Tri Âm Quán - Lục Ngạn - Bắc Giang
Chào bạn đã ghé thăm Tri Âm Quán_Thị Trấn Chũ_Lục Ngạn_Bắc Giang!
Diễn Đàn là nơi giao lưu kết bạn, sưu tầm, lưu trữ, học hỏi và chia sẻ kiến thức.
Để cùng nhau tiến bộ trên con đường hướng thiện.
Chúc bạn sức khỏe và có nhiều thành công mới trong cuộc sống!

Om mani pad me hum
Tri Âm Quán - Lục Ngạn - Bắc Giang
Chào bạn đã ghé thăm Tri Âm Quán_Thị Trấn Chũ_Lục Ngạn_Bắc Giang!
Diễn Đàn là nơi giao lưu kết bạn, sưu tầm, lưu trữ, học hỏi và chia sẻ kiến thức.
Để cùng nhau tiến bộ trên con đường hướng thiện.
Chúc bạn sức khỏe và có nhiều thành công mới trong cuộc sống!

Om mani pad me hum
Tri Âm Quán - Lục Ngạn - Bắc Giang
Bạn có muốn phản ứng với tin nhắn này? Vui lòng đăng ký diễn đàn trong một vài cú nhấp chuột hoặc đăng nhập để tiếp tục.
Tri Âm Quán - Lục Ngạn - Bắc Giang

Mỗi người đều nhận được hai thứ giáo dục: một thứ do người khác truyền cho; một thứ, quan trọng hơn nhiều, do mình tự tạo lấy.
 
Trang ChínhTrang Chính  Truyện Phật Giáo (hay) Sưu Tầm - Page 2 Icon_portal  Latest imagesLatest images  Đăng kýĐăng ký  Đăng NhậpĐăng Nhập  
Chào mừng các bạn đã ghé thăm Tri Âm Quán_Thị Trấn Chũ_Lục Ngạn_Bắc Giang! Chúc các bạn sức khỏe và thành đạt! Tri Âm Quán_Thị Trấn Chũ_Lục Ngạn_Bắc Giang.

 

 Truyện Phật Giáo (hay) Sưu Tầm

Go down 
2 posters
Chuyển đến trang : Previous  1, 2
Tác giảThông điệp
Tri Âm Quán
Thành Viên Tích Cực
Thành Viên Tích Cực
Tri Âm Quán


Tổng số bài gửi : 6340
Reputation : 2
Join date : 31/07/2013
Đến từ : Thị Trấn Chũ

Truyện Phật Giáo (hay) Sưu Tầm - Page 2 Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Truyện Phật Giáo (hay) Sưu Tầm   Truyện Phật Giáo (hay) Sưu Tầm - Page 2 EmptySat Feb 14, 2015 10:23 am

