có ý thức cá nhân. Ý chí tự do và nhân cách độc lập được xây dựng trên cơ sở ý thức cá nhân, là tiền đề và đảm bảo cho hành vi đạo đức. Chúng ta đều biết thiện, chỉ khi nào xuất phát từ nội tâm, mới là thiện chân thực, bằng không chỉ là thiện giả mạo. Nhưng nếu một người không có nhân cách độc lập và ý chí tự do, thì làm gì có thiện xuất phát từ nội tâm. Lý lẽ rất đơn giản: Anh ta luôn phải phụ thuộc vào người khác, nghe theo lệnh người khác, không được tự chủ, thì thiện “xuất phát từ nội tâm” ở đâu ra?
Đây là điểm cơ bản nhất khiến chế độ chuyên chế và nguyên tắc đạo đức mỗi bên một ngả. Nguyên tắc đạo đức yêu cầu phải độc lập suy nghĩ, chế độ chuyên chế yêu cầu phải phục tùng tuyệt đối; nguyên tắc đạo đức yêu cầu tự do lựa chọn, chế độ chuyên chế yêu cầu phụ thuộc người khác. Một người chỉ biết phụ thuộc và phục tùng, tất sẽ không có cái gọi là lương tâm và trách nhiệm về đạo đức. Khi mà tất cả mọi người được yêu cầu phải phục tùng và phụ thuộc vào người khác thì cái gọi là sự phán đoán về đúng sai thiện ác, cuối cùng chỉ là sở thích của cấp trên, của quân vương. Và áp đặt ý chí của mình lên người khác, chà đạp nhân cách người khác, đều là những việc vô đạo đức.
Một chế độ xã hội vô đạo đức nhất muốn lấy đạo đức làm mẫu mực, còn coi đạo đức hoặc nói đạo đức là căn cứ tồn tại của chế độ, thử hỏi, dưới gầm trời này còn gì hoang đường, giả dối hơn thế không? Rõ ràng, một khi sự hoang đường và giả dối chưa bị tiêu trừ, thì mãi mãi sẽ chẳng có cách gì để trách đạo đức truỵ lạc, đời sống hủ bại. Với sức của mình Hải Thuỵ không thể tiêu trừ những tệ nạn đó. Vì nó là “thai độc”, cùng đến với đời, trọn cả cuộc đời, ngay cả một người như Hải Thuỵ cũng không thể không bị nó đầu độc và hãm hại đến sai lạc; để giữ vững nguyên tắc đạo đức của mình, Hải Thuỵ luôn có ý giữ vững lập trường độc lập, không thiên vị, không a dua, không lập bang kết phái, không vấy bẩn cùng họ, không dựa vào quyền quý, không bán rẻ lương tâm, thậm chí không tiếc mình chống lại hoàng thượng. Nhưng lập trường độc lập của Hải Thuỵ chỉ có thể lấy sự trung thành với chính quyền chuyên chế của đế quốc làm tiền đề. Thế là, Hải Thuỵ chỉ có thể rơi vào một kết cục như thế này: Toàn bộ hàm lượng đạo đức trên cơ thể bị hút sạch, trở thành một thương hiệu rỗng, là vật trang trí dưới mông của chính quyền.
Hải Thuỵ thật bất hạnh, vì mọi cô gắng đều mất trắng. Hải Thuỵ lại gặp may, vì mọi cố gắng chưa phải là mất trắng. Ít ra, đối với chúng ta là như vậy.
Hải Thuỵ sinh năm 1514, mất năm 1587, theo cách tính thời đó, Hải Thuỵ thọ bảy mươi tư tuổi.
Sau khi Hải Thuỵ qua đời, người dân Nam Kinh lũ lượt báo tin cho nhau, như người mất cha mất mẹ. Hôm đưa tang, không ít cửa hàng tự đóng cửa để biểu lộ lòng thương tiếc. Nhiều người dân bình thường không quen biết, không thân không sơ gì với Hải Thuỵ cũng kéo đến tham dự tang lễ. Những người theo chân đám tang đều vận tang phục mầu trắng, ai nấy đều khóc than không dứt, đoàn người kéo dài tới hơn trăm dặm. Ai nấy tỏ lòng cảm kích, thương tiếc vị quan lương thiện, cương nghị, chính trực, thanh liêm.
Mọi câu chuyện và truyền thuyết về Hải Thuỵ nhanh chóng được truyền tụng trong dân gian, và theo lệ, chúng đều bị thần thánh hoá. Câu chuyện thú vị nhất là thế này: Vào những năm Vạn Lịch, kinh thành bắt được yêu quái gây án. Lúc hoàng đế thẩm vấn, yêu quái vẫn ngạo nghễ, tỏ ra không sự bất kỳ một đại thần nào trong triều. Cuối cùng thì hoàng đế Vạn Lịch sốt ruột, liền nói, trẫm sẽ cho giải người đến Nam Kinh - chỗ của Hải Thuỵ! Lúc đó, tên yêu quái sợ đến vỡ mật, miệng im thin thít.
Xem ra, Hải Thuỵ đúng là quan thanh liêm, đấng trượng phu mạnh mẽ, tên ghi vào sử sách. Nhưng đó không phải đồng ý nguyện của Hải Thuỵ. Hải Thuỵ luôn muốn thanh trừ hủ bại, chấn hưng đạo đức, nhưng chế độ là căn nguyên phát sinh hủ bại, đạo đức suy đồi, dù có cả vạn Hải Thuỵ cũng không làm nổi điều đó. Huống hồ, trong một chế độ như vậy, không thể có một vạn người như Hải Thuỵ.
Về Đầu Trang Go down
https://triamquan.forumvi.com/
Tri Âm Quán
Thành Viên Tích Cực
Thành Viên Tích Cực
Tri Âm Quán


Tổng số bài gửi : 6340
Reputation : 2
Join date : 31/07/2013
Đến từ : Thị Trấn Chũ

Luận Anh Hùng - Page 2 Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Luận Anh Hùng   Luận Anh Hùng - Page 2 EmptyTue Nov 11, 2014 3:18 pm

DỊCH TRUNG THIÊN
LUẬN ANH HÙNG
UNG CHÍNH
- 1 -
Cha con như vậy
Vào giờ Tý ngày hai mươi ba tháng tám (năm 1735), năm Ung Chính thứ tám, Đại Thanh Thế Tông tiên hoàng đế Ái Tân Giác La Dận Chân, chúng ta quen gọi là hoàng đế Ung Chính đã qua đời hết sức thần bí tại vườn Viên Minh, Bắc Kinh lúc năm mươi tám tuổi.
Ung Chính chết thật đáng ngờ, vì trước đó không có bất cứ một dấu hiệu nào. Theo “Thế Tông thực lục” và bản ghi chép năm tháng của cận thần Trương Đình Ngọc, vào ngày hai mươi, Ung Chính “thỉnh thoảng bất an” nhưng “vẫn nghe chính như thường”. Ngày mười tám, ngày hai mươi, xử lý việc lớn quân cơ trọng yếu, ngày hai mươi mốt làm việc bình thường. Nhưng, vào lúc canh khuya ngày hai mươi hai, đột nhiên sai triệu kiến hoàng tử Hoằng Lịch (tức Càn Long), Hoằng Trú, hoàng đệ Doãn Lục, Doãn Lễ, cận thần Ngạc Nhĩ Thái, Trương Đình Ngọc… lúc này Ung Chính đã không nói được nửa. Sau một vài giờ tiếp theo, người đã mất không kịp cho ai biết mật chỉ truyền vị cất ở đâu(1), chẳng trách Trương Đình Ngọc tỏ ra “kinh hãi muốn chết”.
Nơi cung đình thời cổ Trung Quốc đầy những bí mật không thể tiết lộ, ánh nến tiếng rìu(2), sự đời bao phức tạp. Những người tận mắt nhìn thấy đã thành thiên cổ từ lâu, những gì liên quan đến chứng cứ cũng bị tiêu huỷ từ lâu, còn lại vài ba manh mối dấu tích có thể khảo chứng: 1. Trước đó, Ung Chính không có bệnh gì nặng; 2. Ung Chính chết đột ngột; 3. Trước lúc chết, Ung Chính tự thấy nguy hiểm đang rình rập. Nếu như chết vì bệnh cấp tính thì đó là bệnh gì? Vì sao các sách sử không nói, dù chỉ là một chữ, về căn nguyên bệnh, tình trạng bệnh, tên của bệnh? Trương Đình Ngọc “kinh hãi muốn chết”, kinh hãi vì Ung Chính chết đột ngột, ngoài cái đó, liệu còn gì cảm thấy khó nói nữa?
Xem ra, Ung Chính chết có phần không rõ ràng.
Ung Chính chết đột ngột, sử sách chính thống không truy tìm nguyên nhân, hình như muốn che giấu điều gì, khiến mọi người sinh nghi, đoán này đoán nọ. Các nhà sử học suy đoán có phần khách quan, có phần đáng tin như Trịnh Thiên Đỉnh cho là trúng phong, Phùng Nhĩ Khang cho là trúng độc (uống đan dược). Cách nói trong dân gian, các nhà tiểu thuyết có phần khó hiểu, thậm chí là nguỵ tạo. Và khác hẳn là tác giả Nhị Nguyệt Hà trong tác phẩm “Hoàng đế Ung Chính”, ông nói có thể vì tuẫn tình, có thể vì loạn luân mà tự sát, rõ ràng, đây là sự biên tạo sai lầm vô căn cứ(3). Bộ phim truyền hình dài tập “Ung Chính vương triều”, với lời lẽ hàm hồ, ám chỉ Ung Chính mệt mỏi quá sức mà chết, nghe qua cũng có lý, nhưng mệt mỏi quá sức không thể là nguyên nhân trực tiếp dẫn đến cái chết. Dân gian gần như không mấy thiện cảm với vị hoàng đế này, luôn nói là “chết không được yên” như muốn khẳng định có kẻ thù đã giết chết Ung Chính. Cách nói này được nhiều người hưởng ứng, được lan truyền và càng lan truyền càng thần bí, rằng vào năm 1981, lúc khai quật địa cung của Ung Chính, phát hiện thấy người nằm trong quan tài đã mất đầu. Kẻ thù giết người, cắt thủ cấp mang theo, chuyện này từ xưa đã có. Vào thời Đường, đô đốc Kiềm Châu là Tạ Hữu, theo ý Võ Tắc Thiên đã bức chết Linh Lăng vương Lý Minh, về sau, Tạ Hữu bị kẻ thù ám sát, cắt thủ cấp mang theo, và thủ cấp đó được làm thành chiếc bô đái của con Lý Minh là Lý Tuấn. Nhưng trên thi thể Ung Chính có thủ cấp hay không thì không ai biết. Vì lần khai quật khảo cổ này không được tiếp tục tiến hành, nên không có ai mở quan tài của Ung Chính, vậy thì làm gì có chuyện “có thân không có đầu”? Có thể thấy câu chuyện thật vô căn cứ.
Nhưng thích khách lại có tên có họ rõ ràng. Truyền thuyết nói thích khách là Lã Tứ Nương. Nghe nói, Lã Tứ Nương là con gái Lâ Lưu Lương, lại có người nói là cháu gái của Lã Lưu Lương. Lúc Lã gia gặp nạn, cô ta may mắn thoát nạn và được một cao thủ võ lâm thu nhận. Vị đại hiệp này là một hoà thượng, vốn là kiếm khách của Ung Chính, được biết Ung Chính không hài lòng với mình nên hoà thượng đã dạy cho Lã Tứ Nương mấy chiêu kiếm thần bí, giúp cô ta thâm nhập vào cung trả thù nhà.
Vẫn là một câu chuyện hoang đường. Nhưng từng có một người là Lã Lưu Lương, là nhân vật chủ yếu trong một án quan trọng dưới thời Ung Chính. Nói về vụ án này thì hơi dài. Vào tháng chín (năm 1728) năm Ung Chính thứ sáu, bỗng dưng có tên đưa thư người Hồ Nam, bước vào nha môn tổng đốc Xuyên Thiểm, Lã Chung Kỳ. Người này là Trương Hy, là học trò của tú tài Tằng Tĩnh, Hồ Nam, thư do Tằng Tĩnh viết. Nội dung rất đơn giản, muốn Nhạc Chung Kỳ mưu phản. Lý do rất dễ hiểu, vì Nhạc Chung Kỳ là cháu chắt của Nhạc Phi(4), người Thanh là con cháu của người Kim, làm gì có chuyện con cháu Nhạc Phi không chống lại người Kim, làm gì có chuyện con cháu Nhạc Phi không chống lại người Kim còn giúp người Kim cầm quân đánh giặc? Đương nhiên, phải lợi dụng lúc trong tay có binh quyền, để phản Thanh phục Minh, báo thù cho người Hán, rửa hận cho tổ tiên.
Nhạc Chung Kỳ nhận thư và không dám giấu, vội vàng tấu trình lên Ung Chính. Một tổng đốc dám làm phản, muốn lật đổ Đại Thanh là việc cực kỳ nghiêm trọng! Việc thẩm lý vụ án đã nhanh chóng có kết quả: Trương Hỵ chịu sự chỉ đạo của Tằng Tĩnh, còn Tằng Tĩnh lại chịu ảnh hưởng của Lã Lưu Lương. Lã Lưu Lương người Thạch Môn, Chiết Giang, khi đó tiếng tăm rất lớn, mọi người tôn xưng là “Đông Hải phu tử”. Tư tưởng chủ yếu của Lã Lưu Lương là “Hoa Di chia cắt, là nghĩa của quân thần”, cũng tức là lập trường dân tộc cao hơn lập trường giai cấp. Theo lập trường giai cấp, hoặc nói, theo luân lý cương thường, thần dân phải trung với vua, sĩ nhân phải đứng về phía chính quyền hiện tại. Nhưng Lã Lưu Lương lại cho rằng, nếu là vua “khác loài”, nếu là chính quyền “Di Địch” thì không chỉ không trung mà còn phải phản. Trong điều kiện lịch sử lúc đó, tư tưởng của Lã Lưu Lương được coi là một phát minh lớn, về mặt đạo đức đã giúp giải quyết mâu thuẫn giữa “trung quân” và “phản Thanh”; tư tưởng đó làm bao nhiêu trí thức đương thời phải “say mê”, làm cho chính quyền Đại Thanh cảm thấy bị uy hiếp. Vì vậy, Ung Chính phán xử rất nặng đối với Lã Lưu Lương; Lã Lưu Lương và con là Lã Bảo Trung, môn sinh Nghiêm Hồng Quỳ đều bị mở quan tài băm xác, cắt đầu thị chúng; con thứ là Lã Nghị Trung, môn sinh Thẩm Tại Khoan lập tức bị chém đầu, tịch thu gia sản; con cháu Lã thị bị đầy ra Ninh cổ Tháp, vĩnh viễn làm nô lệ; trước tác của Lã Lưu Lương, bị đại học sĩ viết bài phê phán khắp đất nước.
Tằng Tĩnh và Trương Hỵ lại nhận sự ưu đãi lớn. Hai người không những không bị chém đầu, ngược lại còn được mặc áo quan, nghênh ngang trên lưng ngựa đi rao giảng khắp cả nước. Vì họ đã “ăn năn hối hận”, đã thoát thai thay xương đổi cốt, biến thành người mới. Tằng Tĩnh từng viết “Tri tân lục”, công kích Ung Chính với mười tội lớn, mưu cha, bức mẹ, giết anh, giết em, tham tài, thích giết, nát rượu, dâm sắc, lạm sát người trung, tuỳ tiện bùa bãi. Lúc này, Tằng Tĩnh lại viết “Quỵ nhân thuyết” kể lại quá trình cải tạo tư tưởng, tự kiểm điểm phê phán, ca tụng ân đức của thánh triều. Ung Chính cho lấy “Quy nhân thuyết” và án trình, khẩu cung của vụ án cùng thượng dụ của mình biên tập thành “Đại nghĩa giác mê lục” gồm bốn quyển mười hai vạn chữ rồi in và ban bố cả nước, tổ chức học tập thảo luận. Tằng Tĩnh và Trương Hy trở thành giảng giải viên tốt nhất.
Qua việc xử trị vụ này, Ung Chính lấy làm đắc chí. Từ lâu Ung Chính đã nói với các sủng thần Ngạc Nhĩ Thái và Điền Văn kính: “Gặp phải quái vật, không thể không có những xử lý đặc biệt”. Đương nhiên cách “xử lý” của Ung Chính là “quá đặc biệt”! Một hoàng đế đang tại vị, tất nhiên phải mượn cớ “cải tạo” tốt “phản tặc” để biện giải cho chính quyền của mình, đúng là chuyện thần kỳ chưa từng thấy trong thiên hạ!
Xem ra, Ung Chính cũng có những nỗi khổ riêng của mình,
Đúng là Ung Chính có tâm bệnh, một trong số đó là ngôi vị có phần không rõ ràng.
Ngày mười ba tháng mười một (năm 1722), Khang Hy năm thứ sáu mươi mốt, một đời hùng chủ Khang Hy đại đế bị bệnh và tạ thế ở vườn Sướng Xuân. Người để lại cả một giang sơn bao la và cũng để lại một vấn đề lớn lao: “Ai là người kế thừa? Lúc còn sống, Người chưa hề nói cho rõ ràng, chỉ nói với các đại thần: “Sau khi trẫm muôn tuổi rồi, tất phải chọn một người vững vàng, đáng tin cậy cầm trịch cho các ngươi, tất phải khiến cho các ngươi dốc lòng tin phục, nhất định không đến nỗi gây luỵ cho chư thần các ngươi”. Từ đó, các đại thần luôn phải suy đoán, nhưng ít ai ngờ, người kiên định có thể gửi gắm lại là tứ a ca Ung thân vương Dận Chân(5).
Người có thể kế thừa vương vị vốn rất nhiều.
Theo quan niệm đông con nhiều phúc, thì phúc khí của Khang Hy quả không nhỏ. Trước sau, Khang Hy có cả thảy ba mươi lăm người con. Trừ đi mười một đứa chết yểu khi chưa mọc răng, bốn đứa chết ỵểu nửa chùng, cũng còn đến hai mươi người. Trong đó, người lớn nhất là Doãn Chi (ý là an, phúc, hỷ) năm mươi mốt tuổi, sinh năm Khang Hy thứ mười một; nhỏ nhất là Doãn Bí (ý là thần bí, uyên thâm) bảy tuổi, sinh năm Khang Hy thứ năm mươi lăm. Vào những năm cuối thời Khang Hy, ngoài thái tử Nhị a ca Doãn Nhưng (ý là phúc) còn có ba thân vương: Thành Thân vương Tam a ca Doãn Chỉ (ý là phúc, hỷ, tích phúc), Ưng Thân vương Tứ a ca Dận Chân (ý là chân thành hoặc thần để có phúc hựu), Hằng Thân vương Ngũ a ca Doãn Kỳ (ý là may mắn, yên vui). Ba quận vương: Trực Quận vương Đại a ca Doãn Chi, Thuần Quận vương Thất a ca Doãn Hựu (ý là thần linh bảo hộ), Đội Quận vương Thập a ca Doãn Nga (ý là tế tự). Ngoài ra Bát a ca Doãn Tự tuy là Bối lặc, nhưng năng lực mạnh, uy vọng cao, được nhiều người trong triều ủng hộ, Thập tứ a ca Doãn Đề (ý là phúc) tuy là Bối tử nhưng đang cầm quân ở bên ngoài, mang hàm “Đại Tướng quân vương”, uy phong cũng không nhỏ. Những người này đều có tư cách kế thừa đại thống, Dận Chân chưa phải là người kế nhiệm ngôi vị hoàng đế duy nhất.
Người kế nhiệm ngôi vị hoàng đế vốn là Doãn Nhưng. Doãn Nhưng là con của Hiếu Thành Nhân hoàng hậu họ Hách Xá Lị, và cũng là đích tử duy nhất của hoàng đế Khang Hy. Hoàng hậu sinh hạ Doãn Nhưng xong liền qua đời. Theo lệ truyền thống của vương triều tộc Hán, Doãn Nhưng được lập là thái tử năm lên hai tuổi, tức là Khang Hy năm thứ mười bốn (năm 1675) và lần đầu bị phế là vào năm Khang Hy thứ bốn mươi bảy (năm 1708), là thái tử đúng ba mươi ba năm. Đã có một số vấn đề trong thời gian đó: 1. Tính cách Doãn Nhưng trở nên ngang bướng, tàn nhẫn, tham lam, kiêu kỳ dâm dật, tàn bạo bất nhân. 2: Là thái tử chẳng ra gì, tỏ ra thiếu kiên nhẫn, Khang Hy cảm thấy bị uy hiếp. Khang Hy nói: “Trẫm không ngờ nay gặp chim độc, ngày mai gặp nạn, ngày đêm lo ngại không yên”. Mùa hạ năm thứ bốn mươi bảy (năm 1708), Khang Hy tuần thú biên ải, phát hiện thấy đêm nào Doãn Nhưng cũng quanh quẩn bên ngoài doanh trướng của mình, như muốn giám sát động tĩnh của phụ hoàng,
Khang Hy thấy rất khó chịu, liền ra lệnh bắt Doãn Nhưng và tuyên bố phế truất ngôi vị thái tử.
Ngôi vị thái tử bị khuyết, một số hoàng tử thấy mình có tư cách kế vị đã ngóng chờ đỏ cả mắt. Trong số đó, Đại a ca Doãn Chi là người sốt ruột nhất, chờ đợi nhất. Theo Doãn Chi, đích tử bị phế, phải đến lượt trương tử. Vì vậy, Doãn Chi hận mình không thể đẩy nhanh thái tử vào chỗ chết. Doãn Nhưng bị phế, Khang Hy giao cho Doãn Chi coi giữ. Doãn Nhưng bị quản rất chặt. Doãn Nhưng nói: “Phụ hoàng nói ta có nhiều việc sai lầm, việc nào cũng đúng. Riêng việc phản nghịch ta không có lòng dạ đó, mong thay ta tấu lại rõ ràng”. Doãn Chi cự tuyệt thẳng thừng, nói phụ hoàng đã có chỉ, lời nói của ngươi không cần phải tấu lên! Như vậy là không nghĩ gì đến tình huynh đệ, ngay như người luôn phản đối thái tử là Cửu a ca Doãn Đường (ý là phúc hựu) cũng thấy chẳng ra gì, Dận Chân thì quả quyết: “Huynh không tấu thì đệ tấu! Sự tình quan trọng nhường ấy, không thể thấy chết mà không cứu!”. Lúc này Doãn Chi đành phải dâng tấu. Nhưng trong con mắt các huynh đệ, Doãn Chi đã thành kẻ tiểu nhân vô tình vô nghĩa.
Tiểu nhân thì không bao giờ nhận biết được năng lực của mình. Khang Hy vốn đã xem thường Doãn Chi. Doãn Chi ngộ nhận, tương Khang Hy không giết Doãn Nhưng là do không nỡ, nên đã chạy tới cầu xin, nói, nếu phụ hoàng thấy không tiện, nhi thần xin được làm thay. Vở diễn đã lòi đuôi, Khang Hy thấy phẫn nộ và căm ghét, vừa hận hắn cốt nhục tương tàn, không còn lòng nhân ái; vừa buồn cười vì hắn ra vẻ thông minh, đã lấy bụng tiểu nhân đo lòng quân vương. Vừa khéo, ngài lại vừa phát hiện một âm mưu khác: Để có thể lật đổ thái tử, Doãn Chi đã móc nối với một người Mông Cổ hành nghề ma thuật có tên Ba Hán Cách Long, làm phép yểm bùa, rủa chết thái tử chẳng trách thái tử lại ngang ngược như vậy. Khang Hy liền hạ lệnh cách tước và bắt giam Doãn Chi, gọi Chi là “loạn thần tặc tử”, nói hắn là “huỷ hoại quốc pháp, thực không thể dung”. Chỉ những kẻ hết tình mới chửi rủa anh em, chỉ những kẻ bất hiếu mới để phụ hoàng mang tội giết con. Doãn Chi làm loạn quốc pháp là bất trung, tàn sát cốt nhục là bất nhân. Doãn Chi đã tự vác đá đập vào chân mình, không được làm thái tử lại làm tội đồ.
Khang Hy vội vàng phế truất thái tử, ngoài tình thế buộc phải thế, còn có ý giết gà doạ khỉ. Nào ngờ gà đã giết, còn khỉ đã leo cao hơn. Bản thân Doãn Nhưng tà ý vẫn chưa chết, dã tâm các hoàng tử khác cũng ngày một dâng cao. Điều đó làm Khang Hy hết sức đau lòng. Khang Hy vốn rất hãnh diện về những đứa con của mình. Khang Hy xem thường các hoàng tử triều Minh, cho rằng bọn chúng chỉ biết ngồi mát ăn bát vàng, không có năng lực, ngu xuẩn hệt như lợn, chẳng trách triều Minh đã bị diệt vong. Và ngược lại với các quỵ định ở triều Minh là không cho các hoàng tử can dự chính sự, Khang Hy đã phóng tay để các hoàng tử trưởng thành tham dự triều chính, xử lý chính sự, thậm chí là cầm quân đánh giặc. Kết quả, đứa con nào của Khang Hy cũng tinh anh giỏi giang, biểu hiện là nhân tài, nếu không thống soái được toàn cục thì ít ra cũng có thể lo liệu được từng mặt. Đương nhiên, người có đầu óc nghĩ nghìn cũng có thể sẽ mất một. Khang Hy chỉ nghĩ các hoàng từ từng trải có tài, có thể đảm bảo cho giang sơn vương triều Đại Thanh tồn tại mãi mãi, nhưng không nghĩ phần lớn những người tài luôn có dã tâm, ai cũng có năng lực thì khó có chuyện nhường nhau. Xem ra con quá ít, quá xuẩn cũng không được, nhưng nếu vừa nhiều vừa tài cũng thêm phiền phức. Đúng như các bậc tiên hiền từng nói: “Trong phúc có hoạ, trong hoạ có phúc”. Việc xấu có thể biến thành việc tốt, việc tốt cũng có thể biến thành việc xấu.
Vì thế, Khang Hy phải sử dụng một số biện pháp mạnh. Trước hết có lời cảnh cáo: “Trong các a ca, nếu ai có mưu đồ hòng làm hoàng thái tử, người đó sẽ là quốc tặc, pháp luật không dung”. Như vậy, rất có thể trong một thời gian ngắn sẽ phải giam cầm mấy hoàng tử lớn tuổi âm mưu nghi kỵ hoặc có tư cách kế thừa như Tam a ca Doãn Chỉ, Tứ a ca Dận Chân, Ngũ a ca Doãn Kỳ, Bát a ca Doãn Tự, Thập tam a ca Doãn Tường cũng bị nhốt từ lâu. Về sau, Khang Hy trả lại ngôi vị cho thái tử bị phế, coi đó là thủ đoạn hòng dẹp yên sự tranh giành ngôi vị giữa các a ca. Nhưng tất cả biện pháp đó đều vô dụng. Thái tử bị phế chưa tiếp thu được bài học nào, không chỉ không hề hối cải mà còn ghê gớm hơn, càng bạo ngược vô đạo, xa xỉ hết mức, cuối cùng phục chức được ba năm đã lại bị phế. Các hoàng tử khác cũng không biết sợ, số người tham gia vào cuộc tranh giành ngôi vị càng thêm đông, như Doãn Đường, Doãn Nga, Doãn Đề… Tất cả đều đã nổi lên mặt nước. Bọn họ, hoặc đơn thương độc mã, hoặc kết bè kết đảng, hoặc tạo dựng dư luận, hoặc thám thính cơ mật, hoặc thiết kế mật thất, tóm lại họ đang xét đoán phương hướng, mong thực hiện được. Trong số đó, được chú ý nhất là Bát a ca Doãn Tự.
Sách lược đấu tranh của Doãn Tự là mua chuộc lòng người.
Doãn Tự xếp hàng thứ tám trong các hoàng tử, là Bối lặc, tước vị tương đối cao. Theo chế độ nhà Thanh, phong tước cho hoàng tử, hoàng tôn có bốn cấp: Thân vương, Quận vương, Bối lặc, Bối tử. Bối lặc là cấp thứ ba, xếp hàng trước Doãn Tự có Tam a ca Doãn Chỉ, Tứ a ca Dận Chân, Ngũ a ca Doãn Kỳ đều được phong là Thân vương. Lục a ca Doãn Tộ qua đời năm Khang Hy thứ hai mươi tư, Thất a ca Doãn Hựu lại được phong là Quận vương. Ngay cả Thập a ca Doãn Nga xếp ở hàng sau cũng được phong là Quận vương, vì sinh mẫu của Doãn Nga là quý phi. Chế độ trong nội cung triều Thanh, dưới hoàng hậu có bảy cấp: Hoàng quý phi, quý phi, phi, tần, quý nhân, đáp ứng, thường tại. Sở dĩ Doãn Nga được phong vương, vì cấp bậc của sinh mẫu rất cao, chỉ ở dưới sinh mẫu của Doãn Nhưng (là hoàng hậu) và sinh mẫu Doãn Tường (là hoàng quý phi). Sinh mẫu Doãn Tự là tiện nhân ở “phòng giặt đồ”, chuyên môn làm những việc ti tiện như thu gom áo quần trong gia đình phạm nhân trọng tội. Quý trưởng tiện ấu (quý con lớn, xem thường con bé) đều là lễ pháp; nhờ mẹ, con được xem trọng cũng là quy chế. Nên Doãn Tự chẳng thể nói được gì. Vả lại lúc này cũng chấm dứt chế độ phong tước cho hoàng tử còn nhỏ tuổi. Doãn Tự kém Doãn Nhưng một tuổi, nên tâm lý Doãn Tự có phần mất cân bằng.
“Xuất thân không tốt” là áp lực với Doãn Tự, nhưng đồng thời cũng là động lực giúp Doãn Tự phấn đấu vươn lên. Doãn Tự, nhân phẩm hơn người, học thức phi phàm, dáng dấp đoan trang, phong độ nho nhã, hoàn toàn không xấu tính xấu nết như Giả Hoàn trong “Hồng lâu mộng”, Khang Hy có thiện cảm với Doãn Tự, nên năm mười tám tuổi Doãn Tự được phong là Bối lặc, là một trong số các huynh đệ ít tuổi được phong. Doãn Tự nhân ái lịch thiệp, chan hoà lễ phép với mọi người, thành tâm kết giao với sĩ nhân. Vì vậy, các đại thần trong triều hết lời tán thưởng, “đúng là người hiếu học, đúng là vương tử giỏi”. Ngay như người anh của Khang Hy là Dụ Thân vương Phúc Kim cũng nói trước mặt Khang Hy, “có tài có đức”, “tâm tính tốt”; đối với Doãn Tự, đúng là việc có phần chủ động có phần bị động. Nói chủ động, vì Doãn Tự biết “được lòng người là được thiên hạ”, muốn giành giật ngôi vị, phải có được lòng người. Nói bị động, vốn liếng Doãn Tự dùng để tranh giành với các hoàng tử khác không nhiều, nhân duyên là thứ duy nhất.
Nhưng nhân duyên may mắn đó lại làm hại Doãn Tự.
Sau khi phế truất thái tử vào ngày mùng bốn tháng chín năm thứ bốn mươi bảy, đột nhiên vào tháng mười một, Khang Hy hạ lệnh để các đại thần Mãn Hán trong triều tiến cử thái tử, lệnh nói rõ, trừ Đại a ca Doãn Chi, đều có thể lựa chọn trong số các hoàng tử. Khang Hy tỏ rõ, mọi người ưng ai thì lập người đó. Kết quả không ngoài dự đoán, người được “nhiều phiếu” nhất là Doãn Tự. Không ngờ hoàng đế Khang Hy lại trơ mặt, không những không lập Doãn Tử làm thái tử, còn ra lệnh điều tra xem ai là người cầm đầu ủng hộ Doãn Tự. Lúc đầu quần thần còn yên lặng bảo vệ lẫn nhau, nhưng chống thế nào được với sự công kích mạnh mẽ của Khang Hy cuối cùng đã tra ra: Người cầm đầu là nghị chính đại thần, đại học sĩ Mã Tề, thứ đến là người cậu ruột kiêm nhạc phụ của Khang Hy, Đồng Quốc Duy, ngoài ra còn có Vương Hồng Tự… Khang Hy không hề nể mặt, đã cách chức và bắt giam Mã Tề, cách chức người em, lệnh Vương Hồng Tự lui về nghỉ, xét xử tất cả những ai tiến cử Doãn Tự.
Việc làm của Khang Hy là quá đáng và vô lý. Lý do Khang Hy không lập Doãn Tự cũng rất miễn cưỡng. 1. Doãn Tự chưa có kinh nghiệm hành chính. 2. Doãn Tự từng phạm sai lầm. 3. Sinh mẫu Doãn Tự xuất thân ti tiện. Chưa có kinh nghiệm có thể tích luỹ, từng phạm sai lầm có thể sửa chữa, sinh mẫu xuất thân không tốt có thể thay đổi, chỉ cần tuyên bố loại bỏ gốc gác ti tiện là xong, hơn nữa bà ta đã được phong là Lương phi! Xem ra, không muốn lập Doãn Tự mới là nguyên nhân thật sự. Nhưng không lập Doãn Tự thì thôi, cớ chi phải hãm hại số người ủng hộ kia? Những người ủng hộ do phụng thánh chỉ mới ghi tên Doãn Tự. Chỉ ý chỉ nói không được tiến cử Doãn Chi, không nói không được tiến cử Doán Tự. Cho nên tiến cử Doãn Tự là không trái thánh chỉ. Thần tử đã không trái thánh chỉ, chính hoàng thượng đã nuốt lời. Rõ ràng đã nói “ý các khanh ưng ai, trẫm sẽ làm theo”, lúc này mọi người đã chọn Doãn Tự, vì sao không theo? Chẳng nhẽ lại nói đó bỏ đó, không suy nghĩ gì nguyên tắc vua không nói chơi?
Về Đầu Trang Go down
https://triamquan.forumvi.com/
Tri Âm Quán
Thành Viên Tích Cực
Thành Viên Tích Cực
Tri Âm Quán


Tổng số bài gửi : 6340
Reputation : 2
Join date : 31/07/2013
Đến từ : Thị Trấn Chũ

Luận Anh Hùng - Page 2 Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Luận Anh Hùng   Luận Anh Hùng - Page 2 EmptyMon Nov 17, 2014 3:25 pm