Chỉ Một Giới Thôi

Uttiya là một thanh niên Bà La Môn ở kinh thành Xá Vệ. Sau khi làm đầy đủ bổn phận của một cư sĩ tại gia như bố thí, cúng dường, Uttiya đến yết kiến Phật và xin được xuất gia. Ðức Ðạo Sư chấp thuận cho chàng được toại nguyện.
Sau ngày xuất gia và thọ Tỳ Kheo giới, Uttiya đâm hoảng. Chàng tự nghĩ: "Không ngờ muốn làm một sa môn phải giữ đến 250 giới ... chỉ nhớ thôi cũng đã mệt rồi ... nói gì đến thọ trì. Thôi chết rồi!"
Và thầy Tỳ Kheo Uttiya đâm ra lúng túng vì thầy không tài nào nhớ nổi 250 giới cấm. Uttiya đến gặp Phật và xin hoàn tục vì chàng không tài nào xoay sở với ngần ấy giới luật phải giữ. Ðức Ðạo Sư ân cần khuyên hỏi :
- Này Tỳ Kheo! Con xin hoàn tục chỉ vì các điều giới quá nhiều khiến con không nhớ nổi, chứ không phải vì con tiếc nuối dục lạc thế gian, có phải thế không ?
- Bạch Thế Tôn! Ðúng như vậy! Con nghĩ rằng khi sống đời cư sĩ, chỉ phải giữ 5 giới cấm, là những điều con có thể thi hành được. Còn hôm nay, hai trăm năm mươi giới của Tỳ Kheo, con không tài nào nhớ hết thì làm sao mà vâng giữ. Chi bằng con xin hoàn tục để khỏi vi phạm đến giới pháp cao sâu vi diệu của Tăng đoàn.
- Này Tỳ Kheo! Nếu Như Lai rút 250 giới lại thật tóm tắt, chỉ còn một vài điều giới thôi thì con có thể tiếp tục đời sống xuất gia hay không?
- Bạch Thế Tôn! Ðược như thế thì còn gì bằng.
- Này Tỳ Kheo! Vậy thì bắt đầu từ hôm nay, con chỉ giữ có mỗi một giới này thôi.
Ðó là canh chừng thật chặt chẽ những mống tâm động niệm của con, biết rõ từng ý nghĩ khởi lên là thiện hay ác. Này Tỳ Kheo! Làm sao để biết đó là một ý tưởng thiện hay ác: Ý tưởng ác là những ý tưởng mà nếu đem ra nói hay làm sẽ gây hại cho mình, cho người hoặc cho cả hai. Ðối với những ý tưởng như thế, con phải canh chừng, theo dõi nó từ lúc mới sanh, lan rộng, cho đến khi diệt mất. Này Tỳ Kheo! Thế nào là những ý tưởng thiện? Ðó là những ý tưởng mà khi đem ra thi hành sẽ lợi ,lành cho mình cho người không làm hại mình, hại người hoặc cả hai ...  Ðối với những ý tưởng loại này, con cũng phải theo dõi từ lúc chúng sanh khởi, lan rộng cho nó tăng chưởng lớn lên mãi . Này Tỳ Kheo! Với một điều giới duy nhất như thế, con có thể giữ được hay không?
Thầy Tỳ Kheo Uttiya cung kính thưa:
- Bạch Thế Tôn! Con có thể giữ được và con xin Thế Tôn cho phép con ở lại tịnh xá tu học.
Rồi Tỳ Kheo Uttiya, với một điều giới duy nhất như thế, tinh cần tu tập. Không may cho thầy, một cơn bệnh nặng chợt đến khiến thầy phải gián đoạn công phu. Cơn bệnh này tiếp nối cơn bệnh khác không thưa dứt, khiến thầy Uttiya vô cùng sầu khổ. Một hôm trên giường bệnh, thầy chợt nghĩ: "Trong khi ta lâm bệnh khổ thân thể khó chịu vô vàn như thế này, các ý tưởng sinh khởi liên miên không bao giờ dứt. Nếu cái thân xác thịt này mà không được tiếp tế thức ăn, nước uống và không khí thì nó có lẽ đã chết từ lâu. Còn cái vọng tâm của ta, nếu không được tiếp tế bằng những ý niệm thì có lẽ ... nó cũng đã chết từ lâu lắm rồi. Thân ta tuy hiện đang bị bệnh khổ bức bách, nhưng đó không phải là cái cớ để ta buông lung ... huống chi đấng đạo sư đã thương tình tóm tắt 250 điều giới vào trong chỉ một giới mà ta còn lơ đễnh thì thật là đáng trách ..."
Nghĩ như thế, Tỳ Kheo Uttiya tinh cần tu tập. Chẳng bao lâu, thầy đắc A La Hán, ngay khi còn nằm trên giường bệnh. Người ta còn ghi lại được một bài kệ đơn giản của vị La Hán này như sau:
Trong khi ta lâm bệnh
Niệm khởi lên nơi ta.
Trong khi ta lâm bệnh
Không phải thời phóng dật.

Lời bàn:
Em thân mến,
Trường hợp của thầy Tỳ Kheo Uttiya cũng là trường hợp của em và tôi. Dù đã thọ 5 giới, 10 giới, 250 giới hay 348 giới đi nữa, tuy số lượng có sai biệt nhưng tinh thần của giới luật không ngoài hai điểm:
"Dứt ác, làm lành". Ðó chính là một giới răn mà đấng Ðạo Sư đã tóm tắt cho thầy Uttiya giữ gìn giới này, nhà thiền gọi là "chăn trâu" đó em.
"Bằng sự cố gắng, hăng hái không buông lung, tự khắc chế lấy mình, kẻ tự tạo cho mình một hòn đảo. Chẳng có ngọn thủy triều nào nhận chìm được."

_________________________________
Tri Âm Quán_Thị Trấn Chũ_Lục Ngạn_Bắc Giang
http://quoccuonglucngan.blogspot.com/
Về Đầu Trang Go down
https://triamquan.forumvi.com/
Tri Âm Quán
Thành Viên Tích Cực
Thành Viên Tích Cực
Tri Âm Quán


Tổng số bài gửi : 6340
Reputation : 2
Join date : 31/07/2013
Đến từ : Thị Trấn Chũ

Truyện Phật Giáo (hay) Sưu Tầm - Page 2 Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Truyện Phật Giáo (hay) Sưu Tầm   Truyện Phật Giáo (hay) Sưu Tầm - Page 2 EmptySat Feb 14, 2015 10:29 am

Chú Rể Ða Sự

Ngày xửa, ngày xưa ... có một chàng trai nọ, chúng ta cứ tạm gọi là An cho tiện.
An được cha mẹ hứa hôn với một cô gái đồng trang lứa. Hai đàng chưa hề giáp mặt nhau. An chỉ nghe phong thanh rằng vị hôn thê của mình là một thiếu nữ khá diễm lệ, tam tòng tứ đức đều đầy đủ. Và các bạn chàng vẫn thường kín đáo tỏ bày niềm ao ước được một người bạn đường tốt đẹp như chàng.
Ðể chứng tỏ cho cô dâu, và mọi người biết rằng đàng gái đã không lầm khi chọn mình làm rể đông sàng, An cương quyết sẽ không bao giờ rước vợ nếu chưa lập công danh với đời.
Từ đó, người ta thấy An đêm ngày sôi kinh nấu sử, luyện võ ôn văn.
Ngày tháng dần qua ... Biết bao lần đàng gái bắn tin cho An biết rằng họ không đòi hỏi nơi chàng gì hết, rằng tân nương sẽ được đưa đến vô điều kiện, như lời giao ước năm xưa ... Nhưng lòng tự tôn của An đã không cho phép chàng hành động như bao nhiêu con người tầm thường khác ... Chàng vẫn thường hình dung đến nhan sắc diễm lệ của nàng để tự an ủi và sách tấn mình trong những lúc thất chí, sa cơ ... Tất cả những gian truân khổ nhọc mà chàng đã vượt qua, há chẳng phải là vì nàng đó sao? Người thiếu nữ mà dung nhan còn mơ hồ đó dần dần trở thành một điểm tựa, một lý tưởng, một hải đăng định hướng cho đời chàng.
Mười năm trôi qua ... An tạm hài lòng với con đường công danh của đời mình. Và một hôm, hôn lễ được cử hành rất tưng bừng. Cô dâu được đưa về nhà chồng với vô số đồ trang sức, và, một tấm khăn voan che kín mặt.
Và trước mặt rất đông quan khách, An đưa tay giở tấm khăn che mặt tân nương ... Bỗng nhiên, người ta nghe tiếng kêu thảng thốt của An:
- Chèn ơi! Tưởng ai đâu xa lạ, té ra nàng chính là người vẫn thường cắt chuối cho heo ăn, và vớt bèo nuôi vịt mà tôi vẫn thường thấy hằng ngày qua song cửa đấy ư?
Lời bàn:
Người ta không đồng ý với nhau về đoạn kết của câu chuyện. Có người cho rằng sau đó An bỏ nhà ra đi biền biệt vì tân nương đã làm cho chàng quá thất vọng. Nàng đã không chịu ăn hoa, uống sương và thêu vàng giắt ngọc như chàng hằng mơ tưởng mà lại là một thiếu nữ hoàn toàn bình thường và đảm đang như bao nhiều người vợ khác.
Nhưng có kẻ quả quyết rằng, sau ngày hôn lễ An đã tuyên bố rằng tân nương tuy không giống người trong mộng của chàng nhưng nàng cũng không đến nỗi xấu xí ... và chàng kết luận rằng chỉ vì tính khí cao ngạo ngông cuồng mà chàng đã phí mất 10 năm dài lao khổ trong khi nàng lúc nào cũng ở bên cạnh chàng, v.v... và v.v...
Nhưng nơi đây người kể không cốt ý trình bày một câu chuyện tình có hậu của thế gian giới mà chỉ thừa hứng nghĩ lan man về tu hành giới, về chuyện hạ thủ công phu của nhà thiền. Cũng như những lao tâm khổ trí, những niềm sầu, nổi chán trên đường tầm đạo ... Chân lý là một cái gì khi ẩn, khi hiện, như thực, như hư ... Hành giả thường không phân biệt biết mình đang làm gì và ở đâu trên đường tìm kiếm, đang đi hay sắp đến.
Ðạo ở nơi đâu, ra sao mà thiền sư Nam Tuyền lại khẳng định rằng:
"Tâm bình thường là đạo". Và Tổ Bồ Ðề Ðạt Ma lại dạy: "Càng cố tâm tìm càng chẳng biết"; nhất là câu nói sau đây của Cổ Ðức:
"Ðáo xứ phùng nhân mạch diện khi".
Có nghĩa nôm na rằng: Sau khi lội suối trèo non, mất bao nhiêu năm cầu tìm kiếm, rốt cuộc ta sẽ gặp lại người mà ta vẫn thường khinh dễ mỗi khi gặp mặt hàng ngày ... Giống hệt như anh chàng An trên đây. Sau 10 năm khổ nhọc tìm sính lễ, đã rước về một vị tân nương khác xa người trong mộng của chàng là người mà chàng hằng thấy thấp thoáng qua song cửa mỗi ngày, khi xắt chuối cho heo, lúc vớt bèo nuôi vịt !