Lúc này mới rõ, Khang Hy làm vậy là có ý đồ, mục đích là dụ rắn ra khỏi hang, xem xem thế lực, khả năng của Doãn Tự lớn đến chừng nào. Lúc đầu Khang Hy cũng thích Doãn Tự, sau này dần dần không hài lòng, nhất là việc Doãn Tự mua chuộc lòng người. Khang Hy nói: “Bát a ca muốn có hư danh ở mọi nơi, ngoài những việc do trẫm khoan dung, ban ân, tất cả đều quy công về mình, thực không đáng là người”. Khang Hy luôn nghĩ mình là người duy nhất nắm trọn đại quyền, nên việc đó đã làm Khang Hy rất phẫn nộ, thậm chí còn lớn tiếng, ai dám nói tốt cho Doãn Tự, dù chỉ là một chữ “trẫm sẽ chém đầu”, vì “quyền này há chịu cho người khác mượn được sao?”. Để bộ mặt thật của Doãn Tự bị phơi bày ra giữa thanh thiên bạch nhật, để thăm dò thế lực của Doãn Tự, Khang Hy tự soạn và đạo diễn vở kịch “tiến cử thái tử” và ngay từ đầu đã sắp đặt rất chu đáo: 1. Lúc cúng bái trời đất, tổ tiên đã nói “thần tuy có nhiều con, nhưng không ai bằng thần” (Khang Hy xưng thần với trời đất, tổ tiên), muốn ám chỉ Doãn Tự cũng không đủ tiêu chuẩn. 2. Minh lệnh cấm chỉ các hoàng tử “gắn kết lòng người, lập đảng tranh giành”, hướng của đầu mâu là rất rõ ràng. 3. Mượn chuyện của một thầy bói tên Trương Minh Đức nói về Doãn Tự “sau tất đại quỷ” để chê trách Doãn Tự nuôi chí bừa bãi, âm mưu đoạt đích, lệnh bắt giam ngay, ra lệnh nghị xử, thực tế là muốn cảnh tỉnh Doãn Tự, đồng thời cảnh cáo “Bát gia đảng”. Trước khi tiến cử thái tử mấy hôm, Khang Hy luôn động viên, nhắc nhở. Mùng một tháng mười, Khang Hy tuyên bố: Chọn người vào ngôi vua “trẫm đã tính toán xong”, nhưng không báo trước với mọi người, cũng không muốn cho ai biết. Ngày mùng tám, tháng mười một, Khang Hy lại nói, “trẫm đã định đoạt” ai làm thái tử, hết thảy đều do một mình Khang Hy định đoạt. Nếu đã sắp đặt nhiều như thế, cớ sao ngày mười bốn lại tuyên bố tiến cử thái tử, hơn nữa còn đồng thời hạ lệnh Mã Tề không được tham dự, ý tứ đã quá rõ ràng. Đáng tiếc bọn Mã Tề ngu dốt chậm hiểu, lại cứ đưa Doãn Tự lên lò nướng. Khang Hy đã tuyên bố không cho Mã Tề nhúng tay, nhưng ông ta lại không kìm nổi sự phấn chấn, chạy đến nội các để tạo dư luận, nói mọi người tiến cử Doãn Tự! Rất rõ ràng là lợi dụng chức quyền để gây ảnh hưởng. Ngạc Luận Đại, A Linh A, Quỹ Tự… càng chẳng ra thể thống gì, họ viết một chữ “Bát” trong lòng bàn tay, nhìn thấy triều thần là xòe ra, ngang như bí mật móc ngoặc. Điều ấy làm sao Khang Hy có thể chấp nhận được? Kỳ thực, bọn Mã Tề chỉ cần hơi động não là đã hiểu dụng ý của Khang Hy. “Trẫm đã có tính toán” với “trẫm đã quyết định”, vậy cần gì triều thần tiến cử, còn mất công làm gì? Huống hồ, Khang Hy cũng nói: “Bát a ca Doãn Tự xưa nay gian trá”, rõ ràng là đã rào trước đón sau đủ cả.
Có điều, kết quả cuối cùng làm Khang Hy hết sức kinh ngạc. Khang Hy không thể ngờ, Doãn Tự chỉ là một Bối lặc mà thê lực đã lớn đến như vậy. Nếu là thái tử sẽ như thế nào? Bọn Mã Tề không tiếc thân, lần nữa ngầm bảo, cứ tiến cử, dứt khoát tiến cử Doãn Tự, đây chẳng khác gì một buổi diễn tập quân sự để bức cung đình. Vì vậy, Khang Hy nói: “Trẫm sợ ngày sau tất có kẻ giống như chó lợn, sẵn đội ân lớn, vì hắn dấy binh gây nạn, buộc trẫm nhường ngôi mà lập người kế vị”. Khang Hy tỏ rõ: “Nếu đúng là vậy, trẫm chỉ còn cách ngậm cười mà chết”. Khang Hy nghi ngờ và phòng ngừa Doãn Tự đến mức đó thì rõ ràng là không muốn truyền ngôi cho Doãn Tự.
Rõ ràng “Bát gia đảng” của Doãn Tự đã phạm sai lầm. Họ chỉ biết “được lòng người là được thiên hạ”, nhưng không biết thiên hạ đó là của ai, thiên hạ đó bị hoàng đế giữ chặt trong tay, vậy “được lòng người” không bằng “được lòng vua”. Thậm chí, càng được lòng người thì càng không được lòng vua. Vì bất kỳ một vị vua độc tài nào đều không muốn người khác được ủng hộ hơn mình. Nếu là thời đại chính trị dân chủ, cách làm để giành phiếu của bọn Mã Tề có thể có hiệu quả, nhưng đây là thời quân chủ, thực không hiểu, phải chăng là sai lầm!
Có điều, việc làm của Doãn Tự đã giúp đỡ nhiều cho Dận Chân.
Trong hoạt động tiến cử thái tử lần này, Dận Chân được bao nhiêu phiếu chúng ta không thể biết, nhưng khẳng định là rất ít, thậm chí không có. Bởi vì phần lớn “phiếu chọn” đã bị Doãn Tự lấy mất, quá nửa số phiếu còn lại là đề cử lại thái tử bị phế Doãn Nhưng. Dận Chân cũng làm như vậy. Dận Chân tự biết lúc này mình chưa là gì cả, và cũng không muốn là chim lộ đầu trước, các anh em của mình ai cũng đầy dã tâm và đều là những chiếc đèn đầy dầu. Để cho số người đó thượng đài, không bầng vực thái tử bị phế dậy, chắc sẽ có những ngày yên vui hơn.
Dận Chân cũng chẳng có nhân duyên gì. Ngược hẳn với Doãn Tự - một “Bát hiền vương” ai nhìn thấy cũng yêu, Dận Chân là “Lãnh diện vương” nổi tiếng ai nhìn thấy cũng sợ. Dận Chân không gần gũi đặc biệt với bất kỳ ai (chỉ thân mật đặc biệt với anh em Doãn Tường) và cũng không xa lánh đặc biệt với bất kỳ ai, gặp ai cũng chỉ là công việc với công việc. Nếu được Khang Hy trao cho việc gì đó, Dận Chân chỉ biết tới vương pháp, không biết nể mặt. Vào năm thứ năm mươi hai, (năm 1713), Thục Huệ phi của hoàng đế Thuận Trị qua đời, tang lễ hết sức sơ sài, Khang Hy lệnh cho Dận Chân xem xét lại. Dận Chân tìm ra ngay những người phụ trách là Mãn Đốc, Mã Tiến Thái, Mã Lương, Hách Dịch, Mã Tề… và nghiêm khắc xử lý họ. Năm thứ bốn mươi tám (năm 1709), Khang Hy trách cứ Ngạc Luân Đại vì tội kết đảng. Ngạc Luân Đại biết mình là quốc thích nên không sợ, Dận Chân liền nói với Khang Hy: “Việc gì phụ hoàng phải bực bội vì mấy kẻ phản nghịch đó. Loạn thần tặc tử đó đã có quốc pháp xử trị, nếu giao việc này cho thần, thần sẽ cho chém luôn”. Dận Chân thiết diện vô tư, chấp pháp như sơn, đương nhiên không mấy ai thích.
Vì vậy, trong khi các vương tử khác mưu đoạt ngôi vị, Dận Chân không tỏ thái độ, không chỉ không nhiệt tình mà còn không tham gia. Dận Chân biết mình không có ưu thế đặc biệt nào; nói về đích, thứ, Dận Chân không bằng Doãn Nhưng; nói về học thức, Dận Chân không bằng Doãn Chỉ; nói về vận may, Dận Chân không bằng Doãn Tự; thậm chí về tài cán, Dận Chân còn không bằng đứa em của mình là Doãn Đề. Đã vậy thì tranh giành làm gì, ngồi xem hổ báo đấu nhau còn hơn, biết đâu còn thành ngư ông hưởng lợi. Dù không có lợi, cũng chẳng mất gì. Vì vậy, trong lúc bọn Doãn Tự đang tối mắt tối mũi vì tranh giành đoạt đích, thì Dận Chân chẳng khác gì “người nhàn nhất trong thiên hạ”, tham thiền lễ Phật, ngâm thơ vịnh nguyệt: “Ở rừng mừng được cảnh phồn hoa, ngẩng cúi đất trời bát ngát xa. Ngàn thuở công danh là cái bóng, trăm năm vinh nhục kính soi hoa. Chén vàng chán ngán xuân sắp hết, đường huệ um tùm ác đã tà. Cảnh khói Ngũ hồ nghe nói đẹp. Cớ chi tơi nón móc câu sa?”. Nghiễm nhiên thành người siêu trần thoát tục, chẳng tranh giành gì với đời.
Khang Hy rất tán thưởng Dận Chân, từng biểu dương Dận Chân, nói lúc Doãn Nhưng bị giam cầm, không một ai kêu xin cho hắn, “chỉ riêng Tứ a ca rộng lượng hơn người, thấu hiểu đại nghĩa”, mấy lần tấu xin. “Làm việc thì hết lòng, đáng là vĩ nhân”. Dận Chân nghe xong, cả người run rẩy sợ hãi “không dám tuân theo”. Dận Chân thừa hiểu, không thể bảo vệ được thái tử, ngoài thái tử ra không ai làm được nên cứ làm thử xem sao. Nhưng việc làm phải giữ kín, để những người công kích thái tử khỏi khó chịu. Vì vậy, trước mặt Khang Hy, Dận Chân không hề thừa nhận mình đã bảo vệ thái tử. Nào ngờ, Dận Chân lại được thêm tiếng thơm là khiêm tốn.
Có nhiều sự việc chứng minh Dận Chân khiêm tốn và nhân ái. Trước Khang Hy, Dận Chân không chỉ nói đỡ cho thái tử, còn nói đỡ cho các anh em khác, “đã nhiều lần trần tấu cho các anh em khác”. Thậm chí Dận Chân còn đề xuất, cùng là anh em nhưng Doãn Đường và mấy người khác tước vị quá thấp (Bối tử), tình nguyện giáng thấp thế tước của mình phân phong cho các em, địa vị mọi người được ngang bằng. Đây có thể là làm trò, có thể hoàn toàn là vờ vĩnh, nhưng Khang Hy lại rất coi trọng. Khang Hy từng nói với quần thần: “Trẫm xem sử sách, xưa nay một khi thái tử bị phế sẽ không còn đường sống, sau đó chẳng ai thương tiếc”. Khang Hy hoàn toàn không muốn, sau khi mình qua đời, Doãn Nhưng bị anh em sỉ nhục tàn hại, không được yên thân. Đại a ca hận Doãn Nhưng đến xương tuỷ, Bát a ca Doãn Tự ở thế đối đầu với Doãn Nhưng. Hai người này làm hoàng đế, Doãn Nhưng sẽ chẳng được yên. Trong lúc mọi người đang xô cho tường đổ, Tứ a ca Dận Chân lại nói đỡ cho Doãn Nhưng, nên dưới tay người này, Doãn Nhưng sẽ không quá khổ (trên thực tế, sau này Ung Chính luôn đối xử tốt với Doãn Nhưng và gia đình hắn). Có nhiều khả năng Khang Hy sẽ chọn Dận Chân, giống như năm nào Lý Thế Dân lập Lý Trị, không lập Lý Thái.
Vì vậy, sau năm thứ năm mươi mốt (năm 1712), Khang Hy càng ngày càng tin tưởng Dận Chân, càng ngày càng giao thêm nhiều việc, thậm chỉ vào ngày đại lễ đăng cơ sáu mươi năm, Khang Hy còn cử Dận Chân thay mặt đến cúng tế ở Tam đại lăng. Ba lăng ở Thịnh Kinh là: Vĩnh lăng - lăng tổ tiên gia tộc Ái Tân Giác La, Phúc lăng - lăng Thái Tổ Nỗ Nhĩ Cáp Xích, Chiêu lăng - lăng Thái Tông Hoàng Thái Cực, đều là phần mộ tổ tiên vương thất Đại Thanh. Dận Chân thay cha tế tổ, rõ ràng địa vị của Dận Chân trong mắt phụ hoàng là không thấp. Trước lúc Khang Hy qua đời, Dận Chân còn được thay cha ra tế trời ở đàn Nam Giao, vào ngày Đông chí. Đó là lễ lớn của đất nước. Một hoàng tử được thay vua cha đi cúng tế thì gần như đã được ngầm chỉ định là người kế vị.
Do xem trọng và quý mến Dận Chân nên vào những năm cuối đời, Khang Hy thường đến hoa viên nhà Dận Chân để cùng mọi người tận hưởng niềm vui của trời đất. Trong số các hoàng tử, chỉ có Dận Chân và Doãn Chỉ được hưởng niềm vinh hạnh đặc biệt này. Có thể vì hai người đã không vướng bận nhiều trong cuộc đấu tranh đoạt đích! Sử liệu đã chỉ rõ, trong giai đoạn này, cũng chỉ có hai người quan tâm đến sức khỏe của Khang Hy, khuyên cầu hoàng thượng chữa bệnh, tiến cử thầy thuốc, xem xét đơn thuốc và cách dùng thuốc. Và cũng chỉ qua hai người này, Khang Hy còn cảm nhận được tình thâm cốt nhục.
Khang Hy ban tặng một khu vườn cho Dận Chân, đó là vườn Viên Minh nổi tiếng, tuy quy mô lúc đó không lớn lắm. Vườn Viên Minh đã bị liên quân tám nước đốt huỷ hết đó, sau này Ung Chính và Càn Long đã cho sửa chữa và mở rộng trên cơ sở vườn cũ. Khang Hy đã ban tên cho khu vườn là vườn Viên Minh. Sau này, Ung Chính đã giải thích “Viên mà nhập thần, đó là người quân tử. Minh mà sáng chói, đó là trí tuệ con người”. Rõ ràng là ý nghĩa sâu xa. Mùa xuân năm thứ sáu mươi mốt (năm 1722), Khang Hy đến đài Mẫu Đơn vườn Viên Minh xem hoa, đã nhìn thấy Hoằng Lịch (Càn Long sau này) con thứ tư của Dận Chân, Khang Hy vui mừng, cho đưa Hoằng Lịch về cung, tự mình nuôi dạy. Mọi người coi việc này là một trong những nguyên nhân Khang Hy truyền ngôi cho Dận Chân: “Để Hoằng Lịch là hoàng đế, thì trước hết phải để cha hắn làm hoàng đế!”(6).
Kỳ thực, Khang Hy luôn có cảm tình với Dận Chân. Sau khi phế thái tử lần thứ nhất, vào ngày mười sáu tháng mười một, Khang Hy từng nói với quần thần, Khang Hy so sánh mấy vị hoàng tử, chưa bình phẩm về Đại a ca Doãn Chi và Tam a ca Doãn Chỉ. Khang Hy nói về Ngũ a ca Doãn Kỳ “Tâm tính rất thiện, thuần hậu với người khác”; về Thất a ca Doãn Hựu, Khang Hy nói: “Tâm tính tốt, cử chỉ thân thiện”. Khang Hy nói về Bát a ca Doãn Tự “chư thần tấu nói là hiền”. Doãn Kỳ, Doãn Hựu, Khang Hy nói tốt, Doãn Tự được các quần thần nói tốt, thân sơ khác biệt đã quá rõ ràng. Khang Hy đã nói rất nhiều về Dận Chân. Khang Hy nói: “Riêng Tứ a ca được trẫm nuôi dưỡng, lúc nhỏ thường vui buồn thất thường, đến lúc có thể hiểu được ý trẫm, đã biết thương trẫm, ân cần khẩn thiết, có thể coi là rất hiếu đễ”. Khang Hy quý mến Dận Chân hơn các hoàng tử khác.
Mấy lời nói của Khang Hy rất đáng tin. Dận Chân được Khang Hy nuôi dưỡng, đương nhiên nhiên là thân với hoàng thượng hơn các hoàng tử khác. Sau khi thái tử bị phế, Dận Chân liền trở thành “mũi nhọn thứ hai”. Điều đó chỉ càng thêm nguỵ hiểm. Doãn Chi, Doãn Nhưng thất bại là một ví dụ cụ thể. Dận Chân thông minh ở chỗ, không coi mình là “mũi nhọn thứ hai”. Người khác thì đua tranh giành giật, ngược lại Dận Chân bỏ tránh thật xa, và chỉ chú tâm vào hai chữ “hiếu đễ”, tự nhiên là được lòng vua. Thậm chí Dận Chân còn sửa đổi luôn cả tật “vui buồn thất thường” (không sửa mà giả vờ), lại càng được Khang Hy tán thương. Chính nhờ vào sự cố gắng khắc chế đó, Dận Chân đã khác với các hoàng tử trong cuộc phân tranh, biểu hiện một thái độ khác với mọi người.
Dận Chân không thực nhiệt tình với việc mưu cầu ngôi vị.
Điều đó làm cho Khang Hy thêm phần thiện cảm. Đương nhiên, không phải Khang Hy không biết Dận Chân vờ ra như vậy. Nhưng Khang Hy là người sáng suốt. Khang Hy thừa hiểu, làm gì có chuyện “không tranh giành” giữa các hoàng tử tài cán và năng lực. Và đã không có sự siêu thoát thực sự thì có thể vờ được là tốt. Có thể vờ là trong lòng còn có vua cha, không đến đoạn mưu phản bức bách cung đình, và Khang Hy cũng chỉ yêu cầu có vậy, Khang Hy đã tận mắt nhìn thấy, vì tranh đoạt ngôi vị mà các hoàng tử đã xắn tay áo ra trận, giết đỏ cả mắt, sướt cả da mặt, tình nghĩa anh em, công ơn cha mẹ đều đã mất sạch. Lúc đó, có một vài người biết vờ vĩnh, có thể vẫn giữ được lớp sa mỏng thấm đượm tình người. Có được người tự nguyện vờ vĩnh như vậy để tiếp nối, hẳn sau này bản thân sẽ không phải chết đường chết chợ. Đương nhiên, người đó cũng sẽ không bỏ xác mình không chôn, để đi đánh nhau với anh em. Vì vậy, Khang Hy biết Dận Chân đang vờ vĩnh, nhưng không nói toạc ra, mà cùng Dận Chân hát nốt vở kịch. Khang Hy tự biết, chẳng bao lâu nữa sẽ phải rời bỏ sân khấu, có thể hát hết vở kịch, thì coi như công đức đã viên mãn.
Thứ nữa, một người biết vờ là người luôn có tính toán trong lòng và một người làm vua, khống thể không có tính toán. Là hoàng đế, đâu chỉ biết cả đời luôn nói thật, không dối trá, chỉ biết bộc lộ thực tình? Bí quyết của hoàng đế là luôn phải thật thật giả giả, thế mới là “thiên uy khó lường”, tài năng hơn người. Cho nên, tuy biết Dận Chân vờ thoát tục, vờ tự nhiên, Khang Hy chỉ biết tán thưởng, không hề phản cảm.
Nhưng theo ý của nhiều người, Khang Hy đã chọn Thập tứ a ca Doãn Đền. Tháng ba năm thứ năm mươi bảy (năm 1718), Doãn Đề được bổ nhiệm là “Đại tướng quân vương”. Tháng mười hai đem quân ra đóng ở Tây Ninh, tranh đấu với lũ giặc ở miền tây bắc. Tập đoàn Doãn Tự rất coi trọng lần bổ nhiệm này. Theo họ, bổ nhiệm hoàng tử chức Đại tướng quân nhằm để khảo nghiệm là cho cơ hội. Nếu khảo nghiệm tốt lại được lập chiến công, và đương nhiên sẽ là người kế thừa hoàng vị.
Thậm chí Doãn Đường đã nói với Doãn Đề: “Sớm lập công, để được làm thái tử”. Theo suy nghĩ thông thường thì chức Đại tướng quân vương là sự quá độ tiến tới ngôi vị thái tử. Vì vậy, nghi thức tiễn Doãn Đề cầm quân ra trận được tiến hành hết sức long trọng: Khang Hy tự thân tế lễ, thân trao ấn sắc, chư vương cùng các quan nhị phẩm trở lên tề tựu tiễn đưa tại quân doanh cửa Đức Thắng môn. Vì vậy, sau lúc Doãn Nhưng bị phế, Doãn Chi bị tù, Doãn Tự bị chỉ trích, Doãn Đề trở thành người đoạt đích có tiếng hô hào cao nhất.
Thực ra đây chỉ là màn khói Khang Hy cố ý tạo ra, mục đích là phân tán sự chú ý của mọi người, để Dận Chân khỏi bị công kích từ bốn phía và mình cũng được yên. Vì vậy, Khang Hy phong cho Doãn Đề - kẻ hai mặt và hàm hồ, chức vị: Đại tướng quân vương. Chức vị này nghe thì vô cùng thần kỳ thực tế thì chẳng là gì cả: Tướng quân không ra tướng quân, vương không ra vương. Nói là tướng quân nhưng lại là vương gia, nói là vương gia vậy lại không có phong hiệu. Kỳ thực, chỉ là “vương giả”. Mọi người thích nghĩ gì thì nghĩ, thích nói gì thì nói. Thủ pháp hàm hồ không rõ ràng luôn là cốt lõi của quyền thuật truyền thống Trung Quốc.
Khang Hy suy nghĩ sâu xa. Thực tình, Khang Hy rất quý Doãn Đề và cũng thực tình không yên tâm về Doãn Đề. Vì Doãn Đề đã bước lên “thuyền giặc” của Doãn Tự. Ngày hai mươi chín tháng chín năm thứ bốn mươi bảy (năm 1708), Khang Hy trách mắng Doãn Tự ham hố hư danh, mua chuộc lòng người, “mềm yếu thành gian, mưu đồ chí lớn”, hạ lệnh bắt giam, Doãn Đề đã xuất hiện biện hộ cho Doãn Tự, lời lẽ cử chỉ hết sức xúc động, kết quả bị đánh đòn. Khang Hy bực đến đoạn đã rút kiếm và suỷt nữa đã chém đầu Doãn Đề. Đối với Doãn Đề, có thể chỉ là nghĩa khí anh em (Khang Hy nói là nghĩa khí Lương Sơn Bạc), nhưng trong mắt Khang Hy, đây là tín hiệu nguỵ hiểm: Doãn Đề bảo vệ Bát ca của hắn đến như vậy, nếu Doãn Tự muốn làm chính biến, người đem quân đến bức cung đình hẳn là Doãn Đề. Vì vậy Khang Hy luôn muốn tách Doãn Đề ra khỏi Doãn Tự. Lúc này là cơ hội tốt, không thể bỏ qua. Việc quân ở tây bắc rất quan trọng và khẩn trương, cần có hoàng tử trẻ tuổi, năng lực ra trấn thủ. Doãn Đề có tư cách và năng lực, phái đi là rất hợp. Doãn Đề là Bối tử, một bước lên tới Đại tướng quân vương, thực hả lòng, lại có khả năng giành được chiến công nên vui vẻ ra đi. Quân thần cho rằng Khang Hy đã ngầm chọn Doãn Đề, phái cử xuất chinh là để tích luỹ kinh nghiệm quân sự và vốn liếng chính trị, nên cũng không ầm ĩ về chuyện lập tự, triều đình được yên ổn, cũng không phải suy nghĩ về lũ tiểu nhân muốn dựa dẫm Doãn Đề. Doãn Đề ở tận biên cương, dù muốn bợ đỡ cũng chẳng được. Cách sắp xếp của Khang Hy quả là nước cờ hay.
Đây cũng là cách hạn chế các hoàng tử, Doãn Đề có muốn theo đuổi ngôi vị cũng chẳng làm được chuyện gì. Dận Chân có đối thủ, cũng không thể cong đuôi; bọn Doẫn Tự có hy vọng, sẽ không mạo hiểm. Và như vậy, Khang Hy mới được yên vui trong những năm cuối đời. Đương nhiên, Khang Hy cũng để cho mình một đường rút: Nếu phát hiện thấy Dận Chân không được như mong muốn, chỉ cần triệu Doãn Đề về là xong. Doãn Đề là “Đại tướng quân vương” đảm nhiệm ngôi vị cũng chẳng có gì là đường đột. Nếu Dận Chân có thể kế vị, cũng là dễ nói chuyện với bên phía Doãn Đề, vì Doãn Đề chỉ là “vương giả”, vậy có gì phải oán trách. Hơn nữa, một người mưu sâu chí xa như Khang Hy, sớm đã sắp xếp xong về mặt nhân sự. Niên Canh Nghiêu nô tài của Dận Chân nắm giữ lương thảo của đại quân và khống chế đường về của Doãn Đề. Có Niên Canh Nghiêu trông giữ ở đó, Doãn Đề không thể bức cung đình, không thể mưu phản.
Khang Hy đúng là Khang Hy, không ai đùa được với Khang Hy, kể cả các hoàng tử.
Chú thích


(1) Lúc Ung Chính qua đời, Hoằng Lịch với thân phận là hiếu tử, kêu khóc đau xót, Trương Đình Ngọc, Ngạc Nhĩ Thái muốn tìm ngay mật chỉ, để dễ bề thống nhất, thái giám tổng quản không rõ mật chỉ giấu ở đâu. Trương Đình Ngọc nói: Thường ngày Đại Hành hoàng đế không có nhiều văn kiện dán kín, tìm cho ra chiếc hộp, ngoài bọc giấy vàng, phía sau ghi một chữ “phong”, là xong”. Lúc này mới tìm được mật chỉ, truyền ngồi cho Hoằng Lịch (Tác giả).
(2) Ánh nến tiếng rìu chỉ nghi án Tống Thái Tổ Triệu Khuông Dận mất. Nghe nói, lúc Triệu Khuông Dận mất, bên cạnh chỉ có người con là Triệu Quang Nghĩa (Thái Tông sau này) và dưới ánh nến có bóng người di động, lại nghe có tiếng rìu bổ xuống mặt đất (Tác giả).
(3) Bình tâm mà xét, “Hoàng đế Ung Chính” viết khá tinh tế, nắm chắc tính cách của Ung Chính, nhưng lúc xây dựng nhân vật Kiều Dẫn Đệ và giải thích về nguyên nhân cái chết của Ung Chính lại khiến mọi người rất không hài lòng, vì vậy các nhà phê bình gọi “tán hươu tán vượn là Nhị Nguyệt Hà” (Tác giả).
(4) Theo “Nhạc Tương Cần công hành lược” của Nhạc Quýnh con cháu của Nhạc Chung Kỳ thì Nhạc Chung Kỳ là cháu đời thứ hai mươi mốt của Nhạc Phi. Nhưng Nhạc Chung Kỳ trước sau trung thành với vương triều Đại Thanh, năm Càn Long thứ mười chín (năm 1754) qua đời tại dinh thự, thọ sáu mươi chín tuổi (Tác giả).
(5) Con của Khang Hy trong tên của họ có chữ thứ nhất là Dận, chữ thứ hai đều là chỉ nghĩa, phần lớn dùng những chữ để tránh trùng tên. Sau khi Ung Chính lên ngôi, để tránh huý, các huynh đệ đều đổi Dận thành Doãn. Để tránh làm độc giả thấy rắc rối, trong cuốn sách này không kể trước sau đều đổi là Doãn. Còn riêng Ung Chính, trước khi lên ngôi gọi là Dận Chân, sau khi lên ngôi gọi là Ung Chính (Tác giả).
(6) Trước đây đã có tiền lệ, lúc Minh Thành Tổ lập tự, còn do dự giữa Nhân Tông Chu Cao Sí hay Hán vương Chu Cao Húc, các triều thần nói: “Xin hãy xem cháu của hoàng thượng”, nên Thành Tổ quyết luôn (Tác giả).
Về Đầu Trang Go down
https://triamquan.forumvi.com/
Tri Âm Quán
Thành Viên Tích Cực
Thành Viên Tích Cực
Tri Âm Quán


Tổng số bài gửi : 6340
Reputation : 2
Join date : 31/07/2013
Đến từ : Thị Trấn Chũ

Luận Anh Hùng - Page 2 Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Luận Anh Hùng   Luận Anh Hùng - Page 2 EmptyMon Nov 17, 2014 6:45 pm

DỊCH TRUNG THIÊN
LUẬN ANH HÙNG
UNG CHÍNH
- 2 -
Anh em như vậy
Với cách sắp đặt tinh tế của Khang Hy, Dận Chân là vị hoàng đế thứ năm của đế quốc Đại Thanh, là Ung Chính. Nhưng số phận mang tính bi kịch của Dận Chân là ở chủ định này: Không có cách sắp đặt tinh tế của Khang Hy, Dận Chân không thể là hoàng đế, và cũng chính vì cách sắp đặt tinh tế đó, Dận Chân hết sức không thoải mái.
Ngay từ đầu, mọi người hoài nghi, cho rằng Dận Chân lên ngôi là bất chính. Vì quyết định của Khang Hy không được tự Khang Hy tuyên bố, mà do Long Khoa Đa tuyên bố. Theo hồi ức của Ung Chính, lúc Khang Hy bệnh nặng, vì Dận Chân thay mặt cúng tế ở đàn Nam Giao, nên đang trai giới. Sau khi phụng chiếu về vườn Sướng Xuân, chỉ nghe được Khang Hy nói về bệnh tình, không thấy nói về việc kế vị. Chỉ sau Khang Hy “rồng ngự trên ngai” mới được nghe Long Khoa Đa thuật lại “Hoàng khảo di chiếu”. Vì Ung Chính không được chuẩn bị về mặt tư tưởng, nên “nghe xong là kinh hoàng, ngất xỉu luôn”. Thực là kỳ lạ. Khang Hy “trong lòng đã có dự định” truyền ngôi cho Ung Chính, vì sao không nói thẳng với con, việc gì phải nhờ miệng Long Khoa Đa? Nếu nói là để giữ bí mật thì ngay lúc hấp hối còn bí với mật gì nữa? Huống hồ Long Khoa Đa đã biết thì còn gì là bí mật? Long Khoa Đa là loại người nào, lấy tư cách gì để thay thiên tử tuyên chiếu? Chỉ một mình Long Khoa Đa là đại thần tuyên chiếu, ngộ nhỡ nếu đó là chiếu giả thì sao? Luôn có vấn đề. Đương nhiên, Ung Chính còn nhớ, trước lúc Ung Chính vào vườn Sướng Xuân, Khang Hy đã gặp Doãn Chỉ, Doãn Hựu, Doãn Tự, Doãn Đường, Doãn Nga, Doãn Tường và Long Khoa Đa. Khi Long Khoa Đa tuyên bố: “Tứ a ca nhân phẩm cao quý, rất hiểu ý trẫm, có thể kế thừa đại thống, thay trẫm lên ngôi hoàng đế”. Cũng tức là, biết di mệnh không chỉ có một mình Long Khoa Đa, không có khả năng Long Khoa Đa sửa đổi chiếu. Nhưng những người khác đều biết ai là hoàng đế, duy có người trong cuộc là không biết, ở đây có gì đó hơi kỳ lạ. Một điều kỳ lạ nữa là, trong quá trình đó chỉ được nghe Ung Chính nói, không một ai trong số bọn Doãn Chỉ đứng ra làm chứng.
Chẳng trách, trong lòng mọi người có sự nghi ngờ và nghi ngờ dễ biến thành quỷ ám. Ung Chính tự biết, ngôi vị hoàng đế này có phần “không được rõ ràng”; chẳng phải lễ pháp Hán gia quy định: Lập đích lấy trưởng và truyền thống Đại Thanh là lập vua lấy hiền. Lập trương phải là Doãn Chỉ, lập hiền phải là Doãn Tự. Không có điều nào hợp với Dận Chân. Chẳng trách, sau khi nghe Long Khoa Đa tuyên chiếu, Dận Chân đã “nghe xong thấy kinh hoàng, ngất xỉu luôn”; chẳng trách Doãn Lễ nghe xong cũng “thần sắc căng thẳng như điên dại”. Vì mọi người đều không được chuẩn bị về mặt tư tưởng, còn Ung Chính cũng vờ như chưa được chuẩn bị về tư tưởng.
Đương nhiên, Ung Chính có chuẩn bị. Nhưng trước hết, Ung Chính luôn vờ như không lưu tâm đến ngôi vị lớn (cũng chính từ đó để có tín nhiệm, mưu cầu ngôi vị). Lúc này chỉ còn cách là vờ đến cùng. Nhưng rồi lại dẫn tới điều phiền hà khác: Điều mà mọi người không thể ngờ, bản thân đương sự cũng không thể ngờ, vậy điều gì khiến hoàng đế Khang Hy đã nghĩ tới? Chỉ có một kết luận: Khang Hy cũng chưa nghĩ tới, Long Khoa Đa đã làm chiếu giả. Long Khoa Đa không sao rửa sạch vết nhơ này. Đã không thể nói di chiếu là giả, cũng không có cách gì để chứng minh là thật. Cho nên Long Khoa Đa đã nói: “Ngày Bạch Đế Thành nhận mệnh cũng là ngày chết đã đến”. Long Khoa Đa biết rất rõ, mình sẽ bị phiền hà.
Ung Chính càng bị phiền hà. Ung Chính không chỉ phải chứng minh, người tiên đế chọn là mình, mà còn phải chứng minh sự lựa chọn của tiên đế là chính xác. Biện pháp duy nhất là gắng sức làm việc và trị lý tốt đất nước. Có thể đó cũng là điều Khang Hy kỳ vọng ở Ung Chính. Khang Hy là hoàng đế sáu mươi mốt năm, ngài biết rõ, làm hoàng đế không phải dễ. Khang Hy càng không muốn giang sơn do mình tạo ra lại mất trong tay một kẻ kế vị ham chơi và tắc trách. Điều đó làm cho Khang Hy cảm thấy có được giang sơn không dễ, nên chưa bao giờ dám thờ ơ, buông lỏng. Cách suy nghĩ của Khang Hy là có lý. Nhưng cũng có việc mà Khang Hy chưa nghĩ tới, cách sắp đặt như vậy, sẽ gây thêm phiền hà cho người kế vị: Mọi người không phục. Rất nhiều người nghĩ mãi mà không hiểu: Dựa vào cái gì để Lão Tứ làm hoàng đế? Vì hắn dốc sức làm việc sao?
Thập tứ a ca Doãn Đề là người không phục nhất.
Sau khi là Đại tướng quân vương, suy nghĩ của Doãn Đề đã khác trước. Quan hệ giữa Doãn Đề và tập đoàn Doãn Tự cũng mất đi nhiều: Trước kia Doãn Đề thường ủng hộ Doãn Tự, lúc này Doãn Tự lại ủng hộ Doãn Đề. Doãn Đường là can tướng của tập đoàn Doãn Tự đã công khai tạo dựng dư luận, nói Doãn Đề “tài đức song toàn, trong anh em tôi không ai bằng, sau này tất đại quý”. Miệng nói mình không bằng, là muốn đề cao Doãn Đề, hạ thấp Dận Chân. Doãn Đề cũng thường xuyên liên lạc với Doãn Đường, còn nói: “Phụ hoàng tuổi cao, lúc thế này lúc thê nọ, nên cho ta biết tin thường xuyên”. Bề ngoài thì ra vẻ quan tâm đến sức khỏe phụ hoàng, nhưng thực chất là sợ phụ hoàng bệnh nặng, không kịp về kinh thành đoạt ngôi vị. Doãn Đề một mặt chỉ huỵ quân chiến đấu, mong có được chiến công, làm vốn về mặt chính trị; mặt khác chiêu hiền nạp sĩ, chuẩn bị về mặt dư luận, chuẩn bị về mặt tổ chức giúp việc đăng cơ sau này. Lúc bấy giờ, xã hội rộ lên chuyện “Thập tứ gia lễ hiền đãi sĩ”, còn có người tên Trương Khải nói Doãn Đề: “Nguyên Vũ mà nắm quyền, quý không kể hết”. Tóm lại, câu nói Thập tứ gia kế thừa đại thống đã lan truyền khắp thiên hạ.
Sau này, cách nói trong dân gian càng truyền càng khác với nguyên bản. Một cách nói là: Lúc Khang Hy bị bệnh “giáng chỉ triệu Doãn Đề về kinh, Long Khoa Đa đem giấu đi, ngày tiên đế lên trời, Doãn Đề không đến, Long Khoa Đa truyền chỉ lập đương kim (Ung Chính)”. Lời nói này chỉ có thể lừa được dân chợ búa. Long Khoa Đa là loại người nào? Long Khoa Đa không phải là Tào Tháo, một tay che trời, có thể “ép thần tử lệnh chư hầu”. Khang Hy muốn triệu ai, Long Khoa Đa làm sao mà ngăn nổi? Khang Hy muốn truyền ngôi cho ai, Long Khoa Đa làm sao mà thay được? Giao tiếp đế vị lại không phải chuyện đùa, lý đâu lại có chuyện người dự định không có mặt, tạm thời có thể thay bằng “nhân viên dự bị”? Cách nói đó không chỉ để hạ thấp Ung Chính mà còn là xem thường Khang Hy.
Một cách nói nữa, cũng chỉ có thể để lừa dân chợ búa, nói nguyên bán của di chiếu là Truyên vị Thập tứ tứ Dận Trinh (Dận Trinh là một tên khác của Doãn Đề), đã bị Ung Chính và Long Khoa Đa sửa đổi thành “Truyền vị cho tứ tử Dận Chân”. Đúng là không khéo thì không thành sách. Một là “Thập tứ tử”, một là “Tứ tử”; một là “Dận Trinh”, một là “Dận Chân”. Trinh đổi thành Chân, thập đổi thành vu (cho) còn khả dĩ. Rất tiếc, người tạo ra sách sửa đổi này lại không hiểu hết quy chế của vương triều Đại Thanh. Theo quỵ chế đó, đàng trước phải có chữ hoàng. Dận Chân không thể viết thành “Tứ tử”, phải viết là “hoàng Tứ tử”, Dận Trinh cũng không thể viết là “Thập tứ tử”, mà phải viết là “hoàng Thập tứ tử”. Và cứ vậy mà sửa thì chiếu thư sẽ thành “truyền vị hoàng cho Tứ tử”, không ai hiểu được… Hơn nữa, đây là triều Thanh, không phải triều Minh. Chiếu thư truyền ngôi ngoài văn bản Hán văn còn có văn bản Mãn văn. Ung Chính cũng thế, Long Khoa Đa cũng thế, có thể sửa đổi văn bản bằng chữ Hán, không thể thay đổi văn bản bằng chữ Mãn.
Rõ ràng, cách dựng chuyện Ung Chính cướp ngôi của Doãn Đề là không có chứng cứ. Nhưng nhiều người lại cho rằng ngôi vị hoàng đế phải được truyền cho Doãn Đề. Và cứ như vậy thì khó mà tránh khỏi xung đột giữa giữa Doãn Đề và Ung Chính.
Doãn Đề là người rất có chí khí. Ung Chính nói Doãn Đề “khí ngạo tâm cao”, đúng như vậy. Năm đó, Khang Hy chê trách Doãn Tự, Doãn Đề đã xuất hiện đòi sự công bằng, lúc này thì bảo toạ của mình bị lão ca cướp mất, tự nhiên cả người đã hừng hực, nóng ran lên.
Thế là Doãn Đề đã hết sức vô lễ với Ung Chính. Sau khi Khang Hy băng hà, Ung Chính hạ lệnh Doãn Đề về kinh, khóc trước linh cữu. Ung Chính có ỹ đoạt lại binh quyền, tránh việc Doãn Đề có thể dấy binh làm loạn ở tây bắc. Nhưng việc đứa con có hiếu bận rộn vì tang lễ thì không ai phản đối. Việc đầu tiên của Doãn Đề vào kinh là đến bái yết Đại Hành hoàng đế (hoàng đế vừa qua đời, chưa có thuỵ hiệu vẫn gọi là Đại Hành hoàng đế) đến Tử cung (đặt linh cữu của hoàng đế), Ung Chính cũng có mặt ở đó. Nhưng Doãn Đề chỉ khóc lóc trước linh cữu mà không bái lạy vua mới. Ung Chính tỏ ra rộng lượng, vì không muốn căng thẳng với người anh em vừa về ngay trong tang lễ, sợ gây ảnh hưởng xấu. Ung Chính liền đến gặp nhưng Doãn Đề vẫn không có phản ứng gì. Một thị vệ người Mông Cổ tên là Lạp Tích ở cạnh, bước ra dàn hoà, hắn kéo Doãn Đề đến hành lễ trước hoàng đế. Doãn Đề nổi giận, trách mắng Lạp Tích, còn làm khó cho Ung Chính. Doãn Đề nói, đệ là em của hoàng thượng, còn hắn chỉ là tên nô tài hạ tiện. Nô tài thượng cẳng chân hạ cẳng tay với vương gia là thể thống gì đây? Nếu đệ sai lầm, xin hoàng thượng xử trị. Nếu đệ không sai, mong hoàng thượng giết Lạp Tích để giữ quốc thể.
Như vậy là muốn tìm cớ để gây sự, đương nhiên Ung Chính không thể nhẫn nhịn. Nhẫn nhịn Doãn Đề sẽ mất hết thể diện, thể thống đất nước cũng sẽ mất hết. Từ thời Tây Chu đến Đại Thanh, thể thống Trung Quốc luôn là lễ trị, không gì vượt khỏi chữ “Lễ”. Dù là thiên tử ngự ở cửu trùng cũng không được phạm lễ. Thất lễ tức là thất đức. Thất đức, vua sẽ mất nước, thần sẽ mất tước. Vì vậy, không hề nể nang, Ung Chính xoá bỏ tước vương của Doãn Đề. Vương của Doãn Đề vốn là “vương giả” nên xoá đi cũng phải. Trước khi được phong vương, Doãn Đề chỉ là Bối tử. Tước vương bị bỏ, Doãn Đề chỉ còn là Bối tử, tước vị đứng hàng thứ tư(1). Vào năm thứ tư (1726), Ung Chính lại phải cách bỏ tước vị đó. Mãi sau khi Càn Long lên ngôi, Doãn Đề mới được phóng thích. Năm Càn Long thứ hai (năm 1737), Doãn Đề được phong là Phụ Quốc công; năm thứ mười hai (năm 1747), tấn tước Bối lặc; năm thứ mười ba (năm 1748), phong là Tuân Quận vương. Vị đại tướng quân vương hiển hách một thời giờ cũng chỉ như một đoá hoa quỳnh.
Sau khi bị mất tước vương, Doãn Đề còn được phái đến Tuân Hoá giữ lăng Khang Hy. Thực tế là bị giam lỏng ở đây mười ba năm. Đây cũng chỉ là biện pháp khi không có biện pháp nào. Doãn Đề là anh em cùng mẹ với Ung Chính, cũng là địch thủ sống chết với Ung Chính, tha không được, dùng không xong. Giết Doãn Đề dư luận không cho phép và sẽ ăn nói với thái hậu ra sao; nếu dùng, hắn sẽ làm loạn, không chịu hợp tác. Để hắn nhàn nhã ở kinh thành cũng không xong. Tiếng hô Doãn Đề nối ngôi còn rất mạnh, tất sẽ có người muốn dựa vào hắn, hiến kế cho hắn, xuôi ngược vì hắn, giúp hắn xuất đầu lộ diện, không khéo lại hình thành “đảng đối lập”. Nên biện pháp tốt nhất là, phái hắn ra Cảnh lăng (lăng Khang Hy), cách biệt với đời, hết đường quậy phá.
Về Đầu Trang Go down
https://triamquan.forumvi.com/
Tri Âm Quán
Thành Viên Tích Cực
Thành Viên Tích Cực
Tri Âm Quán


Tổng số bài gửi : 6340
Reputation : 2
Join date : 31/07/2013
Đến từ : Thị Trấn Chũ

Luận Anh Hùng - Page 2 Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Luận Anh Hùng   Luận Anh Hùng - Page 2 EmptyTue Nov 18, 2014 12:01 pm

Doãn Đề bị đưa ra Tuân Hoá, Doãn Đường bị đưa lên tây bắc. Ung Chính luôn xem thường Doãn Đường, nói là “văn tài võ lược đều không có”. Khang Hy gần như cũng không thích Doãn Đường, tận năm hai mươi sáu tuổi mới được phong là Bối tử, còn Doãn Kỳ - người anh cùng mẹ, năm mười bảy tuổi đã được phong là Bối lặc. Lúc Doãn Đường được phong là Bối tử, Doãn Kỳ lại được phong là Thân vương, cao hơn Doãn Đường hai bậc. Tuy cùng một mẹ sinh ra, nhưng tính cách hai người khác hẳn nhau. Doãn Kỳ đôn hậu lương thiện, được Khang Hy yêu quỷ. Doãn Đường hoàn toàn không yên phận, là can tướng trong tập đoàn Doãn Tự, luôn quay ngang quay ngửa, sinh chuyện thị phi, đương nhiên, Khang Hy sẽ không tha. Sinh mẫu Doãn Đường là Nghi phi Quách Lạc La thị (tức là một vai diễn do Đặng Tiệp đóng, trong bộ phim truyền hình dài tập Khang Hy vi hành chiếu trên vô tuyến), người này cũng cậy được sủng ái mà kiêu ngạo. Lúc Khang Hy qua đời, Nghi phi đang ngồi trên sập mềm, đã chạy thẳng đến Linh đường, qua mặt Đức phi (sinh mẫu Ung Chính), Ung Chính đã thấy không vui. Về sau lại tỏ ra không thức thời, ra vẻ là mẫu phi trước mặt Ung Chính - vị hoàng đế vừa nối ngôi, Ung Chính lại càng không vui. Từ đó có thể hiểu, với địa vị tôn quý, có uy vọng nhất định trong tôn thất, nếu Nghi phi liên kết với con, mưu đồ làm loạn sẽ rất khó xử.
Thế là Ung Chính phải quản cả hai việc, tả hữu cùng giương cung, nhắm vào cả hai mẹ con. Vào ngày mùng ba tháng mười hai (Khang Hy qua đời được hai mươi hai ngày), Ung Chính tìm ra mấy sai sót để trị tội ba tên thái giám bên cạnh Nghi phi: Trương Khởi Dụng đày ra vùng đất Lỗ làm ruộng, Lý Tận Trung đày ra Vân Nam làm khổ sai, Hà Ngọc Trụ ra vùng biên cằn cỗi, sung quân. Như vậy, là đánh chó còn ngó chủ nhà. Cùng tháng, Doãn Đường được lệnh ra đại doanh tây bắc. Doãn Đường xin được lưu lại trong vòng một trăm ngày khi phụ hoàng băng hà, nhưng Ung Chính không chuẩn y, buộc phải lên đường ngay. Sau khi đến tây bắc, Doãn Đường được sắp xếp ở Đại Thông (phía đông nam huyện Đại Thông, Thanh Hải). Một ngôi thành đơn độc, binh sĩ không nhiều, nói là để bảo vệ, nhưng thực tế là giám sát. Cứ thế cho đến tháng hai, năm thứ mười hai (năm 1724), Doãn Đường bị người Tông nhân phủ tham tấu, nói là “chống lại quân pháp, bừa bãi nơi biên cương”, đáng phải cách bỏ tước vị Bối tử. Thực chất là buộc Doãn Đường phải sung quân.
Đối với Doãn Nga, Ung Chính cũng không nể tình. Năm thứ nhất (năm 1723), lãnh tụ tôn giáo Triết Bố Tôn Đan Ba Hồ Thổ Khắc Đồ của Ca Nhĩ Ca, Mông Cổ đến Bắc Kinh bái yết linh đường Khang Hy, không lâu sau bị bệnh chết. Triết Bố Tôn Đan Ba là hoàng giáo (Phật giáo truyền vào Tạng), là một trong bốn vị Phật sống, cùng với ba vị Phật sống khác chia nhau nắm giữ việc giáo hội ở một khu. Đạt Lai nắm Tiền Tạng, Ban Thiền nắm Hậu Tạng, Triết Bộ Tôn Đan Ba nắm vùng Mạc Bắc (Ngoại Mông), Chương Gia nắm Mạc Nam (Nội Mông), tất cả thuộc triều đình nhà Thanh. Một vị lãnh tụ dân tộc chính giáo hợp nhất bị bệnh và mất ở kinh thành, đương nhiên phải cử vương gia đưa tiễn, Ung Chính liền cử Doãn Nga. Doãn Nga không đi, nói là không có tiền mua ngựa, về sau, Doãn Nga đành phải xuất phát, nhưng đi đến Trương Gia Khẩu thì dừng lại. Trước tình hình đó, Ung Chính liền giao việc khó khăn này cho Tổng lý vương đại thần Doãn Tự, lệnh cho để nghị xử. Doãn Tự kiến nghị lệnh gấp để Doãn Nga tiếp tục lên đường, đồng thời trách phạt trương sử Ngạch Nhĩ Kim không chịu khuyên can. Ung Chính lại nói, Doãn Nga không muốn đi, việc gì phải bắt hắn đi? Hắn không chịu nghe lời Ngạch Nhĩ Kim, trách phạt có tác dụng gì? Doãn Tự hết cách, chỉ còn biết mạnh dạn tấu xin cách tước vương của Doãn Nga. Đương nhiên, lần này Ung Chính đã chịu “phê chuẩn”. Doãn Nga bị cách bỏ thế tước Quận vương, điều về giam giữ tại kinh thành, còn bị kê biên gia sản, số kim ngân là hơn sáu mươi vạn lạng, chưa kể đồ trang trí bằng vàng bạc, đất đai và nhà cửa. Có điều, tuy mắc tội hơi sớm, nhưng cũng vì hoạ mà có phúc. Doãn Nga biến thành đồ “chó chết”, từ đó Ung Chính cũng không hạ độc thủ chính trị tiếp. Vì vậy, Doãn Nga được sống đến khi Ung Chính qua đời, còn được Càn Long thả ra, phong là Phụ Quốc công, đến năm Càn Long thứ sáu (năm 1741) mới mất.
Lúc này, Doãn Đề bị giam lỏng ở Tuân Hoá, Doãn Đường bị đưa ra tây bắc, Doãn Nga bị giam cầm ở kinh thành, các phần tử cốt cán của “Bát gia đảng” hết bề động đậy, Ung Chính đã có thể ra tay với Doãn Tự.
Sau hồi suy nghĩ sách hoạch thật chu đáo, Ung Chính mới tấn công Doãn Tự.
Khang Hy vừa qua đời, Ung Chính đã nhiệm mệnh Doãn Tự làm tổng lý sự vụ đại thần, cùng Doãn Tường, Mã Tề, Long Khoa Đa trông nom nội các, như vậy là vượt cấp tấn phong Doãn Tự từ Bối lặc thành Thân vương, kiêm quản lý Phiên viện và bộ Công. Hoằng Vượng - con Doãn Tự được phong là Bối lặc, địa vị cao nhất so với các đứa cháu khác, chỉ thấp hơn con của thái tử bị phế Doãn Nhưng - Hoằng Tích (tước vị Quận vương). Người cậu của Doãn Tự là Cát Đạt Hồn cũng được rước bỏ dòng dõi hạ cấp, nâng thành Kỳ dân, được thế tập chức tá lĩnh. Bè cánh của Doãn Tự như Tô Nỗ, Phật Cách, A Nhĩ A Tùng (con của A Linh A), Mãn Đô Hộ, Đồng Cát Đồ… đều được gia quan tiến tước, bè cánh kéo nhau làm quan, có thể nói, trong lúc Doãn Đề, Doãn Đường, Doãn Nga đang bị công kích thì Doãn Tự cùng vây cánh hoạn lộ thênh thang, lên tận trời xanh.
Vì thế, Ung Chính luôn phải giải thích “lòng dạ Khang Thân vương (Doãn Tự) không thể dùng, còn những người khác luôn có uẩn khúc, không thể không dùng”, uẩn khúc là gì? Nói trắng ra, Doãn Tự là lãnh tụ “đảng phản đối”, nhưng cũng là người có tài. Đối với loại người này chỉ có hai cách, hoặc là đánh hoặc là kéo. Nếu đánh, phải đánh cho tới nơi tới chốn, đánh cho không còn một chiếc răng nào, đánh cho mãi mãi không ngóc đầu lên được. Ngày đầu lên ngôi, Ung Chính chưa có đầy đủ những điều kiện này. Kéo cũng có cái hay của kéo. Và nếu kéo được, lực lượng của mình sẽ thêm mạnh. Nếu không kéo được, thì ít nhất cũng được ổn định mấy hôm, thế cũng tốt.
Với những người hay chơi trò chính trị thì  không thể không hiểu chính sách này. Đương nhiên Doãn Tự cũng hiểu và hiểu rất sâu. Doãn Tự hiểu, đây là biện pháp cho trước để được sau: Muốn ném thì phải nâng, nâng thật cao rồi mới ném thật mạnh, gọi là trèo cao ngã đau. Doãn Tự được phong vương, bên nhà ngoại đến chúc mừng, phúc tấn (yợ cả) của Doãn Tự Ô Nhã Thị nói, có gì đáng vui đâu mà chúc mừng, biết đâu lại sẽ có một ngày phải mất đầu! về phần mình, Doãn Tự cũng từng nói với các triều thần: “Hôm nay hoàng thượng ra ân, biết đâu ngày mai lại có ý giết?”. Thậm chí A Nhĩ A Tùng không dám nhận chức thượng thư bộ Hình. Vì bộ Hình là chốn thị phi, A Nhĩ A Tùng sợ Ung Chính dùng chức vụ này để giết mình. Cho nên, Ung Chính còn phong quan tiến tước nhưng không ai dám nhận.
Thực tế, Ung Chính đang tìm dịp để chính trị Doãn Tự. Như tháng mười một năm thứ nhất, lúc bàn về tang lễ, Ung Chính nói, không nên quá xa hoa, ý muốn trách Doãn Tự “vờ là hiếu đễ”, lúc tổ chức tang lễ của mẫu phi quá xa xỉ. Việc tang nên đơn giản mới đúng. Nhưng đưa một Thân vương, tổng lý đại thần ra làm vai phản diện, để Doãn Tự mất mặt trước các triều thần, thực tế là đùa giỡn với Doãn Tự, cố ý làm Doãn Tự mất mặt. Nhất là việc vừa mới xảy ra vào hồi tháng chín, càng làm cho Doãn Tự cảm thấy thương tâm và lo ngại. Ung Chính mượn cớ phòng “thay áo” ở thái miếu có mùi dầu mỡ xào nấu để phạt Doãn Tự - chủ quản của bộ Công, quỳ trước thái miếu suốt một đêm. Một việc nhỏ, nhiều lắm là phạt đến trưởng phòng, cớ chi phải phạt đến một vương gia? Rõ ràng là tâm lý nham hiểm và ghen ghét của Ung Chính đã phát tác. Thực dễ thấy, quỳ trước thái miếu, Doãn Tự nhất định đã phải nuốt hết nước mắt vào lòng, bao nỗi chua xót, oan khuất không thể nói ra, bi phẫn đan xen, biết oán trời hay oán người? Đúng, Doãn Tự nghĩ mãi mà không hiểu, là một “hiền vương” được mọi người ủng hộ lại không thể là hoàng đế, ngược lại còn phải hầu hạ một ông chủ lòng dạ ác độc, hẹp hòi?
Đương nhiên, Doãn Tự không thể ngồi chờ chết. Lúc này, chẳng có cách gì để biết Doãn Tự hành động ra sao, giở những trò gì, chỉ biết lúc đó Ung Chính vô cùng bối rối. Về sau, Ung Chính đã giải thích, sở dĩ trẫm không được như phụ hoàng, rời kinh thành ra ngoại ô săn bắn, đều vì Doãn Tự, bọn Doãn Tự “mật kết băng đảng, tích kết tà mưu, gặp việc là sinh sự, bụng dạ khó lường, trẫm muốn phòng tránh, nên mới không ra ngoài”. Một hoàng thượng bị thần hạ làm cho sợ hãi đến như vậy, thì ngày chết chắc không còn xa.
Có thể vì thần kinh Ung Chính quá nhạy cảm. Với lòng nghi kỵ nặng nề thì một làn gió làm ngọn cỏ lay động cũng có thể bị nghi là người khác có dụng ý; một vài sai lầm ngẫu nhiên, cũng được nghi là cố ý, đều do thần kinh quá nhạy cảm, huống hồ ngôi vị hoàng đế của Ung Chính còn có “lai lịch bất minh”! Thực tế, Doãn Tự uy hiếp Ung Chính không nhất định là có âm mưu ám sát hoặc là làm chính biến (đương nhiên cũng không chắc là không có) mà chủ yếu là uy vọng của Doãn Tự quá cao. Tháng mười một năm thứ mười một (năm 1724), Ung Chính từng nói, mỗi khi thẩm vấn Doãn Tự ‘ ‘sắc mặt những người thẩm sát tỏ ra chưa thấy hết sai lầm của Liêm Thân vương”. Tháng tư năm sau lại nói: “Nhìn ý chư vương đại thần, biết Doãn Tự là oan uổng”. Rất nhiều người bất bình thay cho Doãn Tự, cho rằng Ung Chính đả kích không đúng, không thể nói đều là sai lầm của Doãn Tự.
Đương nhiên, trong cuộc đấu tranh giữa Ung Chính và Doãn Tự, Ung Chính luôn bị cô lập. Tấm lòng của chư vương đại thần luôn hướng về Doãn Tự, có điều dám giận nhưng không dám nói. Nhạy cảm như Ung Chính đâu lại không cảm nhận được điều đó? Tháng tư năm thứ mười một, vừa lên ngôi được một năm rưỡi, Ung Chính đã có một đạo thánh chỉ đầy vẻ ấm ức: “Trong các vị đại thần, nếu có một người hoặc minh tấu hoặc mật tấu, nói Doãn Tự hiền hơn trẫm, giỏi đường đối nhân xử thế, có lợi cho xã tắc đất nước, trẫm xin nhường ngôi vị ngay lập tức!”. Rõ ràng, nếu không bị bức quá mức, Ung Chính đã không nói những lời hờn dỗi như vậy. Uy vọng, nhân duyên của Ung Chính còn rất lâu mới bằng với Doãn Tự, đây là sự thực không phải bàn cãi.
Ung Chính chỉ còn cách sử dụng pháp bảo duy nhất có trong tay - đặc quyền chuyên chế. Ngày mùng năm tháng giêng năm thứ tư (năm 1726), Ung Chính có thượng dụ, liệt kê một số tội ác của Doãn Tự, gọi là “Liêm Thân vương Doãn Tự cuồng nghịch đã đủ, nếu trẫm còn che giấu, nhẫn nhịn thì không thể nhìn lên vong linh trên trời của Thánh Tổ Nhân hoàng đế”, về phần nội dung tội ác cụ thể thì không có gì. Tháng hai, giáng Doãn Tự làm Dân vương, bắt giam cầm. Tháng ba, hạ lênh đổi tên Doãn Tự là A Kỳ Na, nghĩa là chó. Tháng năm, hạ lênh đổi tên Doãn Tự là Tắc Tư Hắc, nghĩa là lợn. Đồng thời tuyên bố tội trạng của Doãn Tự, Doãn Đường, Doãn Nga, Doãn Đề trước nội ngoại thần công cùng quân dân Bát kỳ. Doãn Đường được dẫn giải từ tây bắc về Bảo Định, Ung Chính lệnh Trực Lệ tổng đốc Lý Phất “canh giữ”. Lý Phất tiếp đãi Doãn Đường “không bằng loài chó lợn”, Doãn Đường luôn ngất xỉu trong những lúc thời tiết nóng bức. Ngày hai mươi tư tháng tám, Doãn Đường chết ở nơi giam giữ. Mùng một tháng chín, Doãn Tự cũng qua đời. Chỉ cách nhau có sáu ngày, hai anh em đã không còn.
Doãn Tự, Doãn Đường chết không rõ ràng. Thời đó, có người nghi ngờ Lý Phất đã theo ý vua mưu sát Doãn Đường, vì Ung Chính từng muốn Lý Phất “tuỳ ý hành sự”. Ung Chính trách cứ Lý Phất không nói rõ bệnh tình của Doãn Đường, đã hại chết Doãn Đường. Lý Phất có miệng mà khó nói, đành chịu đen đủi. Có điều, đó chỉ là sơ suất nhỏ. Huống hồ, Ung Chính có cách giải thích của Ung Chính, dù là họ đã bị “giết ngầm” (quỷ đến đòi mạng). Còn như có bị giết ngầm hay không, có quỷ mới biết(2).
Đối với cuộc đấu tranh giữa Ung Chính và Doãn Tự, chúng ta rất khó nói ai đúng ai sai.
Bình tâm mà xét, Ung Chính và Doãn Tự đều đủ tư cách làm hoàng đế. Họ đều có lý tưởng, có chí hướng, có năng lực. Năng lực của Ung Chính có thể chứng minh bằng chính tích mười ba năm chấp chính của mình. Những chính tích đó nói rõ, Ung Chính là hoàng đế có tài có khả năng, đó là cơ sở để Khang Hy tạo dựng thịnh thế được tiếp tục và sau này con của Ung Chính là Càn Long kéo dài thêm sáu mươi năm nữa. Năng lực của Doãn Tự có thể chứng minh ở chỗ Ung Chính. Sau khi lên ngôi, nhiều lần Ung Chính đã nói: “Tài năng làm việc của Doãn Tự hơn anh em nhiều, trẫm rất quý”, “luận về tài năng và phẩm hạnh, các đại thần không ai sánh kịp”. Không cần nghe Doãn Tự nói, chỉ cần nhìn Doãn Tự ra sức chính trị tệ nạn, đủ thấy Doãn Tự không phải nhân vật nhàn rỗi.
Tiếc là hoàng đế chỉ có một và không thể luân phiên. Vì vậy, quan hệ giữa họ chỉ có thể là bốn chữ: Anh sống tôi chết. Bất kể là ai làm hoàng đế đều sẽ không tín nhiệm đối phương, đối phương cũng sẽ không phục. Nếu Doãn Tự làm hoàng đế, không bao giờ Doãn Tự nể tình, nhẹ tay với Ung Chính! Trong cuộc đấu tranh giành quyền lực, nhất là quyền lực tối cao - đấu tranh quân quyền, xưa nay chưa hề có cái gọi là nhân từ, nể mặt. Năm đó, Lý Thế Dân giết Lý Kiến Thành, Lý Nguyên Cát, chẳng phải anh em tương tàn sao? Vì sao không thấy ai đưa chuyện? Rõ ràng, chỉ vì “giết em” mà chê trách Ung Chính là không công bằng.
Nhưng, chúng ta vẫn nên đồng tình với Doãn Tự, vì Doãn Tự quá oan uổng.
Cuối cùng thì Doãn Tự phạm tội ác tày trời gì? Đến đoạn hai đời hoàng đế cha con là Khang Hy và Ung Chính phải đả kích và áp chế? Giết người phóng hoả? Tham ô nhận hối lộ? Mưu tài hại mệnh? Giết vua đoạt quyền? Đều không phải. Tội ác duy nhất của Doãn Tự là đức tài gồm đủ, được lão vương tán thưởng, quần thần ủng hộ, nhiều a ca quý mến, trở thành người xuất sắc nhất trong các hoàng tử, từ đó Khang Hy mới coi là cái dằm trong thịt, Ung Chính mới coi là cái gai trong mắt. Vì vậy, chẳng ngại gì gọi tội của Doãn Tự là “tội có tài có đức”, hoặc là “tội tài đức xuất chúng”.
Điều không này không có gì là ly kỳ. Cây mọc trong rừng, gió thổi tất sẽ đổ. Tiếc là gió lại đến từ cha, anh, khiến mọi người phải thương tâm và cha, anh lại đều là hoàng đế, điều đó không chỉ làm mọi người phải lạnh gáy mà còn làm mọi người phải kinh hoàng. Thực tế thì vào những năm cuối của Khang Hy hoặc thời kỳ đầu của Ung Chính, Doãn Tự làm người rất khó khăn, đúng cũng không đúng, không đúng cũng không đúng, không rõ phải bắt đầu từ đâu. Như vậy Ung Chính giao cho Doãn Tự xét án, nên chặt một chút hay nên rộng một chút, rất khó khăn. Rộng một chút là bán nguyên tắc, mua lòng người; chặt một chút, làm người khác mang tội hà khắc, cay nghiệt, là có dụng ý khác. Dưới thời Khang Hy cũng vậy. Làm việc hăng hái một chút, bị coi là hiếu thắng phô trương, muốn có hư danh; tiêu cực một chút, bị coi là lòng dạ bất mãn, lười biếng lãn công. Có thể, ngay từ đầu, Doãn Tự phải ra vẻ như là ngốc nghếch, nhưng chắc gì đã được Khang Hy hài lòng. Khang Hy sẽ nói, vì sao trẫm lại nuôi dạy một thằng con ngu xuẩn như vậy!
Về Đầu Trang Go down
https://triamquan.forumvi.com/
Tri Âm Quán
Thành Viên Tích Cực
Thành Viên Tích Cực
Tri Âm Quán