_________________________________
Tri Âm Quán_Thị Trấn Chũ_Lục Ngạn_Bắc Giang
http://quoccuonglucngan.blogspot.com/
Về Đầu Trang Go down
https://triamquan.forumvi.com/
Tri Âm Quán
Thành Viên Tích Cực
Thành Viên Tích Cực
Tri Âm Quán


Tổng số bài gửi : 6340
Reputation : 2
Join date : 31/07/2013
Đến từ : Thị Trấn Chũ

Truyện Phật Giáo (hay) Sưu Tầm - Page 2 Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Truyện Phật Giáo (hay) Sưu Tầm   Truyện Phật Giáo (hay) Sưu Tầm - Page 2 EmptySat Feb 14, 2015 12:35 pm

Chuyện Tình Không Ðoạn Kết

Ngày xửa, ngày xưa, có một cô công chúa út, con gái yêu của một vị hoàng đế La Mã giàu sang, độc tài và hung bạo.
Lúc lớn lên, nàng công chúa này lại đem lòng thầm yêu trộm nhớ một chàng trai trẻ trong đội ngự lâm quân của cha mình. Nhà có ngạch, vách có tai, câu chuyện tình thơ mộng này chẳng bao lâu lại lọt vào tai vua.
Sau một hồi xoắn râu giận dữ, hoàng đế ra lịnh đưa chàng trai tốt phước, nhưng đang tái xanh mặt mũi ra trước đấu trường. Chàng tuổi trẻ được dẫn đến trước hai gian phòng và được quyền mở một trong hai cánh cửa.
Nếu chàng vô tội, thần linh sẽ giúp chàng mở cánh cửa hạnh phúc: một giai nhân đang chờ chàng cùng một số hồi môn đồ sộ.
Nếu chàng có tội, cánh cửa sẽ mở lối cho một ả sư tử đói bụng, cũng đang chờ chàng bằng hai hàm răng bén nhọn.
Trong giây phút định mệnh, chàng ngự lâm quân bối rối nhìn quanh ... Và nơi khán đài danh dự, chàng bỗng gặp ngón tay điềm chỉ của công chúa.
Lòng đầy hy vọng, chàng liền mở một trong hai cánh cửa ...
Nhiều thế hệ đã trôi qua, các ông hoàng bà chúa đã biến mất ... nhưng người ta vẫn chưa đồng ý với nhau về đoạn kết của câu chuyện. (1979)

Chính các người là kẻ bảo hộ cho các người.
Chính các người là nơi nương náo cho các người.

Các người hãy gắng điều phục lấy mình như thương khách lo điều phục con ngựa lành.
Pháp cú 380

 
Con Chó Vô Ơn
Thầy kể truyện:
"Tu viện có một con chó tên là Tiểu Bạch, nó bị xà mâu ăn lở loét cùng mình. Sư khám thấy vậy, động lòng trắc ẩn, chế thuốc bôi cho nó. Thuốc thật công hiệu nên chỉ mới xức có một lần mà ghẻ đã khô mặt. Nhưng cũng từ dạo đó, mỗi lần thoáng thấy bóng ân nhân, Tiểu Bạch liền hậm hực bỏ đi nơi khác".
Xong, Thầy kết luận:
"Mấy đứa tụi con, khi có lỗi được huynh đệ nhắc nhở, đâm ra tức tối tìm cách trả đũa lại ... thì coi chừng giống như con Tiểu Bạch!"
Lời bàn
Em thân mến, chúng sanh trong cõi này, dù là nhân đạo hay súc sinh đạo cũng giống nhau ở chỗ này. Nhớ ân và đáp ân là một điều thật khó trong khi đem oán trả ân là một chuyện dễ ... ợt. Có lẽ vì thế mà chúng ta thường thắp hương đảnh lễ những kẻ biết ghi ân chăng? Và trong kinh cũng thường tán thán Tôn Giả Xá Lợi Phất là người mà "một chút ân nhỏ xíu cũng không quên".

_________________________________
Tri Âm Quán_Thị Trấn Chũ_Lục Ngạn_Bắc Giang
http://quoccuonglucngan.blogspot.com/
Về Đầu Trang Go down
https://triamquan.forumvi.com/
Tri Âm Quán
Thành Viên Tích Cực
Thành Viên Tích Cực
Tri Âm Quán


Tổng số bài gửi : 6340
Reputation : 2
Join date : 31/07/2013
Đến từ : Thị Trấn Chũ

Truyện Phật Giáo (hay) Sưu Tầm - Page 2 Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Truyện Phật Giáo (hay) Sưu Tầm   Truyện Phật Giáo (hay) Sưu Tầm - Page 2 EmptySat Feb 14, 2015 12:41 pm

Phật Của Ngoại

Bé đi chùa về chào ngoại. Ngoại hỏi:
- Con đi chùa có gì hay kể cho ngoại nghe với!
- Ngoại à! Thầy dạy con niệm danh hiệu Phật A Di Ðà. Ngoại nhớ niệm nghen.
Bà ngoại ngần ngừ hồi lâu đáp:
- Xưa rày ngoại niệm đức Quán Thế Âm, bữa nay đổi niệm đức Di Ðà ... Sao ngoại sợ ông Phật kia giận ngoại quá ... con à !
Phụ chú:
Ðiều này phải hỏi lại đức Quán Thế Âm mới rõ thực hư!
Không có trí tuệ thì không có thiền định.
Không có thiền định thì không có trí tuệ.
Người nào gồm đủ thiền định và trí tuệ thì gần đến Niết bàn.
Chế phục được mắt - Lành thay !
Chế phục được tai - Lành thay !
Chế phục được mũi - Lành thay !
Chế phục được lưỡi - Lành thay !
Chế phục được thân - Lành thay !
Chế phục được tâm ý - Lành thay !
Chế phục được hết thảy - Thật lành thay !
Tỳ Kheo nào chế phục được hết thảy thì giải thoát hết thảy khổ
Pháp cú 360

Của Quí
Nước Tống có người nhặt được viên ngọc quí. Anh mang đến biếu quan tư thành là Tử Hãn. Tử Hãn không nhận, người đưa ngọc cố nài:
- Bẩm thượng nhân, đây là viên ngọc quí rất hiếm, ai cũng phải công nhận điều ấy. Xin ngài nhận cho tôi được vui.
Tử Hãn đáp:
- Chú cho ngọc là của quí, còn ta, ta cho tánh không tham là của quí. Chú mang ngọc cho ta, nếu ta nhận thì cả hai đều mất cái mình cho là quí nhất. Chi bằng của quí của ai thì người ấy giữ.
Người được ngọc thưa:
- Chúng tôi là thường nhân, mà được ngọc thì dù biết là của quí, nhưng nếu cố giữ thì sẽ thành họa vì thế mới mạo muội đến dâng ngài.
Tử Hãn bèn gọi thợ ngọc đến bán dùm viên ngọc. Xong ông trao tiền cho người được ngọc mang về.