Tổng số bài gửi : 6340
Reputation : 2
Join date : 31/07/2013
Đến từ : Thị Trấn Chũ

Luận Anh Hùng - Page 2 Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Luận Anh Hùng   Luận Anh Hùng - Page 2 EmptyWed Nov 19, 2014 3:03 pm

Thực tế, Ung Chính đã thừa kế nguồn mạch phòng ngừa, nghi kỵ đối với Doãn Tự của Khang Hy. Khang Hy từng nói, Doãn Tự “bè đảng thậm ác, cực kỳ nguy hiểm, trẫm luôn lo sợ”; còn đảng của Doãn Tự bất chấp lời cảnh cáo, vẫn đương đầu bảo vệ, giúp Doãn Tự có được vốn liếng về chính trị, rồi khi có thời cơ sẽ phát động chính biến hoặc tranh đoạt hoàng vị lúc Khang Hy chỉ định tìm người thừa kế. Từ đó, Khang Hy nói, Doãn Nhưng “luôn mất lòng người” còn Doãn Tự “luôn được lòng người”, “người này (Doãn Tự) hiểm ác gấp trăm lần Nhị a ca (Doãn Nhưng)”.
Con người một khi bị nghi kỵ thì thực khó sống. Doãn Tự cảm thấy quá khó hiểu và do không nhẫn nhịn được nữa nên đã nói với Khang Hy: Nhi thần thật không biết phải làm người như thế nào, thà chịu ốm nặng cho xong. Ai ngờ Khang Hy càng thêm bực, coi đây là biểu hiện “đại gian đại tà” của Doãn Tự. Lý do là: Một Bối lặc nhỏ nhoi, cần gì phải giả bệnh! Đương nhiên, vì có suy nghĩ sai lầm, nếu không đã chẳng có những lời tấu “quá mức như vậy” vậy! Sau này, lúc Doãn Tự bị bệnh thương hàn, mạng sống nguy kịch, Khang Hy vẫn tỏ ra lạnh nhạt. Sau khi Doãn Tự bình phục, có thể Khang Hy đã thấy mình không phải, không giống người cha hiền từ, nên đã truyền dụ cho Doãn Tự, hỏi xem thích ăn gì; chỗ trẫm cái gì cũng có, nhưng không biết có hợp với con không, “nên không dám cho người mang đến”. Hoàng phụ tự xưng là “không dám” hoàng nhi đâu dám thừa nhận. Vì vậy Doãn Tự đã đến quỳ dưới Long môn, cầu xin được miễn dùng hai chữ “không dám”. Khang Hy lại không vui, trách Doãn Tự nhỏ nhen, hay nhiều chuyện. Khang Hy nói với các hoàng tử: “Doãn Tự vốn hay đa nghi, hay để ý tới những chuyện không đâu”, lần này lại “sinh chuyện, để mọi người biết, còn ra thể thống gì!”. Kỳ thực Doãn Tự không đa nghi, cũng không sinh chuyện thị phi. Là thần tử, nghe hoàng thượng nói “không dám”, ai mà chẳng giật mình, huống hồ Doãn Tự là người động một tí là bị quở phạt? Đương nhiên Khang Hy nói hai tiếng “không dám”, vị tất đã có ý gì đặc biệt. Nhưng nếu Doãn Tự không từ chối, e sẽ là thất lễ? Từ chối hay không từ chối đều không đúng, điều khúc mắc thực khó, nói thế nào cũng không đúng.
Xem ra, Ung Chính rất giống với Khang Hy về điểm này, chỉ khác là nghi kỵ sâu hơn, ra tay nặng hơn. Đúng vậy, anh em phải khác với cha con. Dận Chân từng nói, với sự “thần thánh” của phụ hoàng, vẫn phải “phòng điều gian ác của Doãn Tự, chưa thể có một ngày được yên”, bản thân có thể không đề phòng chăng? Có điều Ung Chính chưa có uy quyền như Khang Hy. Thêm nữa, bản thân lên ngôi chưa lâu, ngồi chưa ấm chỗ, đành phải cái gì nhịn được thì nhịn, cái gì nhường được thì nhường, cần ưu ái thêm. Nhưng nhẫn nại luôn có giới hạn, một khi bộc phát thì khó bề thu lại. Giống như việc cho vay nặng lãi, tiền cho vay càng nhiều, thời gian càng lâu, thì lợi tức khiến người ta phải giật mình. Ung Chính nhẫn tới mức không thể nhẫn được nữa, mới trừng trị Doãn Tự, trong lòng đã có đầy đủ kế sách hiểm độc. Rất dễ hiểu, khi Ung Chính hạ lệnh đổi tên Doãn Tự, Doãn Đường là A Kỳ Na, Tắc Hư Hắc thì nhất định mặt mũi đã dữ tợn, nghiến răng nghiến lợi, sát khí đằng đằng.
Ung Chính và Doãn Tự không phải là hai địch thủ trời sinh - tận lúc Khang Hy phế thái tử lần đầu, quan hệ giữa họ vẫn còn tốt. Lúc Doãn Tự bị thương hàn, Ung Chính còn quan tâm chăm sóc, nên đã bị Khang Hy trách phạt, coi là “cùng đảng với Doãn Tự”. Rõ ràng, nếu không có việc tranh đoạt ngôi vị, họ đã không trở mặt coi nhau là thù địch. Và một khi đã trở mặt thì không còn gì là tình cốt nhục anh em. Còn lại chỉ là đấu tranh, thù hận một sống một chết. Mọi cuộc đấu tranh nơi cung đình trong lịch sử đều là như vậy. Đương nhiên Ung Chính và Doãn Tự cũng không phải ngoại lệ.
Anh em là vậy, quần thần cũng thế! Từng có một sủng thần đã phải là quỷ dữ dưới đao của Ung Chính, trước khi Doãn Tự bị tiêu diệt. Sủng thần ấy là Phủ Viễn đại tướng quân, tổng đốc Xuyên Thẩm, Niên Canh Nghiêu.
Chú thích


(1) Sau khi Nhân Thọ hoàng thái hậu qua đời, để an ủi linh hồn hoàng tỉ ở trên trời, Ung Chính tùng phong Doãn Đề là Quận vương, nhưng sau đó lại giáng xuống Bối tử (Tác giả).
(2) Cũng có người cho rằng có nghĩa khác. Xin tham khảo cuốn “Ung Chính truyện” của Phùng Nhĩ Thái, trang 133 - 144, NXB Nhân dân, năm 1985.
Về Đầu Trang Go down
https://triamquan.forumvi.com/
Tri Âm Quán
Thành Viên Tích Cực
Thành Viên Tích Cực
Tri Âm Quán


Tổng số bài gửi : 6340
Reputation : 2
Join date : 31/07/2013
Đến từ : Thị Trấn Chũ

Luận Anh Hùng - Page 2 Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Luận Anh Hùng   Luận Anh Hùng - Page 2 EmptyMon Nov 24, 2014 10:26 am

DỊCH TRUNG THIÊN
LUẬN ANH HÙNG
UNG CHÍNH
- 3 -
Quần thần như vậy
Niên Canh Nghiêu - một đại sủng thần vào những ngày đầu Ung Chính lên ngôi, được sủng ái hết cỡ. Lúc ở đại doanh tây bắc, Niên Canh Nghiêu tiêu tiền như nước, Ung Chính đáp ứng hết; Niên Canh Nghiêu trực tiếp bổ nhiệm các quan, Ung Chính chuẩn y hết! Trên thực tế, Niên Canh Nghiêu là tể tướng không có tướng vị, là Tây Bắc vương không có tước vương, tháng mười hai năm thứ nhất (năm 1723), Ung Chính ban tặng Niên Canh Nghiêu “đoàn long bổ phục”, Niên Canh Nghiêu được yêu mà thấy sợ, luôn hốt hoảng không yên, vì “không một đại thần nào dám dùng”. Ung Chính đồng ý, nói: “Cứ dùng đi! Đã có tiền lệ từ thời Thánh Tổ hoàng đế”. Việc quân ở Thanh Hải báo tin vui, Ung Chính hưng phấn vô cùng, liền gọi Niên Canh Nghiêu là “ân nhân”. Ung Chính còn nói: “Lần này khanh đã hết lòng, trẫm đã ngẩng mặt nhìn trời đất thần minh, trẫm không biết mình phải thương khanh như thế nào?”. Ung Chính còn yêu cầu “đời đời con cháu và thần dân thiên hạ” phải cùng mình một lòng một dạ hàm ân Niên Canh Nghiêu, còn nói: “Nếu có chút khác lòng, đều không phải là con cháu của trẫm; nếu có chút khác lòng, đều không còn là thần dân trong triều của trẫm”. Lại nhìn trời mà thề, lại dặn dò con cái, lại huấn thị thần dân, Ung Chính ân sủng Niên Canh Nghiêu đã đến cực điểm.
Còn một sủng thần được sủng ái đặc biệt nữa là Long Khoa Đa. Long Khoa Đa lúc đầu chỉ là thượng thư, địa vị không cao. Chỉ vì tuyên chiếu có công, nên chỉ trong vòng một đêm đã được thăng tiến, là tổng lý sự vụ đại thần, có thể ngang hàng với Liêm Thân vương Doãn Tự, Kháp Thân vương Doãn Tường, đại học sĩ Mã Tề. Doãn Tự và Mã Tề là đối tượng lợi dụng, Doãn Tường và Long Khoa Đa mới là đối tượng dựa dẫm. Cho nên, sau khi Khang Hy tạ thế được chín hôm, Ung Chính ban tặng Long Khoa Đa hàm công tước, hai hôm sau lại hạ lệnh gọi là “cậu”. Nói về quan hệ thân thích, Ung Chính và Long Khoa Đa có quan hệ là cậu cháu (Long Khoa Đa và hoàng hậu Đồng Giai Thị của Khang Hy là anh em đằng ngoại). Nhưng hoàng gia khác với dân gian, quan hệ cậu cháu phải được hoàng đế thừa nhận mới được tính. Cho nên chức vị này cũng coi là được phong, không phải là đương nhiên mà có. Ung Chính còn đội lên đầu Long Khoa Đa chiếc mũ cao ba đỉnh: “Trung thần của Thánh Tổ hoàng đế, công thần của trẫm, lương thần của đất nước”, còn nói Long Khoa Đa là “đại thần chân chính hiếm hoi, siêu quần nổi trội bậc nhất của thời đại”. Ở triều Khang Hy, Long Khoa Đa không có cống hiến nổi bật, sao được gọi là “trung thần của Thánh Tổ”? “Lương thần của đất nước” cũng không có nhiều căn cứ, tôn vinh là “đại thần hiến hoi” càng không biết nói từ đâu. Nói tới cùng, chỉ có câu nói “là công thần của trẫm” là đúng, vì Long Khoa Đa có công dựng nên ngôi vị hoàng đế. Để ghi công cho công thần, hoàng đế đã không tiếc bao lời hay ý đẹp. Ung Chính đúng là một “hoàng đế hiến hoi” bậc nhất xưa nay.
Nhưng hai vị Niên, Long bị hạ bệ cũng là việc hiến hoi. Tháng tư năm thứ mười một (năm 1725), Niên Canh Nghiêu vô duyên vô cớ bị cách chức Xuyên Thiểm tổng đốc và Phủ Viễn đại tướng quân, đi nhậm chức Hàng Châu tướng quân. Tháng bảy bị cách hàm tướng quân. Tháng chín bị bắt giam vào ngục. Tháng mười hai, với tám tội lớn: Đại nghịch, lừa dối, vượt quyền, ngông cuồng, chiếm đoạt, tham lam, rút của công, khe khắt, gồm tám mươi hai khoản, hạ lệnh tự tận. Long Khoa Đa sau khi bãi quan lần này đến lần khác đã bị bắt vào tháng sáu năm thứ năm (năm 1727). Tháng mười, với sáu tội lớn, đại bất kính, lừa dối, thân loạn triều chính, gian đảng, bất pháp, tham lam, gồm bốn mươi mốt khoản, bị phán xử tù chung thân, và tháng sáu năm sau đã chết tại nhà giam. Hai vị quyền thần sủng thân hiển hách một thời đã phải tan cửa nát nhà, thân bại danh liệt trong một khoảnh khắc, ngay cả những người bàng quan cũng phải kinh hoàng thất sắc, vô cùng kinh ngạc.
Cũng vậy, việc xử trị Tiền Danh Thế cũng khiến mọi người kinh ngạc và thấy khó hiểu. Tiền Danh Thế tự Lượng Công, người Vũ Tiến, Giang Nam, cùng trúng cử với Niên Canh Nghiêu vào năm Khang Hy thứ ba mươi tám (năm 1699), coi là “đồng niên”. Lần này thành “đồng án” với Niên Canh Nghiêu. Tiền Danh Thế phạm tội vì đã làm thơ tâng bốc Niên Canh Nghiêu. Niên Canh Nghiêu công cao cái thế, quyền nghiêng triều dã, không ít người đã tâng bốc, trong số đó có cả hoàng đế Ung Chính. Nhưng Ung Chính có thể trở mặt không nhận người, Tiền Danh Thế thì không, chỉ có thể để mặc Ung Chính xử trí, và cách xử lý của Ung Chính lại là kiểu “tính toán xuất thần”. Tiền Danh Thế cho rằng, trừng phạt phải có tính đối xứng, người sợ đau thì cho đánh vào mông; người sợ chết thì cho chặt đầu; người thích tiền thì cho tịch biên gia sản; người thích leo cao thì bãi quan chức. Những cách trừng phạt này đều không thích hợp với văn nhân. Điều quan trọng nhất với văn nhân là thanh danh. Bãi quan của một người, người đó sẽ nói, ta cũng đang muốn ẩn cư ở sơn lâm; chặt đầu một người, người đó sẽ nói, ta cũng đang muốn ghi danh thiên cổ; đầy ra Ninh cổ Tháp, đảo Hải Nam, người đó sẽ nói, ta hẳn sẽ có nhiều tài liệu để làm thơ, như thế, chẳng phải đã tác thành cho người đó sao?
Biện pháp của Ung Chính là để tiếng xấu lan truyền rộng, tội danh còn lại thiên cổ, suốt đời không ngóc đầu lên được. Đồng thời với việc hạ lệnh cách chức Tiền Danh Thế, đuổi về quê quán, Ung Chính còn thêm: 1. “Ban” cho mấy chữ, 2. Lệnh các quan kinh thành xuất thân cử nhân tiến sĩ làm thơ đưa tiễn. Hoàng đế ban chữ cho quan viên là việc từ xưa đã có. Quan viên được “ngự bút mực ngọc” là được ân sủng và vinh hạnh lớn lao, chữ được làm thành biển, treo ở trước cửa hoặc ở gian chính, tổ tiên được thơm lây. Quan viên bị giáng, đồng liêu tiễn đưa, cũng là lệ thường từ xưa, để tỏ rõ “người còn tình còn, người mất tình vẫn còn”, chưa đến nỗi “người vừa đi thì trà đã lạnh”. Như vậy, về mặt tư tưởng là tương đối tốt, về quan điểm tư tưởng cũng tương đối gần gũi. Còn việc làm thơ đưa tiễn, nếu không phải là mấy câu oán than thì cũng là những lời an ủi, giống như “Đừng lo đường tới không tri kỷ, Thiên hạ ai người chẳng biết anh”, hoặc “Khuyên chàng hãy cạn chén mời, Dương quan ra khỏi ai người cô tri!”. Nhưng lần này lại rất “xuất thần”. Ung Chính đã ban cho bốn chữ “Danh giáo tội nhân”, nho sinh thường lấy việc giữ gìn danh giáo làm nhiệm vụ, làm sinh mạng, Ung Chính gọi Tiền Danh Thế là “Danh giáo tội nhân”, ngang như muốn đòi mạng về mặt tinh thần, tâm lý, cũng như vu khống một thanh quan thành ô lại, tiết phụ trở thành con điếm. Vấn đề là ở chỗ, người khác bị vu khống còn có thể biện giải, còn Tiền Danh Thế thì không. Không chỉ không thể biện giải mà còn phải treo bốn chữ đó ngay trước cửa, để mọi người đến xem, chỉ chỉ trỏ trỏ, bàn luận và cười nhạo. Còn như thơ đưa tiễn của các quan kinh thành chỉ có thể là những lời phê phán, châm chọc, trong đó Ung Chính thích nhất là bài của Trần Vạn Sách “Danh thế dĩ đồng Danh Thế tội, Lượng Công bất dị Lượng Công gian”. Ý muốn nói, Tiền Danh Thế cùng tội với Đới Danh Thế (người này mắc tội vì viết một thiên tự văn), Tiền Lượng Công cùng gian như Chu Lượng Công (Niên Canh Nghiêu tự là Lượng Công), hơn bốn trăm bài thơ phê phán, châm biếm được soạn thành một tập thơ, do Tiền Danh Thế lo việc khắc in, phân phối đến học đường các tỉnh, hòng răn đe loại văn nhân vô sỉ. Điều này chăng khác gì mượn Tiền Danh Thế tự bạt vào tai mình, tự mắng vào mặt mình, tự móc tiền ra cho người khác chửi mình. Nghe nói, lúc Tiền Danh Thế rời khỏi kinh thành có hơn một ngàn viên quan vác biển tiễn đưa, bốn trăm tám mươi người làm thơ sỉ nhục, hàng vạn quần chúng vây xem. Sĩ diện của văn nhân mất sạch, đúng là “tri thức sa đoạ”.
Việc làm của Ung Chính có phần thái quá. Con người Tiền Danh Thế có thể là “văn nhân vô sỉ”. Nghe nói, thường ngày phẩm hạnh Tiền Danh Thế không tốt, trong lúc tu sửa sử Minh đã lấy cắp bản thảo của thầy giáo mình là Vạn Tư Đồng. Lúc Vạn Tư Đồng tạ thế, lại nhân việc sắp xếp tang lễ cho thầy đã cướp trắng chục vạn bản ràng thư của thầy. Nhưng hành vi lần này chưa hẳn đã vô sỉ hơn. Huống hồ Tiền gia là thư hương môn đệ, danh môn vọng tộc, năm đời bảy tiến sĩ, nổi tiếng ở Vũ Tiến, Giang Nam. Bản thân Tiền Danh Thế cũng xuất thân từ “Thám hoa lang” thế mà phải treo tấm biển có bốn chữ “Danh giáo tội nhân” trước cửa dinh thự tổ tiên, không chỉ tổ tiên bị nhục, bản thân bị mất mặt, mà con cháu cũng không ngóc đầu lên được. Sĩ có thể giết không thể chịu nhục, Tiền Danh Thế nhục nhã đến nhường ấy thực sống không bằng chết.
Đương nhiên, ít nhiều tội danh là do Tiền Danh Thế tự chuốc lấy, ai bảo lại đi ôm chân thối của Niên Canh Nghiêu? Tiền Danh Thế cần phải tiếp nhận những lời giáo huấn. Là văn nhân, nếu dấn thân vào chốn quan trường thị phi thì khó giữ được thanh danh tiết tháo của mình. Nên tốt nhất là văn nhân hãy tránh xa những gì là công danh lợi lộc, vậy mới có thể giữ được sự yên tĩnh và thanh bạch của đời mình và không cần đến cách giáo huấn như của Ung Chính. Người xưa nói, đánh người không đánh vào mặt, làm thương người không làm thương tâm. Ung Chính trừng trị Tiền Danh Thế bằng cách đánh vào mặt, làm thương tâm, người ta không thể tâm phục điều đó, chỉ cảm thấy Ung Chính quá cay nghiệt, khắt khe.
Đúng là Ung Chính quá khắt khe. Ung Chính thích chụp mũ người khác, thích chính trị người khác bằng cách đánh thẳng chiếc mũ đó vào mặt. Như việc Ung Chính tự tay đề chữ trên bia mộ của A Linh A và Quỹ Tự là phe đảng của Doãn Tự. Văn bia của A Linh A là “Bất thần bất đệ bạo hãn tham dung A Linh A chi mộ”, bia mộ của Quỹ Tự là “Bất trung bất hiếu âm hiểm nhu nịnh Quỹ Tự chi mộ”. Ngay người đã chết Ung Chính cũng không tha thì đâu có bỏ qua cho Tiền Danh Thế? Vì vậy, Ung Chính không chỉ đề biển mà còn lệnh cho tri phủ Thường Châu, huyện lệnh Vũ Tiến cứ mùng một, mười lăm hàng tháng đến xem tình hình treo biển ở cửa dinh thự thế nào. Cũng tức là muốn nêu sự sỉ nhục của Tiền Danh Thế như đinh đóng cột, còn muốn đinh đóng cho đến chết.
Kỳ thực, chưa cần nói tới “tội nhân” như kiểu Tiền Danh Thế hoặc “gian thần” kiểu như A Linh A, mà ngay cả số quan viên phạm sai lầm nhỏ, Ung Chính cũng không buông tha. Sau khi đề đốc (tư lệnh quân khu tỉnh) Trương Diệu Tổ bị cách chức, còn bị phạt ra dốc sức trước ba quân. Trương Diệu Tổ dâng tấu tạ ân, nói: “Không dám mang trách nhiệm lãnh binh”. Ung Chính có lời phê: “Ngươi đã phụ bỏ trách nhiệm của lãnh binh, còn mặt mũi nào để nói câu đó? Lại có sai sót, còn có cách gì để sống trên đời này nữa? Lúc trẫm viết mấy chữ này, luôn thấy buồn vì bút son cứ tắc tắc không thông, “chưa biết ngươi có suy nghĩ gì”. (Một phạm quan mông muội được xử lý khoan dung, dâng sớ tạ ân cũng là thường tình). Chỉ vì nói năng không hợp ý, liền bị như một bạt tai, đành nhận mình là đen đủi. Còn một viên quan nữa là Mao Khắc Minh cũng rất đen đủi. Ung Chính bổ nhiệm Mao Khắc Minh làm giám đốc hải quan, Khắc Minh dâng sớ tạ ơn, do hưng phấn quá mức, nên đã cầu xin Ung Chính “cho thêm lời dạy sáng suốt”. Nào ngờ, như bị dội một gáo nước lạnh, Ung Chính nói, trẫm đã cất nhắc ngươi đến chức đô thống, ngươi còn muốn chỉ thị gì nữa? “Nếu làm việc với cả lương tâm, thì tiền không quan trọng bằng sinh mạng và thể diện”, với hai câu nói “ngôn ngữ thô tục”, người có thể làm được gì thì làm. Không làm được thì có tác dụng gì “so với ngàn vạn câu nói văn hoa mĩ miều của bạn?”. Mao Khắc Minh tự chuốc lấy sự không vui, chỉ còn biết cảm thán về Ung Chính - một ông chủ rất khó hầu hạ.
Thậm chí, ngay cả một người được Ung Chính tín nhiệm trọng dụng, một khi có sơ suất cũng bị ngọn bút đỏ trong tay Ung Chính châm cho lòng dạ phải chảy máu. Tháng mười hai năm thứ tư (năm 1726), chiêm sự Trần Vạn Sách (chính là người làm thơ châm chọc Tiền Danh Thế, được Ung Chính thích thú và thưởng cho hai mươi lạng vàng) về tới quê. Muốn cho ra vẻ Trần Vạn Sách đã mượn và dùng kiệu, nghi trượng của đề đốc lục lộ Phúc Kiến Đinh Sĩ Kiệt (tương đương tư lệnh lục quân). Sau khi biết tin, Ung Chính rất tức giận, cho rằng Đinh Sĩ Kiệt đã nịnh bợ và giao Đinh cho bộ Hộ nghị xử. Đinh Sĩ Kiệt là quan cao cấp hàng nhất phẩm, còn Trần Vạn Sách chỉ là quan tứ phẩm, việc gì Đinh Sĩ Kiệt phải nịnh bợ? Chỉ là nể mặt mới cho Trần mượn kiệu và nghi trượng. Vì vậy, Đinh Sĩ Kiệt mới dâng sớ để biện hộ cho mình.
Nhưng lại bị Ung Chính giáng cho một đòn như sét đánh ngang tai, lại là “cực kỳ vô sỉ”, lại là “táng tận thiên lương”, mắng đến đoạn không ngẩng đầu lên được. Đinh Sĩ Kiệt tự cho mình là thanh bạch, khổng dám lừa dối, không dám săn đón, bút đỏ của Ung Chính đã phê, ngươi đúng là kẻ dối trá, săn đón. Đinh Sĩ Kiệt nói, xưa nay chưa hề phụ hoạ với cấp trên, Ung Chính lại phê, ngươi không phụ hoạ với cấp trên, ngươi chỉ biết phụ hoạ với khâm sai, với quan kinh thành! Cuối cùng thì Ung Chính đã phê:
Điều hiện ngu tiện tiễu nhân lộ rõ, bốn chữ ti tiện vô sỉ đáng để răn đe, khiến người ta không thể không nhổ nước bọt!”. Đinh Sĩ Kiệt không phải cho Trần Vạn Sách mượn kiệu sao? Thế nào là “cực kỳ vô sỉ”, “táng tận thiên lương”? Chẳng phải chỉ tự biện bạch mấy câu sao thế nào là ti tiện vô sỉ, khiến người ta phái nhổ nước bọt?”. Ung Chính đã quá cứng rắn!
Nhưng mười mấy hôm sau, Ung Chính lại phê vào bản tấu của Đinh Sĩ Kiệt báo về tình trạng kho tàng ở Phúc Kiến: “Xem tấu, trẫm rất vui! Mọi thứ vẫn như cũ, không giấu giếm, vẫn như lần đầu báo trẫm. Thôi khỏi! Trẫm vui mừng vì ngươi còn biết lập chí!”. Sau này, Ung Chính còn phê vào bản tấu tạ ân của Đinh Sĩ Kiệt: “Trẫm vì ngươi xưa nay không giấu giếm, nên muốn ngươi trước sau như một”. Lúc này, Đinh Sĩ Kiệt đã biến thành “xưa nay không giấu giếm”, “lập chí đáng vui”. Rõ ràng là lời phê trước, sau có phần khác nhau, thật khó hiểu.
Điều khó hiểu nhất là “tính toán xuất thần” với Dương Danh Thời. Dương Danh Thời vốn là thượng thư bộ Lại, tổng đốc Vân Quý kiêm tuần phủ Vân Nam, tháng ba nhuận năm thứ năm (năm 1727), bị miễn chức, tạm thời thay tuần phủ Vân Nam. Khi đó, Dương Danh Thời dâng tấu xin dùng một số ngân lượng dư ra trong ngành dịch vụ muối để tu sửa kênh Tuấn Nhĩ Hải. Đó là việc tốt lợi nước lợi dân, không hề sai lầm, nhưng Ung Chính đã cười nhạt và hạ lệnh, Dương đại nhân đã quan tâm quốc kế dân sinh, quyết tâm tạo phúc cho địa phương, vậy xin đại nhân cứ bỏ tiền ra mà tu sửa. Đời ngài sửa chưa xong, thì con cháu ngài sửa tiếp, mong sao con con, cháu cháu các ngài chưa đến đoạn cùng kiệt. Sau này, Chu Cương - người kế nhiệm tuần phủ Vân Nam, tấu báo ngân lượng trong kho phiên đã rỗng không. Ung Chính nói, tiền lương rỗng không là việc của Thường Đức Thọ (Vân Nam phiên ty). Có điều Dương Danh Thời thân là tuần phủ lại không cử báo, hẳn là vui lòng chịu trách nhiệm thay Thường Đức Thọ đây! Tốt thôi, vậy Dương Danh Thời phải bồi thường khoản tiền đó, không liên quan đến Thường Đức Thọ. Người có trách nhiệm vô trách nhiệm, không cử báo lại là người có tội, trong thiên hạ này làm gì có đạo lý đó? Lần này, Ung Chính “tính toán” thật xuất thần, xuất thần tới mức kỳ quặc cổ quái.
Những sự “tính toán xuất thần” của Ung Chính luôn bị mọi người coi là quá khắt khe. Ung Chính trị lý quá nghiêm, khiến mọi người phải lạnh gáy. Tuần diêm ngự sử Trường Lô là Trịnh Thiền Bảo, người nổi tiếng vẫn chưa được trọng dụng. Nhưng vì chưa kết thúc công việc, nên Ung Chính để Trịnh Thiền Bảo iưu nhiệm thêm một năm. Trịnh Thiền Bảo dâng sớ tạ ân, Ung Chính đã cho một đòn giáng thẳng vào mặt. Ung Chính phê: “Trò của ngươi nay đã lộ, cẩn thận đấy!”. Tính mạng ngươi và cả nhà ngươi đang ở đây. Ngươi thấy trẫm nói khống để doạ ai chưa? Đã xử lý ai biết mà sửa chưa? Khoan dung với ai biết mà không sửa chưa? Hãy mở to mắt, tĩnh sửa lòng mình, đừng đem ân đức mưa móc rưới rải trên đống phân, kẻo phải hối tiếc”. Lời lẽ thực ghê gớm, khiến cho Trịnh kia hồn xiêu phách lạc.
Vì vậy, không ít người cho Ung Chính ít ân đức, khắt khe, buồn vui thất thường, người khác lại nói, Ung Chính bạo ngược cùng cực, tâm địa hẹp hòi. Kỳ thực không phải thế. Ung Chính không phải người động một tí là giận, cũng không phải gặp người là mắng. Phần sau sẽ còn nói tới. Ung Chính mắng người, dạy người, chính trị người, nhưng cũng biết thương, biết yêu, biết khoan dung người khác. Ung Chính khắt khe nhưng ân không ít, không buồn vui thất thường. Người bị Ung Chính mắng chửi, có người mắng nhầm (như Đinh Sĩ Kiệt), có không ít người thật đáng mắng. Chỉ khác là, ở với một hoàng đế khác thì không nhất định sẽ bị mắng.
Về Đầu Trang Go down
https://triamquan.forumvi.com/
Tri Âm Quán
Thành Viên Tích Cực
Thành Viên Tích Cực
Tri Âm Quán


Tổng số bài gửi : 6340
Reputation : 2
Join date : 31/07/2013
Đến từ : Thị Trấn Chũ

Luận Anh Hùng - Page 2 Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Luận Anh Hùng   Luận Anh Hùng - Page 2 EmptyMon Nov 24, 2014 11:35 am

Ung Chính hận nhất là những ai lòng dạ bất trắc. Tháng mười một, năm thứ mười một (năm 1724), tuần phủ Kim Thế Dương vừa được điều khỏi Quý Châu, thì nhiều tội ác đã bị bố chánh sứ Lưu Sư Thứ tố cáo lên. Lúc cấp trên còn tại nhiệm thì nịnh bợ ton hót, khi vừa rời khỏi lại bắt đầu kể xấu, đó là điều Ung Chính ghét nhất. Ung Chính liền cho một đòn phủ đầu “bản tấu quá xảo trá”. Sau đó mới hỏi: Ngươi nói Kim Thế Dương nhiều sai lầm, sao lúc đó không tấu thực lên? Lúc này, người ta đã tính toán mọi chuyện đâu vào đấy, ngươi còn lằng nhằng gì nữa, rõ là “biến công người khác thành lợi của mình, thật đáng xấu hổ!”. Và có lời cảnh cáo: Là thần tử của đất nước, lẽ nào có thể dùng mánh khóe đó để đối xử với vua cha? Tháng năm năm thứ bảy (năm 1729), Giám đốc Quỳ Quan, Tứ Xuyên là Long Sinh tấu báo tình hình địa phương, còn nói đã cử người đi trinh thám xem xét, Long Sinh cũng bị Ung Chính cho một đòn phủ đầu: “Việc này liên can gì đến ngươi? Có điều tấu báo cũng được”, “cử người đi xem xét như vậy đúng là nhiều chuyện”, “nhiều chuyện như vậy quả chẳng biết gì”. Vì chức vị của Long Sinh là thuế vụ, không phải chính vụ. Nếu không là tìm sai sót của người khác cũng là muốn lấy lòng Ung Chính. Nào ngờ, Ung Chính đã thấy rõ mọi chuyện. Vì vậy, Ung Chính đã cảnh cáo Long Sinh: “Nếu ngươi còn phạm pháp, phụ ân thì đừng hòng bảo toàn cái đầu, coi chừng!”.
Thực ra, từ lâu Ung Chính đã báo cho biết: “Đừng coi trẫm là hoàng đế vô vị!”. Ung Chính tự thấy mình không dễ bị lừa gạt và cũng hận nhất người khác lừa dối mình. Ung Chính từng nói thế này: “Hai chữ dư luận không chỉ không đủ bằng chứng, và cũng không nên nghe”. Nếu có dư luận, một người tự rạch mặt để làm việc công, là không đáng, còn lời nói từ miệng các ngài giỏi giang lại đều là xuất thần. Ngoài ra, một viên quan mới đến nhiệm sở thì nhất định sẽ nói tình hình địa phương là vô cùng quan trọng. Giai đoạn sau lại sẽ báo cáo dân tình tốt, địa phương yên, lại trị đúng mức. Từ lâu, Ung Chính đã nhìn thấu mấy kỹ xảo đó, nên mới xác định rõ ràng: “Chỉ đáng tin một nửa”. Đồng thời Ung Chính cũng răn ngừa các quan, sau này nên ít có những trò đó. Mấy chiêu này của các vị “thể nào trẫm cũng biết, làm sao có thể che được tai mắt thiên hạ!”, tốt nhất là phải thành thực, “ít nói là lợi nhỏ để tư túi, e không thoát khỏi sự giám sát của trẫm”.
Nhưng những kẻ lòng dạ bất lương lại luôn luôn không chịu ở yên. Lúc Lý Phất là biện lý vận chuyển lương thực ở Thiên Tân, vì bán số thóc đổi màu ở trong kho nên dôi ra được năm ngàn lạng. Một số kẻ muốn bỏ số ngân lượng đó vào quỹ riêng của bộ môn, nhưng Lý Phất được điều về làm tuần phủ Quảng Tây, chúng cho chuyển số tiền trên về nhà Lý Phất, để người nhà Lý Phất chuyển tiền đến Quảng Tây, làm tang vật vu tội Lý Phất. Ung Chính thấy rõ mọi chuyện nên đã nói với Lý Phất: “Mọi chuyện trẫm sẽ không truy cứu, quá tầm thường! Hắn đã đưa tới nhưng trẫm đã hiểu tất cả, ngươi giữ số tiền lại để dùng vào việc công. Thế là kế hoạch của chúng đã lộ. Thật buồn cười!”. Một sự kiện suýt trở thành án oan, thành bi kịch đã được Ung Chính biến thành kịch vui như vậy.
Vì vậy, lần nữa Ung Chính lại nhấn mạnh: “Trước đây trẫm thường lấy hai chữ chân thực để gìn giữ được lâu dài”. Không được dối trên lừa dưới, vu hãm người khác, không được nhân dịp lấy hay, nịnh bợ lấy lòng. Tổng đốc đường sông Sơn Đông, Hà Nam là Chu Tảo rất thích phù phiếm, luôn báo cáo với Ung Chính “tình hình rất tốt”. Ung Chính có lời phê: “Xem ra ngươi chưa nắm được điều cơ bản, gốc rễ, chỉ biết mấy chi tiết phù phiếm!”. Và yêu cầu Chu Tảo sau này nên làm những việc thiết thực, ít làm những chuyện vụn vặt. Thự lý Giang Nam, tổng đốc Phạm Thời Dịch tấu báo Giang Nam vui mừng vì có tuyết rơi đầu mùa, văn chương tô vẽ như gấm như hoa, lại bị Ung Chính chỉnh cho là không biết thể tình vua cha. Ung Chính nói: Ngày trẫm xử lý trăm vạn, cuối năm sự việc còn nhiều hơn, “lấy đâu ra thời gian để xem những bài văn mộ khách viết nên, làm gì được vậy!”. Niên Hy Nghiêu là Niên Canh Nghiêu, được thăng nhiệm tuần phủ Quảng Đông vào năm Ung Chính thứ sáu. Để tỏ rõ lòng trung, Niên Hy Nghiêu dâng sớ nói, theo lệ nha môn tuần phủ Quảng Đông hàng năm thu “tiết lễ” của thuộc hạ chừng năm vạn ngân lượng. “Nô tài xin tuân lời thánh huấn, cự tuyệt hoàn toàn”. Ung Chính có lời phê: “Đó là việc vụn vặt, trẫm cũng không hỏi, không quản”, Ung Chính nói, là đốc phủ luôn thích những việc có tiếng tăm. Bề ngoài thì một đồng cũng không lấy, kỳ thực chỉ cần một lúc thôi đã vớ lấy vớ để, được càng nhiều càng tốt. Cho nên, “những trò bày vẽ thế này đều không được việc!”. Các ngươi cũng “không cần vờ vĩnh trước mặt, chỉ cần lấy lương tâm mà xét, nghĩ thật kỹ về hai chữ lợi hại để trước mặt, tìm cách làm viên quan tốt là được”. Tóm lại, ít nói những lời hay đẹp, cũng không cần vờ làm bộ mặt thật thà, “sớm muộn gì trẫm cũng sẽ biết hết”. Nói cách khác, kẻ nào muốn vờ vĩnh trước mắt Ung Chính thì kẻ đó sẽ chẳng có kết quả tốt đẹp.
Huống hồ, xưa nay Ung Chính chưa hề sợ đắc tội với ai. Ung Chính từng nói với bố chánh sứ Giang Tô, Trường Thản Lân: “Vì việc công mà đắc tội, có hề gì?”. Bản thân Ung Chính là hoàng đế, đương nhiên chẳng có gì đáng sợ. Ung Chính cũng cảnh cáo thẳng với quần thần, đừng mong được nói khéo với mình như nói với hoàng đế Khang Hy (e là trẫm chưa được như tiên đế khoan dung tha thứ). Vì vậy, ai dám lừa dối, đùa cợt, phụ lòng thì hoàng đế Ung Chính này nhất định sẽ để cho người đó chết mà vẫn chưa yên, bị gọi là bất tín, “gương” của Niên Canh Nghiêu còn đó.
Với Niên Canh Nghiêu có thể nói Ung Chính hận đến xương tuỷ và chỉnh tới cùng. Lần chót Ung Chính có dụ cho Niên Canh Nghiêu “sau khi ngươi tự tận, nếu còn có ý oan ức, thì sách Phật gọi đó là kẻ vĩnh viễn rơi xuống địa ngục, vạn kiếp cũng không rửa hết tội của ngươi”. Nền quân chủ chuyên chế tàn hại người khác, lợi hại hơn cả cường đạo. Cường đạo chỉ cần tiền, nhiều lắm là mạng của người khác, chế độ quân chủ chuyên chế không chỉ cần mạng người khác, mà còn cần cả linh hồn, còn nói như vậy là tốt cho ngươi, là từ bi với tấm lòng Bồ Tát, đúng là A di đà Phật, thiện tai thiện tai!
Tội của Niên Canh Nghiêu, Long Khoa Đa nói trắng ra là phụ ân.
Đúng là Ung Chính rừng kỳ vọng nhiều ở Niên, Long. Ung Chính hy vọng hai người không chỉ hết sức phò tá mình còn muốn tạo dựng nên một mẫu mực về quan hệ quân thần. Ung Chính rất xem trọng mối quan hệ cùng tín nhiệm, cùng thể tình giữa quân và thần. Có một lần, trong thư gửi Niên Canh Nghiêu, Ung Chính nhắc nhiều tới lúc việc quân ở Tây Ninh nguy cấp, Niên Canh Nghiêu lo lắng, sợ lúc hoàng thượng xem tấu sẽ “buồn rầu kinh hãi”, nên mới “tìm cách chu đáo nhất” trong báo cáo về tình hình đã dùng “nhiều chữ nhàn” hòng xua tan khói súng. Với sự chu đáo đó, Ung Chính đã hết sức cảm kích, nói: “Lòng dạ ngươi quý mến trẫm, trẫm biết điều đó”, cứ mỗi lần nhắc đến Di Thân vương Doãn Tường và ông cậu Long Khoa Đa, “Trẫm lại rơi nước mắt, có nhiều chuyện khó nói hết”. Ung Chính còn nói: “Tấm lòng của khanh cám kích đen trời xanh, thế mới biêt mối quan hệ giữa quân thần chúng ta là rất tự nhiên”, rõ ràng Ung Chính đã coi Niên Canh Nghiêu là mẫu mực của trung thần để đối xử và bồi dưỡng(1).
Vì vậy, lúc được ban đoàn long bổ phục, Niên Canh Nghiêu đã dâng tấu tạ ơn, Ung Chính đã có lời phê: “Với quan hệ quần thần này, không phải mấy điều đó. Trẫm chưa phải hoàng đề xuất sắc, nên chưa thể đền đáp những gì ngươi đối xử với trẫm; ngươi cũng chưa phải đại thần siêu quần, chưa đáp ứng được tri ngộ của trẫm, nên khỏi phải nói nhiều, chỉ mong sao thành nhân vật mẫu mực của thiên cổ”. Tháng ba năm thứ mười một, Niên Canh Nghiêu được ban Tự minh biểu đã dâng lên biểu tạ ân, Ung Chính lại phê: “Xưa nay quân thần gặp gỡ, tự ai cũng hiểu, nhưng chưa có ai được như chúng ta”. Ung Chính nói tiếp: “Tóm lại, tấm gương tri ngộ quân thần thiên cổ giữa hai ta, được người thiên hạ nay và sau này hâm mộ, lưu truyền, thế là đủ”. Để biểu thị tình thân mật giữa quân thần của họ, Ung Chính còn có thư riêng gửi Niên Canh Nghiêu, nhờ mua rượu. Trong thư nói: “Năm đó có người tiến rượu dê Ninh Hạ, hai mươi năm nay không thấy tiến nữa. Trẫm rất thích uống nó, tìm một ít tiến vào, không cần nhiều”. Đó hoàn toàn là khẩu khí bè bạn, nhờ vả riêng tư.
Không thể nói những lời của Ung Chính đều là giả. Ung Chính muốn là một hoàng đế tốt. Hoàng đế tốt đương nhiên cần có thần liêu tốt, cũng cần có quan hệ quân thần tốt. Ung Chính là người tương đối cô độc. Khi là hoàng tử, là “cô thần”; khi là hoàng đế lại là “độc phu”. Ung Chính tính tình cương nghị, nóng vội, nghi kỵ, khắt khe, lạnh lùng, dễ sinh tức bực, nên là người ít may mắn hơn trong số chư vương, đại thần, gần như không hoà hợp được với ai. Vào những năm cuối đời, Khang Hy căm hận số a ca kết đảng. Để được phụ hoàng yêu quý, Ung Chính càng ra vẻ công tâm làm việc, kết quả bản thân càng thêm cô độc, tính cách trở nên cô đơn. Vì vậy, sau khi là hoàng đế, Ung Chính rất mong có người ra sức ủng hộ mình, để xây dựng được một hệ thống thống trị riêng. Nhưng vào lúc đó, chư vương không phục, quần thần còn ngó nghiêng, người có thể tin được, nhờ cậy được, ngoài Thập tam đệ Doãn Tường, còn có hai người nữa là Long Khoa Đa và Niên Canh Nghiêu. Với Ung Chính lúc đó, Niên Canh Nghiêu khác gì cơn mưa trong lúc hạn, cột trụ để chống trời, sao cảm kích không quá mức? Cho nên Ung Chính ban thưởng, đề cao họ tới mức như là nịnh bợ, có thể ngay Ung Chính sau đó cũng thấy ghê rợn mất cả thể thống quân vương. Thật dễ hiểu, lúc phát hiện thấy Niên, Long đều đã phụ thánh ân, Ung Chính vô cùng hổ thẹn, từ hổ thẹn sinh tức bực, tức bực không nguôi.
Nhưng Ung Chính đâu có biết, loại quan hệ quân thần mà Ung Chính nói về cơ bản không hề tồn tại. Trong nền chính trị chuyên chế, quan hệ quân thần tự nhiên là bất bình đẳng. Chỉ lúc quan hệ giữa người với người là bình đẳng mới có những cái gọi là giúp đỡ lẫn nhau, tín nhiệm lẫn nhau, quan tâm lẫn nhau, khích lệ lẫn nhau. Vì vậy những yêu cầu của Ung Chính với Niên Canh Nghiêu về cơ bản là không thực hiện được. Bản thân Niên Canh Nghiêu cũng không hề biết những sai sót của mình. Qua những điều phát giác, hồi ở quân doanh Tây Bắc, Niên Canh Nghiêu làm mưa làm gió, ngông nghênh càn rỡ, ghê gớm. Đưa lễ vật đến với Niên phải xưng là “cung tiến”, Niên cho người khác thì gọi là “ban thưởng”, thuộc viên đến cảm ơn phải nói là “tạ ân”, quan mới đến báo phải xưng là “dẫn kiến”. Thư từ gửi tướng quân, đốc phủ, thường dùng lệnh dụ, khác gì coi đồng liêu là thuộc hạ? Lúc Niên đưa quân về triều, Ung Chính lệnh vương công đại thần ra ngoài nghênh đón. Quan viên quỳ rạp bên đường để chào hỏi, Niên chễm chệ trên ngựa không thèm để ý đến ai. Các vương công xuống ngựa thăm hỏi, Niên cũng chỉ gật gật đầu. Thậm chí Niên Canh Nghiêu còn không biết bớt phóng túng trước mặt Ung Chính. Ung Chính phái số thị vệ bên cạnh đến chỗ Niên, Niên liền giữ lại làm đội nghi trượng của mình, rồi gọi thế này gọi thế kia, chẳng khác gì sai khiến lũ nô tài. Ung Chính tìm Niên để nói chuyện, Niên bắt chéo hai chân ngồi trên ghế, hoa chân múa tay, nước bọt bắn tứ tung. Và nghiêm trọng hơn, ngoài xã hội truyền tin nói, Ung Chính chỉnh người này hay xử người nọ đều nghe theo ý của Niên Canh Nghiêu. Điều đó làm tổn thương nặng nề đến lòng tự trọng của Ung Chính. Ung Chính vốn là người cương nghị độc đoán, thấy rõ mọi điều xấu xa, đâu có chịu được điều đó. Ung Chính từng phẫn nộ nói với chư vương, đại thần, trẫm đâu còn là đứa trẻ, vì sao lại phải nghe theo Niên Canh Nghiêu? Thực là khó chịu. Kẻ danh cao trấn át chủ là nguy, đó là quy luật thép của thời chuyên chế; Niên Canh Nghiêu cậy được sủng ái làm bừa, hoành hành bất pháp, khiến cho Ung Chính - người khắt khe, nghi kỵ cảm thấy vô cùng thất vọng. Ung Chính là người mạnh mẽ, quyết không tha thứ cho những ai làm mình thất vọng, càng không tha thứ cho những kẻ mà mình đã gửi gắm bao nhiêu hy vọng, làm mình thất vọng. Kẻ nào dám làm như vậy, sẽ bị đả kích gấp mười lần những gì được ân sủng.
Không phải Ung Chính chưa từng nhắc nhở Niên Canh Nghiêu. Ngày mười tám tháng mười hai năm thứ mười một (năm 1724), Niên Canh Nghiêu đang trên đường từ Bắc Kinh trơ về Tây Bắc, Ung Chính đã phê vào tờ sớ của Niên: “Phàm là nhân thần muốn có công dễ, thành công khó; thành công dễ, giữ công khó; giữ công dễ, giữ được mãi mãi khó. Là vua thi ân dễ, ra ân khó; dưỡng ân dễ, giữ ân khó; giữ bảo ân dễ, toàn ân khó. Nếu đã tạo được kỳ công, tất sẽ dẫn đến phản ân thành thù, điều đó xưa nay tình thường sẵn có”. Sau đó Ung Chính còn dặn dò công thần phải giữ trọn được ba điều: 1. Dựa vào chủ nhân, phòng lúc biến đổi, không để các công thần rơi vào chỗ nguy; 2. Dựa vào công thần, cùng nắm bắt thời cơ, bản thân đừng bước vào vết hiểm; 3. Dựa vào thần công lớn bé, tránh xa hiềm nghi, không đẩy các công thần vào đường cùng. Lời của Ung Chính thực rõ ràng: Làm một công thần là rất nguy hiểm. Một khi không cẩn thận sẽ rơi vào chỗ nguy, bước vào vết hiểm, đi vào ngõ cụt, từ công thần biến thành tội nhân. Vì vậy, Ung Chính nói: “Quân thần chúng ta đến lúc phải gắng sức, cẩn thận”. Đáng tiếc, Niên Canh Nghiêu đã bỏ ngoài tai tất cả, trên đường về Tây Bắc, vẫn cao ngạo nghênh ngang, tác oai tác phúc. Vì vậy, tâm tình của Ung Chính chẳng khác gì tâm tình một người đàn bà khá lợi hại bị đùa cợt về mặt tình cảm, lòng báo thù đối với anh chàng đã phụ bạc đã nổi dậy, không sao kìm nén được. Đồng thời, Ung Chính cũng quyết định, Niên Canh Nghiêu đã không biết phải trái, là mẫu hình của quân thần gặp gỡ lại không muốn, lại thích đóng vai một kẻ phụ ân bội chủ, vậy cứ để cho hắn là chiếc đinh đóng mãi trên chiếc cột nhục nhã. Để cho mọi người cùng xem, một kẻ phụ ân Ung Chính, bội phản hoàng thượng thì kết cục sẽ như thế nào.
Đây là “quan niệm về quân thần” của Ung Chính: Bất kỳ một thần tử nào đều không được lừa dối, đùa cợt với Ung Chính, không thể giở mẹo vặt, càng không thể bội phản Ung Chính. Ung Chính thường tự khoe: “Làm người phải là trượng phu cứng rắn như thép, sáng như gương, lòng dạ ngay thẳng”. Ai muốn bội phản Ung Chính thì đừng trách Ung Chính căm hận không tha, ai muốn lừa dối, đùa cợt Ung Chính hoặc bị coi là giở trờ vặt vãnh thì đừng trách Ung Chính chua chát khắc nghiệt. Theo lời Ung Chính sẽ là “dù có là Phật cũng không cứu được ngươi”. Ngược lại, người nào biết trung thành tuyệt đối, không một chút xảo trá lừa dối thì Ung Chính đúng là Bồ Tát của họ. Vị thần tử đó không chỉ được mọi thứ mình cần mà còn được kết giao bè bạn với Ung Chính.
Chú thích


(1) Tình huống của Long Khoa Đa đại khái có khác một chút, ở trong sách xin được lược bỏ (Tác giả).
Về Đầu Trang Go down
https://triamquan.forumvi.com/
Tri Âm Quán
Thành Viên Tích Cực
Thành Viên Tích Cực
Tri Âm Quán


Tổng số bài gửi : 6340
Reputation : 2
Join date : 31/07/2013
Đến từ : Thị Trấn Chũ

Luận Anh Hùng - Page 2 Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Luận Anh Hùng   Luận Anh Hùng - Page 2 EmptySat Nov 29, 2014 11:53 am

DỊCH TRUNG THIÊN
LUẬN ANH HÙNG
UNG CHÍNH
- 4 -
Bạn bè như vậy
Ung Chính còn biết kết giao bè bạn? Biết chứ. Ung Chính thích thú nhất với quan hệ quần thần: “Nghĩa vững như quân thần, tình giống như bằng hữu”. Chỉ có điều, là “bằng hữu” với Ung Chính không dễ. Nếu ai đó đã phụ “ý tốt” của Ung Chính thì lập tức sẽ bị trở mặt và trở mặt lợi hại hơn nhiều so với bè bạn thông thường.
Con người Ung Chính bất kể là đương thời hay hậu thế đều rất dễ bị hiểu lầm. Ung Chính khô khan độc đoán, cương nghị khắc nghiệt, sấm rền gió giật, không hề nể mặt, nổi tiếng là “vương gia mặt lạnh” và “hoàng đế máu rắn”. Thêm nữa hàng ngày hàng đêm Ung Chính xử lý chính sự, không được nhiều người vui lòng thích thú, vì vậy, không ít người tưởng tượng Ung Chính thành lão già cứng nhắc đơn độc, thành bạo chúa tâm lý khác thường hoặc một cỗ máy giết người lạnh tanh. Thực ra, không phải thế. Ung Chính khe khắt nhưng ban không ít ân, Ung Chính lạnh lùng nhưng không vô tình. Không chỉ có tình, thậm chí Ung Chính còn làm việc theo tình cảm. Và cũng chính vì làm việc theo tình cảm lại chua chát, khe khắt nên Ung Chính đã làm tổn thương người khác, nhiều người không thể tiếp thu nổi.
Thực ra ở Ung Chính cũng có mặt ôn hoà. Trên các sớ tấu thỉnh an của các thần tử, Ung Chính thường phê: “Trẫm vẫn khỏe, khanh có khỏe không” hoặc “trẫm khỏe, ngươi khỏe không?”. Lời phê ngắn ngủi nhưng ngữ khí lại đượm màu thân thiết, không phải là lời văn đầy vẻ quan trường. Ung Chính cũng biết nói chuyện phiếm, chuyện nhà chuyện cửa với các thần hạ. Những lúc hứng khởi, thích nói gì thì nói nấy. Ví như: “Hay lắm, hay lắm! Sau khi đọc xong bản tấu này mà không thích, không vui, trừ phi không phải hoàng đế” hoặc “Lý Chi Anh không còn là người nữa! Đáng cười! Thực buồn cười!”, “Truyền khẩu dụ cho hắn, trẫm cười đến chết mất, thực là vũ phu!”. Ung Chính còn viết cả bốn chữ vào bản tấu: “Nên! Nên! Nên! Nên!”. Đúng là yêu ghét hiền ác đều hiện thành lời, vui cười giận mắng đều thành văn, không làm ra vẻ hoàng đế, lại từa tựa như thánh nhân. Chẳng trách sử gia đã công nhận, đọc ngự phê của Ung Chính quả thấy thú vị, đọc ra một Ung Chính đích thực.
Đôi lúc Ung Chính còn tỏ vẻ ấm ức với các thần hạ, “trẫm có những nỗi khổ không nói hết được” hoặc “trẫm bi phẫn đến uất ức, không thể hình dung thành lời, đành chịu vậy”. Nghiêm trọng nhất là sau khi nghe được lời “phỉ báng” của Tằng Tĩnh, Ung Chính nói với Ngạc Nhĩ Thái: “Làm gì có chuyện buồn cười như vậy, có người đáng hận như vậy. Tuy là lời nghịch của loại phỉ, nhưng cũng phải có nguyên nhân gì chứ. Như vậy là trẫm không làm nổi hoàng đế nước Đại Thanh! Còn muốn trẫm phải làm gì nữa?”. Rõ ràng là uất ức đầy bụng cũng không biết thổ lộ cùng ai. Hoàng đế không nên nói ra những lời uất ức, đằng này lại nói tới mức không làm nỗi hoàng đẽ, có thể coi đây là nôi uẫt ức lớn nhất trong lịch sử. Uất ức được thổ lộ với thần liêu, thần liêu được coi là bè bạn.
Ung Chính cũng biết thể tình, khoan dung với thần liêu, Tổng binh Đài Loan, Lam Đình Trân(1) có tên trùng với tên của Ung Chính, dâng biểu cầu xin được đổi tên, tránh tội phạm huý, Ung Chính đã bảo không cần, còn nói thêm, “Trẫm rất thích cái tên này”. Thạch Văn Trác nhận lệnh thẩm án tham ô của Trình Như Ty, vì lần trước đã hoàn thành tốt công việc, lần này người liên quan tới án rất phức tạp, nên phải đắn đo suy nghĩ, hốt hoảng không yên, Ung Chính cũng nói không cần “Trẫm sẽ lượng thứ, vì lần này có nhiều điểm khó”. Tổng đốc Lưỡng Quảng, Khổng Dục Tuần nhận mua và vận chuyển gỗ tử đàn cho Niên Canh Nghiêu, sau khi Niên bị đổ, đã dâng sớ xin chịu tội, Ung Chính nói: “Đó là tội nhỏ, lý nào trẫm lại không lượng thứ? Trẫm không trách ngươi đâu”. Hơn thế, Ung Chính còn nói thêm: Niên Canh Nghiêu được thể làm bừa, “Do trẫm nhìn nhầm người, sủng ái một tên phỉ. Tự trẫm sẽ xem lại, cớ gì để liên luỵ tới người vô tội?”. Ung Chính đã nhận mọi trách nhiệm.
Cũng vậy, mọi người hết sức cảm động khi Ung Chính đã giải thoát cho tổng binh Hưng Hán, Thiểm Tây, Lưu Thế Minh. Vì có người em là Lưu Tích Viện móc nối với phỉ và bị bắt, nên Lưu Thế Minh đã dâng sớ xin chịu tội, nói: “Bản thân không chính, người khác chính sao được, đối mặt với thuộc viên, thần hổ thẹn cấp báo vậy”. Ung Chính an ủi luôn: Trẫm cũng có hai người em A Kỳ Na, Tắc Tư Hắc như vậy, ai dám đảm bảo Lưu Thế Minh không có em như Lưu Tích Viện? Không chỉ anh em mà ngay cả con cái, ai mà biết chúng đang nghĩ gì, làm gì?”. Mấy lời nói thật chân thành. Vì vậy Ung Chính khoan dung với Khổng Dục Tuần, Lưu Thế Minh, được coi là “làm trò” với mục đích chính trị và “làm trò” một cách chân thành.
Có nhiều điểm chứng tỏ Ung Chính luôn quan tâm ưu ái thần hạ, như dắt dẫn từ từ từng bước từng bước, thể tình với người khác. Tháng tám năm thứ nhất, Ung Chính ban cho Bố chánh sứ Phúc Kiến Hoàng Thúc Uyển được quyền mật tấu (phần sau sẽ nói rõ hơn về đặc quyền này). Hoàng dâng sớ tạ ân, Ung Chính có lời dặn dò: Khanh có đặc quyền nhưng không được lạm dụng, bừa bãi: 1. Không được lấy đó để ép cấp trên. 2. Không thể phô trương với người khác. 3. Không thể dâng tấu liên miên. Tấu nhiều lần, cấp trên sẽ nghi ngờ khanh, thật bất lợi. Điền Văn kính được phá lệ thăng nhiệm làm tuần phủ Hà Nam. Điền vô cùng cảm tạ ân đức đó. Ung Chính liền dặn dò thêm: “Quá lo về chuyện thiên hạ là không đủ sức, phải biết nên làm gì”. Không nên vì báo ân mà làm việc quá sức, là không tốt. Sau này, Điền Văn kính thúc đẩy việc cải cách của Ung Chính, khắp nơi vang lên bài ca của nước Sở(2), Ung Chính lại an ủi: “Tránh sao khỏi lời ca thán của lũ tiểu nhân, không cần phải bực bội, hẹp hòi”. Hoàng đế cất nhắc đại thần, ai cũng mong được thần hạ cảm ơn báo đáp, Ung Chính cũng vậy. Nhưng trong lúc Điền Văn kính vội vã muốn báo đáp, Ung Chính lại giúp để ngăn ngừa sự nôn nóng, như vậy là hiểu người; trong lúc Điền bị công kích, Ung Chính lại khoan dung giúp đỡ, như vậy là giỏi dùng người.
Ung Chính không chỉ biết bồi dưỡng năng thần, trọng thưởng gián thần, còn không so đo chuyện họ có phạm thượng hay không, có nói những lời đúng sai hay không. Lúc Ung Chính vừa lên ngôi, ở ban kiểm thảo Hàn lâm viện có người là Tôn Gia Cam dâng thư bàn việc, yêu cầu Ung Chính thân cốt nhục, bỏ quyên nạp, bãi Tây binh. Nếu nói là bỏ quyên nạp (bỏ việc bán quan) thì còn có thể bàn, còn hai việc kia đều là việc Ung Chính không muốn nghe. Quan viên Hàn lâm viện vốn là các quan thị tòng văn học, không nên nhiều chuyện; quan vị của Tôn Gia Cam lại rất thấp, là quan thất phẩm. Quan thất phẩm muốn nhảy ra gây chuyện với hoàng thượng, muốn bàn về phương châm chính trị to lớn của đất nước, khác gì muốn tìm đến chỗ chết. Vì vậy, Ung Chính long nhan thịnh nộ, trách vấn viện học sĩ (viện trưởng) Hàn lâm viện, là làm gì, sao lại điên cuồng như vậy? Thái phó Chu Thức ở bên cạnh nói, người này tuy điên cuồng bừa bãi, nhưng thần rất phục vì hắn thực gan dạ. Ung Chính liền giương mát nhìn Chu Thức, nghĩ một lát rồi cười nói: Ngay như trẫm cũng không thể không phục sự gan dạ của người này. Lập tức cất nhắc Tôn Gia Cam là Quốc tử giám tư nghiệp. Sau này, Tôn Gia Cam vẫn luôn nêu ý kiến. Ý kiến tuy không được dùng, nhưng Tôn vẫn luôn thăng tiến.
Có điều, những ai luôn xem thường chế độ của đất nước, nghi lễ quân thần, Ung Chính sẽ không bao giờ thể tình với người đó. Tháng tư năm thứ hai, Ung Chính bình định xong Thanh Hải, được các quan triều bái chúc mừng. Viên ngoại lang bộ Hình là Lý Kiến Huân và La Thực đã thất lễ trước mặt vua, bị ngôn quan(3) hạch tội đại bất kính, theo luật đáng phải chém đầu. Ung Chính nói, nay ngày đại hỷ, hãy gửi lại hai cái đầu của họ. Nghi thức tiếp tục, lại có người phạm sai lầm, sẽ giết luôn chúng. Lúc đó, đừng nói là trẫm muốn giết người, mà là người không giữ quy chế muốn giết chúng. Cũng tức là, hai người đó chết hay không chết, quyết định bởi người khác có phạm sai lầm hay không, người phạm sai lầm không chỉ bị xử trị, mà còn phải gánh trách nhiệm hại chết người khác. Chỉ có Ung Chính mới có được sự “tính toán xuất thần” như vậy.
Một mặt thì ôn tồn chỉ dẫn từng ly từng tí một, mặt khác lại đâm thủng đầu tóc máu kẻ có lòng lang dạ sói bằng con dao nhọn; một mặt từ một chút không như ý đã biến thành tội lớn, mặt khác, một xúc phạm ghê gớm lại được coi nhẹ, đáng để thưởng thức, nhiều người lại coi đó là sự “buồn vui thất thường” của Ung Chính. Ngạc Nhĩ Thái lại thấu hiểu sự huyền bí ở trong đó. Ngạc Nhĩ Thái cũng là người từng vuốt râu con hổ Ung Chính. Ngạc Nhĩ Thái, tự Nghị Am, họ Tây Lâm Giác La, người Tương Lam Kỳ Mãn Châu, thế tập quý tộc. Ngạc Nhĩ Thái rất có tài, năm hai mươi tuổi đậu cử nhân, năm hai mươi mốt tuổi là ngự tiền thị vệ, nhưng vì là người cương trực, không chịu dựa dẫm ỷ thế, nên mãi năm bốn mươi tuổi mới là viên ngoại lang phủ Nội vụ. Ngạc Nhĩ
Thái viết vài câu thơ: “Xem ra bốn mươi là như vậy, dù đến rrăm năm vẫn uổng công”. Lúc đó Ung Chính còn là Thân vương, đã nhờ người chuỵển lời đến Ngạc Nhĩ Thái nhờ làm việc, có ý muốn kéo Nhĩ Thái nhập bọn, nào ngờ Ngạc Nhĩ Thái đã từ chối thẳng thừng, nói “Hoàng tử nên nuôi đức xuân hoa, không nên kết giao ngoại thần”. Ý muốn nói, Ung Thân vương nên tự trọng, gìn giữ luật pháp. Ung Chính đã va vào chiếc đinh mềm, không chỉ không hận Ngạc Nhĩ Thái, ngược lại còn rất tán thưởng, khâm phục một nam tử hán một trực thần địa vị thấp hèn nhưng dám chống lại Thân vương chí tôn. Sau khi lên ngôi đã nhanh chóng trọng dụng Ngạc Nhĩ Thái. Một năm thăng phiên tử, ba năm thăng tổng đốc, sau mười năm thăng thủ phụ, trở thành người - được Ung Chính tín nhiệm nhất chỉ sau Doãn Tường.
Quân thần gặp gỡ như vậy, ai mà không ngưỡng mộ, vì vậy mọi người muốn biết bí quyết làm gì để được sủng ái. Ngạc Nhĩ Thái cũng không hề giấu giếm. Ngạc Nhĩ Thái từng nói, cách dùng người của đương kim hoàng thượng là “vô cùng thần kỳ” nhưng không ngoài hai chữ: Chí thành. Cũng tức là, hoàng thượng đối với thần hạ chí thành, thần hạ đối với hoàng thượng cũng phải chí thành. Thành là linh, linh là thông. Nếu quần thần luôn đối xử với nhau chí thành, thì trên dưới hết trở ngại, cùng nhau tương thông. Tâm linh giữa quân thần tương thông, tự nhiên sẽ luôn thông suốt. Vì vậy, làm việc với Ung Chính, nói dễ không dễ, nói khó không khó. Chỉ một câu thôi, cần phải “thực tâm thực lực”, “mọi hy vọng, suy đoán khác đều vô dụng, đều không thể”. Vì hoàng thượng không hề thành kiến với ai, chỉ là anh có thành tâm hay không. Nếu là trung thành, thật thà, dù phạm sai lầm lớn cũng chẳng sao, nếu là thủ đoạn, lấy lòng, dù khuyết điểm nhỏ, cũng không tránh khỏi bị khiển trách (nếu không lừa dối, sai lầm lớn cũng tha; nếu bày đặt hoặc lấy lòng, việc tuy nhỏ cũng bị trừng phạt). Thực tế đó cho chúng ta hay: Trước mặt Ung Chính, phải thành thực, giữ bổn phận, nhìn thực tại, có một nói một, có hai nói hai; đừng mơ tưởng, suy đoán; đừng thủ đoạn, lấy lòng; đừng văn hoa, chải chuốt, đừng tự cho là thanh cao. Chỉ cần không dẻo mỏ, không giở trò, thì Ung Chính luôn là ông chủ dễ hầu hạ.
Ung Chính luôn tán thưởng cách nói của Ngạc Nhĩ Thái. Xem sớ tấu của Ngạc Nhĩ Thái, Ung Chính đã có lời phê: “Trẫm nén lệ mà đọc”. Nói vậy là thực bụng. Vì từng câu từng chữ của Ngạc Nhĩ Thái đã nói được nỗi lòng của Ung Chính.
Ung Chính là người có lòng tự tin và tự thị (tự thừa nhận mình) rất cao. Có người phê bình Ung Chính là “tính cao ngạo, lại nghi kỵ, tự cho rằng trong thiên hạ không có việc gì là không biết rõ, không có việc gì không làm được”, nghe cũng có lý. Cả đời Ung Chính chỉ có ba điều thấy tự đắc và tự khen. 1. Tự cho hết lòng vì công việc, nghĩ gì làm gì đều vi quốc gia xã tắc; 2. Tự cho là, nắm rõ từng việc, không ai có thể giấu được điều gì; 3. Tự cho mình là thanh cao, mắt không có hạt cát nào, lòng dạ không vướng một chút bụi trần. Là hoàng đế, có thêm ba điều đó, nên Ung Chính sẽ chẳng nể tình khách khí với bất kỳ thần liêu nào. Ai đó dám giở trò mẹo vặt trước Ung Chính hoặc bị Ung Chính coi là kẻ hay giở trò, thì đừng trách vì sao Ung Chính không nể mặt.
Như Dương Danh Thời đã nói ở phần trước, mọi đen đủi đã đổ lên đầu người này. Dương Danh Thời kiến nghị tu sửa kênh đào Tuấn Nhĩ Hà là một việc tốt, nhưng Ung Chính lại cho Dương lòng dạ bất kính. Lý do là: 1. Là việc tốt sao sớm không làm tối không làm, sớm không nói tối không nói, lại đề xuất vào lúc bản thân sắp bị điều khỏi nhiệm sở. 2. Vì sao không dùng loại tấu bảo mật để xin ý kiến hoàng thượng, lại dùng tấu không bảo mật, cố ý để cả triều đều biết? 3. Vì sao không chờ quan mới đến nhiệm sở và quan mới sẽ dâng tấu hoặc liên doanh cùng dâng tấu? Rõ ràng, Dương Danh Thời muốn có hư danh. Sự việc đã quá rõ ràng! Việc tu sửa kênh đào này là công trình như thế nào, chẳng lẽ Dương Danh Thời có thể hoàn thành trước khi rời nhiệm sơ? Đương nhiên là người sau phải làm việc đó. Biết việc do người sau làm, vậy vì sao phải giành nêu ý kiến trước? Chẳng phải việc dành cho người khác, tiếng tăm thì dành cho mình hay sao? Muốn thiên hạ biết mình là người thương dân, nên phải giơ trò với hoàng đế, tấu báo không bảo mật, là ý gì vậy? Sợ hoàng đế không báo với thiên hạ rằng đó là chủ ý của ngài Dương chăng?
Vì vậy Ung Chính mới phẫn nộ và có lời chê trách, bụng dạ ngươi chỉ nghĩ đến mình, không nghĩ đến người khác, thậm chí ngươi là kẻ không coi trên coi dưới ra gì, còn dám giơ mặt ra tự nhận mình là người có học sao? Vì vậy, Ung Chính mới phạt Dương Danh Thời tự bỏ tiền ra tu sửa, nếu chưa xong thì con cháu tu sửa tiếp. Ung Chính nói, phải phạt như vậy để “người thiên hạ đều hiểu kẻ chuộng hư danh không chỉ bản thân phải chịu tội, mà còn liên luỵ tới con cháu sau này”.
Về Đầu Trang Go down
https://triamquan.forumvi.com/
Tri Âm Quán
Thành Viên Tích Cực
Thành Viên Tích Cực
Tri Âm Quán


Tổng số bài gửi : 6340
Reputation : 2
Join date : 31/07/2013
Đến từ : Thị Trấn Chũ

Luận Anh Hùng - Page 2 Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Luận Anh Hùng   Luận Anh Hùng - Page 2 EmptySat Nov 29, 2014 3:55 pm

Ung Chính có những yêu cầu khắt khe với người khác, còn bản thân thì thế nào? Ung Chính cho rằng mình làm tốt. Ung Chính nói: “Lương tâm trẫm có thể xứng với trời xanh, xứng với hoàng khảo, có thể tặng cho ức vạn thần dân trong thiên hạ”. Ung Chính đúng là “một lòng vì công”, một lòng một dạ, chân thành trị lý tốt thiên hạ, đất nước. Ung Chính thức khuỵa dậy sớm, áo mỏng cơm thường, mười ba năm như một ngày. Lúc nào cũng mạnh mẽ không nghỉ, lúc nào cũng đề phòng cẩn thận. Mờ sáng đã dậy, tối mịt mới nghỉ, ăn một chút gì đó. Chưa nói tới việc khác, chỉ riêng số công văn đã phê duyệt đã in thành “Thượng dụ nội các” gồm một trăm năm mươi chín quyển; “Chu phê dụ chỉ” gồm ba trăm sáu mươi quyển, còn những giấy tờ chưa in thì không biết là bao nhiêu. Ngoài ra còn một khối lượng lớn công việc khác. Tinh thần Kính Nghiệp, tinh thần cần chính của Ung Chính, hầu như được mọi nhà sử học công nhận.
Cuộc sống của cá nhân Ung Chính cũng rất đơn giản, không thích chơi bời vui vẻ, không thích săn bắn, cũng không thật háo sắc. Ung Chính cũng thích một vài trò chơi thông thường, nhưng không quá say mê. Có một vài thứ Ung Chính rất thích và còn có tác dụng nữa như kính mắt. Thị lực Ung Chính không tốt, nên rất thích kính mắt. Ung Chính từng lệnh cho thợ kính chế tạo ra nhiều loại kính, mỗi loại để ở một nơi nhất định, tiện cho việc sử dụng lúc Ung Chính làm việc, Ung Chính còn phân phát kính cho vương công đại thần, mục đích là để họ chăm chỉ với việc công. Thậm chí Ung Chính còn hạ lệnh phát kính cho công nhân làm việc nơi có nhiều khói bụi, làm đồ bảo hộ lao động, về mặt “coi thiên hạ là việc của mình”, Ung Chính luôn luôn lấy mình làm mẫu mực.
Ung Chính cũng không phải hoàng đế hồ đồ. Ung Chính từng nói với quần thần: Trẫm đã có hơn bốn mươi năm ở Phiên ẩ(°\ đã quen thuộc thấu hiểu nhân tình cùng mọi thứ, đâu còn là hoàng đế trẻ con chưa từng trải, cũng không phải là loại a ca ngồi không hưởng lạc. Vì vậy, Ung Chính cho rằng mình đủ tư cách, năng lực có những yêu cầu nghiêm khắc với thần hạ. Hơn nữa, Ung Chính còn cho rằng, chỉ cần quân thần hai bên đối xử chân thành với nhau, thần hạ không tìm cách lấy lòng hoàng thượng, che giấu hoàng thượng, hoàng thượng cũng không nghi ngờ thần hạ, đề phòng thần hạ, thì hai bên hoàn toàn có thể xây dựng quan hệ thân tình, bè bạn như kiểu hoàng đế và Ngạc Nhĩ Thái.
Hiển nhiên, Ung Chính yêu cầu thần hạ không thấp. Không chỉ yêu cầu họ hiến thân, còn yêu cầu họ hiến cả tâm hồn, không chỉ yêu cầu họ phải nghe lời, còn yêu cầu họ phải hết lòng. Chỉ một câu thôi, không ai được suy nghĩ khác, “chỉ một điều chí thành”.
Ung Chính suy nghĩ rất hay, tiếc là không thực hiện được. Khoảng cách giữa quân thần là một trời một vực. Một người ở tít trên cao, sấm sét mưa móc đều là ân, một kẻ ở tít phía dưới, sơ sẩy một chút là sai lầm. Trời đất cách biệt nhường ấy, làm gì còn có thể “rất thân thiết”? Làm gì để thân thiết cho được? Còn nói những là giao cả tâm hồn, con tim, kéo đứt đi vậy! Tâm tư của thần hạ, muốn giấu cũng không giấu nổi, còn dám giao ra? Dù đó là yêu cầu, cũng không dám giương mắt ra gánh vác. Vì sao vậy? Sợ vượt quá bổn phận. Như chuyện Điền Văn kính muốn “đổi tịch”, không dám nói với Ung Chính, đành phải nhờ Dương Văn Càn nói hộ(4). Sau đó, Ung Chính đã trách Điền Văn kính “Vì sao lại không nói thật”, còn nói, “Trẫm rất giận ngươi” nhưng giận thì cứ giận, lần sau Điền Văn kính vẫn không dám nói! Dù có hồ đồ, thì Điền Văn kính cũng không thể không biết, ranh giới giữa quân thân không phải là ân nghĩa mà là trên trời dưới đất, làm gì có chuyện, có gì thì cứ nói?
Kỳ thực, ngay như Ngạc Nhĩ Thái cũng rất hiểu: Đối với Ung Chính, Ngạc Nhĩ Thái không thể nói thật tất cả. Ví như Ung Chính nói: “Xưa nay trẫm không nói đến điềm lành”, kỳ thực Ung Chính lại rất thích những điềm lành, chỉ có điều không làm rõ ra. Không chỉ không thể làm rõ, mà vẫn muốn ra sức làm ra vẻ. Cho nên, Ngạc Nhĩ Thái vẫn là quan địa phương số một báo cáo tường tận. Với sự tinh anh của mình, Ngạc Nhĩ Thái không thể không biết “một cây mạ ra chín bông, bò đẻ ra lân” là câu nói lung tung? Nhưng Ngạc Nhĩ Thái biết đây không phải là vấn đề nguyên tắc, còn có thể trợ giúp tăng cường lòng tin của Ung Chính, giống như cách nói một bà già chừng mới mười bảy, mười tám tuổi, đây là lời nói doi có thiện chí, không cân phái làm rõ và cũng không thể làm rõ. Chính vì nguyên nhân đó, khi một đại lý lệnh họ Lưu nhạo báng, Ngạc Nhĩ Thái không chỉ không hận, mà còn tiến cử với Ung Chính viên quan này. Trong lòng Ngạc Nhĩ Thái đã có tính toán!
Bản thân Ung Chính hẳn cũng có tính toán. Ung Chính nói với quần thần: “Giữa quân thần điều quỷ nhất là thành thực, trẫm sẽ miễn cho các khanh” nhưng liệu bản thân Ung Chính có thể không nghi ngờ, không đề phòng, không chính trị các thần hạ chăng? Như lúc Ung Chính ngầm bảo mọi người phê phán Niên Canh Nghiêu, mọi người đều không suy nghĩ, đều không làm gì hoặc nói Niên Canh Nghiêu ít nhiều cũng có công, liệu Ung Chính có hài lòng không? Rõ ràng, không thể không suy nghĩ. Hơn nữa, chỉ cần nói một câu khó nghe hoặc suy nghĩ không thấu đáo mới là sai lầm. Vào cuối năm thứ tư (năm 1726) và đầu năm thứ năm (năm 1727), có hai tổng đốc và ba tuần phủ báo về, nước sông Hoàng Hà trong veo. Người xưa nói “Hoàng Hà nước trong, thánh nhân xuất hiện”. Đương nhiên là điềm lành. Ung Chính vui mừng, gia phong quan tước, mỗi người lên một bậc. Lúc đó, có một đại lý tự khanh tên là Trâu Nhữ Lỗ, viết bài “Hà thanh tụng” hòng nịnh bợ, nội dung có câu “Cựu nhiễm duy tân, phong di tục dị” ý là, hoàng thượng thi hành cải cách, thực hiện tân chính, nước sông Hoàng Hà mới trong. Ai ngờ, Ung Chính đã nổi giận, liền chất vấn Trâu Nhữ Lỗ: “Phong gì đã thay? Tục gì đã đổi? Việc gì nhiễm củ? Chính gì đổi mới?” và cách chức Trâu Nhữ Lỗ, phạt ra công trình Kinh Giang tu sửa thuỷ lợi. Nghĩ xem, nịnh bợ không tốt đâm đen đủi, chi bằng cứ nói thật, vờ ngốc nghếch làm gì.
Thực tế, Ung Chính không hoàn toàn phản đối việc thần liêu đoán đồng ý và nịnh bợ. Ngạc Nhĩ Thái báo điềm lành, cũng chính là xu nịnh bợ đỡ, vì sao không phải là tội mà là công? Rõ ràng, Ung Chính cũng thích được người đến nịnh bợ, chẳng khác gì các vị hoàng đế khác. Ung Chính ghét nhất là đón ý lung tung và nịnh bợ bừa bãi, giống như anh chàng làm bài “Hà thanh tụng” vừa nói ở phần trên. Ung Chính đang thúc đẩy tân chính là đúng, Ung Chính muốn có người ca tụng cũng đúng. Nhưng Ung Chính muốn làm đúng, muốn theo truyền thống xưa của nền văn hoá Trung Quốc, coi như nước sông Hoàng Hà trong là công lao là sự ban phúc của linh hồn Thánh Tổ Nhân hoàng đế ở trên trời, đằng này Trâu Nhữ Lỗ lại nói là kết quả của thúc đẩy tân chính, chẳng phải đã phản nghịch sao? Hơn nữa, điều Ung Chính kỵ nhất là, có người nói mình không giống Khang Hy, không kính trời, không theo phép tổ, chưa đến ba năm đã thay đổi con đường của cha, đúng là “không giống con” của Khang Hy, cũng tức là “đứa con bất hiếu” của Khang Hy. Trâu Nhữ Lỗ đang làm điều ngược lại, không sờ vào mông ngựa lại sờ vào vó ngựa, chẳng trách đã phải ăn một đạp.
Vậy, phải làm như thế nào mới đúng? Ung Chính cho rằng, mấu chốt là phải thành thực. Tức là nói, dù là nịnh bợ, cũng phải nịnh bợ một cách thành khẩn. Nếu không thành tâm thành ý nịnh bợ, thà rằng đừng nịnh, hãy chăm chỉ vào công việc của mình. Chỉ cần làm tốt công việc, chức phận của mình, đã là công, là trung rồi. Dù không nói những lời tâng bốc, Ung Chính cũng sẽ không giận mà còn ban thưởng. Xét từ điểm này, Ung Chính cao minh hơn nhiều hoàng đế không được nghe lời tâng bốc thì không sống nổi. Ung Chính không muốn ai cũng phải nịnh bợ.
Muốn nịnh bợ cũng phải nịnh một cách thành tâm thành ý, nghe ra có vẻ buồn cười, nhưng với Ung Chính lại rất phù hợp, rất logic. Logic ở chỗ quân thần phải đồng tâm đồng sức, tâm phải hướng về một chỗ, sức phải làm cùng một việc. Nếu quân thần cũng là một thể, tâm tâm tương ứng thì nhất định hoàng thượng sẽ tán thưởng lòng trung đó, không nghĩ tới chuyện tâng bốc bợ đỡ. Sự tán thưởng ở đây xuất phát từ nội tâm, nên có thể gọi là “nịnh bợ một cách thành khẩn”. Giống như Ngạc Nhĩ Thái từng tán thưởng sự “tính toán xuất thần” của Ung Chính. Ngạc Nhĩ Thái cho rằng, Ung Chính xử lý án Tằng Tĩnh, nghĩ lại không phải là vấn đề cá nhân Tăng Tĩnh mà là vấn đề của ngàn vạn người” nên mới dám ban bố án tình, khẩu cung của Tằng Tĩnh cùng thượng dụ để bàn dân thiên hạ, trong ngoài đều biết.
Như vậy thì trù phi chỉ có “đại quang minh, đại trí tuệ” có thể “vô ngã vô nhân, duy trung duy chính”. Xưa nay chưa có ai làm được như vậy. Người khác nghe xong mấy lời của Ngạc Nhĩ Thái có thể cảm thấy ớn lạnh, còn Ung Chính lại không coi đó là nịnh bợ, vì đã có đủ lý lẽ, nêu rõ điểm chính - Ung Chính xử án không phải chỉ nhìn vào việc mà đã thể hiện được tầm nhìn chính trị rộng lớn.
Các thần tử học thức bình thường, tầm nhìn hạn hẹp sẽ không hiểu những mưu sâu chí xa về mặt chính trị, nhưng với Ngạc Nhĩ Thái thì khác, Thái đã thấu hiểu, do trung mà tán thương, vì vậy là thành.
Thực tế, chính trị cũng là nghệ thuật. Hành động và cách xử trí của nhà chính trị tài ba, cũng giống một tác phẩm nghệ thuật tinh tế, cần có người tán thưởng. Vấn đề ở chỗ, sự tán thưởng đó phải xuất phát từ nội tâm, nếu không sẽ chỉ là bợ đỡ, dối trá, giả thiện, gây gổ, là gian. Ung Chính là chính trị gia cao minh, đã vận dụng thành thục các kỹ xảo chính trị, lòng nghĩ tay làm, xuất thần biến hoá, có nhiều điều mới mẻ. Thêm vào đó suy nghĩ chu đáo, mắt nhìn như ánh đuốc, rọi sáng khắp nơi, phàm những kẻ nói năng không thực, nịnh bợ bừa bãi, Ung Chính sẽ nhìn thấu cả. Có điều các hoàng đế khác nghe lời nịnh bợ không thành khẩn, có thể chỉ cười. Ung Chính thì khác. Vì Ung Chính khắt khe với người khác, lại căm hận nhất là “không thành thực” một khi phát hiện đối phương nịnh bợ giá doi liên cho rằng đỗi phương đã lừa dối mình, đùa cợt, xem thường mình. Không nói cũng biết kết quả sẽ ra sao, mặt mũi kẻ đó nhọ nhem như va vào bùn, không khéo còn bị Ung Chính bĩu môi cười nhạt, đùa cợt một lúc.
Xem ra với Ung Chính, nịnh bợ không phải là chuyện dễ. Nói hay một chút, được như nhà phê bình đầy sức thuyết phục, và thành thực nữa sẽ được nhà lãnh đạo nghệ thuật Ung Chính khen hay như thế, cần phải thành tâm, phải hiểu biết, không mấy người làm được như vậy. Cho nên những lúc lòng dạ vui vẻ, cũng có thể bỏ qua việc nịnh bợ giả dối (ngược lại đối phương chỉ có đen đủi). Vì nịnh bợ ít ra cũng không mấy ác ý, vì thái bình cũng là nhu cầu chính trị. Đối với phê bình, thái độ Ung Chính là chăm chú láng nghe. Ung Chính không phải là người từ chối lời phê bình. Ung Chính tiếp thu phê bình, cũng từng ban thưởng người phê bình. Thậm chí có lúc không tiếp thu lời phê bình nhưng vẫn ban thưởng. Như chuyện đại học sĩ Chu Thức luôn phê bình Ung Chính. Một số chuyện khác cũng như chuyện Tây Bắc dụng binh, Chu Thức đều không tán thành nhưng Ung Chính đã mời Chu Thức làm thầy giáo cho Hoằng Lịch. Sau này, ngay cả Chu Thức cũng cảm thấy chỉ đưa ra ý kiến thì không phải là việc nên đã cáo bệnh xin lui. Ung Chính nói: “Nếu bệnh không chữa được, trẫm không nỡ giữ, còn như chữa được khanh nỡ bỏ đi sao?”. Chu Thức cảm động không nghĩ đến chuyện về nghỉ nữa. Lại như chuyện Lý Nguyên Trực vừa nhận chức giám sát ngự sử mới được vài hôm đã có hơn chục bản tấu, công kích các đại thần trong triều, nói triều đình hiện nay chỉ có Nghiêu, Thuấn, không có Cao, Quỳ (Cao là Cao Đào, đại thần của Nghiêu, Quỳ là nhạc chính của Thuấn). Lý Ngôn Trực muốn nói có thánh quân chưa có hiền thần. Ung Chính xem tấu và cho gọi Lý đến để chất vấn: Không có Cao Quỳ thì lấy đâu ra Nghiêu, Thuấn? Lý Nguyên Trực hết đường nói. Kết quả Ung Chính “xử trị” Lý Nguyên Trực bằng cách thưởng cho mấy quả vải tươi Quảng Đông vừa tiến cống.
Nhưng Ung Chính cũng xử phạt mấy người phê bình khác rất nặng. Như Trực lệ tổng đốc Lý Phất. Lý Phất vốn là sủng thần của Ung Chính, còn là người mang vạ thay cho Ung Chính trong vụ Doãn Đường. Nhưng Ung Chính lại không dung thứ việc Lý Phất hạch tội Điền Văn kính, Lý Phất bị giáng làm thị lang bộ Công. Giám sát ngự sử Tạ Tế Thế “giữa đường gặp chuyện bất bình - ầm ĩ” cũng dâng tấu hạch tội Điền Văn kính (chưa kêu oan cho Lý Phất), kết quả, Tạ cũng bị cách chức, đầy ra làm việc trong quân A Nhĩ Thái. Lý Phất, Tạ Tế Thế công kích sủng thần của Ung Chính, đã bị trừng phạt như vậy. Lục Sinh Nam công kích toàn diện nền chính trị của hai triều Khang Hy, Ung Chính, đương nhiên Ung Chính không thể dung tha. Lục Sinh Nam quan chức bé nhỏ, lại thích bàn luận chuyện lớn. Lục Sinh Nam viết cuốn “Thông giám luận” gồm mười bảy chương, trong đó có nhiều ý kiến trái chiều về thể chế chính trị của đất nước và nhiều vấn đề chính trị quan trọng khác. Lục Sinh Nam cho rằng, thể chế chính trị trung ương tập quyền hiện nay gây ra nhiều “hoạ nạn khốc liệt”, nên khôi phục lại thể chế phong kiến thời Tây Chu, còn châm biếm Khang Hy, nói Khang Hy không chỉ không thể giáo dục thái tử, dẫn đến việc phế truất, còn không thể lập người kế vị, dẫn đến tranh giành cốt nhục. Còn nói, là hoàng đế chỉ nên nắm bắt các phương châm chính trị lớn, không nên quản mấy việc nhỏ nhặt linh tinh. Trong thời đại không có tự do ngôn luận, những nghị luận kiểu như vậy là phạm trọng tội. Sau đó, Ung Chính hạ lệnh tử hình Lục Sinh Nam.
Cùng bị tội với Lục Sinh Nam còn có Tạ Tế Thế, tội danh là mượn việc phê chú “Đại học” để châm biếm nền chính trị đương thời. Ung Chính hạ lệnh chém đầu hai người này. Chờ khi đầu của Lục Sinh Nam rơi xuống đất, quan hành hình mới tuyên bố ý chỉ của Ung Chính: “Tạ Tế Thế được miễn tội chết”.. Ung Chính vốn biết án của Tạ Tế Thế là án oan nhưng vẫn không tha cho thằng cha hay nêu đồng ý kiến này, cứ để hắn biết mùi của việc “sắp chém”. Thế mới thấy Ung Chính là vô cùng khe khắt.
Cách xử trí của Ung Chính khiến mọi người cảm thấy rất kỳ quái. Cùng là nêu ý kiến, sao có người lại được thưởng cho ăn quả vải tươi, có người lại thưởng cho “dao chặt đầu”, cuối cùng là khích lệ phê bình hay không cho phê bình?
Kỳ thực, Ung Chính có tiêu chuẩn và nguyên tắc của Ung Chính. Ung Chính chia nịnh bợ thành hai loại, thành khẩn và giả dối, phê bình cũng có “phê bình thành khẩn” và “phê bình giả dối”. Cái thứ nhất, phê bình sai có thể không trị tội; cái thứ hai, nói có đúng thì vẫn bị đen đủi. Sự đối xử với người phê bình sở dĩ có sự khác biệt trời vực: là vì thế nào là “phê bình thành khẩn”, thế nào là phê bình giả dối: Tlêu chuẩn cũng chí có một: Thành khẩn. Nói một cách cụ thể, phàm đứng trên lập trường của hoàng đế, một lòng một dạ nghĩ cho hoàng đế, đó là thành. Phê bình như vậy cũng là “phê bình thành khẩn”. Ngược lại, với lập trường của riêng mình, cùng với những suy tính riêng tư, là không thành khẩn. Phê bình kiểu này cũng là “phê bình giả dối”. Một khi lòng dạ không thành thực, thì dù là phê bình hay kiến nghị và dù là nói đúng hay nói sai, đều là hành vi của tiểu nhân, ngón nghề của tiểu nhân. Vì vậy không chỉ không được khích lệ mà còn bị phạt nặng. Chính vì nguyên nhân này mà Dương Danh Thời bị chỉnh.
Nhưng mấy người như Dương Danh Thời, Lý Phất, Tạ Tế Thế đều được các quan khắp triều công nhận là quân tử. Với mọi người họ là chính phái, thanh cao, không tham ô, không nhận hối lộ, không đầu cơ, không phe cánh, dám phạm thượng, dám đấu tranh hiến thân vì chân lý với một tinh thần quên thân vì lợi ích quốc gia dân tộc, sao lại là tiểu nhân, vì lẽ gì mà trở thành tiểu nhân?
Ung Chính có cách nói của riêng mình, cho rằng tiểu nhân cũng có mấy loại. Một loại kiểu như Tiền Danh Thế, đặc điểm là đầu cơ kiếm lợi; loại nữa kiểu như Niên Canh Nghiêu, đặc điểm là vong ân bội nghĩa. Đây là hai loại tiểu nhân dễ dàng bị phát hiện, không đáng lo. Còn một loại tiểu nhân khác rất nguy hiểm, rất đáng sợ. Đặc điểm của chúng là chuộng hư danh, muốn nổi tiếng, vì vậy chúng luôn tỏ ra là bậc chính nhân quân tử, thậm chí dám hỵ sinh thân mình để có thể mê hoặc quần chúng, làm đảo lộn những điều nghe thấy. Từ đây mới thấy họ rất nguy hiểm. Theo Ung Chính, Lý Phất, Tạ Tế Thế, Dương Danh Thời là loại tiểu nhân như vậy. Cho nên triều dã trên dưới càng đồng tình với họ, Ung Chính càng hận, càng muốn trừng trị họ. Ung Chính là người độc tài, xưa nay chưa hề ngại gì dư luận.
Theo Ung Chính, loại người như Dương Danh Thời luôn muốn “mua danh chuốc tiếng, còn việc đất nước gạt ra ngoài”. Bề ngoài thấy những người này không tham lam, hình như không nghĩ đến tư lợi, kỳ thực họ muốn lợi hơn bất kỳ ai. Lợi này tức là danh, họ nghĩ mình đã có được và có thể lợi dụng nó để phô trương khắp nơi, để có được cái gọi là “thanh danh”. Để có được “thanh danh” họ không tham ô, không nhận hối lộ, để có được “thanh danh” họ dám nói lời kháng nghị, dám phạm thượng. Để có được “thanh danh”, họ không nghĩ tới đất nước, vua cha, tuyên bố lung tung quan điểm của mình, ngoan cố giữ vững lập trường của mình, trong mắt họ hoàn toàn không còn đại cục ổn định, sự đoàn kết, không còn lễ pháp tôn ti quân thần, một lòng một dạ họ chỉ mong được mọi người hoan hô, được sử xanh lưu tên. Ung Chính cho đó là tư, là dục vọng, là không thành thực, là không còn vua. Được thôi, trong mắt các ngươi không có vua cha, trong mát trẫm cũng không còn các ngươi. Chẳng phải các ngươi muốn được nêu danh sử xanh sao? Trẫm cho các ngươi được toại nguyện, trẫm sẽ giết, giết bằng hết xem còn kẻ nào dám đùa bỡn nữa không?
Trong rất nhiều lời phê, trong thượng dụ có thể nhìn ra tâm lý vừa nói của Ung Chính, đó là sự khác biệt giữa Ung Chính và bọn Dương Danh Thời, đó chính là bi kịch trong nền văn hoá Trung Quốc. Theo tinh thần cơ bản của văn hoá Trung Quốc thì đạo đức là cái quý nhất, quan trọng nhất của thế giới. Sở dĩ người khác với động vật, bởi họ có đạo đức. Vì vậy đạo đức trở thành sự khác biệt giữa quân tử và tiểu nhân, người tốt và người xấu, thậm chí trở thành tiêu chuẩn duy nhất để phân biệt người và không phải người. Bọn Dương Danh Thời thấy như vậy, Ung Chính cũng thấy như vậy. Hơn nữa, đạo đức Ung Chính hiểu và đạo đức bọn Dương Danh Thời hiểu, đều phù hợp với tiêu chuẩn đạo đức trong nền văn hoá Trung Quốc, nhưng giữa họ cũng có chỗ khác nhau nên không thể không xảy ra những xung đột mang tính bi kịch.
Dương Danh Thời, Lý Phất, Tạ Tế Thế và cả Lục Sinh Nam đều là những người đọc nhiêu Thi, Thư, học vấn cao, đây bụng kinh luân. Một người đọc nhiều sách tất có nhiều suy nghĩ, có cách nhìn riêng nhưng sự hiểu biết của họ luôn nằm trong phạm vi học thuyết Nho gia, nhất là về mặt đạo đức, luôn nghiêm chỉnh giữ đúng quan niệm Nho gia, chỉ có điều họ hiểu học thuyết Nho gia và thi hành nó thông qua những suy nghĩ của riêng mình. Vì vậy họ hoàn toàn tin rằng, tu dưỡng đạo đức là việc của cá nhân, tức là “làm điều nhân là do mình, chứ do người khác được sao?”. Đã vậy “làm điều nhân là do mình” nên “ta muốn nhân, nhân sẽ đến”. Chỉ cần bản thân công tâm, không thấy hổ thẹn, tức là “nhân”. Còn như có thu được công danh lợi lộc hay không, những người khác bình phẩm như thế nào họ không lưu tâm. “Người khác” ở đây bao gồm cả hoàng đế. Đó chính là chỗ dựa về tinh thần để họ dám tấu lời nghịch tai với hoàng đế, “là nhân thì không nhường thầy”. Đã có thể “không nhường thầy”, đương nhiên cũng có thể “không nhường vua”. Dù có bị vua bài xích, chém đầu cũng không sợ. Vì “Kẻ nhân và chí sĩ, không mong sống để hại nhân, có sát thân mới thành nhân”. Hơn nữa, đã “nhân” ở trong lòng, vậy thì, vì lý tưởng, niềm tin, quan điểm và học thuyết trong lòng mình mà chết, cũng chính là “sát nhân thành nhấn”. Rõ ràng, bọn Tạ Tế Thế yêu cầu giữ được tính độc lập tương đối trong tính cách của mình, không hề mâu thuẫn với đạo đức Nho gia mà họ hiểu.
Lý giải của Ung Chính cũng không có vấn đề. Quan niệm đạo đức Nho gia cho rằng, trên thế giới không có đạo đức trừu tượng, chỉ có đạo đức cụ thể. Đạo đức cụ thể đó, tồn tại trong quan hệ giữa người với người cụ thể, như “Quân nhân, thần trung, phụ từ, tử hiếu”… Đã vậy, thì làm gì còn có nhân cách độc lập, làm vua, thì không thể “bất nhân”, làm thần, phải lấy “trung” làm đức, vậy mà lại làm ầm ĩ để đòi độc lập, vậy làm gì còn đức để nói? Cho nên Ung Chính rất căm ghét những văn nhân sĩ phu luôn tự phụ về đạo nghĩa, lấy đạo đức làm luật, muốn làm theo ý mình. Nếu họ lại tự cho mình là thanh liêm thì càng bị căm hận. Vì thanh liêm đã cho họ tiếng thơm và tiếng thơm đó càng tăng thêm vốn liếng để họ có thể giữ được sự độc lập đối với quân vương. Kết quả trong mắt Ung Chính, số “thanh quan” này còn đáng hận hơn số “tham quan” kia. Bọn tham quan chỉ trộm tiền, bọn thanh quan lại muốn cướp danh, mà cướp danh cũng là cướp nước.
Ung Chính còn có logic, cho dù bất cứ người nào cũng không thể độc lập thực sự. Nếu cứ đòi độc lập với quân chủ thì nhất định đã có băng đảng riêng. Vì “đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu” mà! Ung Chính trừng trị Dương Danh Thời, Lý Phất vì cho họ là lãnh tụ của loạn đảng. Ung Chính từng nói với Ngạc Nhĩ Thái: “Trẫm chỉnh lý tật xấu trong khoa giáp (vì quan hệ giữa thầy trò và đồng niên dễ dàng kết thành bè đảng) y (chỉ Dương Danh Thời) xứng đáng là lãnh tụ”. Lúc thẩm tra Tạ Tế Thế cũng nghiêm hình bức cung, muốn hắn thừa nhận được Lý Phất sai khiến (lời khai của Tạ Tế Thế là “được Khổng Mạnh sai khiến”). Có thể thấy Ung Chính đả kích Dương Danh Thời, muốn một tên trúng hai đích: Không muốn thiên hạ nói tới cá nhân độc lập, càng không cho phép họ kết đảng.
Ung Chính thích nhất là loại người: Không quan hệ với bất kỳ ai, chỉ được “kết đảng” với một mình hoàng đế, như Điền Văn kính và Lý Vệ.
Cho nên, Ung Chính rất thích “cô thần”. Điều đó không hoàn toàn là nhu cầu chính trị, mà liên quan đến từng trải, cảnh ngộ cùng tính cách của Ung Chính. Ung Chính là người cô độc, xưa nay chỉ tin mình, không tin bất kỳ ai. Nhiều lần Ung Chính đã cảnh báo thần liêu: “Con người là khó tin nhất, bản thân phải làm việc cẩn thận, phải công chính thanh liêm”. “Không thể dựa vào người khác, chỉ cầu ở mình là tốt”. “Chỉ mong không phô trương, không đón ý đón quyền, mình làm được bao nhiêu là tốt rồi, tự nhiên sẽ rất dễ”. Ung Chính còn nói: “Mọi thứ không thể ỷ lại, dựa dẫm, đại trượng phu nam tử hán phải ra sức để có được, như thế mới đáng mặt”. Vì vậy, “đại trượng phu phải làm việc hết sức mình”. Thậm chí Ung Chính còn yêu cầu thần hạ không phải quản gia nhân cùng con cháu: “Con cháu có phúc của con cháu, quan trọng là phải lo cho thân mình”. “Cần phải thấu đáo, đừng bao giờ để con cháu, thân hữu làm khổ mình”. Tính cách và đối nhân xử thế của Ung Chính là như vậy, còn về cái gọi là “băng đảng”, không chỉ có sự phản đối xuất phát từ nhu cầu chính trị, mà cũng còn vì lòng đố kỵ, hận thù của nguyên nhân tâm lý.
Đương nhiên, cũng có lúc Ung Chính cho phép hoặc khích lệ, như là “phụng chỉ kết giao”. Như Ung Chính đã nhiều lần răn dạy, không cho phép đại thần kết giao với vương công, nhưng lại chỉ thị các sủng thần kết giao với Di Thân vương Doãn Tường, vì Ung Chính cần có Doãn Tường giúp mở dòng kênh thông thương tình cảm riêng tư với các thần hạ. Ung Chính lại nói, là bề tôi, theo lý thì không thể kết giao riêng tư. Nhưng nếu muốn “đồng lòng vì nước, cùng nhau kính yêu”, trẫm lại sợ các khanh không làm được. Thực là mâu thuẫn. Cuối cùng thì, nên hay không nên kết giao bầng hữu? Nói thẳng ra, không cho người khác kết giao bằng hữu, chỉ một mình Ung Chính được kết giao, cũng không cho người khác có cảm tình, chỉ cho phép người khác hiến dâng lòng trung của mình. Nói cách khác, Ung Chính muốn “kết giao bằng hữu” với riêng từng thần tử.
A di đà Phật! Bằng hữu kiểu đó thì kết giao thế nào được!
Ung Chính chỉ có thể thể nghiệm sự cô độc, tết Đoan Ngọ năm thứ tư (năm 1726), Ung Chính làm bài thơ: “Tam điện cửu trùng ai là bạn? Trăng thanh gió mát bạn tâm giao”. Quả có phần nào phong vị của Lý Bạch “Nâng chén mời trăng sáng, với bóng mình là ba”.
Nhưng Ung Chính không hề hối hận. Đối với những việc đã làm trong suốt cuộc đời ông không hề ân hận mà còn có phần tự hào. Giống như Ung Chính tuyên bố với người đời rằng: “Trẫm là một chàng trai như vậy, ương gàn như vậy, hoàng đế như vậy!”. Đã vậy, chúng ta còn gì để nói đây?
Chú thích


(1) Chữ Trân trong tên của Lam Đình Trân và chữ Chân trong Dận Trân có cùng âm đọc là “zhen” (BTV).
(2) Ý chỉ sự oán thán, than vãn (BTV).
(3) Ngôn quan: Là một bộ phận cấu thành kết cấu quan lại phong kiến. Nhiệm vụ chính là quan giám sát và can gián bề trên. Quyền lợi của ngôn quan khá lớn, đặc biệt là ở thời Minh, đến hoàng thượng cũng phải kính nể (BTV).
Phiên đệ: Phụ trách của các Phiên vương - tức Thân vương là Quận vương (BTV).
Về Đầu Trang Go down
https://triamquan.forumvi.com/
Tri Âm Quán
Thành Viên Tích Cực
Thành Viên Tích Cực
Tri Âm Quán


Tổng số bài gửi : 6340
Reputation : 2
Join date : 31/07/2013
Đến từ : Thị Trấn Chũ

Luận Anh Hùng - Page 2 Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Luận Anh Hùng   Luận Anh Hùng - Page 2 EmptyFri Dec 26, 2014 3:32 pm

DỊCH TRUNG THIÊN
LUẬN ANH HÙNG
UNG CHÍNH
- 5 -
Hoàng đế như vậy
Ung Chính là hoàng đế như thế nào? Hoàng đế độc tài.
Ung Chính bài trừ người khác ý, đánh vào băng đảng, với mục đích rõ ràng, Ung Chính muốn cả đế quốc chịu sự thống trị tuyệt đối của riêng mình.
Điều đó rất khó, nhưng Ung Chính đã làm được.
Biện pháp của Ung Chính là xây dựng và hoàn thiện chế độ mật chiết. Mật chiết, nói trắng ra là bí mật thông tin riêng giữa thần liêu và hoàng đế, bằng cách trao đổi một số chiếc hộp bằng da chuyên dùng được chế tạo đặc biệt. Chiếc hộp có hai chìa khoá, một giao cho người tấu sớ, một trong tay hoàng thượng, người khác không được và cũng không dám mở hộp, tin tức hoàn toàn bí mật, nên gọi là “mật chiết”.
Xây dựng chế độ mật chiết là một hạng mục cải cách quan trọng của chế độ chính trị truyền thống. Quân thần vốn không có điều gì riêng tư. Chữ nghĩa đi lại giữa quân thần chỉ có “công văn”, không có thư riêng. Thông thường bên phía các quan có hai loại văn thư (công văn). Một loại là “đề bản”, chuyên bàn việc công, có đóng dấu; một loại là “tấu bản”, bàn việc riêng, không cần đóng dấu. Hai loại văn thư này đều do thông chính ty trao chuyển. Quan viên liên quan được đọc trước khi hoàng đế ngự lãm, coi như là thư công khai, không có gì bí mật. Lúc tấu xin tu sửa Tuấn Nhĩ Hải, Dương Danh Thời dùng loại đề bản - loại công khai. Vì vậy, Ung Chính cho rằng Dương Danh Thời cố ý tuyên bố công khai việc đó, để người khác (bao gồm cả hoàng đế) khỏi cướp mất công sức của mình. Đề bản và tấu bản có thể công khai, những giữa thần liêu và hoàng đế có một số điều cơ mật cần phải giấu, không nói ra được thì chẳng có cách gì để phối hợp. Hơn nữa, hình thức bàn việc công thế này cũng không phù hợp với suy nghĩ của Ung Chính là kết giao bằng hữu đơn độc với các thần liêu. Vì vậy, Ung Chính mới sử dụng loại mật chiết được bắt đầu từ thời Thuận Trị, Khang Hy nhưng chưa được biến thành công cụ chính trị vận dụng phổ biến, hình thành cái gọi là “chế độ mật chiết” và “chính trị mật chiết”.
Chế độ mật chiết thực dụng hơn chế độ công văn. Ngoài việc giữ được bí mật, nó còn tiện lợi và nhanh chóng hơn nhiều. Đề bản rất phiền hà. Nó yêu cầu phải viết theo thể chữ thời Tống, cần có hai bản chính và phụ, phải được nội các thẩm định trước, sau khi hoàng thượng xem xong phải viết thành hai thứ chữ Mãn, Hán. Mật chiết không cần, nó không câu nệ hình thức, có thể viết một cách tự do, viết xong không cần qua bất kỳ khâu trung gian nào khác, trực tiếp đưa đến tay hoàng thượng. Hoàng đế chỉ việc bóc ra xem, rồi phê, từ đầu đến cuối, không mất nhiều thời gian, không nhỡ việc.
Chính trị mật chiết còn cao minh hơn chính trị đặc vụ. Đặc vụ là bộ phận tổ chức quan trọng trong chế độ chính trị thời Minh. Để hoàng quyền được mạnh hơn, đế vương thời Minh đã làm hai việc: Một là, bỏ chức tể tướng, lấy các thần thay thế, tức là không cần thủ tướng chính phủ, chỉ cần thư ký và thư ký trưởng, còn nguyên thủ quốc gia và đứng đầu chính phủ đều do hoàng đế kiêm nhiệm. Nhà Thanh đã kế thừa chế độ này. Hai là, thiết lập cơ quan đặc vụ. Cụ thể là Đông xương, Tây xưởng và Cẩm y vệ - nơi mà thần dân thời Minh khiếp sợ, gọi chung là “Xưởng Vệ”. Từ đầu thời Minh đã có cẩm y vệ, là cơ quan đặc vụ chuyên nghiệp do hoàng đế và sủng thần quản lý. Năm Vĩnh Lạc thứ mười tám, (năm 1420), lập Đông xưởng, nhiệm vụ như cẩm y vệ, do thái giám quản lý, có quan hệ gần gũi với hoàng đế. Vào những năm Thành Hoá thời Minh Hiến Tông, có hai thái giám tranh giành Đông xưởng nên mới lập thêm Tây xưởng. Ngoài ra, vào những năm Chính Đức, vì sủng tín thái giám Lưu Cẩn, Minh Võ Tông lập thêm cho hắn Nội hành xưởng (sau khi Lưu Cẩn bị giết thì phế bỏ). Vì có rất nhiều cơ quan đặc vụ, nên nền chính trị thời Minh còn được gọi là nền chính trị đặc vụ.
Nền chính trị đặc vụ thời Minh cực kỳ đáng sợ. Một câu chuyện được lưu truyền rộng rãi nói: Có một hôm, hai chàng trai A, B ngồi uống rượu trong quán. Nói tới thời sự, A nói Xưởng vệ xem xét minh bạch, B lại mắng Xưởng vệ hoành hành bá đạo. A khuyên B đừng nói vậy, B nói: Sợ gì, chúng không thể lột da tao? Hôm sau, A ra phố, bị một chàng trai lạ mặt ngăn lại, nói có việc cần bàn, mời A uống rượu. A được đưa vào quán rượu hôm qua ngồi với B. Vừa tới đã nhìn thấy một tấm da treo trên tường, là da của B. Kẻ lạ mặt cười nhạo, nói, nhìn thấy chưa? Ai bảo không dám lột da của hắn! A sợ đến vãi linh hồn, nghĩ thầm, may sao hôm qua mình không nói xấu Xưởng vệ.
Nền chính trị đặc vụ thời Minh đáng sợ như vậy, nên rất mất lòng dân và cũng chẳng hay ho gì. Có vẻ như Chu Nguyên Chương và Chu Lệ không mấy tin tưởng số quan viên dưới quyền. Lo ngại như vậy là có lý. Thiên tử cao cao tận cửu trùng, sống trong cung khuyết thâm nghiêm, cách biệt hẳn với thế giới bên ngoài. Chính lệnh ban bố, dân tình đề đạt, quản lý đất nước, bảo vệ chính quyền đều dựa vào quan liêu. Đây là lực lượng mà bất kỳ vị đế Vương nào luôn phải nhờ cậy và luôn phải đề phòng. Vì vậy, ngoài có quan giám sát công khai (như Ngự sử đài, Đô sát viện) còn phải có thêm cơ quan đặc vụ bí mật. Nhưng đặc vụ lại do con người tiến hành. Nhưng quan còn chưa tin được, thì đặc vụ có đáng tin không? Kết quả, vì không được tín nhiệm, nên quan sinh lòng oán hận, đặc vụ vì quyền thế khá lớn đâm ra làm bừa. Một bên không tận tâm, một bên làm điều xấu, vương triều Minh bị giày vò cho đến hết.
Nền chính trị mật chiết hay ho hơn nhiều. Tuy vẫn còn hàm ý không thật yên tâm với các quan viên dưới quyền, nhưng biểu hiện vẫn là tín nhiệm cao độ ở các quan. Tức là những người được hoàng đế tin tưởng mới có quyền mật tấu. Ở thời Ung Chính, người có quyền mật tấu có địa vị cao hơn nhiều so với thời Khang Hy (cao hơn chừng mười lần), quan viên từ cấp tỉnh phó trở lên đều có thể truyền chiết mật tấu, nhưng vẫn là một loại đặc quyền. Quan lớn ngoài biên cương, một khi bị thất sủng thì mất luôn đặc quyền này. Một số quan viên cấp thấp cũng có thể có được đặc quyền này. Đặc quyền luôn khiến mọi người hâm mộ, vì có nhiều cơ hội được trực tiếp nói chuyện với hoàng đế. Nhất là các quan viên cấp thấp và ở xa cung đình, cả đời chắc gì đã được nói vài câu với hoàng đế. Lúc này đã có “đường dây nóng trực tiếp”, có gì nói nấy, muốn tố cáo ai thì tố cáo, cấp trên cũng không quản được, lại không sợ bị lộ bí mật. Không còn gì vui vẻ, thú vị bằng. Tự nhiên người ta sẽ tích cực vượt tấu viết mật chiết, cam tâm tình nguyện làm tai mắt cho hoàng đế.
Hoàng đế được rất nhiều cái lợi, vừa xoá bỏ được nền chính trị đặc vụ mà ai cũng căm ghét, bớt được một khoản chi tiêu lớn, còn được lòng dân, không phải phòng ngừa việc lạm dụng đặc quyền. Ngoài việc có sớ tấu bàn chuyện, các thần liêu lớn bé không có quyền lực gì, không ở trong tổ chức nào, không biến thành một thứ nọc độc lâu dài của đất nước như Xưởng vệ dưới thời Minh. Nhưng tai mắt của đế quốc, không vì triệt tiêu mất cơ quan đặc vụ mà ít đi, mà ngược lại ngày càng nhiều, càng rộng. Vì, các quan viên từ cấp phó tỉnh trở lên đã trở thành tai mắt của hoàng đế. Loại tai mắt này có ở khắp cả nước, đâu đâu cũng có, trở thành một mạng lưới tình báo, bao quát tất cả và cực
kỳ nhanh nhạy. Loại tai mắt này không ai biết ai, nhưng lại cùng nhau giám sát tất cả, chỉ có hoàng đế ngồi ở trên cao, mắt nhìn ra bốn phương, tai nghe từ tám hướng, không ra khỏi cung mà biết hết mọi chuyện trong thiên hạ. Thế là hoàng đế trở thành trung khu thần kinh của đế quốc, trở thành đấng toàn năng duy nhất trong cả nước, biết được tất cả. Các quan viên có quyền mật chiết được phân bố khắp các bộ, các tỉnh trong cả nước, trở thành đầu mút dây thần kinh của Ung Chính, trở thành lá bài trong tay Ung Chính. Hoàng đế có thể dùng lá bài đó để vận trù trong trướng, để các quan cạnh tranh được ân sủng, bản thân như ngư ông ngồi hưởng lợi. Tóm lại, chính vì đã xây dựng được chế độ mật chiết - “hệ thống kinh ngạc” mà trái tim và tay chân của đế quốc mới được liên thông, hoàng đế mới trở thành “nguyên thủ” thực sự của đất nước.
Nền chính trị mật chiết của Ung Chính đáng để các nhà chuyên môn tham khảo, nghiên cứu.
Từ lúc Tần Thuỷ Hoàng xây dựng nên thể chế chuyên chế trung ương tập quyền và thống trị, quản lý như thế nào một đế quốc thống nhất, đất đai vô cùng rộng lớn, nhân khẩu vô cùng đông đúc luôn là một vấn đề rất khó hiểu. Cách làm của các vương triều trước Minh, Thanh là trị nước thông qua hình thái ỹ thức và luân lý đạo đức. Đó cũng là nguyên nhân để Hán Vũ đế độc tôn Nho thuật và Tuỳ, Đường xây dựng nên chế độ khoa cử. Theo đường lối chính trị này, các văn quan lầu thông kinh điển Nho gia, tuyệt đối trung thành với hoàng thất sẽ là người quản lý chủ yếu của đế quốc. Một đế quốc rộng lớn trong thời đại nông nghiệp, công việc cũng không phức tạp, chỉ là đóng thuế đúng hạn, đảm bảo an ninh trong các địa phương. Ngoài ra còn hai việc không có tính chất quy luật là chế ngự kẻ địch từ bên ngoài, và cứu tế nạn dân. Nếu như mưa thuận gió hoà, mùa màng bội thu, quan lại thanh liêm, dân phong thuần phác thì quan lại địa phương luôn luôn thoải mái. Vì vậy trong thời bình, quan lại địa phương rất nhàn nhã, có thể ngâm thơ vịnh nguỵệt, thậm chí là viết sách lập thuyết, công việc không hề bận rộn. Nhưng, thời “thái bình thịnh trị” trong lý tưởng lại xây dựng trên một cơ sở không được vững bền. Nếu lại thiên tai nước lũ, mùa màng thất thu, quan lại tham ô, dân tình sa sút thì sẽ thế nào? Cái gọi là hình thái ý thức, luân lý đạo đức còn có tác dụng gì? Dù Khổng Tử còn sống cũng khó mà thuần hoá phong tục.
Và nếu tất cả mọi người đều là Hải Thuỵ, cũng chưa hẳn đã hết vấn đề. Vấn đề là: Mọi người đều là Hải Thuỵ thì còn cần hoàng đế để làm gì? Chẳng nhẽ “nền cộng hoà vua bù nhìn” thực sự không được? Không hề có vị hoàng đế nào lại muốn mình trở thành “vua bù nhìn”. Các vị vua thực sự trong vương triều phong kiến thời kỳ đầu, không ai muốn bản thân và con cháu của mình chỉ là “nguyên thủ quốc gia trên danh nghĩa”, đúng là “chấp chính do ninh thị, cúng tế do quả nhân” (quốc gia do quyền thần quản lý, hoàng đế chỉ lo việc lễ nghi). Tâm lý không thể nói đó hoàn toàn là ích kỷ. Vì mọi người đều là Hải Thuỵ, hoàng đế sẽ yên tâm. Nhưng nếu mọi người đều là Nghiêm Tung, liệu hoàng đế có yên tâm được không? Khi đó, vấn đề hoàng đế phải suy nghĩ là liệu đầu mình có còn ở trên cổ không.
Thực tế, chỉ dựa vào đạo đức, lễ nghĩa để trị quốc là hoàn toàn không thể (trước đây đã nói nhiều về điều này), vì vậy mới có nền chính trị đặc vụ ở thời Minh, Ung Chính đã tổng kết nhiều bài học kinh nghiệm qua các thời đại và cho rằng, đức trị và lễ trị tuy không thể dựa vào (nhưng cũng không thể vứt bỏ), nhưng nền chính trị đặc vụ còn tệ hại hơn nhiều. Biện pháp duy nhất là thi hành “nhân trị” (nhân là người). Có điều “nhân trị” có hàm nghĩa đặc biệt của nó, tức là: Ngoài hoàng đế, không một ai có thể là chủ thể của nền thống trị. Vì vậy, nên nói một cách chính xác là “đế trị” - sự thống trị của một mình hoàng đế.
Trước Ung Chính, hình thức chủ yếu của nền chính trị Trung Quốc là đức trị và lễ trị. Nhân trị là hiện tượng đặc biệt của một thời kỳ nào đó, và chủ thể không nhất thiết phải là hoàng đế (như Tào Tháo là thừa tướng, Võ Tắc Thiên là hoàng hậu và thái hậu) và cũng không có một chế độ tương ứng nào. Ngược lại, không ít hoàng đế chẳng có cách gì để thi hành trị quyền (như tuổi quá nhỏ) hoặc chủ động vứt bỏ trị quyền (như Vạn Lịch thời Minh) và kết quả, không có vương triều nào được “yên ổn lâu dài”, không thoát khỏi cảnh thay triều đổi đại. Rõ ràng, con đường thoát duy nhất là, xác lập “nền chính trị cá nhân” của hoàng đế, khiến hoàng đế trở thành đại biểu duy nhất cho ý chí đất nước. Ý nghĩa của chế độ mật chiết là đây.
Cho nên, chế độ mật chiết không chỉ giúp hoàng đế thu thập tình báo, giám sát quan viên, mà mật chiết còn là thủ đoạn quan trọng trong hiệp thương chính trị và quyết sách bí mật. Rất nhiều đường lối cải cách quan trọng và những quyết sách lớn lao của Ung Chính, như phân bổ đinh trang theo đơn vị ruộng đất, thay chế độ thổ quan bằng chế độ bổ nhiệm, và khơi thông kênh đào đều được hình thành thông qua mật chiết trưng cầu ý kiến rộng rãi, rồi suy nghĩ bàn bạc và quyết định, sau đó
triều đình chính thức hạ chỉ lệnh để cả nước thi hành. Nhưng vì sao hiệp thương chính trị và trưng cầu ý kiến phải thông qua mật chiết mà không bằng con đường công khai bàn bạc trong hội nghị ngự tiền? Hoàng đế Ung Chính đã suy nghĩ kỹ và thấu đáo về vấn đề này. Thứ nhất, đến dự hội nghị chỉ là quan viên bộ môn trung ương, nên không nghe được ý kiến của các quan địa phương. Thứ hai, người phát ngôn nếu không phỏng đoán chỉ đồng ý của hoàng thượng, thì cũng nghe theo thủ tục, tể thần, bảo sao làm vậy, không thể nghe được những điều muốn nói. Thứ ba, nếu dẫn đến tranh luận, sẽ tổn thương hoà khí, môn hộ, băng đảng sẽ tranh nhau, bất lợi cho sự đoàn kết. Thứ tư, đưa những điều suy nghĩ chưa thấu đáo công khai với quần chúng, các bên sẽ suy đoán, thậm chí sẽ dẫn đến đảo lộn, động loạn, bất lợi cho việc ổn định cục thế.
Thăm dò qua mật chiết, kết quả hay hơn nhiều: Thứ nhất, nghe được ý kiến trung ương, nghe được ý kiến địa phương. Thứ hai, vì là mật chiết nên người bên cạnh không biết, người phát biểu ý kiến sẽ nói hết những điều muốn nói. Mọi suy nghĩ, mọi khổ đau, những điều muốn giấu, không thể biểu lộ công khai, giờ đây đều có thể kể hết, tường tận, khiến chủ nhân thấu hiểu được mọi vấn đề. Hơn nữa, vì dám nói thật, không cần phải văn chương ra vẻ, mà tiếp xúc thẳng với thực chất vấn đề. Thứ ba, vì nội dung mật chiết được bảo vệ nghiêm ngặt, không hề bị tiết lộ, không sợ các quan viên nắm được và hình thành nhiều dư luận khiến chủ nhân phải suy nghĩ. Thứ tư, thảo luận mật chiết không mang tính chính thức, một khi phát hiện có gì chưa thoả đáng, có thể thu hồi ngay, không để xảy ra bất kỳ một ảnh hưởng xấu nào. Có thể nói, Ung Chính làm vậy là rất có lý, rất cao minh.
Ung Chính lợi dụng mật chiết, không chỉ tránh được nhiều quyết sách sai sót, ít có những “công trình phải nát óc”, mà còn có thể nắm được nhiều tình huống. Mật chiết không phải văn thư chính thức, không cần phải nhấn mạnh một điểm nào, có thể nói về mọi vấn đề. Thực tế, Ung Chính cũng yêu cầu như vậy. Ung Chính từng nói với các quan viên có quyền mật tấu, muốn họ cho biết nhiều tình hình hơn, như những điều tốt, chưa tốt trong chính sự địa phương, quan lại địa phương ai lười ai chăm, cấp trên trực tiếp ai công ai tư, quan viên cấp dưới ai ưu ai khuyết, kỷ luật trong quân doanh nghiêm minh không, khí hậu có thuận hoà không, sinh kế của trăm họ thế nào, phong tục thuần phác chăng, thậm chí giá gạo, giá rau, án oan, án lạ, “đều có nghe người nói lại”, “không cần chờ lúc mọi việc được rõ ràng”, chỉ cần tìm được những điều có liên quan. Vì mật chiết chỉ là phản ánh tình hình, không phải căn cứ để lập án, cuối cùng vẫn là sự phán đoán của Ung Chính, nên có nói sai cũng chẳng sao.
Về Đầu Trang Go down
https://triamquan.forumvi.com/
Tri Âm Quán
Thành Viên Tích Cực
Thành Viên Tích Cực
Tri Âm Quán


Tổng số bài gửi : 6340
Reputation : 2
Join date : 31/07/2013
Đến từ : Thị Trấn Chũ

Luận Anh Hùng - Page 2 Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Luận Anh Hùng   Luận Anh Hùng - Page 2 EmptyFri Dec 26, 2014 6:51 pm

Đây chính là điểm hơn người, điểm cao minh của Ung Chính. Mật chiết vốn là chế độ rất nguy hiểm. Mật chiết dễ dàng liên quan đến cáo mật, thậm chí biến thành một phương thức cáo mật, nếu làm không khéo dễ làm cho chủ nhân bị mắc lừa. Cho nên, Khang Hy đã nói: “Để cho người mật tấu không dễ, gặp phái người sơ lược là bị lừa. lạ le thế cũng nói: Tiểu nhân thường lấy cáo mật để hãm hại người quân tử. Không biết tên người tố cáo, bị cáo không thể phân giải, trên dưới quân thần nghi ngờ lẫn nhau”. Nhưng Ung Chính đã biến thuốc độc thành thuốc tốt, chơi với lửa mà không bị lửa thiêu. Phương pháp rất đơn giản, phải “nghe nhiều”. Tức là, phải mở rộng phạm vi quyền được mật tấu, lấy ý kiến khắp nơi, để không bị vào cảnh bị kẻ nào đó nói ngang nói ngược, để có thể có những phán đoán chính xác. Ung Chính cũng cho phép bị cáo được biện giải, nhưng không cho biết tên nguyên cáo. Như vậy, một khi là thực, người trình báo có thể được bảo vệ; chẳng may tố sai, bị cáo có thể rửa sạch nỗi oan. Cho nên, Võ Tắc Thiên lập chế độ cáo mật, tạo nên không ít án oan, giả, sai; Ung Chính lập chế độ mật chiết, đã bảo vệ được không ít người tốt. Vì một viên quan nào đó bị cấp trên hạch tội, Ung Chính có thể thông qua đường dây khác để hiểu hết thực tình, đúng là “quan lớn tuy muốn ép cho chết, còn hoàng thượng lại có thể coi là nhỏ ’. Chẳng trách Chương Học Thành cho là “thần thanh liêm chính trực” được sinh trong thời Ung Chính, đó là điều vạn hạnh và “dù có cảm kích sát thân, cũng chưa đủ để báo đền”.
Đúng vậy, đối với không ít người, được gặp Ung Chính là được gặp một hoàng đế tốt.
Ung Chính rất coi trọng việc dùng người, nhiều lần nói: “Trị thiên hạ, việc dùng người là cơ bản, việc khác chỉ là vụn vặt”. Đạo lý này không ít người đã hiểu, khẩu hiệu “tôn trọng nhân tài” đã được kêu gọi nhiều năm. Vấn đề không phải khó ở mức độ quan trọng của việc dùng người, mà khó là ở hai vấn đề sau: Dùng như thế nào? Và dùng ai? Trên thực tế, có thể quy kết thành một vấn đề: Thế nào là nhân tài?
Xưa nay thường có hai cách nhìn về vấn đề này. Hai cách nhìn đó lại có thể quỵ kết thành hai nguyên tắc, nguyên tắc đạo đức và nguyên tắc năng lực. Đức quan trọng hơn tài. Một người, nếu có tài không có đức, thì thà không dùng. Quan điểm đó sẽ dẫn tới hậu quả: “Thà nghe lời thùng cơm, không cần nghe lời người tài” hoặc “thà làm nô tài, không làm nhân tài”. Nguyên tắc năng lực lại chủ trương “có tài là dùng”. Chỉ cần có năng lực, tài cán, còn như bất nhân bất hiếu, cướp vợ người khác, nhận tiền người khác, không quan trọng. Hậu quả của chủ trương này không tránh khỏi văn nhân là vô hạnh, chẳng làm được gì, tiểu nhân thì cản đường. Đương nhiên, được mọi người thừa nhận và lý tưởng nhất là “đức tài gồm đủ”. Nhưng nếu không thể gồm đủ thì sao? Vậy thì cần đức hay cần tài?
Ung Chính chủ trương nên suy nghĩ vấn đề từ một góc độ khác. Ung Chính rất thích mấy câu nói của Ngạc Nhĩ Thái. Ngạc Nhĩ Thái nói: “Việc có khoan cấp, dễ khó; người có cứng mềm, ngắn dài”. Một người nếu không được dùng đúng chỗ, thì dù là người có năng lực cũng thành vô ích, và dù là người có đạo đức cũng có thể để nhỡ việc nước. Ngược lại, nếu được dùng đúng chỗ thì dù là người bình thường cũng có thể nên chuyện, hoặc là tiểu nhân cũng có thể làm tốt công việc. Tóm lại, sử dụng nhân tài phải đúng tài, đúng nơi, đúng việc và hợp thời thì nhất định sẽ là “quan không bỏ người, chính không nhỡ việc” (sắp xếp chức vụ không có người nào không dùng được, thi hành chính trị việc nào cũng làm xong). Lý lẽ rất đơn giản: Người và việc luôn có cái hay của riêng mình!
Như vậy là quá cao minh. Nhân sự, chẳng phải người và việc sao? Huống chi, mục đích dùng người là để làm việc. Cho nên, không thể khảo sát con người một cách cô lập, tách khỏi công việc. Làm như vậy thì không bao giờ có được kết luận chính xác. Rõ ràng, vấn đề không phải ở chỗ, ai làm ai không làm, mà là biết dùng hay không biết dùng. Như Chu Thức, học vấn tốt, làm người thì chính phái, hiền hoà thanh liêm chính trực, có phần thư sinh, Ung Chính để Chu Thức là thầy học của Hoằng Lịch. Lý Vệ ít học, cư xử thô lỗ, có dáng giang hồ, nhưng lại tinh anh, bạo gan nhanh nhẹn, Ung Chính cho đi bắt cướp. Kết quả hai người hành động rất tốt, tài và đức không hề mâu thuẫn. Nếu làm ngược lại, để Chu Thức đi bắt cướp, Lý Vệ là thầy giáo, e sẽ hồ đồ hết. Rõ ràng, nếu cứ bàn về đức tài một cách trừu tượng thì chẳng có ý nghĩa gì. Ngoài đức tài ra Ngạc Nhĩ Thái còn coi “việc” là một nguyên tắc để dùng người, như vậy là tương đối cao minh, đã giải quyết được một vấn đề khiến từng phải bàn cãi mãi.
Đương nhiên, không thể không nói tới hai chữ đức tài, nhưng Ung Chính thấy cần phải giải nghĩa lại. Trước thời Ung Chính, gồm cả hoàng đế Khang Hy, đế vương các thời đại đều lấy “Kinh ba chữ” của Tư Mã Chiêu làm chuẩn mực. Ba chữ ấy là thanh, thận, cần, cũng tức là thanh liêm, cẩn thận, cần mẫn. Ung Chính lại nghĩ khác. Ung Chính ở phiên đệ nhiều năm thấu hiểu chốn quan trường, nên đã đổi nội hàm của ba chữ này: Thanh biến thành vờ nghèo khổ, muốn sạch để cầu vinh; thận biến thành sợ việc, đùn đẩy sang người khác; cần biến thành vụn vặt, vì cái nhỏ bỏ cái lớn. Kết quả, có được một số thứ gọi là “thanh quan” mỹ danh “thanh thận liêm”, kỳ thực là “quan khéo”, “quan theo”. Bọn chúng chỉ biết sạch mình, không lo việc công, hoặc không phạm sai lầm lớn nhưng sai lầm nhỏ thì thường xuyên, tóm lại là không làm việc. Hoặc no nê suốt ngày, không để tâm đến chuyện khác; hoặc tụ tập suốt ngày, nói năng lung tung. Nhưng, vì họ hoặc tự nhận là thanh cao, hoặc nhát gan sợ việc nên không bị coi là tham ô hoặc phù phiếm, phù hợp với tiêu chuẩn của thanh và thận. Nếu lại chịu khó làm mấy việc lặt vặt thì còn được coi là cần.
Thế rồi triều đình phát hiện thấy viên quan nào đó không xứng với chức phận, thậm chí chỉ là phường giá áo túi cơm nhưng không làm thế nào được.
Ung Chính muốn làm việc, muốn cải cách, đương nhiên, không thể chấp nhận thói hư, tật xấu đó. Vì vậy, Ung Chính mới đề ra tiêu chuẩn mới, là công, trung, liêm, năng. Bốn tiêu chuẩn này có sự nhất quán với nhau: Người trung quân báo quốc là công, người công và quên tư là liêm, và có lòng công, trung như vậy tất sẽ cần lao với việc của vua, từ đó là năng. Nếu có ai đó năng lực quá kém, có thể bồi dưỡng học tập thêm, hoặc điều đi làm việc khác. Tóm lại, một viên quan tốt, đồng thời, còn là trung thần, thanh quan, số còn lại có năng lực, không phải chỉ là thanh liêm, không phạm sai lầm, là giữ được bổng lộc, là quan thái bình. Ví như tri huyện Ngô Kiều là Thường Tam Lạc “luôn giữ liêm khiết” nhưng “nhu nhược không hăng hái” nên bãi bỏ chức tri huyện đổi thành học quan, không phải lo việc dân sự.
Hoàng đế Ung Chính thực sự có phần khác thường, ông hận quan tham, cũng hận loại quan tầm thường và đặc biệt căm ghét loại quan thủ cựu, chỉ lo giữ mình, ngồi làm bù nhìn, chỉ là “con rối bằng gỗ”, chẳng làm được gì. Ung Chính cho rằng, đất nước lập quan nhậm chức, không phải để làm chiếc thùng đựng cơm. Phàm những ai không xứng với chức vụ, bất lực với công việc, đùn đẩy, nhìn trước ngó sau, nhất nhất đều bị bãi miễn, nhường chỗ cho người có năng lực. Ung Chính nói: “Trẫm xưa nay dùng người, chỉ luận nhân tài”. Một người, chỉ cần trung thành, lại có tài năng, thế là đức tài gồm đủ. Còn như xuất thân, học vấn, là người Mãn hay Hán, đều không cần suy nghĩ. Thậm chí là người ít học, tác phong sinh hoạt có phần thiếu sót, cũng không hề gì. Như Lý Vệ, vốn là người ít học, chức viên ngoại lang bộ Hộ là bỏ tiền ra mua. Nhưng với chức quan nhỏ bé đó lại dám đối đầu với thân vương. Lúc Lý Vệ là lang trung, thân vương nào đó chủ quản bộ Hộ đặc biệt tham lam. Mỗi lần qua tay sô tiền là một ngàn lạng bạc, người đó được hoa hồng là mười lạng, Lý Vệ bỏ đúng số tiền hoa hồng đó vào một chiếc hòm, để ngoài hành lang bộ Hộ, trên viết bốn chữ “Mỗ vương doanh dư” (Vương gia ta quá lãi), quan viên lớn bé qua lại đều nhìn thấy. Vị vương gia nọ cảm thấy rất khó xử, từ đó không dám “thu thêm”. Lý Vệ dũng cảm, nổi tiếng khắp kinh thành. Ung Chính biết tin, trong lòng đã có tính toán. Sau khi lên ngôi, lập tức cất nhắc, trọng dụng Lý Vệ. Năm đầu nhậm chức diêm đạo, năm thứ hai thăng là phiên ty, năm thứ ba là tuần phủ Chiết Giang, năm thứ tư là kiêm lý diêm chính Lưỡng Chiết, năm thứ năm nhậm mệnh tổng đốc Chiết Giang, năm thứ sáu kiêm lý đạo án Giang Tô, năm thứ bảy thêm hàm thượng thư bộ Binh, lại thêm hàm thái phó, cuối cùng là thượng thư bộ Hình và tổng đốc Trực Lệ, cứ thế từng bước thăng tiến.
Lý Vệ không ít tật xấu, nhất là tính nóng nảy, thô lỗ và vô lễ. Thấy cấp trên cứ luôn Lão Cao, Lão Dương, không gọi bằng quan chức; đối với cấp dưới, động một tí là mắng, lời lẽ thô tục. Vì vậy, không ít người tố cáo Lý Vệ. Ung Chính nói: “Lý Vệ thô lỗ phóng túng, ai chẳng biết, còn nhắc tới làm gì”, có ý muốn bảo vệ cho qua. Điền Văn kính cũng là sủng thần, học lực không bao nhiêu, nhược điểm nhiều, vô số người đã công kích và bàn tán. Nhưng Điền Văn kính không chỉ hết mực trung thành với nền chính trị Ung Chính, mà còn biết dốc hết sức vào công việc. Để thi hành chính sách mới của Ung Chính, Điền Văn kính là người đắc lực nhất, bỏ công sức nhiều nhất, Ung Chính nói về Điền Văn kính: “Xét quan an dân, trị tham trừ tệ, dốc hết tâm trí, không từ gian khổ, không tránh hiềm nghi”. Vì vậy Ung Chính kiên quyết ủng hộ Điền Văn kính trong lúc khó khăn nhất và bất kể triều dã trên dưới lời ra tiếng vào về Điền Văn kính, Ung Chính vẫn cất nhắc Điền Văn kính tới chức tổng đốc Dự Lỗ.
Nghe nói, Doãn Kế Thiện từng bình về ba vị “tổng đốc mẫu mực” thời đó. Doãn Kế Thiện nói với Ung Chính: “Lý Vệ, thần học cái dũng của ông ta, không học cái thô lỗ; Điền Văn kính, thần học cái chăm chỉ của ông ta, không học sự hà khắc; Ngạc Nhĩ Thái, về tổng thể là tốt, nhiều cái đáng học hỏi, nhưng thần cũng không học sự ương bướng của ông ta”. Rất đúng, sẽ không có vàng đủ độ vàng, sẽ không có người thực hoàn mỹ. Ung Chính dùng người, biết lấy sở trường bỏ sở đoản, khiến người ta được dốc tài, làm hết khả năng, người người đều được phát huy, Một vị quân chủ tầm thường không bao giờ làm được như vậy.
Ngày hai mươi lăm tháng mười một năm thứ tư (năm 1726), Ung Chính đã phê mấy câu, ý nghĩa rất sâu xa vào tấu chiết của tổng đốc Trực Lệ - Lý Phất. Ung Chính nói, ngươi còn rất xa mới sánh được với trẫm. Vì sao? Ngươi đọc nhiều sách hơn một chút, còn trẫm không chỉ đọc sách, còn “từng trải thế sự nhiều năm”, nên tình cảm hay lý trí đều có những điểm khác thường. Trẫm không phải là tự khoác lác bất tận, cũng không phải là quân vương tầm thường dựa vào quyền uy của đế vương áp chế thần hạ. Nếu tự thấy có thể “thuộc được mấy bài trần thuật, nhớ được mấy câu vô hồn trong sách” để xem thường trẫm, e sau này ngươi sẽ hối không kịp.
Ung Chính nói vậy là có nỗi khổ riêng của mình. Khang Hy cũng thế, Ung Chính cũng thế, đều là những người tự biết về mình. Trong lòng họ đều rõ, trong thâm tâm giới trí thức tộc Hán, họ là hoàng đế đế quốc Đại Thanh, họ là “loại man rợ” không có văn hoá. Họ đã chinh phục bằng vũ lực và bằng những thủ đoạn dã man, mới xây dựng nên đế quốc này. Và sau khi đã xây dựng xong, họ đã phải quay lại để học tập nền văn hoá của người bị chinh phục. Vì vậy, hoàng đế Đại Thanh và văn nhân tộc Hán mới có một quan hệ khá đặc biệt: Người trước là người thắng lợi về mặt chính trị, người sau lại có cảm giác ưu việt về mặt văn hoá. Không thể chinh phục được văn hoá nếu chỉ dựa vào vũ lực và cường quyền. Và văn hoá được truyền bá theo một quy luật: Người luôn muốn trèo cao, nước luôn chảy chỗ trũng, nền văn hoá có ưu thế không thể bị đồng hoá bởi nền văn hoá thấp hơn. Vì vậy, cả Khang Hy lẫn Ung Chính đều rõ, muốn được người ta tâm phục; muốn được giới trí thức tộc Hán thành phục, tất phải cùng bàn về văn hoá với họ.
Thực tế, trình độ văn hoá Hán của hai vị hoàng đế tộc Mãn từ lâu đã hơn hẳn một số nhân sĩ tộc Hán nói chung. Hơn nữa họ còn hiểu Mãn văn, Mông Cổ văn, lầu thông văn hoá Mãn, văn hoá Mông Cổ (Khang Hy còn có Tây học, học tập được nhiều thứ) nên lại càng hơn hẳn một số trí thức tộc Hán nói chung. Chỉ cần không có thành kiến dân tộc, đều phải thừa nhận họ có đủ tư cách là hoàng đế Trung Quốc, hoặc ít ra cũng là mạnh hơn hoàng đế thời Minh. Hoàng đế vương triều qua các thời đại ở Trung Quốc, thời Minh là yếu nhất. Không là hôn thì là bạo, hoặc là lười biếng, khá hơn một chút là bình thường. Khó khăn lắm mới có được người muốn làm việc thì khí số đã hết. Nhưng, mặc dù hoàng đế Khang Hy đã tỏ rõ lòng hâm mộ nền văn hoá Hán và trình độ văn hoá Hán của mình, nhưng tư tưởng một số người vẫn chưa chuyển biến kịp. Do đó Ung Chính cho rằng, nếu không để nền thống trị của Đại Thanh thâm nhập vào lĩnh vực văn hoá tư tưởng thì nền thống trị sẽ không bền vững.
Sau đó, Ung Chính đã làm hai việc: Một là, tôn Khổng; hai là, bàn về Phật.
Ung Chính tôn Khổng vượt qua mọi đế vương tiền bối. Ung Chính phong tiên nhân năm đời của Khổng Tử là vương, lệnh không phạm huý với Khổng Tử như với quân chủ, Ung Chính quỳ lạy trước bài vị của Khổng Tử. Đó là những việc mà ngay cả các bậc đế vương tộc Hán cũng chưa làm được. Hoàng đế xưng hiệu là “thiên tử”. Hoàng đế chỉ phải quỳ trước trời đất, tổ tông và cha mẹ. Ung Chính quỳ bái Khổng Tử coi như đã nâng Khổng Tử là ngang hàng với trời đất, cha mẹ vua, đương nhiên không còn gì tôn kính bằng.
Tư thế của Ung Chính rất cao. Trước đây, các bậc đế vương thời đại đi tuần thị Thái học, đều xưng là “hạnh học”, có ý là đế vương hạnh lâm học phủ. Ung Chính cho rằng, như vậy là bọn bề tôi tôn quân, nhưng “lòng trẫm vẫn chưa yên”, vì thế, mới đỗi là nghệ, có ý bái phóng, thính giáo. Dê vương là bậc tôn quý nhất trong các vương triều thời đại. Bất luận là tới đâu cũng đều là đế vương tuần hạnh, người đời được chiêm ngưỡng. Riêng việc đến trường học thì không là “quang lâm chỉ đạo” mà là “bái phỏng thỉnh giáo”, điều đó không chỉ là sự tôn trọng đối với tri thức, với văn hoá, mà còn là sự tôn trọng đối với toàn thể phần tử trí thức, tự nhiên rất được lòng người. Mà được lòng người đọc sách trong thiên hạ là được nửa phần giang sơn văn hoá Trung Quốc.
Nhưng Ung Chính vẫn cho là chưa đủ. Ung Chính thấu hiểu, chinh phục lòng người đọc sách chẳng dễ dàng gì. Những việc làm nêu ở phần trên, có thể làm cho họ cảm động, chưa hẳn đã khiến họ phải bái phục, muốn được họ bái phục, còn phải đưa ra một ít “quả khố. Thế là Ung Chính cùng bàn bạc với họ về Nho học. Ung Chính từng nói với các cử tử đến tham dự khoá thi: Lúc thường các ngươi đã hiểu gì về lễ nghĩa liêm sỉ? Hiểu được nghi văn lễ tiết, sẽ biết tiến thoái lui nhường, đó chỉ là “tiểu lễ”. Biết trọng nghĩa thủ tín, có thể thận trọng trong lời nói việc làm, đó cũng chỉ là “tiểu nghĩa”. Thi hành giáo dục dân chúng, thuần hoá phong tục, khiến người thiên hạ, là thần phải tận trung, là con phải tận hiếu, đây mới là “đại lễ”. Luôn thành thực, lo việc công, thẳng thắng chính trực, khiến người thiên hạ không đảng không tư, chung sức chung lòng vượt khó, mới là “đại nghĩa”. Đó là những lời nói cao xa và sâu sắc. Các sĩ tử lấy làm kinh ngạc, chỉ còn biết bái phục tự đáy lòng.
Ung Chính không chỉ bàn về Nho, mà còn bàn về Phật. Năm thứ mười một (1733), Ung Chính cho tổ chức Pháp hội ở trong cung và tự mình thuyết pháp, có thu nhận mười bốn môn đồ: Ái Nguyệt cư sĩ Trang Thân vương Doãn Lộc, Tự Đác cư sĩ Quả Thân vương Doãn Lễ, Trường Xuân cư sĩ Bảo Thân vương Hoằng Lịch, Húc Nhật cư sĩ Hoà Thân Ngũ Hoằng Trú, Như Tâm cư sĩ Đa La Quận vương Phúc Bành, Thản Nhiên cư sĩ Đại học sĩ Ngạc Nhĩ Thái, Đăng Hoài cư sĩ Đại học sĩ Trương Đình Ngọc, Đắc Ý cư sĩ Tả đô ngự sử Trương Húc, Vãn Giác thiền sư Nguyên Tín Tuyết Hồng, Ngộ Tu thiền sư Minh Sơ Sơ Vân, Diệu Chính chân nhân Lâu Cận Viên, Tăng Siêu Thiện Nhược Thuỷ, Tăng Siêu Đỉnh Ngọc Huyền, Tăng Siêu Thịnh Như Xuyên. Trong đó có tám người tục (bốn thân vương, một quận vương, hai đại học sĩ, một ngự sử) và năm hoà thượng, một đạo SĨ. Ung Chính có hiệu là Phá Trần cư sĩ, còn là Viên Minh cư sĩ. Hoàng đế, vương công, đại thần, hoà thượng, đạo sĩ ngồi lại cùng nhau bàn về đạo, thực là việc hiếm thấy.
Kỳ thực, từ lúc còn ở phiên để, Ung Chính đã lễ Phật. Sau khi là hoàng đế, ngày bận trăm công ngàn việc, còn phải chú ý về mặt tinh thần các đại thần Nho học, nên bàn về Phật có ít ' hơn, nhưng một khi đã bàn thì không sao dứt ra được. Ung Chính đã từng kể một câu chuyện, Ung Chính nói với Niên Canh Nghiêu: “Ở kinh thành có đạo sĩ họ Lưu, từ lâu đã nổi tiếng, tự nói là đã mấy trăm tuổi, nhìn thấu kiếp trước của con người, nói ở kiếp trước, Di Thân vương cũng là một đạo sĩ. Trẫm nghe mà buồn cười và có nói với Di Thân vương, người ấy là đạo sĩ, ngươi cũng là đạo sĩ, đây có thể là duyên pháp trước kia của hai người. Có điều, trẫm vẫn chưa hiểu, cuối cùng vì duyên cớ gì, ngươi - một đạo sĩ lại đến làm việc cho hoà thượng như trẫm. Di Thân vương không trả lời. Trẫm lại nói, Phật thật, tiên thật, thánh nhân thật chính là chúng ta, đến gieo trồng thửa ruộng phúc cho chúng sinh. Số người không có sức mạnh đó thì “làm hoà thượng, đạo sĩ, ai nấy lập môn hộ, rất thuận tiện”. Ý muốn nói, hoàng đế Ung Chính tuy không xuất gia nhưng lợi hại hơn, công đức viên mãn hơn hoà thượng và đạo sĩ đã xuất gia. Ung Chính đâu chỉ là “hoà thượng”, “dã tảng, mà đúng là thật sông, giáo chú.
Dưới gầm trời này vẫn còn một vị hoàng đế như vậy.
Cần phải thừa nhận, trình độ Nho học và Phật học của Ung Chính đều không thấp. So với số dung Nho và ngu tăng, Ung Chính không biết cao minh hơn bao nhiêu lần! Ung Chính đã nắm được tinh tuý của Nho học và Phật học. Nho gia nói, “tu tề trị bình”, Phật gia nói “phổ độ chúng sinh”, nói đi nói lại cũng chỉ là để mọi người có cuộc sống tốt, để mọi người cảm thấy hạnh phúc? Cần phải gieo trồng mảnh ruộng phúc. Theo Ung Chính, mảnh ruộng phúc đó không nằm ở Tây phương tịnh thổ, mà nằm ở Đông thổ nhân gian. Vì lúc này Đông thổ đã có Thích chủ không là Thích chủ, Khổng Khâu không là Khổng Khâu. Người chủ đó không ai khác, mà chính là trẫm - hoàng đế Ung Chính Ái Tân Giác La Dận Chân.
Lúc này Ung Chính đã có đầy đủ về mặt tư tưởng (sùng Nho lễ Phật), về mặt tổ chức (cử hiền dụng nhân), về mặt chế độ (chính trị mật chiết), Ung Chính đã có thể ra tay vì đế quốc của mình.
Về Đầu Trang Go down
https://triamquan.forumvi.com/
Tri Âm Quán
Thành Viên Tích Cực
Thành Viên Tích Cực
Tri Âm Quán


Tổng số bài gửi : 6340
Reputation : 2
Join date : 31/07/2013
Đến từ : Thị Trấn Chũ

Luận Anh Hùng - Page 2 Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Luận Anh Hùng   Luận Anh Hùng - Page 2 EmptySat Dec 27, 2014 2:06 pm

DỊCH TRUNG THIÊN
LUẬN ANH HÙNG
UNG CHÍNH
- 6 -
Đế quốc như vậy
Tình hình đế quốc của Ung Chính còn chưa hay.
Người tiền nhiệm trước Ung Chính là Thánh Tổ Nhân hoàng đế Khang Hy đã tạo nên một “thái bình thịnh thế”, đồng thời cũng để lại những di chứng nghiêm trọng: Lại trị hủ bại, thuế thu không đủ, kho tàng trống rỗng. Lúc Ung Chính tiếp nhận, quốc khố chỉ còn vỏn vẹn tám trăm vạn lạng và con số thâm nợ khiến người ta phải giật mình. Ung Chính nói: “Nhiều năm con số thâm nợ ở ngân khố bộ Hộ là hàng trăm vạn lạng, lúc còn ở phiên đế trẫm đã biết rất rõ. Lại nói: Gần đây ở đạo phu châu huyện lương tiền thâm nợ cũng không ít”, “lương tiền phiên khố thâm nợ nhiều lắm, hàng mấy chục vạn”. Đủ thấy: Đường đường là đế quốc Đại Thanh, nhưng chỉ là một cái giá rỗng. Bề ngoài trông rất cường thịnh, nhưng bên trong thì rỗng không.
Quốc khố rỗng không, quan hệ không đơn giản, vị hoàng đế mới có thể ngồi nhìn được chăng?
Nhưng tiền lương thâm nợ, không chỉ đơn giản là vấn đề kinh tế. Vậy số tiền lương thâm nợ ở khắp nơi đó đã đi đâu? Ung Chính thấy rất rõ: Nếu không là cấp trên bóp nặn thì cũng là cấp dưới hưởng lợi, còn số bạc ở bộ Hộ đã bị hoàng đế cùng các vị quyền quý chi phối bởi tâm lý “không mượn thì cũng phí”, đã mượn hết rồi (kỳ thực là nuốt không). Biết bao người đến đào tường nhà nước, quốc khố không rỗng không mới là lạ! Nhưng từ trung ương đến địa phương, việc tham ô, lạm dụng, mượn chi khoản công đến địa phương đều có những chỗ “bất đắc dĩ”. Vì nhà Thanh theo chế độ thời Minh, nên bổng lộc các quan rất thấp. Quan chính nhất phẩm được một trăm năm mươi lạng, huyện lệnh thất phẩm được bốn mươi lăm lạng. Một chút bổng lộc đó, đến chi tiêu trong gia đình cũng thành vấn đề, chưa nói đến chuyện phải kính biếu quan trên, sính lễ qua lại giữa bè bạn, đồng liêu. Từ ý nghĩa đó đã nảy sinh ra lại trị hủ bại trong hai đời Minh, Thanh.
Từ đây có thể thấy, thâm nợ quan hệ đến lại trị, lại trị còn quan hệ đến thể chế, cả một khâu liên hoàn. Mỗi mắt xích trong khâu liên hoàn đều rất mơ hồ. Nếu nói, muốn có giang sơn phải nhờ vào súng ống, thì trị giang sơn lại phải dựa vào túi tiền, nên thâm nợ không thể không bù vào. Lại trị hủ bại là sự hủ bại lớn nhất, nên phải nắm lấy lại trị. Hai việc này đều liên quan đến chế độ, vậy không thể không cải cách chế độ. Ung Chính phân biệt rất rõ những điểm này. Vì vậy, việc thanh lý thâm nợ, trong con mắt Ung Chính biến thành cải cách chế độ.
Có điều, công việc phải bắt đầu từ việc thanh lý thâm nợ. Đây là điểm đột phá tốt nhất, cũng là việc cấp bách.
Ngày mười ba tháng mười hai năm Khang Hy thứ sáu mươi mốt (năm 1722), tức là vừa được một tháng hoàng đế Khang Hy qua đời, hoàng đế Ung Chính hạ lệnh bộ Hộ phải thanh tra toàn bộ số lương thâm nợ. Không nghĩ tới “thi thể chưa lạnh” của cha, Ung Chính đã vội ra tay với tệ nạn Khang Hy lưu lại, thể hiện một quyết tâm lớn, giải quyết một việc vô cùng cấp bách. Đây là chiến dịch lớn thứ nhất, sau khi Ung Chính lên ngôi, chiến dịch quan hệ đến tới nền tảng đất nước, tới đế vị. Một khi không thành hoặc giữa đường phải bỏ thì không chỉ bản thân Ung Chính thân bại danh liệt, mà có thể dao động tới nền tảng đất nước. Nên chiến dịch chỉ có thể thắng không thể bại, chỉ có thể tiến, không thể lui.
Ung Chính vô cùng tự tin.
Có đủ lý lẽ để Ung Chính tự tin. Thực tế, Ung Chính không phải là hoàng đế hồ đồ, càng không phải là hạng a ca quần là áo lượt. Hơn nữa, so với người cha của mình là hoàng đế Khang Hy, Ung Chính còn có lợi thế, thấu hiểu tình hình bên dưới. Quan viên các cấp có quỷ kế, muốn giở trò, trong quan trường có hư hỏng gì, tệ nạn gì, Ung Chính rõ hết. Ung Chính thấu hiểu, cấp dưới đối với cấp trên, địa phương đối với trung ương, xưa nay vẫn là “trên có chính sách, dưới có đối sách”. Chính lệnh của trung ương xuống đến địa phương bao giờ cũng bị giảm giá. Thanh tra thâm nợ liên quan đến lợi ích thiết thân của nhiều quan viên, lẽ nào lại có chuyện không nghiên cứu đối sách? Tốt thôi, ngươi nghiên cứu, trẫm cũng nghiên cứu. Ngươi có đối sách, trẫm càng có đối sách. Đối sách của trẫm là: Nghiên cứu đối sách của ngươi trước, sau đó mới đưa ra chính sách. Chính sách của trẫm nhắm thẳng vào đối sách của ngươi, xem ngươi có được bao nhiêu đối sách?
Lúc này, bọn tham quan ô lại đều hoa cả mắt.
Ung Chính rất hiểu tình hình bên dưới. Ung Chính biết, để kẻ tham ô xét việc tham ô của mình sẽ không tra ra được. Cũng vậy, cấp trên của chúng cũng không đáng tin, vì không có kẻ tham ô nào mà không móc nối với cấp trên, không hối lộ hoặc đưa lễ vật cho cấp trên. Nếu kẻ đó không móc nối với cấp trên hoặc cấp trên không nhận hối lộ thì kẻ đó không thể lăn lộn cho đến hôm nay, mà đã bị tra ra, bị hạch tội hoặc bãi quan. Và dù cấp trên của hắn là thanh liêm cũng không đáng tin. Vì việc thâm nợ của địa phương nghiêm trọng như vậy, tham ô hoành hành như vậy mà họ không hề làm gì, hẳn sẽ có ba khả năng sau: Có thể là hôn quan, không biết gì về tình hình cấp dưới; có thể là dung quan, biết nhưng không dám báo lên trên hoặc bất lực; có thể là lũ mất dạy, để bảo vệ địa vị danh vọng của mình, nên đã mắt nhắm mắt mở trước những hành động bừa bãi của cấp dưới, bao biện dung túng, thực hiện “chủ nghĩa bảo vệ địa phương”. Dựa vào bọn này thanh tra thâm nợ, khác gì lấy nước bằng làn trúc. Nên, dù tay chân chúng có sạch sẽ cũng không đáng tin.
Đối sách của Ung Chính là dựa vào các khâm sai đại thần. Họ là đặc phái viên của cấp tỉnh hoặc cấp phó bộ trực thuộc trung ương, cùng với các quan thanh liêm có năng lực ở các địa phương không có sai sót gì. Những người này, không phải tránh vết xe đổ trước, cũng không phải lo việc sau này, hoàng đế lãnh đạo trực tiếp, không tận tâm cũng sẽ tận tâm. Huống hồ, những đặc phái viên này không phải chỉ có một mình. Từ các địa phương, Ung Chính sẽ điều ra một số hậu bổ châu huyện theo đoàn đến tỉnh, cùng đặc phái viên xét nợ. Tra xét ra một viên tham quan ô lại, lập tức cách chức ngay, rồi từ trong đoàn điều tra tìm ra một viên quan cùng cấp, cho thế chân. Đây là nước cờ hay và cũng là nước cờ ác. Vì Ung Chính thấu hiểu, quan lại bảo vệ nhau là tật xấu nơi quan trường. Quan kê nhiệm xưa nay luôn là người có thể lấp vào chỗ trống của người tiền nhiệm, người này để lại một khoản nợ lớn để người sau này lo giải quyết. Và đây cũng là một trong những nguyên nhân khiến cho thâm nợ cứ dây dưa mãi. Nhưng lần này, người kế nhiệm lại là người đến thanh tra nợ, đương nhiên, sẽ chẳng có gì khiến họ phải xuê xoa hoặc che giấu. Như vậy, quan tham ô sẽ hết đường lẩn trốn, chỉ còn cách là cúi đầu nhận tội, chịu sự trừng phạt. Hơn nữa, vì không có người kế nhiệm lo lấp chỗ trống cho hắn, đương nhiên hắn cũng chẳng thích thú gì phải đeo mặt nạ hộ cho người tiền nhiệm. Thế là ngay cả người tiền nhiệm của hắn, thậm chí là người tiền nhiệm của người tiền nhiệm, nếu có tham ô cũng khó thoát khỏi luật pháp.
Đương nhiên, bọn tham quan cũng không chịu bó tay chịu trói. Chúng có đối sách khác, tức là vay tiền vay lương bù vào thâm nợ. Đó cũng là một biện pháp cũ: Lúc cấp trên xuống tra xét nợ, chúng mượn tiền lương của một số hộ giàu có ở địa phương, đem để vào kho. Người kiểm tra xuống sẽ thấy con số không thiếu, và khi đoàn kiểm tra ra đi, số tiền lương đó lại được trả về chỗ cũ. Vì là quan mượn, nên lãi suất cao, lại không sợ không hoàn trả, lại nói đến bọn phú hộ cũng không muốn đắc tội với các quan địa phương, nên biện pháp này vẫn luôn được dùng.
Tiếc rằng ngón nghề này cũng không qua được mắt Ung Chính. Đồng thời với việc phái cử đặc phái viên, Ung Chính còn cho người đến trò chuyện với nhân dân vùng đó: Đừng ai cho quan phủ vay tiền vay lương. Muốn cho vay cũng được, nhưng số tiền lương đó được coi là của quan phủ, trẫm sẽ coi đó là của quốc gia, những người cho quan phủ vay tiền vay lương thực, đừng mong sẽ thu được lại.
Như vậy, không còn ai dám cho bọn quan tham vay tiền vay lương thực. Bọn phú hộ không muốn đắc tội với quan, càng không muốn đắc tội với hoàng đế. Hơn nửa, họ cũng không muốn đem tiền của của mình cho nhà nước. Một đối sách nữa của bọn quan tham ô lại đã bị Ung Chính phá tan.
Có điều, đây mới chỉ là một bộ phận trong hàng loạt đối sách của Ung Chính.
Một hành động quan trọng nữa của Ung Chính là thành lập “Hội khảo phủ”. Hội khảo phủ là một cơ quan độc lập, có chức năng kiểm tra, kiểm toán tài chính, được thành lập vào ngày mười bốn tháng giêng (năm 1733) năm Ung Chính thứ nhất, có nhiệm vụ tra xét kỹ càng việc chi tiêu của các bộ viện thuộc trung ương. Ung Chính thừa biết trong việc chi tiêu có những lỗ hổng rất lớn. Một khi các tỉnh nộp ngân lượng hoặc chi phiếu tiền thuế lên bộ Hộ, đều phải nộp thêm một khoản tiền “bộ phí”, cũng như ngày nay gọi là tiên hoa hông, phí trà nước. Nếu không có bộ phí thì dù là việc chi tiêu bình thường, cũng khó có được giấy tờ để thanh toán. Bộ Hộ sẽ không duyệt chi, thậm chí còn không cho nộp thuế. Ngược lại, nếu có “bộ phí” thì dù là lãng phí, thâm nợ lên tới hàng trăm vạn lạng cũng cứ thế xoá sạch. Hai là, các bộ viện khi sử dụng tiền lương, cứ tự dùng tự tiêu, không có người kiểm soát. Đây cũng là một tệ nạn đã có từ xưa. Như lúc Hải Thuỵ là tuần phủ úng Thiên, cho người nộp thuế vào quốc khố, nhưng vì không có “hộ phí” nên đã bị cự tuyệt, Hải Thuỵ liền có thư gửi đến trường quan bộ Hộ, chất vấn các vị làm việc công hay làm việc tư. Bộ Hộ biết Hải Thuỵ không phải là người dễ chơi nên mới chịu nhận thuế.
Hải Thuỵ là quan địa phương nên đã bằng lòng như vậy. Ung Chính là nguyên thủ đế quốc, lẽ nào lại nhẫn nhịn trước cảnh quan viên bộ viện tham nhũng đến nhường ấy? Nhưng Ung Chính cũng biết, chỉ nói lý lẽ suông sẽ chẳng có ích gì, làm công tác tư tưởng suông cũng thế, thậm chí có giết một doạ một trăm cũng chẳng ăn thua, biện pháp duy nhất là cải cách chế độ. Thế là có Hội khảo phủ, cơ quan thẩm tra, kiểm toán của trung ương tập quyền. Từ nay, việc nộp thuế báo chi tiêu của các địa phương, việc chi dùng tiền lương, báo tiêu kinh phí của các bộ viên đều phải thông qua Hội khảo phủ để hội khảo (kiểm tra kỹ càng), thế là hết đường giở trò. Các trưởng quan bộ viện hết cách tham ô, mấy viên quan địa phương muốn thông qua chi một ít tiền trà nước, để được bỏ qua một số thâm nợ hàng trăm vạn lạng, từ nay cũng hết cách.
Bọn tham quan ô lại có ba biện pháp quan trọng để che giấu món thâm nợ cũng như đối phó với đoàn kiểm tra: Nhờ cấp trên bao che, mượn tiền lương bù đắp vào chỗ thâm hụt và chi một ít tiền để được bỏ qua. Nhưng cả ba con đường này đã bị Ung Chính bịt chặt, bọn chúng đành phải nhận nợ. Nhưng chúng vẫn còn một mánh khóe nữa, nói tham ô thành lạm chi. Đó là cách biến nặng thành nhẹ. Chúng ta biết, có hai nguyên nhân dẫn đến thâm nợ, là tham ô và lạm chi. Tuy cả hai đều phạm vương pháp nhưng tham ô tội nặng, lạm chi tội nhẹ. Huống chi, nhiều lúc vì việc công mà phải lạm chi, như cứu nạn khẩn cấp, chiêu đãi tạm thời, ứng phó với cấp trên… thuộc loại “việc tình cảm”. Hơn nữa, các triều đại xưa nay vẫn theo biện pháp xét tham ô trước, xét lạm chi sau, vẫn còn chừa sơ hở cho bọn tham ô. Ung Chính rất hiểu tệ nạn này, thường nói: “Mượn danh lạm chi để che giấu sự thật”. Đó là cách làm khéo léo của bọn tham quan ô lại, chúng luôn nói những khoản tiền lớn là lạm chi, những khoản tiền nhỏ là tham ô “để thoát được tội lớn”. Kết quả là: “Lũ hư hỏng không hề lo sợ, chúng cứ dối trá bừa bãi, một khi bị tố giác, án phạm sẽ là lạm chi, không nguy hại đến tính mạng, coi quốc pháp là những tờ giấy lộn, nên thâm nợ ngày càng nhiều”.
Ung Chính quyết không để cho chúng được thể, ông thi hành biện pháp ngược lại, tra lạm chi trước, tra tham ô sau. Và lúc bổ khuyết, bồi thường thì lạm chi trước, tham ô sau, không được thiếu một hào một xu. Điều quan trọng hơn là, dù tham ô hay lạm chi, cần được kiểm tra rõ ràng từng khoản, không được lẫn lộn. Và như vậy, đường rút cuối cùng của bọn tham quan cũng được bịt lại.
Lúc này Ung Chính đã có thể “đóng cửa để đánh chó”. Có ba cách đánh: Bãi quan, bồi thường hoặc tịch thu gia sản.
Bãi quan là cách nhắm thẳng vào cái gọi là “lưu nhiệm để bù nợ”. Đây là biện pháp thường làm của các triều đại trước, sau khi tra ra khoản thâm nợ, lệnh cho viên quan đó, trong một thời hạn nhất định phải bù đủ. Nhưng có viên quan nào lại chịu rút ruột ra để bù nợ không? Tất nhiên họ sẽ vơ vét bóc lột nhân dân trăm họ nhiều hơn. Đúng là “không lấy ở dân thì lấy ở đâu?”. Kết quả là kho phủ lại đầy ắp, nhưng trăm họ lại hết sức khốn khổ. Ung Chính muốn cải cách, tức là muốn nước giàu dân mạnh, không thêm gánh nặng cho nhân dân trăm họ, để bọn tham quan ô lại phải gánh hết trách nhiệm về mình. Vì vậy, Ung Chính mới có đối sách, trước là bãi quan, sau là bồi hoàn. Một viên quan đã mất chức thì còn cách gì để bòn rút của dân, hắn chỉ còn một cách là tự rút hầu bao, tự rút máu của mình ra. Còn việc bọn này đã phải vất vả như thế nào mới có được chức quan đó, Ung Chính không quan tâm. Quan điểm của Ung Chính là: “Lý gì để trẫm phải tiếc lũ tham lại đó?”.
Bồi hoàn cũng phải rõ ràng. Giết người phải đền mạng, vay tiền phải trả tiền, quốc khố thâm hụt, có lý gì để không phải bồi hoàn? Ung Chính hạ lệnh, trong quá trình thanh tra, liên quan đến bất kỳ người nào cũng không tha. Sau khi thanh tra ra bộ Hộ có khoản thâm nợ là hai trăm năm mươi vạn lạng, Ung Chính lệnh thượng thư, thị lang, lang trung… phải bồi hoàn một trăm năm mươi vạn lạng, số còn lại, bộ Hộ phải bồi hoàn vào năm sau.
Người em thứ mười hai của Ung Chính là Lý Quận vương Doãn Đào, từng chủ quản phủ nội vụ, trong lúc bồi hoàn thâm nợ không chịu bỏ tiền, đành phải đem những vật dụng quý trong nhà ra phố bán. Hoàng thượng đối với người thân còn như vậy, liệu còn ai dám chậm trễ bồi hoàn không?
Ung Chính còn quỵ định, nghiêm cấm mọi người ứng tiền hoặc trả thay. Trước kia khi truy thu bồi thường, thường có cấp dưới nào đó đến trả nợ thay, triều đình chỉ lo thu cho đủ ngân lượng, không hề biết số tiền đó lấy từ đâu. Nhưng Ung Chính không tán đồng như vậy. Ung Chính nói, dù quan châu, huyện giàu có cũng chỉ nên tạo phúc cho địa phương, sao có thể trả nợ thay cho bọn tham quan? Và tồi tệ hơn nữa nếu như sĩ dân cũng làm điều đó. Thế ra cường hào thân sĩ lại muốn câu kết với quan phủ, muốn bọn tham quan tiếp tục chấp chính; hoặc bọn lưu manh ác bá nhân cơ hội kiếm tiền, mượn cớ trả nợ thay cho trưởng quan để bóp nặn trăm họ. Vì vậy, Ung Chính nghiêm lệnh không theo. Ung Chính đã chĩa roi vào mông bọn tham quan ô lại.
Đây không chỉ muốn truỵ nợ, mà còn muốn tịch biên gia sản. Tháng tám năm thứ nhất, Ung Chính theo kiến nghị của quan thông chính ty Tiền Dĩ Khải, một khi tra ra quan thâm nợ, thì thu ngay quan hàm, cho về nguyên quán, niêm phong gia sản, giám sát gia nhân, cho bán tài vật, làm mất khả năng chuyển dịch ngân lượng tàng trữ. Một khi xét thấy bọn tham quan có tội thì lập tức tịch biên gia sản của chúng, gồm cả nhà cửa thân thích, con em của chúng. Ung Chính hạ lệnh: “Không được mảy may nể tình ngày trước, dân chúng mong muốn được xử lý nghiêm. Phải truy cho đến sơn cùng thuỷ tận, để con cháu của chúng phải nghèo khổ, thế mới hợp với ý trẫm”. Lệnh được ban hành, cả nước vang lên tiếng tịch biên nhà, Ung Chính được phong hiệu là “Hoàng đế tịch thu gia sản”. Thậm chí trên chiếu bài cũng có cách đánh mới, gọi là sao gia hồ.
Xem ra, bọn quan tham chỉ còn “con đường chết”.
Đáng tiếc, dưới thời đại Ung Chính, ngay “con đường chết” chúng cũng không có. Ung Chính có chính sách: Chết cũng không tha cho chúng! Vào năm thứ tư, Quảng Đông đạo viên Lý Tân, Phúc Kiến đạo viên Đào Phạm, vì tham ô, nhận hối lộ, phạm án thâm nợ, vì sợ tội mà tự sát. Ung Chính hạ lệnh, phải tính sổ với gia nhân và con em của chúng! Ung Chính chỉ rõ, bọn này biết mình mắc tội lớn khó thoát, nên chúng liều chết để trốn nợ, bảo vệ tài sản để con cháu đời đời hưởng phúc. Vì theo lệ thường, giết người chỉ là đầu rơi xuống đất. Một khi người đã chết, tội có nặng đến mấy cũng chẳng là gì. Tiếc là, Ung Chính không vướng vào bẫy, cũng chẳng kể lệ thường hay không lệ thường, mang tiếng xấu hay không mang tiếng xấu, Ung Chính đã làm là làm tới cùng, đừng ai nghĩ sẽ được yên lành.
Đúng vậy, chống hủ bại, dù đã chết cũng không tha, đuổi bọn cướp, đuổi đến tận chỗ Diêm vương, nhìn bề ngoài có phần hơi ác. Nhưng trong thời đại tham ô đã thành thói, không ác như vậy thì không thể trừ tiệt được thói tham ô hủ bại đó. Sự thực đã chứng minh, hàng loạt chính sách và đối sách của Ung Chính đã giáng những đòn chí mạng vào bọn tham quan ô lại, nền lại trị của đế quốc đã trong sáng trở lại. Ung Chính chống hủ bại, hô hào thanh liêm trong vòng năm năm, lương thảo trong quốc khố cuối thời Khang Hy còn tám trăm vạn lạng, nay đã tăng lên năm ngàn vạn lạng. Điều quan trọng hơn, bộ mặt xã hội đã thay đổi. Nói là “dưới thời Ung Chính không còn quan tham” có phần hơi phô trương nhưng đó lại là cách đánh giá công minh về cách trị quốc của Ung Chính.
Hãy tỏ lời kính phục vị hoàng đế tộc Mãn này! Để chống lại việc xưa nay vẫn là đầu voi đuôi chuột, Ung Chính đã giành toàn thắng, sạch sẽ hoàn toàn.
Sự cao minh của Ung Chính không chỉ có nhường ấy.
Trong lúc cả nước đang truy hoàn khoản thâm nợ, trừng trị bọn quan tham, Ung Chính đã nghĩ tới vấn đề có tính cơ bản nhất: Làm gì để chế độ không còn quan tham ô, bảo đảm để các quan đều thanh liêm?
Đây là vấn đề rất khó, rất sâu. Chúng ta đều biết, chống hủ bại, hô hào thanh liêm có quan hệ với nhau. Hơn nữa, hô hào thanh liêm quan trọng hơn chống hủ bại. không có chế độ đảm bảo để quan lại luôn thanh liêm thì hủ bại khác gì mầm cỏ cắt không sạch, cứ từng búi từng búi đâm chồi nảy lộc, đúng là “lửa đốt không hết, gió xuân về lại sinh sôi”. Thế là, Ung Chính quyết định cải cách hai hạng mục quan trọng trong chế độ. Tức là tiền hao tổn qũỵ công và lương cao để dưỡng liêm.
Tiền hao tổn, ở phần “thường lệ” chương trước, chúng ta đã nói tới, tức là hao tổn về đèn dầu về thóc gạo… là phần thứ phụ, ngoài phần thuế bình thường. Đây là loại tham ô nửa công khai, nửa hợp pháp. Tệ nạn này rất nhiều, nhưng không thể trừ bỏ, ngay như hoàng đế Khang Hy cũng đành mắt nhắm mắt mở cho qua.
Nhưng Ung Chính không hề hồ đồ, quyết tâm cải cách đến cùng. Ung Chính quy công số tiền hao tổn. Nói cụ thể hơn, đưa số tiền hao tổn mà trước đây các quan châu, phủ tự thu tự chi, nộp hết vào kho tỉnh, sau đó, tỉnh phát trở lại cho châu huyện. Nhìn bề ngoài thấy, số tiền hao tổn vẫn cứ thu, châu huyện vẫn nhận được tiền, chỉ là phải thêm một bước. Cải cách như vậy có ý nghĩa gì?
Ung Chính thấy có nhiều ý nghĩa. Trước hết, tiền hao tổn quy công, giống như “phí cải thuế” ngày nay, tiền hao phí đã có tên, có mức độ. Trước đây, tiền hao phí danh không chính ngôn không thuận, lại nhất thiết phải thu. Kết quả thu nhiều thu ít lung tung. Đất nước bất lợi, không thêm được xu nào, lại thêm gánh nặng cho trăm họ, cả dân cả nước đều bất lợi. Nay tiền hao tổn đã quỵ công, đất nước được quyền đưa ra mức thu (chủ yếu quy định tỉ lệ mức thu), quan châu huyện có thu nhiều cũng vô ích (vì chỉ được tỉnh phát cho một số lượng theo quy định) và việc loạn thu đã chấm dứt. Như vậy, không thêm gánh nặng cho dân chúng, nhà nước cũng có lợi, dân và nước đều có lợi.
Thứ nữa, làm cho quan hệ giữa quan viên các cấp trở nên đúng mực hơn. Trước kia, quan châu huyện trưng thu tiền hao tổn và cũng do quan châu huyện chi phối khoản thuế phụ này. Cấp trên của họ không có quyền thu, cũng không được quyền chi phối. Đương nhiên, các quan phủ huyện thu xong phần thuế phụ, cũng phân cho quan trên, kết quả, cấp trên là người sống nhờ vào quan châu huyện. Như vậy, sẽ dẫn đến kết quả nghiêm trọng “quan châu huyện có cớ để tham lam bừa bãi, cấp trên biết nhưng không dám tra xét”. Cũng tức là, quan châu huyện tham ô ngày càng điên cuồng, việc giám sát của cấp trên lại ngày một ít đi. Vì sao? Vì đã nhận của người ta, nên há miệng mắc quai!
Sau khi tiền hao phí quy công, tình hình lại khác. Châu huyện nộp tiền hao phí nên coi như là hoàn thành nhiệm vụ; quan trên phát tiền hao phí xuống, coi như phát tiền trợ cấp. Đối với cả hai bên đây không phải là tiền “hoa hồng”. Đã không phải hoa hồng, nên cũng không có tình người, vậy muốn làm gì thì tuỳ. Châu huyện không dám mượn cớ hiếu kính cấp trên để bóc lột nhiều hơn, thượng cấp cũng mạnh dạn quản lý cấp dưới. Vì vậy, tiền hao tổn quy công tuy có phiền hà một chút, nhưng không phải là thêm việc. Đúng như Ung Chính đã nói: “Gọi là châu huyện đưa tiền để nuôi dưỡng cấp trên, không bằng nói cấp trên đưa tiền để nuôi dưỡng cấp dưới”, thay đổi một chút mà kết quả khác xa nhau.
Vì vậy, Ung Chính có phần coi trọng biện pháp này - lúc vừa tiến hành hao tổn quy công, một sô châu huyện cho rằng, thế nào cũng phải trả lại một phần nên đã bớt lại một ít, tránh phiền hà. Nhưng Ung Chính đã không phê chuẩn. Ung Chính cho rằng, cứ theo lệ đó, hậu hoạ sẽ khó lường. Nếu cho phép châu huyện tự do giữ lại thì làm gì có giới hạn. “Tiền thu ngoại ngạch sẽ tăng thêm nhiều, khéo léo bớt xén, tiền thu sẽ tăng hơn nhiều so với thuế được thu, dân tình sẽ hết sức khổ sở”. Cấp trên vì đã thu đủ con số cần thu, nên cũng không hỏi han gì nữa, kết quả là khó nói sẽ không dẫn tới sự hủ bại mới. Vì vậy, tiền hao tổn cần phải nộp đủ lên trên; đốc phủ cũng phải phát xuống cho đủ số. Dù là phiền hà một chút cũng phải bịt cho được lỗ thủng, phải phòng được hoạ.
Ung Chính quỵ định, số tiền hao tổn quỵ công được dùng vào ba việc: Bù vào khoản thâm nợ, dùng vào việc công, thành “dưỡng liêm ngân”. Đây là cách thức phân phối tiền hao tổn quy công, và cũng là cách thức phân phối để chống hủ bại, hô hào thanh liêm, Ung Chính thấy mình có phần chặt chẽ và khắc nghiệt, nhưng chặt chẽ khắt khe là để đấu tranh giành quyền lực, là để tăng thêm lòng hận thù đối với những kẻ ác độc. Còn đối với những người bình thường, Ung Chính luôn thấu tình đạt lý. Ung Chính không hề muốn các quan phải đói bụng để làm việc công, ngược lại ông mong họ có được cuộc sống khá giả. Ung Chính cho rằng, quan viên lớn bé được “cần gì lấy nấy mà không sợ mất tiếng liêm, muốn gì thì dùng nấy, không sợ mang tiếng là lạm dụng”, vừa không thể bóc lột con dân trăm họ, vừa không thể làm ra vẻ thanh bần để cầu danh. Nhưng, bổng lộc không thể cao hơn, tham ô không được phép, vậy các quan lấy gì để có một cuộc sống khá giả? Lại phải nhờ vào “dưỡng liêm ngân”. Cho nên, không thể không thu tiền hao tổn, không thể không để các quan dùng, nhưng cần có quy chế. Cần phải thích hợp và hợp lý. Các tiêu chuẩn đó là, quan chức cao hay thấp, công việc nhiều hay ít và thuế thu được bao nhiêu. Từ ba tiêu chuẩn đó định ra số tiền dưởng liêm và thu nhiều quá là tham ô.
Số tiền dưỡng liêm là tương đối khả quan. Như tiền lương của tổng đốc là một trăm tám mươi lạng bạc trắng, và tiền dưỡng liêm của tổng đốc Phúc Kiến (tổng đốc Chiết Mân) là một vạn tám trăm lạng bạc tráng, gấp một trăm lần. Tiền lương của một quan huyện là bốn mươi lăm lạng, còn tiền dưỡng liêm ít cũng có bốn trăm lạng và nhiều là hai ngàn lạng, một tỉ lệ không nhỏ. Ý tứ Ung Chính rất rõ ràng, thu nhập hợp pháp của các vị đã đủ dùng, kẻ nào còn tham ô, hẳn là muốn tìm đến cái chết.
Tiền dưỡng liêm còn có một ý nghĩa khác, là đã công khai hoá các khoản thu nhập của quan viên. Trước đây, mọi thu nhập của quan viên: Thu tiền hao tổn, thu lễ vật, thu thường lệ đều là những “thao tác mờ ám”. Ai tham ai liêm không rõ ràng. Bây giờ thì đã rõ. Sau này, thu nhập và tiền dưỡng liêm của ai đó có khác biệt quá lớn, đã có xét tội “nguồn gốc bất minh của số tài sản lớn”. Vì vậy, cùng lúc với việc xúc tiến chế độ tiền dưỡng liêm, Ung Chính còn làm ba việc nữa, còn gọi là ba biện pháp phối hợp. Một là, phát hai lần lương cho thượng thư, thị lang (chính phó, bộ trưởng) của năm bộ Lại, Hộ, Binh, Hình, Công và đại học sĩ quản bộ vụ. Vì họ không được nhận tiền dưỡng liêm, trong tay lại có quyền, sẽ khó tránh chuyện các quan địa phương tìm đến họ, dùng tiền để đổi quyền. Các quan kinh thành khác đều được tiền trợ cấp. Hai là, quỵ định mức phí khi làm việc công, các quan địa phương cũng được cấp loại phí này và tuỳ nghi sử dụng, miễn báo cáo. Như vậy, mỗi khi đi làm việc công, các quan luôn chi tiêu bằng tiền của mình, đương nhiên, họ phải biết tiết kiệm. Kết quả, mượn cớ đi làm việc công để tiêu tiền - lỗ hổng hại công lợi tư này cũng được bịt lại, thói quen xa xỉ cũng dần dần biến mất.
Việc thứ ba là bỏ thói móc ngoặc xấu xa. Cụ thể là, nghiêm cấm đưa lễ biếu và bỏ quỵ lễ. Thế nào là quỵ lễ, là lễ tiền do tục lệ quy ước. Như quan châu quan huyện một lần đến gặp quan tuần phủ, nha môn đòi chi mười sáu lạng tiền môn bao (phí mở cửa và phí thông báo). Nạp một ngàn lạng tiền thuế, phải nộp thêm ba mươi lạng phí thủ tục. Cấp dưới gặp cấp trên bàn việc cống, trước hết phải nộp tiền làm gạch gõ cửa; người đi nộp thuế nộp xong là hoàn thành nghĩa vụ, nhưng vẫn phải nộp thêm tiền để tạ ơn người thu thuế. Quy chế kiểu gì thế? Quy chế đốn mạt! Vì vậy Ung Chính hạ lệnh cấm thu mọi loại “phí nhận”. Ung Chính rất tán thành quan điểm của Điền Văn kính: “Muốn cấm châu huyện tăng chi tăng phí, trước hết phải cấm cấp trên; muốn cấm cấp trên, trước hết phải bỏ những quỵ định tệ hại”. Vì vậy, Ung Chính thông lệnh cả nước: “Nếu còn ai dám thu riêng quỵ lễ, người đó phạm tội nặng, thứ đến đốc phủ - người quản lý trực tiếp cũng bị xử tội”.
Lúc này gần như Ung Chính đã bịt hết mọi lỗ thủng dẫn đến hủ bại. Ung Chính đã thành công?
Tiếc là chưa.
Năm 1735, Ung Chính tạ thế, Càn Long kế vị. Bắt đầu từ người con bảo bối của Ung Chính, Cao Tông Thuần hoàng đế luôn được ca ngợi là cao hơn tất cả, đế quốc Đại Thanh lại rơi vào hủ bại. Gia tài của Hoà Thân, một đại học sĩ triều Càn Long có tới tám vạn lạng tương đương với thu nhập trong mười năm của chính phủ lúc đó, gấp mười bốn lần tài sản riêng của vua Pháp Louis XIV; gấp mười sáu lần quốc khố trong năm năm thời Ung Chính và gấp một trăm lần quốc khố trong những năm cuối thời Khang Hy.
Người xưa nói: “Ân với người quân tử, cũng chỉ được năm đời là hết”. Ung Chính cải cách chưa được hai đời đã hết, thật quá ngắn ngủi!
Điều này đáng để chúng ta phải suy ngẫm.
Trước Ung Chính, lịch sử Trung Quốc từng mấy cuộc cải cách đầu voi đuôi chuột, không thể hoàn thiện. Sở dĩ như vậy, chẳng phải quyết tâm không lớn, khả năng không mạnh, chuẩn bị chưa đủ, suy nghĩ chưa kỹ, hoặc những biện pháp phối hợp chưa xứng. Những vấn đề đó, Ung Chính đều không mắc phải. Một là, Ung Chính là hoàng đế, cương nghị độc đoán, tay nắm đại quyền, nói một là một, tung hoành mạnh mẽ, các danh thần cải cách thời đại không ai sánh kịp. Hai là, Ung Chính ở phiên để rất lâu, nhiều ngày phò chính, lúc là hoàng tử đã thấu hiểu đúng sai của đế quốc, đã có suy nghĩ chu đáo cho việc cải cách trong tương lai, từ lâu đã có dự mưu. Ba là, Ung Chính suy nghĩ để cải cách là rất đúng, có thể nói là chuẩn bị dư luận đâu vào đấy, sắp đặt chu đáo, phòng bị nghiêm mật, đánh trúng then chốt. Rất nhiều biện pháp đến nay vẫn còn gần với thực tế. Và còn một điểm quan trọng nữa, Ung Chính hoàn toàn có đủ điều kiện và tố chất của nhà cải cách. Ung Chính có đủ lòng tin, lại thấu hiểu tình hình, làm việc không biết mệt mỏi, đâu ra đấy hiệu suất rõ ràng; Ung Chính cương nghị quyết đoán, luôn luôn thận trọng, luôn theo lẽ phải và biết mở rộng đường ngôn luận. Ung Chính không phải vị hoàng đế không biết lượng sức chỉ thích thú với công danh, càng không phải là vị vua tầm thường, không màng tới thắng lợi, chỉ biết văn vẻ trang sức qua ngày. Ý chí mạnh mẽ và bàn tay sắt của Ung Chính được hình thành từ ba cơ sở: sự anh dũng, dứt khoát của người Mãn, kinh nghiệm phong phú của một hoàng tử nhiều năm dự chính và sự hun đúc tinh thần văn hoá Mãn Hán. Tất cả những cái đó khiến cho cuộc cải cách của Ung Chính vừa có động tác mạnh, đầy đủ lý lẽ, lại được phòng bị kín kẽ, tránh mọi sơ hở, tóm lại người lắm tiền nhiều vốn thì làm gì cũng thuận lợi, dễ dàng.
Nhưng vì sao cuối cùng vẫn bị thất bại?
Chúng ta phải nhìn lại xem, lúc đó tại sao Ung Chính có thể thành công?
Trong thời gian chấp chính, cải cách của Ung Chính đã có những thành công rực rỡ, ngoài những nguyên nhân đã nói, còn vì Ung Chính dựa vào quyền uy tuyệt đối chỉ các bậc đế vương mới có. Cũng tức là, Ung Chính dựa vào đặc quyền và cường quyền để tiến hành cải cách. Câu nói “Ung Chính vừa cải cách, chính trị đã đổi mới” luôn gắn liền với điều kiện quan trọng nhất này. Ví như tiền hao tổn quỵ công, từ lâu đã được các vị tổng đốc Hồ Quảng - Dương Tông Nhân, tuần phủ Sơn Tây - Nặc Mân và tuần phủ Hà Nam - Thạch Văn Trác đề xuất. Ung Chính đã giao nghi án cho hội nghị cửu khanh thảo luận, kết quả là đa số không tán thành. Một số quan viên khác đua nhau dâng tấu phản đối. Nếu việc đang tranh chấp mà cứ cho tiến hành, cải cách sẽ biến thành việc vô thời hạn. Lập tức, Ung Chính phát thượng dụ, chấm dứt tranh luận, điều động số quan viên gây trở ngại. Thậm chí Ung Chính cũng không tán thành làm thí điểm ở Sơn Tây. Ung Chính nói: “Việc thiên hạ có cái đáng làm, có cái không đáng làm! Nếu thấy có thể làm thì thông báo rộng rãi trong thiên hạ; nếu thấy không nên làm thì việc gì còn phải làm thí điểm ở Sơn Tây?”. Rõ ràng, nếu Ung Chính không độc đoán chuyên hành, cứ để các quan tranh luận, cải cách đã trở thành bong bóng.
Điều đó gọi là “chỉ một người trị thiên hạ”. Hoặc nói là, nhân trị và độc tài. Nhìn từ việc tiền hao tổn quy công, độc tài và nhân trị chẳng có gì là không tốt. Nếu như Ung Chính không độc tài thì sự việc đã khác. Nhưng chúng ta khống thể dựa vào chế độ độc tài. Nghĩ xem, nếu một kẻ hư hỏng, một bao cỏ hoặc một tên côn đồ có được quyền độc tài đó thì sẽ ra sao? Hắn cứ cưỡng chế thi hành thì e không phải cải cách ích nước lợi dân như tiền hao tổn quy công, hoặc phân bố tráng đinh theo đơn vị ruộng đất mà không biết đó sẽ là gì đó hại dân hại nước.
Có thể vì thấy trước mối nguy cơ đó, nền văn hoá Trung Quốc mới đưa ra phương án đức trị và lễ trị để hạn chế “một người trị chính” của hoàng đế. Cũng tức là, hoàng đế cũng không thể làm bừa. Làm gì cũng chỉ là những suy nghĩ tốt đẹp. Vì đức và lễ còn đồng thời quỵ định, không ai được nghi ngờ hoặc dao động trước uy quyền tuyệt đối của hoàng đế. Nếu ngươi phản đối sự độc tài của hoàng đế thì chính ngươi là người đầu tiên vi lễ phạm đức. Vì vậy, dù có lễ và đức hạn chế và quỵ định, nhưng có không ít các bậc đế vương trong lịch sử là những kẻ thất đức vô lễ. Đức và lễ có làm gì được chúng đâu, chỉ còn chờ thời cơ thay triều đổi đại.
Về Đầu Trang Go down
https://triamquan.forumvi.com/
Tri Âm Quán
Thành Viên Tích Cực
Thành Viên Tích Cực
Tri Âm Quán


Tổng số bài gửi : 6340
Reputation : 2
Join date : 31/07/2013
Đến từ : Thị Trấn Chũ

Luận Anh Hùng - Page 2 Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Luận Anh Hùng   Luận Anh Hùng - Page 2 EmptySat Dec 27, 2014 2:10 pm

Đương nhiên, đức và lễ cũng quy định là vua mà vô đạo, thiên hạ có thể đánh, có thể giết. Có điều, vô đạo nói ở đây phái giống như “vô đạo” nói ở chỗ Kiệt, Trụ. Nếu chỉ là tiêu cực, lãn công như hoàng đế Vạn Lịch triều Minh thì đức và lễ cũng đành chịu.
Kỳ thực, dù là cần mẫn, trí tuệ như Ung Chính cũng không phải không có vấn đề. Để bảo đảm rằng mình nắm trọn đại quyền và không hề có sai sót gì, Ung Chính tự mình nghe ý kiến các nơi, tự mình nắm rõ mọi chuyện lớn bé. Hàng ngày, ngoài việc hoàn thành các loại lễ nghĩa, gặp gỡ nhiều thần liêu trong ngoài, Ung Chính còn phải phê duyệt tấu chương, bình quân mỗi ngày phải phê bảy, tám ngàn chữ. Bất kỳ ai mới bước vào nghề viết lách đều rõ, một ngày bảy, tám ngàn chữ là khái niệm thế nào. Liệu có mấy hoàng đế, tinh thần phấn chấn, đầu óc nhanh nhạy, sức lực dồi dào như Ung Chính? Nếu có thì sớm muộn gì cũng sẽ mệt mỏi, gục ngã.
Những người kế nhiệm Ung Chính, hoặc không có đầu óc, có sức khỏe, không nhiệt tình như Ung Chính, hoặc không muốn mình phải gục ngã, chắc sau này không có ai làm việc được như Ung Chính.
Điều quan trọng hơn là, điều kiện để Ung Chính cải cách thành công lại trái ngược với mục tiêu cải cách của Ung Chính. Ung Chính muốn trừng trị hủ bại, nhưng lực lượng hủ hại lại sinh ra từ đặc quyền của Ung Chính, và đặc quyền lại là nguồn gốc của hủ bại. Không có đặc quyền thì không thể có hủ bại; không có đặc quyền cũng không có cách gì để trừng trị hủ bại. Một nút buộc rất chặt. Trong các thời đại vương triều phong kiến, chưa có ai mở được nút buộc đó, Ung Chính cũng vậy.
Ung Chính cũng chưa nghĩ đến một điểm nữa, sức cản trong công cuộc cải cách của Ung Chính không chỉ có số quan viên ngoan cố, lòng dạ bất lương mà còn có thế lực truyền thống mạnh mẽ. Truyền thống này là một lực lượng văn hoá, không ai có thể làm biến đổi hoặc chống đối. Liệu Ung Chính có thể không cho mọi người bàn về nhân tình, về thể diện, về chuyện đời được không? Không thể. Vậy Ung Chính cũng sẽ chẳng có cách gì để loại bỏ được các hiện tượng sau: Mời khách đưa lễ, nịnh hót bợ đỡ, kéo bè kết đảng, bênh kẻ cùng cánh đánh người khác mình, ghen tuông đố kỵ, tình người lớn hơn vương pháp… Không loại bỏ được những hiện tượng này thì nền chính trị trong sáng, quan lại liêm khiết chỉ là mấy câu nói suông, sự hủ bại đã bị trừng trị, sớm muộn gì sẽ lại phục sinh từ đống tro tàn.
Đương nhiên, Ung Chính không thể phản đối đặc quyền, phản đối nhân trị, phản đối văn hoá truyền thống.
Cho nên, Ung Chính chưa là bên thắng.
Về Đầu Trang Go down
https://triamquan.forumvi.com/
Tri Âm Quán
Thành Viên Tích Cực
Thành Viên Tích Cực
Tri Âm Quán


Tổng số bài gửi : 6340
Reputation : 2
Join date : 31/07/2013
Đến từ : Thị Trấn Chũ

Luận Anh Hùng - Page 2 Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Luận Anh Hùng   Luận Anh Hùng - Page 2 EmptySat Dec 27, 2014 2:40 pm

DỊCH TRUNG THIÊN
LUẬN ANH HÙNG
UNG CHÍNH
- 7 -
Ai là bên thắng
Hoàng đế Ung Chính đã phấn đấu cả đời mình.
Đấu chí quyết thắng luôn hừng hực trong Ung Chính. Trước tiên là đấu tranh giành hoàng vị, nửa sau cuộc đời là đấu tranh cũng cố chính quyền. Ung Chính đánh bại huynh đệ, đánh bại quyền thần, đánh bại tham quan, đánh bại bọn thanh quan luôn mưu cầu danh tiếng. Cuối cùng chỉ còn lại một mình đơn côi và mấy người được coi là thân cận. Như vậy Ung Chính có cảm thấy vui mừng vì thắng lợi không?
Không, Ung Chính cảm thấy rất khó chịu, ấm ức, còn có chút mơ hồ.
Có vẻ như rất mâu thuẫn. Ung Chính chẳng phải luôn tự tin, tự vấn lòng mình thấy không phải hổ thẹn hay sao? Đúng vậy, trong mọi cuộc đấu tranh, chàng trai người tộc Mãn này chưa hề phạm sai lầm. Lúc trừng trị Niên Canh Nghiêu, trong số cận thần có người sợ Niên sẽ dấy binh làm loạn ở Thiểm Tây, và khuyên Ung Chính đừng nghiêm khắc quá, Ung Chính coi người đó là không hiểu biết và nói: “Quan sát tình hình xa gần, biết rõ khả năng của Niên sẽ không thể làm việc đó”. Ung Chính tự tin và gan dạ. Ung Chính tự đánh giá mình cũng không thấp: “Trẫm tự xét mình tuy chưa thể sánh bằng các bậc nguyên thủ thánh quân trên ba đời, còn với các bậc quân chủ Hán, Đường, Tống, Minh thì thấy không hổ”, Ung Chính cho mình có thể sánh với các bậc quân chủ từ đời Hán, Đường tới nay. Như vậy không phải là nói quá, mà là sự tự tin có căn cứ.
Đã vậy sao còn phải in cái ấn gọi là “Đại nghĩa giác mê lục?”.
“Đại nghĩa giác mê lục?” có thể gọi là kỳ thư. Điều kỳ lạ đầu tiên là hoàng đế đối chất với nghịch tặc nơi công đường. Thời cổ đại Trung Quốc dân cáo quan là việc hiếm hoi (cáo cũng được, cáo thắng bị xử hình), hoàng đế chạy đến công đường ủng hộ bị cáo, cùng với phản tặc mưu nghịch, tiến hành “biện luận trên toà”, là chuyện kỳ hiếm thiên cổ! Biện luận hết, nhưng chưa xong, còn phải ghi lại, ban bố cho mọi người biết, thực sự giống như “Nghìn lẻ một đêm”. Chỉ có Ung Chính một kỳ nhân mới làm nên kỳ sự, và cũng chỉ có Ung Chính một kỳ nhân mới tạo được kỳ án như thế này.
Kỳ án “Đại nghĩa giác mê lục” đã ghi lại đại thể nội dung một số mặt: Thứ nhất, ở quyển một ghi lại hai đạo đặc dụ của Ung Chính. Hai đạo đặc dụ này đã nhắm thẳng vào lời vu khống của Tằng Tĩnh. Đạo thứ nhất chủ yếu nói, triều Thanh thuận trời được dân, là vương triều chính thống đại thống nhất, Mãn Châu cùng quê quán với người Thanh, người Thanh đoạt lại chính quyền từ tay Lý Tự Thành để báo thù cho Đại Minh. Đó là mấy lời biện hộ cho chính quyền Đại Thanh. Đạo thứ hai là biện hộ cho Ung Chính, nói về một số hạng mục Tầng Tĩnh vu cáo Ung Chính, Tằng Tĩnh nói Ung Chính mưu cha, bức mẹ, chém anh, giết em, tham tài, thích giết, sâu rượu, dâm sắc, giết trung. Hai đạo đặc dụ được coi là lời biện hộ của “bị cáo” Ung Chính. Có điều đạo thứ nhất được coi là lời trần thuật đại biểu pháp nhân của đế quốc, đạo thứ hai mới là lời biện hộ cho bản thân Ung Chính.
Thứ hai “Phụng chỉ hỏi tin mười ba điều khẩu cung của Tằng Tĩnh” ghi trong quyển một và “Phụng chỉ hỏi tin hai mươi tư điều khẩu cung của Tằng Tĩnh” ghi trong quyển hai. Mười ba điều trước nhầm bác bỏ quan điểm chủ yếu trong thư Tằng Tĩnh gửi Nhạc Chung Kỳ. Hai mươi tư điều sau nhằm bác bỏ quan điểm chủ yếu trong “Tri tân lục” của Tằng Tĩnh. Những phê phán này được tiến hành thông qua phương thức pháp quan (quan toà) chất vấn và hỏi cung, trong phiên toà đặc biệt do đại thần cửu khanh nội các và bộ Hình tổ chức. Những vấn đề pháp quan hỏi đều do Ung Chính chỉ định, với danh nghĩa là thánh chỉ hói xuỗng, gọi là chí ý hói ngươi. Có điều, những vấn đề đó thực không đơn giản. Có bài luận văn dài, thực tế là kiểm soát những quan điểm của Ung Chính. Quan điểm nêu xong liền hỏi Tăng Tĩnh muỗn nói gì không, vì the có khác gì là lời biện hộ trước toà của Ung Chính và Tằng Tĩnh. Cách biện luận trước toà như vậy được coi là độc nhất vô nhị trên thế giới này. Bị cáo không xuất hiện, pháp quan thay mặt bị cáo phát ngôn, đây là điều kỳ lạ thứ nhất. Bị cáo khống chế pháp đình, pháp quan giống như con rối, đây là điều kỳ lạ thứ hai. Bị cáo ra câu hỏi, nguyên cáo trả lời, thực chất bị cáo biến thành nguyên cáo, nguyên cáo biến thành bị cáo, đây là điều kỳ lạ thứ ba. Nguyên cáo trả lời biện giải, chỉ có thể tán thành quan điểm của bị cáo và phê bình mình hoặc biện giải cho mình, đây là điều kỳ lạ thứ tư. Ngoài ra, biện luận của toà trước sau đều không; có luật sư xuất hiện. Thời cổ đại Trung Quốc không có chế độ luật sư. Dù có cũng không được mời. Ung Chính không cần mời luật sư, Tằng Tĩnh không có tư cách nên cũng không dám.
Thứ ba, trong bản cung do đại thần bộ Hình, Hàng Diệc Lộc tra hỏi Tằng Tĩnh, ý kiến thẩm lý của cửu khanh nội các về vụ án này, đều được Ung Chính phê quyết định. Ở phần này Tằng Tĩnh là bị cáo, Ung Chính biến thành pháp quan. Thượng dụ của Ung Chính và bản tấu của nội các được coi là thảo luận về vấn đề phán quyết án do toà án và pháp quan cao nhất hợp tác.
Thứ tư, quá trình cải tạo tư tưởng và sự thấu hiểu của bọn Tằng Tĩnh, Trương Hy bao gồm lời cung của họ và “Quy nhân thuyết” - sáng tác mới của Tằng Tĩnh. Lúc này, Tằng Tĩnh và Trương Hy đã được miễn xử hình sự, là phạm nhân đã cải tạo tốt.
Điều thú vị thứ nhất trong bốn phần trên là biện luận trước toà. Điều thứ nhất trong “Phụng chỉ hỏi tin mười ba điều khẩu cung của Tằng Tĩnh” là rất thú vị. Nhắm thẳng vào lời vu khống chính quyền Đại Thanh và hoàng đế Ung Chính, các thẩm phán của phiên toà đặc biệt đã thay mặt bị cáo (Ung Chính và đế quốc Đại Thanh) đưa ra câu hỏi, “phụng chỉ hỏi ngươi: Trong thư ngươi gửi cho Nhạc Chung Kỳ có nói đại loại là ai nên có chính quyền, ai nên là hoàng đế. Triều ta (chỉ triều Thanh) tích công tụ đức, Thái Tổ Cao hoàng đế (Nỗ Nhĩ Cáp Xích) sáng nghiệp, Thái Tông Văn hoàng đế (Hoàng Thái Cực) kế thừa, Thế Tổ Chương hoàng đế (Thuận Trị đế Phúc Lâm) dựng nước. Đó là chí đạo thuận mệnh trời, theo lòng dân, thành công lớn, dựng nghiệp lớn, tham hoá trời đất, tạo phép muôn đời. Ngươi sinh ở bản triều, lẽ nào lại không biết liệt tổ liệt tông được mệnh trời, lòng dân theo, lại nói là: “Đạo nghĩa ở đây, không được vi phạm mệnh trời”. Thế là thế nào? Nguyên cáo Tằng Tĩnh biện giải nói: “Trọng phạm tày trời, (Tằng Tĩnh tự xưng) nói nhiều lời sai lầm. Từ xưa, đế vương hứng khởi và đế vương tại vị đều là theo mệnh trời, được lòng dân. Theo mệnh trời, được lòng dân từ đó mới hứng khởi, trị vì, đương nhiên là đạo nghĩa. Trọng phạm tày trời sinh nơi hang núi bên Sở, làng ấp quê hương, gần xa lại không có người là danh sĩ tại triều, cư dân thành thị lại quá xa, nên không nghe được công tích của thịnh triều”. Tằng Tĩnh nói tiếp: Từ năm ngoái (năm Ung Chính thứ sáu) bị giải về kinh, được nghe rộng nhìn xa, mới biết chân long thiên tử hưng ở bờ biển Đông Hải, liệt tổ liệt tông thừa kế, không chỉ Hán, Đường, Tống, Minh không thể so sánh mà truy về ba đời đã hưng thịnh như Tây Chu. Nhưng ngay như Tây Chu cũng chỉ có hai vị thánh quân Văn vương, Vũ vương được coi là “cực chí”, đâu có được như bản triều, “tầng lớp theo nhau, mặt trời xa mặt trời lớn, càng lâu càng sáng”, đời sau mạnh hơn đời trước! Thái Tổ Cao hoàng đế khai sáng cơ nghiệp, Thế Tổ Chương hoàng đế bao trùm trong ngoài, Thánh Tổ Nhân hoàng đế (Khang Hy) tưới rải ân đức ra khắp bốn biển, đến đương kim hoàng thượng của chúng ta (Ung Chính) càng là thông minh tuyệt đỉnh, huy hoàng hơn trước, sáng tạo nên thái bình thịnh thế, khắp nơi non xanh nước biếc, đạt tới đỉnh cao nhất trong văn minh lễ nhạc. “Đó chính là thiên mệnh, lòng dân theo về, là đạo nghĩa đương nhiên, tham hoá trời đất, tạo phép muôn đời, là long hội vận trời, văn minh”. Tằng Tĩnh biện giải lời cuối cùng: “Trước đây, trọng phạm tày trời là ngu muội, khống có ý nghĩ gì khác, không cần thách thế từ bên ngoài”. Lời biện giải đã hết.
Lời biện giải được ghi lại đại thể là như vậy.
Biện luận trước toà như vậy “quả là độc nhất vô nhị” trong sử Trung Quốc chỉ có một, trong sử thế giới chắc cũng không có nhiều. Điều kỳ lạ đặc biệt không phải là bị cáo lớn tiếng mắng người, nguyên cáo ậm ừ, thậm chí cũng không phải là nguyên cáo thu hồi lời buộc tội, chuyển hướng rất nhanh, chuyển hướng rất mạnh - vốn khống cáo vương triều Thanh không nên được thiên hạ, Ung Chính không nên là hoàng đế, lúc này lại nói vương triều Thanh vượt qua Chu, Tần, Hán, Đường, Tống, Minh, Ung Chính là hoàng đế vĩ đại nhất, mà đặc biệt là lý lẽ mà hai bên cùng sử dụng, người được lòng dân sẽ được thiên hạ. Người thuận mệnh trời là chính thống, đó là tiền đề logic mà hai bên đều thừa nhận. Từ đó, chỉ cần chứng minh vương triều Thanh thuận mệnh trời, Ung Chính là hoàng đế được lòng người mới có thể chứng minh chính quyền và hoàng đế Đại Thanh là hợp lý, hợp pháp. Nhưng nói như vậy, thì vụ kiện sẽ không có người thắng, cũng không phải không có ai thắng mà cơ bản là vụ kiện không thành. Vì được hay không được lòng dân không thể xác định được bằng cách trắc nghiệm đồng ý dân hoặc điều tra xã hội và thuận hay không thuận mệnh trời cũng là cách nói mơ hồ. Vì vậy cả hai bên đều phải chọn con đường khác.
Logic của Ung Chính là: Tầng Tĩnh người sinh ra ở bản triều, thì phải biết bản triều là thuận thiên mệnh và được lòng dân, rõ ràng đây là lối cãi chày cái côi. Nếu sinh ra ở triều nào thì có thể chứng minh triều đó là hợp lý, vậy ở thời đại Đức quốc xã, người Đức đều có thể chứng minh Hitle “thuận mệnh trời được lòng dân”. Logic của Tằng Tĩnh cũng rất buồn cười. Tằng Tĩnh nói phàm là vương triều vừa hình thành và quân vương đang tại vị thì đều là thuận mệnh trời, được lòng người. Nói như thế
vương triều Thanh và Ung Chính không phải ngoại lệ. Vậy, vì sao nói vương triều vừa hình thành, quân vương tại vị “đều là” thuận thiên mệnh và được lòng dân? Vì không thuận mệnh thì không hình thành nổi, không được lòng dân thì không thể tại vị! Đây là một lập luận nhân quả đảo lộn, và cũng là luận chứng tuần hoàn. Điều này khiến chúng ta nhớ tới Enghen từng nhạo cười logic của những kẻ tầm thường ở Đức: Phàm là cái hợp lý đều tồn tại. Tôi tồn tại, nên tôi hợp lý. Và nó cũng như logic của một tên quân phiệt thời Dân quốc: Từ xưa, anh hùng đều háo sắc. Ta háo sắc nên là anh hùng.
Trong “Đại nghĩa giác mê lục” luôn có những kiểu logic hoang đường như vậy.
Thực ra, logic không quan trọng, quan trọng là quyền được nói, có quyền không cho người khác nói, hoặc chỉ được nói theo ý của mình, những điều vô lý cũng có thể nói thẳng ra. Đây là quyền nói. Có quyền không cho người khác nói, hoặc chỉ được nói theo ý mình, những điều vô lý cũng có thể nói thẳng ra. Đây là quyền lực Ung Chính muốn thể hiện cho mọi người rõ. Quyền lực của đế vương chuyên chế luôn là thứ quyền lực tối thượng, có thể cho người ta sống chết, cướp đoạt. “Vua muốn thần chết, thần không thể không chết”. Có những điều không thể không nói, nhưng phải nói cho có “lý”. Nói cách khác, rõ ràng là chuyên chế còn muốn ra vẻ thoải mái.
Là Ung Chính cũng thế, Tằng Tĩnh cũng thế, luôn phải vắt óc tìm mọi thủ đoạn.
Ung Chính đã hao tổn bao tinh thần và cũng thể hiện được đại trí đại dũng của mình. Từ hôm nhận được mật tấu của Nhạc Chung Kỳ, Ung Chính tỏ ra vô cùng bình tĩnh, Ung Chính không nổi giận đùng đùng, cũng không qua quýt cho xong, Ung Chính tĩnh tâm suy nghĩ, dày công vạch ra “tính toán xuất thần”, coi chuyện nhỏ thành một bài văn hoành tráng. Bài văn hoành tráng đó là: “Trẫm, hoàng đế Ung Chính không chỉ có thể trị lý sơn hà, trị lý đất nước, còn có thể cải tạo tư tưởng, cải tạo con người”. Vì vậy, Ung Chính hạ lệnh ưu đãi Tằng Tĩnh, đương nhiên là sau khi đã cho hắn tơi bời khói lửa, chịu khổ chịu sở và sợ đến hồn xiêu phách lạc. Nhưng lúc thẩm vấn thì tươi cười vui vẻ, nhẫn nại dắt dẫn, trên đường giải về kinh được ăn ngon ngủ yên, đi từ từ, được ngắm nhìn cảnh tượng thái bình của đế quốc Đại Thanh, được thể nghiệm ân trạch của Ung Chính tưới rải khắp nơi, sau khi đến kinh thành lại được ở trong lầu cao biệt thự, sống cuộc sống thoải mái, để Tằng Tĩnh biết được thế nào là cái hay của hối cải. Thậm chí Ung Chính còn cho Tằng Tĩnh đọc cả những văn kiện cơ mật của triều đình, để Tằng Tĩnh thấy vị hoàng đế bị mình nhục mạ cuối cùng là hôn quân, bạo quân hay vua nhân từ, vua khai sáng, xứng đáng là vua.
Đúng như lời tự thuật, Tằng Tĩnh chỉ là tú tài quản ngoài vùng biển xa xôi, nghèo khổ. Chưa từng trải, làm gì đã có điều kiện nhìn rõ cuộc đời? Rất nhanh, Tầng Tĩnh đã bị Ung Chính vừa xoa vừa doạ, thu phục hoàn toàn. Tằng Tĩnh không chỉ lật đổ hoàn toàn những điều tố khống đế quốc Đại Thanh và hoàng đế Ung Chính, mà còn hạ quyết tâm thay đổi từ trong ra ngoài, làm lại cuộc đời. Tầng Tĩnh nói mình trước kia là súc sinh, lúc này đã chuyển thành thai người. Tằng Tĩnh khóc lóc tự xét lại nói trước kia mình lòng dạ u mê, có mắt như mù, thân trong phúc mà không biết phúc, nhầm lẫn coi ân nhân như kẻ thù, đáng phải chịu xả thây móc ruột. Nhưng dù có thế cũng cần phải hết lòng hiếu của người con, hết lòng trung của triều thần. Nếu được hoàng đế khoan dung thì Tằng Tĩnh nguyện đi khắp thiên hạ, đến từng nhà từng hộ để phê phán những lời tà ma của Lã Lưu Lương và truyền bá thánh đức và nhân chính của đương kim hoàng thượng.
Không thể nói Tằng Tĩnh đang giả dối. Không phải vì bị bức cung để Tằng Tĩnh phải nói ra những điều đó. Nhưng những lời nói đó có bao nhiêu là thật thì chưa rõ. Vì Tằng Tĩnh vốn chẳng có địa vị gì, ảnh hưởng gì, học vấn tư tưởng cũng chẳng có bao nhiêu, cùng lắm chỉ là kẻ tiểu nhân bồng bột, hung hăng, bắng nhắng. Tằng Tĩnh nói, chỉ bằng một cú có thể lật đổ vương triều Đại Thanh, để Lã Lưu Lương hoặc mình lên làm hoàng đế, đúng là thằng điên nói mơ. Anh chàng này vốn chẳng có gì là đáng giá, nên dù đã hối hận, tỉnh ngộ cũng không đáng mấy. Nhưng vì Tằng Tĩnh đã làm mất mặt bao bậc phụ lão nơi quê hương, vì vậy khi Tằng Tĩnh về báo cáo ở Hồ Nam, trong thành Trường Sa đã có dán truyền đơn nặc danh, quyết tâm cướp Tằng Tĩnh từ trong phủ quan và dìm xuống đầm cho đến chết.
Về Đầu Trang Go down
https://triamquan.forumvi.com/
Tri Âm Quán
Thành Viên Tích Cực
Thành Viên Tích Cực
Tri Âm Quán


Tổng số bài gửi : 6340
Reputation : 2
Join date : 31/07/2013
Đến từ : Thị Trấn Chũ

Luận Anh Hùng - Page 2 Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Luận Anh Hùng   Luận Anh Hùng - Page 2 EmptySun Dec 28, 2014 11:15 am

DỊCH TRUNG THIÊN
LUẬN ANH HÙNG
VĂN HOÁ VÀ CON NGƯỜI
Từng tờ từng tờ sách sử được lật sang bên. Hiện ra trước mắt chúng ta là những tên tuổi rất quen thuộc mà năm tháng còn lưu lại: Hạng Vũ, Tào Tháo, Võ Tắc Thiên, Hải Thuỵ, Ung Chính. Họ đúng là một trong số các nhân vật ưu tú nhất, kiệt xuất nhất trong lịch sử Trung Quốc. Sự nghiệp của họ không thể phai mờ, hình tượng của họ luôn chói sáng, câu chuyện của họ được lưu truyền mãi, sức cuốn hút của họ vẫn còn mãi. Đối với đúng sai, công tội, thiện ác, được mất của họ, người đời có thể bàn luận, tranh luận mãi mãi, nhưng cũng chính vì những điểm này chẳng phải đã chứng minh rõ họ là những người phi phàm?
Nhưng không có ai không là những nhân vật đầy tính bi kịch.
Đúng vậy, trong năm người này, liệu có ai là người gặp vận may hoặc có một kết cục tốt đẹp? Không thất bại, cũng danh liệt, không bị đả kích khi còn sống, cũng bị chửi rủa khi đã khuất, không ai được công đức viên mãn. Và ngay cả những người liên quan với họ như Hàn Tín, Doãn Tự, không ai có kết cục tốt đẹp.
Không thể phủ nhận, kết cục bi kịch được tạo nên có liên quan tới tính cách, phương thức đối xử của họ. Hạng Vũ không đạt được mục đích vì đầu óc quá đơn giản, cũng vậy, Tào Tháo gian trá giảo hoạt, Võ Tắc Thiên thủ đoạn ác độc, Hải Thuỵ viển vông gàn dở, Ung Chính nghi kỵ hà khắc. Nhưng nếu không có những khiếm khuyết đó, thì số phận của họ không mang tính bi kịch chăng? E rằng rất khó nói, ví như tính cách của Doãn Tự có khiếm khuyết gì nào? Không, nhưng vẫn thân bại. Phương thức đối xử của Thẩm Thời Hành có gì là không đúng? Không có. Nhưng vẫn danh liệt. Mới hay, tiến thoái vinh nhục, thắng bại được mất của một người, không hoàn toàn do người đó quyết định, thậm chí là hoàn toàn không. Đương nhiên, nếu Tào Tháo xử sự trung hậu, thực thà, Võ Tắc Thiên cũng nhân từ, hiền hoà, thì đúng là họ sẽ không bị chửi rủa, nhưng tiền đồ cá nhân họ sẽ rất mong manh. Sự nghiệp của họ sẽ không thành công, tính mạng cả gia đình họ vị tất được đảm bảo. Có thể Tào Tháo đã phải bỏ mạng trong loạn thế, Võ Tắc Thiên chỉ có thể cả đời sống trong chùa Cảm Nghiệp, đấy chẳng phải là bi kịch sao?
Xem ra, bọn họ từng người khó tránh được kiếp nạn.
Điều này khiến tôi nhớ tới cuốn “Mười lăm năm vạn lịch” của Hoàng Nhân Vũ. Hoàng còn gọi những gì đã mô tả trong cuốn sách là “ghi chép toàn bộ những điều thất bại lớn”. Vì các nhân vật mà sách đề cập tới, từ hoàng đế Chu Dực Quân, quyền thần Trương Cư Chính, các lão Thẩm Thời Hành, danh tướng Thích Kế Quang, thanh quan Hải Thuỵ, nhà triết học Lý Chất, đến thái giám Phùng Bảo, quý phi Trịnh thị, thủ phụ Cao Củng, hoàng tử Chu Thường Tuần, tướng lĩnh Du Đại Vu… không một ai có kết quả tốt đẹp. Hoàng cho rằng, nguyên nhân của tình hình này không phải do cá nhân, mà do chế độ của ngày đó đã lan tới sơn cùng thuỷ tận, trên từ thiên tử dưới đến thứ dân, ai cũng có thể trở thành vật hy sinh, lao thân vào hoạn nạn”. Chính vì bản thân chế độ có vấn đề, nên hoàng đế là lo việc trị nước hay là cầu an hưởng lạc, triều thần phò tá là độc tài lạm quyền hay là điều hoà thảo hiệp, văn quan là liêm khiết chí công hay là tham ô ti tiện, võ quan là giàu sáng tạo hay là giữ mình cầu an, nhà tư tưởng là cực đoan tiến bộ hay là tuyệt đối bảo thủ, đều chẳng liên quan gì hơn nữa chẳng có ý nghĩa gì. Vì vậy “kết quả cuối cùng, thiện ác lẫn lộn, không ai có thể phát triển sự nghiệp đầy ý nghĩa, có người thân bại, có người danh liệt, cũng có người thân bại và danh cũng liệt”.
Đây là ý kiến tương đối sâu sắc. Trước đó chúng ta luôn có thói quen, coi việc hưng suy của vương triều, thành bại của sự nghiệp, thay đổi của lịch sử, đúng sai của sự việc là do nguyên nhân cá nhân, quỵ kết thành sự đúng sai ưu việt trong phẩm chất cá nhân nhân vật lãnh tụ hoặc nhân vật chủ đạo nào đó. Và đồng thời với quan điểm này, theo Nhị nguyên luận đơn giản giữa thiện và ác, các nhân vật lịch sử được phân làm hai loại người tốt và người xấu, quân tử và tiểu nhân, phân thành nhân quân và bạo quân, minh quân và hôn quân, hoặc trung thần và gian thần, thanh quan và tham quan, cùng với hảo hán và đồ khốn, anh hùng và lưu manh… Thế là nhân vật lịch sử, cũng theo lệ, mỗi người mang một bộ mặt riêng, lịch sử Trung Quốc biến thành một sân khấu lớn. Người mặt hồng, mặt trắng, mặt hoa, người không có mặt chỉ có mũi trắng kéo nhau ra sân khấu hát xướng, người này hát vừa xong, người khác đã bước ra. Nhưng chúng ta không hề biết vì sao trên sân khấu lại có nhiều mặt trắng và mũi trắng đến vậy, cũng không biết Quan Công mặt đỏ và Bao công mặt đen bao giờ mới có thể xuất hiện, vì chúng ta không biết người biên kịch và đạo diễn là ai. Chúng ta chỉ có thể kỳ vọng ở vận may và chờ đợi, tin rằng “ác hữu ác báo, thiện hữu thiện báo”, nhưng không muốn thừa nhận rằng, mỗi lần “thiện báo” luôn cho chúng ta ý thức, lần sau sẽ là “ác vận”.
Lịch sử cứ thế tuần hoàn qua lại: do loạn mà trị, do trị mà loạn, do hưng mà suy, do suy mà hưng, cho đến một ngày, vở kịch không được diễn tiếp nữa.
Bây giờ thì chúng ta biết, ít ra thì từ năm Vạn Lịch thứ mười lăm thời Minh, vở kịch đã ngừng diễn. Vì, dù bạn diễn hay hay không hay, diễn vui hay không vui, thì kết cục luôn chẳng hay ho gì, thậm chí còn không thể rời khỏi sàn diễn. Có thể cần phải diễn tiếp, chỉ cần thay đổi diễn viên, thay đổi cả trang phục, con cháu Nỗ Nhĩ Cáp Xích đã làm được điều này, nhưng tiếc là cũng chẳng đi đến đâu. Chúng ta đã thấy, hoàng đế Ung Chính, một diễn viên mất nhiều sức nhất, dù là hát hoặc diễn, tất cả đều rất hay, nhưng ở dưới khán đài vẫn vang tiếng la ó. Hơn nữa, làn sóng la ó không phải vang lên lần đầu. Trước Ung Chính, thậm chí là trước Hải Thuỵ đã vang lên đến mấy lần.
Chúng ta không thể không suy nghĩ kỹ hơn về điều này.
Đúng vậy, nếu phẩm chất cá nhân không phải là khối u của vấn đề thì chính là chế độ xã hội, vậy chúng ta rất muốn biết đó là chế độ như thế nào? Và vì sao chúng ta cần chọn một chế độ như vậy? Vì sao chế độ lại phải đi đến sơn cùng thuỷ tận?
Chế độ xã hội cổ đại Trung Quốc, đúng như lời Hoàng Nhân Vủ từng nói “Lấy đạo đức thay pháp luật”. Cũng tức là quản lỹ xã hội, trị lý đất nước bằng đạo đức và lễ nghĩa. Một phương thức quản lý và trị lý như vậy được gọi là “đức trị” và “lễ trị”, không phải là “pháp trị” mà chúng ta chủ trương hiện nay, cũng không phải “nhân trị” mà chúng ta vẫn nghĩ.
Nền văn hoá Trung Quốc không tán thành nhân trị lắm, đương nhiên, cũng không phản đối nhân trị lắm. Vì nền văn hoá Trung Quốc cho rằng, luật pháp có tốt đến mấy vẫn cần người đến chấp hành. Không có người chấp hành thì dù luật pháp có tốt đến mấy cũng vô ích, gọi là “có người trị, không có pháp trị” (chỉ người có thể trị lý quốc gia, không có luật pháp có thể trị lý quốc gia). Nhưng, pháp trị không được, nhân trị thì được sao? Cũng không được. Thứ nhất, người có tốt đến mấy rồi cũng chết. Người chết thì nền chính trị của người đó cũng kết thúc, gọi là “người còn thì chính trị được tiến hành, người chết thì chính trị của người đó cũng hết”. Đất nước muốn được yên ổn lâu dài, đương nhiên không thể kỳ vọng ở thứ “nhân trị” “người chết chính trị cũng hết theo”. Thứ hai, người có thiện có ác, có hiền có ngu. Nếu sinh tử tồn vong của một quốc gia lại liên quan đến bản thân một người, thì vô cùng nguy hiểm, không thể tin được. “Một người” nếu là người thiện, vua hiền còn dễ nói, còn khi là đồ ác độc đần độn, thì tổ tông xã tắc thiên hạ thương sinh sẽ ra sao? Vì thế, nền văn hoá Trung Quốc không tán thành nhân trị, hoặc ít ra không tán thành nhân trị như giới học thuật thời đó.
Thực tế, nền văn hoá Trung Quốc không thể tán thành nhân trị. Cái gọi là nhân trị, nói tới cùng chính là nên chính trị cá nhân” hoặc “nền chính trị của một người”, cũng tức là dựa vào ý chí, sức hút và quyền uy, uy vọng của cá nhân để trị nước. Trong lịch sử từng có phương thức này, nhưng về bản chất có mâu thuẫn với tinh thần nền văn hoá Trung Quốc, vì vậy chỉ có thể xem là trường hợp đặc biệt, không thể xem là việc bình thường. Trong cuốn “Chuyện phiếm về người Trung Quốc”, tôi đã nói, hạt nhân tư tưởng của nền văn hoá Trung Quốc là ý thức quần thể. Theo ý thức quần thể, cá nhân luôn nhỏ bé, yếu đuối, không đủ nặng nhẹ, không là gì cả. Ngay cả thiên tử quý báu cũng vậy thôi. Dù thành tựu của họ có to đến mấy, cũng phải nói là “nhờ tổ tông thần linh phù hộ, thiên hạ thần dân đồng tâm, đồng đức, cùng dựng nên đại nghiệp”… Nếu thiên tử không nói như vậy, không làm như vậy, thì đúng là kẻ đi, đến đơn độc, làm những việc tự cho là đúng, tự nghĩ tự làm, lúc này thiên tử sẽ trở thành “dân tặc”, trở thành “độc phu”, có thể là kẻ “thiên hạ muốn diệt, thiên hạ muốn đánh”. Tinh thần cơ bản của nền văn hoá Trung Quốc là vậy, đâu có tán thành tin tưởng và dựa vào nhân trị của cá nhân:
Kỳ thực, Hạng Vũ, Tào Tháo, Võ Tắc Thiên, Hải Thuỵ, Ung Chính sở dĩ phải nhận một kết cục bi kịch vì họ đều là “người theo chủ nghĩa nhân trị”. Trình độ của họ là ngang nhau, tin rằng phẩm chất cá nhân ưu tú, năng lực mạnh mẽ, uy vọng cao, bản lĩnh lớn, là có thể ôm gọn thiên hạ. Hạng Vũ tin vào năng lực cá nhân mình, Hải Thuỵ tin vào đạo đức phẩm chất của mình, Tào Tháo, Võ Tắc Thiên, Ung Chính lại tin vào ý chí, bàn tay sắt của mình, một tay che trời, độc đoán chuyên quyền. Họ đã mâu thuẫn với hạt nhân tư tưởng của nền văn hoá Trung Quốc đến như vậy, đương nhiên sẽ chẳng cách gì để nền văn hoá gật đầu và công nhận.
Rõ ràng, trong lịch sử Trung Quốc từng đã có hiện tượng nhân trị. Nhưng chúng ta cần phải chú ý, phần lớn những hiện tượng đó đều xuất hiện vào các thời kỳ lịch sử đặc biệt. Như những năm tháng động loạn hoặc vào ngày đầu dựng nước. Lúc này, lễ đã băng nhạc đã hoại, hệ thống đức trị và lễ trị đã hết linh, đành phải kỳ vọng vào “nhân trị” và “trị nhân”. Nhất là vào những năm tháng thiên hạ đại loạn, thay triều đổi đại, nhân vật anh hùng nào đó bằng vào ma lực cá nhân, la hét hô mưa gọi gió, tranh giành thống trị Trung Nguyên, nắm thiên hạ trong lòng bàn tay mình. Có thể nhanh chóng lấy được thiên hạ, nhưng không thể nhanh chóng trị được thiên hạ, vì thiên hạ chỉ có thể bị “người lấy”, không thể bị “người trị”. Sau khi nhân vật anh hùng lấy được thiên hạ, cần phải nhanh chóng chuyển dịch sự điều khiển đất nước vào quỹ đạo “đức trị” và “lễ trị”. Bởi thế, Lưu Bang tuy là lãnh tụ khai quốc, cũng không thể trái với lễ. Dù Lưu Bang rất thích Triệu vương Như Ý - con đẻ của Thích phu nhân, nhưng cuối cùng chỉ có thể lập người con lớn của vợ cả là Lưu Doanh làm tự, và hơn một ngàn bảy trăm năm sau, tình trạng của hoàng đế Vạn Lịch cũng giống hệt như thế(1). Chẳng trách Tuỳ Văn đế đã nói: “Trẫm cao quý là thiên tử nhưng không được tự do”. Đức trị và lễ trị cao hơn nhân trị mà!
Còn như cái gọi là “thời đại thái bình” thì càng không được nói tới nhân trị. Luôn có “người còn thì chính lên, người chết thì chính hết”. Nhưng lên cũng được, hết cũng được, chẳng liên quan gì đến phẩm chất, tài cán, sức hút của cá nhân, và cũng chẳng liên quan đến sự tốt xấu của bản thân chính sách, mà chỉ liên quan đến chức quan của cá nhân đó. Nếu là quan (đương nhiên tốt nhất là hoàng đế), thì dù là ngu như Lưu Thiện, hoặc tham như Nghiêm Tung thì nền chính trị vẫn lên; nếu không là quan, hoặc quan bị bãi và dù có năng lực như Tào Tháo, hoặc thanh liêm như Hải Thuỵ thì nền chính trị vẫn hết. Chính trị lên hay hết liên quan tới sự tồn vong của quan. Còn quan thì chính lên, quan bị bãi thì chính hết. Vì vậy là “quan trị” không phải “nhân trị”.
“Lễ” là căn cứ của “quan trị”. Vì lễ quỵ định vua tôn thần ti, trên tôn dưới ti, đồng thời cũng quỵ định, người cao quý đại biểu cho chân lý và đạo đức, kẻ ti tiện nhất định là ngu muội, vô tri, luôn cần được giáo dục”. Cho nên, một người dù tài cao đủ tám đấu, học vấn đầy năm xe, nhưng nếu không làm quan thì coi như không có học vấn, mọi ý kiến đều sai. Ngược lại, hoàng đế dù ngu dốt cỡ nào thì ý kiến luôn được các thần tử dưới bệ rồng xưng tựng: “Hoàng thượng thánh minh”. Báo cáo của trưởng quan dù có lung tung dài dòng, quyết định của thượng cấp dù có sai lầm ghê gớm cũng nhất định phải chăm chỉ học tập, quán triệt chấp hành. Tóm lại, hoàng đế luôn là thánh minh, trưởng quan luôn là anh minh, thượng cấp luôn là cao minh - Tâm minh chủ nghĩa.
Về Đầu Trang Go down
https://triamquan.forumvi.com/
Tri Âm Quán
Thành Viên Tích Cực
Thành Viên Tích Cực
Tri Âm Quán


Tổng số bài gửi : 6340
Reputation : 2
Join date : 31/07/2013
Đến từ : Thị Trấn Chũ

Luận Anh Hùng - Page 2 Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Luận Anh Hùng   Luận Anh Hùng - Page 2 EmptySun Dec 28, 2014 11:40 am

Rõ ràng, quan trị tức là lễ trị, mà lễ trị là gốc của đức trị. Vì đức trị là loại khong chẽ mêm, nếu lê pháp và lê nghĩa không được cụ thể hoá để sử dụng thì không có cách gì để thực hiện.
Dễ thấy, lễ chỉ là thủ đoạn, đức mới là mục đích, quan chính là nhân cách hoá của đức và lễ hoặc đức trị và lễ trị. Vì vậy, quan trị cũng được, lễ trị cũng được, đều có thể nói là “thay pháp chế bằng đạo đức”.
Nói một cách trừu tượng, “thay pháp chế bằng đạo đức” là không tốt, nếu chưa chắc thực sự có thể thay thế. Xã hội thị tộc nguyên thuỷ không có pháp hoặc pháp chế, vậy lấy gì để quản lý, để xử lý và duy trì quan hệ giữa con người? Dựa vào đạo đức, dựa vào lễ nghĩa. Đức trị và lễ trị trong xã hội cổ đại Trung Quốc là sự kế thừa của xã hội thị tộc nguyên thuỷ. Thực hành trong xã hội nguyên thuỷ có hiệu quả, nên không thể nói, nhất định không thể thực hành trong xã hội cổ đại. Cho nên, không thể bình phẩm một cách đơn giản “thay pháp chế bằng đạo đức” là đúng hay sai, mà phải hỏi: Vì sao trong xã hội cổ đại Trung Quốc phải “thay pháp chế bằng đạo đức”? Thay pháp chế bằng loại đạo đức nào? Loại chế độ đó có thực hiện được hay không thực hiện được?
Đến đây, cần phải nói về văn hoá.
Đúng vậy, chính tính chất của nền văn hoá Trung Quốc đã quyết định “thay pháp chế bằng đạo đức”. Ở phần trước đã nói, hạt nhân tư tưởng của nền văn hoá Trung Quốc là ý thức quần thể. Với một nền văn hoá như vậy, điều quan trọng nhất là xử lý quan hệ giữa người và người, bảo đảm sự tồn tại của quần thể. Điều đó chỉ có thể dựa vào đạo đức, không thể dựa vào pháp chế. Vì pháp chế chỉ có thể quy định con người không được làm gì, không thể quỵ định con người cần phải làm gì. Pháp chế chỉ có thể quy định không được làm tổn thương người khác, nhưng không thể quy định phải thương yêu người khác; chỉ có thể quy định không được làm tổn hại đến lợi ích quần thể, nhưng không thể quy định cần phải mưu cầu lợi ích cho quần thể. Tuy chỉ là quy định, nhưng nhiều lắm chỉ có thể quỵ định bạn phải ra sức, chẳng có cách gì bảo đảm bạn đã hết lòng. Đối với việc xử lý quan hệ giữa người với người, bảo đảm sự đoàn kết trong quần thể, trong nhiều mặt pháp chế gần như bất lực. Ví dụ, tư tương người đó ra sao, có lưu tâm đến tình người, có thể hết lòng, xả thân vì người khác, có tinh thần hiến thân vì lợi ích của quần thể hay không… pháp chế không quản nổi. Cho nên, đạo đức có khả năng thay thế pháp chế. Nghĩ xem, nếu từng người đều là chính nhân quân tử, Bồ Tát thánh hiền, một xã hội như vậy còn cần gì đến pháp luật để quản lý về quy định hành vi và quan hệ giữa người với người, cần gì đến pháp chế để ngăn ngừa và bảo vệ người nào đó?
Có thể “lấy đạo đức thay pháp chế” được không? Mấu chốt là, có thể làm cho mọi thành viên trong xã hội đều trở thành người có đạo đức cao thượng được không? Điều quan trọng ở đây là, tất cá mọi người. Vì đê dài ngàn dặm có thể vỡ vì một tô kiên. Chỉ cần một người vô đạo đức, là sẽ có mười người, một trăm người, một ngàn người, một vạn người vô đạo đức, cuối cùng thì hết đường cứu vãn. Nhưng có ai dám chắc rằng ai cũng là người đạo đức, cao thượng cả không? Không. Ít ra trước mắt là không. Cho nên, “lấy đạo đức thay pháp chế” chỉ có thể là lý tưởng, không thể là hiện thực.
Đã vậy, vì sao còn phải kiên trì “thay pháp chế bằng đạo đức”?
Vì trên mảnh đất văn hoá của chúng ta đã có quá nhiều pháp chế. Pháp chế có một nguyên tắc cơ bản: Mọi người đều bình đẩng trước pháp luật. Bình đẳng, mới cần đến pháp; bình đẳng, cũng mới có thể sinh ra pháp. Pháp là cái gì? Pháp tức là “công ước của toàn dân”. Tiền đề của pháp, trước hết phải thừa nhận, mọi người đều là những người đơn độc, cá thể, có nhân cách độc lập, có ý chí tự do. Chính vì những người này đều là đơn lẻ, giữa họ không có bất cứ một quan hệ nào, không ai quản được ai, ai cũng tự cho là mình đúng, vì vậy, nếu không có chế độ mang lại hiệu quả về nhiều mặt để ngăn ngừa, thì thiên hạ sẽ đại loạn, hết cách để sinh tồn. Lúc này cần phải có thứ gì đó có tác dụng đối với tất cả mọi người. Hiển nhiên, đối với số người đơn lẻ, nhân cách độc lập, ý chí tự do mà nói, chỉ có ước định chung của chính bản thân họ, mới có thể có tác dụng với từng người. Đó chính là pháp. Nói cách khác, pháp là ước pháp chung(2) của toàn thể cá nhân trong một xã hội nào đó. Pháp đã là ước định chung của mọi người, đương nhiên ai cũng phải tuân theo, đồng thời pháp cũng đảm bảo sự công bằng cho mọi người, gọi là “mọi người bình đẳng trước pháp luật”, mới hay tiền đề của văn hoá pháp luật là ý thức cá thể, là sự bình đẳng, độc lập giữa người với người. Độc lập, mới có bình đẳng; bình đẳng mới cần đến pháp chế.
Người mà nhân cách không bình đẳng, thì chẳng cần đến pháp. “Vua bảo thần chết thần không thể không chết; cha muốn con vong, con không thể không vong”. Đã vậy thì cần pháp làm gì? Có luật thì hay hơn. Ví dụ, mưu nghịch thì lăng trì; đại bất kính thì chém ngay lập tức; bất hiếu thì treo cổ; cùng “mười điều ác không tha” (tức là mưu phản và mười loại tội ác nghiêm trọng nhất không thể xá miễn)… Rõ ràng, tác dụng của luật là giúp nhà thống trị hành động được dễ dàng mỗi khi có việc trừng phạt, đồng thời cũng tỏ ra là có “công bằng”. Vì thế, luật còn gọi là “hình luật”, “điều luật”. Dù cũng được gọi là “pháp luật”, nhưng so với ý nghĩa của pháp luật ngày nay nó đã phát triển rất xa, hoàn toàn không phải một loại.
Người có nhân cách không bình đẳng cũng không thể sinh ra pháp. Vì giữa họ chẳng có gì để thương lượng, chỉ có phục tùng, không ước định ra pháp. Hoàng đế nói ra ý trời, cứng rắn độc đoán, ra lệnh là phải làm, nói một là một, còn ước với pháp gì nữa? Cho nên, thời cổ đại, Trung Quốc chỉ có “vương pháp”, không có “ước pháp”. Tuy cũng có cách nói “ba chương ước pháp”, nhưng đó chỉ là “ước pháp”của một phía. Ví dụ, lúc Lưu Bang vào Hàm Dương, có “ước pháp” với các bậc phụ lão trong Tần (kẻ giết người phải chết, trị tội bọn cướp hoặc làm người khác bị thương), đây chỉ là vương pháp mới, Lưu Bang đơn phương tuyên bố. Vương pháp mới tốt hơn vương pháp cũ, trăm họ trong Tần ai cũng ủng hộ. Dù không ủng hộ, cũng chẳng biết phải làm gì, vì chẳng có có gì để thương lượng. Vương pháp là vương pháp, tức là phép của vua, con dân đâu có quyền được bàn?
Cũng vậy, cái gọi là “vương tử phạm pháp, cũng chịu tội như thứ dân” cũng chỉ là lời dối trá, lừa người. Vương tử có thể phạm pháp gì? Trừ phi là mưu phản. Phạm những điều khác thì gọi là “sơ suất”. Và dù là sơ suất, cũng sẽ tìm ra con dê khác để thế tội, đã có người khác chịu tội thay. Ví dụ, hoàng thái tử không chăm chỉ đọc sách, thì người đọc sách cùng phải chịu tội. Thời Xuân Thu, người em của Tấn Điệu công là công tử Dương Can phạm quân quỵ, quan chấp phép Nguỵ Giáng đã cho chặt đầu người đánh xe. Nguỵ Giáng nổi tiếng “chấp pháp như sơn” mà cũng chỉ làm được vậy. Đó tức là lễ, tức là “hình không lên đến đại phu, lễ không xuống tới thứ dân”, không có gì là bình đẳng. Còn như vương tử phạm pháp thì đồng tội với thứ dân, vậy hoàng đế phạm tội thì cùng tội với ai? Mọi người đều bình đẳng trước pháp luật, không thực hiện được chăng?
Pháp chế đã không thể sinh ra, chỉ có thể trách cứ từ đạo đức.
Đạo đức là chuẩn mực hành vi và quỵ phạm trong quan hệ giữa người và người. Có thể có hai loại quan hệ giữa người và người: Bình đẳng và không bình đẳng. Quan hệ bình đẳng sản sinh ra đạo đức bình đẳng, quan hệ không bình đẳng luôn có luân ly không bình đăng. Trong xã hội cỗ đại Trung (sịuốc, nội dung hạt nhân của cái gọi là “luân lý đạo đức”, được xác lập từ quan hệ không bình đẳng giữa người với người, tức là: Phân biệt nội ngoại, xác định thân sơ, trưởng thứ, quý tiện(3). Vì vậy, người khác nhau có quy phạm đạo đức khác nhau. Vua muốn tôi phải tuân thủ chữ “trung”, vua không phải tuân thủ; cha muốn con phải giữ được chữ “hiếu”, cha thì không cần. Không có một thứ gì cùng có hiệu quả với mọi người, hoặc không cần “công đức” để mọi người cùng tuân thủ.
Thực tế thì xã hội cổ đại Trung Quốc chưa hề nghĩ ra cái có sức quy định chung với mọi người, mọi người được bình đẳng. Bình đẳng ư? Vị trí của vua, của cha sẽ như thế nào? Dứt khoát không thể như vậy. Thế là liền có hàng loạt những cái gọi là đạo đức luật lệnh vua là giềng mối của tôi, cha là giềng mối của con, chồng là giềng mối của vợ. Vừa là giềng mối vừa là gút mắc, đâu có thể bình đẳng?
Có người nói, xã hội cổ đại Trung Quốc tuy không có sự “bình đẳng giữa người và người trước pháp luật”, nhưng lại có sự “bình đẳng giữa người và người trước đạo đức”. Lý do là: Xã hội yêu cầu ai cũng phải có đạo đức, dù quý như thiên tử cũng không ngoại lệ, vì vậy có bình đẳng. Đó là cách nói lừa dối người khác. Nếu không phải là có dụng ý khác, thì cũng là giương mắt ra nói khống. “Trời có mười vầng nhật, người có mười bậc”, “chỉ có bậc thượng trí và bậc hạ ngu là không thay đổi”, làm gì có khởi điểm của bình đẳng mà nói? Quân thần, phụ tử, quan dân, chủ tớ, từng người có tiêu chuẩn và yêu cầu đạo đức của riêng mình. Vua phải nhân, thần phải trung, cha phải nhân ái, con phải hiếu đễ. Nghĩa vụ không giống nhau, quyền lợi cũng khác nhau. Vua có thể giết thần, thần không thể giết vua; cha có thể dạy con, con không thể trách cha; quan có thể phạt dân, dân không thể cáo quan, ở đây làm gì còn có sự bình đẳng? Nho gia nói rất hay: “Ai cũng có thể trở thành Nghiêu Thuấn”. Nhưng mục đích tu đức của quân thần chủ tớ lại khác nhau, quân chủ tu “vương đạo”, càng tu càng ác độc, thần bộc tu “nô tính”, càng ru càng thấy ấm ức, làm sao để cùng nhau có thể trở thành “Nghiêu Thuấn?”.
Nhưng đạo đức lại đòi hỏi phải bình đẳng. Sở dĩ trong xã hội cổ đại có cái mà Enghen gọi là “đạo đức thuần phác”, vì trong nội bộ thị tộc và bộ lạc, người và người đều bình đẳng. Không có bình đẳng sẽ không có yêu cầu về đạo đức. Xét về nhân nghĩa lễ trí tín, nhân tức là yêu người, nghĩa tức là giúp người, lễ tức là kính người, trí tức là hiểu người, tín là tín nhiệm người khác và giữ chữ tín với người khác. Nhưng nếu giữa người và người không có sự bình đẳng thì những điều vừa nói trên còn có ý nghĩa gì? Người không bình đẳng thì yêu quý nhau thế nào đây? Họ sẽ hiểu nhau, tín nhiệm nhau thế nào đây?
Mới hay, vấn đề không phải ở chỗ hoặc không hoàn toàn ở chỗ “thay pháp chế bằng đạo đức”, mà là ở chỗ “đạo đức” dùng để thay pháp chế là không đạo đức hoặc không hoàn toàn đạo đức. Đã vậy, lúc trở ngại của chế độ đã thành công và lan truyền khắp sơn cùng thuỷ tận, thì chẳng còn gì phải nói nữa. Vì “thay pháp chẽ băng đạo đức von đã có vấn đề, huông hô đạo đức lại không nhất định là đạo đức!
Vậy vì sao chúng ta cứ phải chọn loại đạo đức này, loại chế độ này?
Vì hạt nhân trong tư tưởng nền văn hoá Trung Quốc là ý thức quần thể.
Giống như “thay pháp chế bằng đạo đức” Chưa chắc là không hay, ý thức quần thể chưa chắc là không tốt. Người vốn là động vật tồn tại trong xã hội. Điều khác biệt giữa người và động vật, điểm sáng suốt giữa người và động vật, đúng như lời Nho gia, là người có thể “quần” (hợp lại thành số đông). Khả năng sinh tồn tự nhiên của con người không bằng động vật, sức người không bằng sức trâu, người nhanh không bầng ngựa nhanh, người không bay được như chim ưng, chỉ biết kết thành quần thể, mới có thể khắc phục được những khó khăn mà cá thể không sao khắc phục được, mới chịu được áp bức, mà cá thể không sao chịu được, từ đó, tiếp tục tồn tại và tiếp tục phát triển. Đương nhiên, động vật cũng có bầy đàn, quần thể. Nhưng quần thể của động vật không vững chắc bằng quần thể của con người, vì vậy mới có câu nói “tan tác như chim muông”. Rõ ràng, ý thức tự giác, thấy phải quần thể là một trong những đặc trưng để người là người thực sự.
Vấn đề ở chỗ, bất kỳ một quần thể nào cũng từ các cá thể hợp thành. Phủ nhận giá trị tồn tại của cá thể, cũng là phủ định quần thể. Đúng là nền văn hoá của chúng ta đã có sai lầm trong vấn đề này: Chỉ biết nhấn mạnh ý nghĩa của quần thể, mà không thừa nhận giá trị của cá thể. Quần thể luôn là vĩ đại, gọi là “một quần thể lớn”. Cá thể luôn là nhỏ bé, gọi là “một nhúm nhỏ”. Thậm chí vài năm trước, là một “hộ cá thể” còn có nguỵ hiểm và bị mọi người coi thường. Chúng ta đều được biết rằng “sông lớn không đầy, sông nhỏ cạn, nồi không có gì thì bát cũng không có”. Thực ra nói như vậy chỉ đúng một nửa. Nồi không có, đương nhiên bát cũng sẽ không có, nhưng nếu sông nhỏ đều cạn, thì không biết nước trong sông lớn từ đâu tới?
Phủ nhận giá trị tồn tại của cá thể cũng tức là không thừa nhận nhân cách độc lập của cá thể. Không có nhân cách độc lập, cũng sẽ không có ý chí tự do, cũng không có dân chủ và pháp chế. Chỉ còn biết dựa vào quan hệ quần thể, chỉ có thể là quan hệ mà con người phải dựa vào. Vậy chúng ta phải làm gì để duy trì được quan hệ của con người đó? Là hai phương pháp sau: Một là bạo lực, hai là lừa dối. Chúng ta đã có cả hai thủ đoạn này, đó tức là “bá đạo” và “vương đạo”, cũng tức là cao áp và xoa dịu. Có điều, cao áp và bạo lực khó duy trì được lâu, tốt nhất là tận dụng biện pháp xoa dịu và lừa dối. Số “luân lý đạo đức” tam cương ngũ thường chính là dùng để làm việc này.
Vì vậy xã hội cổ đại Trung Quốc nhất định phải lấy đạo đức thay pháp chế, và “đạo đức” cũng nhất định là không đạo đức. Vì chỉ có thế mới đủ để duy trì quan hệ là chỗ dựa, giữa con người với nhau.
Giữa con người với con người đã là quan hệ con người phải dựa vào, mỗi cá nhân trong đó không còn nhân cách độc lập, ý chí tự do. Vì người dựa dẫm được vui vẻ, nể phục và toàn tâm tình nguyện đến dựa, người được dựa không thể không có chút nhân nhượng người dựa dẫm, nhất là nhân nhượng “ý chí tập thể” và “nguyện vọng tập thể” của họ, biến mình thành một đại gia “tượng trưng cho đạo đức”, luôn có thể tiếp nhận hoặc hết cách phản đối; biến mình thành khoan hoà nhân ái, thấu tình đạt lý, không có cá tính, biết hành lễ như nghĩa. Đó cũng chính là nguyên nhân để Lưu Bang làm hoàng đế và Ung Chính không tránh khỏi bị chửi rủa. Lưu Bang chủ trương không hề có cá nhân, ngược lại, Ung Chính cá tính rất mạnh.
Hạng Vũ, Tào Tháo, Võ Tắc Thiên, Hải Thuỵ cũng như vậy.
Thực tế, cuốn sách bình phẩm mấy nhân vật sơ dĩ có sức hút như vậy vì họ có cá tính, hơn nữa cá tính rất mạnh. Ví dụ, Hạng Vũ cá tính hơn Lưu Bang, Tào Tháo cá tính hơn Lưu Bị. Cho nên dù Hạng Vũ bại trận, Tào Tháo bị chửi rủa, nhưng trong con mắt mọi người vẫn thấy thích Hạng Vũ, chứ không phải Lưu Bang, càng thích Tào Tháo chứ không phải Lưu Bị. Có điều xét về thực tế, Lưu Bang vẫn có một số cá tính, cũng không thiếu những chỗ đáng yêu, còn Lưu Bị chẳng đáng yêu chút nào. Tổ tiên con cháu nhà họ Lưu đã hàng bao đời, xa xôi nhường ấy, đúng là “một đời chẳng bằng một đời”.
Kỳ thực, đâu chỉ có dòng họ Lưu, cả lịch sử Trung Quốc và nền văn hoá Trung Quốc đều có dáng dấp của hoàng hôn buông trên sông. Minh, Thanh không bằng Tống, Nguyên, Tống, Nguyên không bằng Hán, Đường, và Hán, Đường lại không bằng Tiên, Tần. Không tin bạn cứ lấy Hải Thuỵ so với Tào Tháo, lấy Ung Chính so với Hạng Vũ, chẳng khó khăn gì thấy họ chẳng có gì giống nhau. Đương nhiên, Hải Thuỵ đạo đức cao thượng hơn hẳn Tào Tháo, nhưng về sức hấp dẫn lại thua xa. Rõ ràng Ung Chính chín chắn hơn Hạng Vũ rất nhiều, nhưng Hạng Vũ lại được lòng người thương nhớ và cảm kích. Ngay cả lúc Ung Chính chết cũng không được bằng Hạng Vũ, đúng là “chết không bằng người ấy”. Văn hoá đúng là vì người và thuộc về con người. Nếu như “người” ngày một thiếu đi cá tính và sức hút, vậy tự thân nền văn hoá ấy sẽ còn được bao nhiêu sức hút, thật vô cùng đáng ngờ.
Đây là vấn đề gần như mang tính thế giới.
Lúc bàn về sự phát triển của sản xuất vật chất và quan hệ không cân bằng trong sản xuất nghệ thuật, Marx từng nói, nghệ thuật và sử thi Hy Lạp là thứ đã “cao hết cỡ”, văn hoá Hy Lạp cũng được “phát triển hoàn thiện nhất” ngay từ buổi đầu của nhân loại, sẽ “không bao giờ lặp lại”. Đúng vậy, nền văn minh hiện đại phương Tây dù đạt được thành tựu huy hoàng, cả thế giới đều biết, nhưng so với văn minh Hy Lạp vẫn còn thiếu rất nhiều tính hồn nhiên, lãng mạn và khí chất anh hùng. Cũng giống như một cụ già, dù công thành danh toại, anh hùng cái thế, cũng luôn không bằng một chàng trai thanh xuân làm xúc động và mê lòng người. Tiên, Tần, Hán, Nguỵ là giai đoạn văn hoá dân tộc Trung Hoa “phát triển đến mức hoàn mỹ nhất”, đương nhiên nên “là một giai đoạn không bao giờ trở lại và thể hiện một sức hấp dẫn muôn đời”. Vì vậy, Ung Chính không đáng yêu bằng Hạng Vũ, Hải Thuỵ không thú vị bằng Tào Tháo, chẳng có gì là lạ.
Có điều, Marx cũng chỉ rõ, cố nhiên một người đứng tuổi không thể lại biến thành nhi đồng, nhưng sự ngây thơ của nhi đồng lại khiến cho người già cảm thấy sung sướng, người già cũng nên “từ một nấc thang rất cao tái hiện lại sự chân thành của mình”, để “tính cách cố hữu” của mình được “sống lại một cách thuần chân trong thiên tính của đứa trẻ”. Như vậy cũng chẳng dễ dàng gì. Đối với chúng ta mà nói, gần như có chút khó khăn hơn. Vì cho đến này, chúng ta vẫn chưa có sự phân tích và thanh lý nền văn hoá truyền thống một cách khoa học, khách quan và bình tĩnh, không phủ định toàn bộ thì cũng lạc quan mù quáng, làm việc nặng về cảm tính. Nghiên cứu văn hoá cố nhiên phải khách quan, lãnh đạm, nhưng nếu để tình cảm xen vào quá nhiều, không chỉ không giúp đỡ giải quyết vấn đề, còn để lại rất nhiều nguy hại.
Thực tế, nền văn hoá Trung Hoa có không ít những chỗ đáng khen, đáng lưu đồng ý, nhưng cũng đồng thời không thiếu những lúc đáng bi đáng than. Những chỗ đáng buồn nhiều nhất trong văn hoá là, tội ác được nguỵ trang, nhân tính bị huỷ hoại, cùng sự tê liệt vô nhân đạo và phi nhân tính. Câu chuyện thím Tường Lâm không phải đợi đến thời đại Lỗ Tấn mới thấy, tinh thần A.Qcũng đã có từ lâu, chẳng qua là chưa có người phát hiện. Mọi người đều đã nhìn đã thấy, nhưng khi chưa lan truyền tới sơn cùng thuỷ tận thì chưa chịu giác ngộ. Từ lý do đó, bi kịch mới phải diễn đi diễn lại, ngay cả “thiên tử chí tôn” như Ung Chính cũng khó tránh nổi số phận bất hạnh.
Đúng vậy, trước kia con người rất không coi trọng sự phát triển của cá nhân. Chúng ta gần như chưa nghĩ phải ban cho mỗi cá nhân một không gian đủ để tự do phát triển cá tính. Chúng ta chỉ biết nhấn mạnh lợi ích quần thể cao hơn tất cả, nhưng lại không biết nếu mỗi cá nhấn không được phát triển đầy đủ tự do, thì ít có khả năng quần thể được tiến bộ lâu dài. Kết quả quần thể biến thành một quần thể không bền vững, nói gì tới nhân cách bền vững của cá thể. Nhưng nếu nhân cách mỗi cá nhân chúng ta đều không bền vững, liệu chúng ta có đảm bảo “lập nên một rừng dân tộc của thế giới” không? Chúng ta còn có thể xây dựng nên một xã hội mới như trong tưởng tượng của Marx và Enghen không? Nên nhớ, trong xã hội mới đó “sự phát triển tự do của mỗi người” là tiền đề và điều kiện cho “sự phát triển tự do của mọi người”.
Muốn có nhân cách bền vững, thì cần có chế độ bền vững, và muốn có chế độ bền vững, thì cần có văn hoá bền vững. Có thể đây chính là sứ mệnh lịch sử của mỗi người Trung Quốc trong thời đại mới chúng ta.
Dĩ vãng đã qua, bao nhiên nhân vật phong lưu chờ đến thời đại ngày nay.

Chú thích


(1) Cũng giống như Lưu Bang không thích con trưởng Lưu Doanh, muốn lập Triệu vương Như Ý, Vạn Lịch cũng không thích trưởng hoàng tủ Chu Thường Lạc, mà muốn lập tam hoàng tử Chu Thường Tuấn. Nhưng sau khi những đại thần thủ lễ kiên trì phản đối hơn mười năm, cuối cùng Vạn Lịch đã phải khuất phục lễ chế và lễ pháp, lập Chu Thường Lạc làm hoàng thái tử. Và đây chính là bằng chứng cho lễ trị chiến thắng nhân trị. Cho đến Khang Hy, Ung Chính bí mật lập tự, nguyện vọng của chế độ “nhân trị” mới được coi là thực hiện phần nào (Tác giả).
(2) Không phải dễ dàng để có được ước pháp. Vì không phải ai cũng được tham gia lập pháp, cũng không thể đảm bảo rằng mọi người đều có ý kiến giống nhau. Nếu cần có chế độ và nguyên tắc tương ứng, như chế độ đại biểu nhân dân, và thiểu số phục tùng đa số… Vì vậy dân chủ luôn liên kết với pháp chế.
(3) Xin xem thêm chương sáu, sách “Chuyện phiếm về người Trung Quốc” (Tác giả).

HẾT
Về Đầu Trang Go down
https://triamquan.forumvi.com/
Sponsored content





Luận Anh Hùng - Page 2 Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Luận Anh Hùng   Luận Anh Hùng - Page 2 Empty

Về Đầu Trang Go down
 
Luận Anh Hùng
Về Đầu Trang 
Trang 2 trong tổng số 2 trangChuyển đến trang : Previous  1, 2
 Similar topics
-
» Luận bàn về kiếp luân hồi
» ***Khổng Tử***
» Nguyễn Trãi – Anh Hùng Dân Tộc
» Kỳ Pháp Thập Bát Cục Triển Trạch Thông Thiên Khiếu CƯỚI GẢ HÔN LỄ NÊN CHỌN
» TỬ CỐNG HÙNG BIỆN VỀ KHỔNG TỬ

Permissions in this forum:Bạn không có quyền trả lời bài viết
Tri Âm Quán - Lục Ngạn - Bắc Giang :: Thảo Luận-
Chuyển đến