Ðạo Sĩ Am Mây
Xưa, có một đạo sĩ sống ẩn dật tại một thâm sơn cùng cốc đầy mây phủ nọ. Rau rừng, nước suối, quạt gió, đèn trăng, tuy đạm bạc nhưng thật đầy đủ đạo vị đối với con người tri túc, cắt đứt duyên trần như đạo sĩ. Trở ngại duy nhất của nhà tu là các chú chuột nhắt trong hang động thường khuấy phá gậm nhấm bất kể đêm ngày.
Ngày lại tháng qua, bọn chuột sinh sôi nẩy nở đông đúc và mỗi ngày mỗi một lộng hành. Chịu hết nổi, đạo sĩ đành mang một chú mèo về ở chung. Nhờ sự cảm hóa của đạo sĩ, chú mèo chỉ hăm he lũ chuột nhắt, chứ riêng chú hoàn toàn trường chay khổ hạnh. Lâu ngày mèo chỉ còn da bọc xương. Chạnh lòng, đạo sĩ phải hạ sơn đi xin sửa bò về để bồi dưỡng cho ân nhân, cũng là bạn đồng hành trên đường cầu đạo.
Ðể tránh tối thiểu sự đi lại thường làm gián đoạn công phu tu tập, đạo sĩ xin một con bò sữa về nuôi để lấy sữa cho mèo uống. Nhân vật mới này thật là ngu như ... bò, ả ta cứ nhởn nhơ đi dạo khắp vùng núi ẩn cư và thường quên lối về. Một chú mục đồng được vời đến để trông nom con bò và vắt sửa mỗi ngày ... Rừng núi hoang sơ xem chừng không thấy thích hợp lắm với một chàng trai mới lớn và nặng lòng trần tục ... Ðạo sĩ đành mượn sợi tóc nhi nữ cột chân chàng trai trẻ ... bằng cách đó, chẳng bao lâu vùng núi ẩn dật biến thành một thôn trang trù phú với đông đảo những tập đoàn chuột, mèo, bò, đàn ông, đàn bà, và con nít.
Không ai biết đạo sĩ đắc đạo khi nào, tịch ở đâu và truyền pháp cho ai ... lâu dần người ta cũng quên mất tên tuổi ông và chỉ gọi nhà tu là "Ðạo sĩ Am Mây".
Lời bàn:
Em thân mến,
Như vậy, thì không phải là khi khổng khi không mà đức Phật dạy hàng tu sĩ chúng ta nên tu hạnh "thiểu dục tri túc" tức là hãy bằng lòng với tình trạng vật chất hiện có của mình. Lâu lâu, có lẽ chúng ta nên kiểm kê tài sản một lần xem nó đã sinh sôi nẩy nở đến đâu rồi, kẻo mà "cái sẩy nó nẩy cái ung". Biết đâu chừng! Có phải thế không?
 

_________________________________
Tri Âm Quán_Thị Trấn Chũ_Lục Ngạn_Bắc Giang
http://quoccuonglucngan.blogspot.com/
Về Đầu Trang Go down
https://triamquan.forumvi.com/
Tri Âm Quán
Thành Viên Tích Cực
Thành Viên Tích Cực
Tri Âm Quán


Tổng số bài gửi : 6340
Reputation : 2
Join date : 31/07/2013
Đến từ : Thị Trấn Chũ

Truyện Phật Giáo (hay) Sưu Tầm - Page 2 Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Truyện Phật Giáo (hay) Sưu Tầm   Truyện Phật Giáo (hay) Sưu Tầm - Page 2 EmptySun Feb 15, 2015 12:29 pm

Chiếc áo của người vô cầu ( Người viết Đặng Nga )
Ngày xưa có một vị vua anh minh trị vì quốc độ rất thanh bình, an lạc. Vua có rất nhiều người con nhưng ông thương mến nhất là cô con gái út. Ngoài giờ quốc sự lúc nào Công Chúa cũng quấn quít bên cha. Thời gian bình lặng trôi qua, nhưng không ai ngờ được sự vô thường của tạo hóa, thình lình Công Chúa bị ngã bịnh nặng. Vua và Hoàng Hậu đau xót và lo lắng vô cùng, bèn truyền rao ai cứu được Công Chúa sẽ ban thưởng rất trọng hậu- ngay đến chuyện phong Vương cắt đất Ngài cũng bằng lòng. Lời truyền rao ấy được lan rộng, nhưng than ôi tất cả danh y trong và ngoài hoàng cung đều bó tay. Trong cơn tuyệt vọng ấy có một Đạo sĩ đến xin xem qua bịnh tình Công Chúa, rồi trầm giọng nói rằng:
- Công Nương bị cảm phong hàn rất nặng, mạng sống chỉ còn tùy thuộc vào số trời, tuy nhiên nếu có một điều được thực hiện...
- Điều gì ta cũng sẽ cố gắng làm cho bằng được.
Vua nói một cách quả quyết và đầy niềm hy vọng.
- Được! Vậy Ngài hãy cấp tốc đi tìm một chiếc áo của người Vô Cầu. Người này là một bậc siêu nhân, trong lòng thật sự đầy bình an phẳng lặng; người ấy bằng lòng với hiện tại không còn ước mơ mong mỏi hay ưu tư điều gì nữa ở vật chất lẫn tâm linh. Khi gặp được người này Bệ Hạ xin ngay chiếc áo lót của họ đem về đây đắp lên mình Công Nương thì nàng sẽ hết bịnh. Bệ Hạ chỉ có thời gian 3 ngày thôi, vì sinh mạng của Công Nương không còn kéo dài được nữa.
Vua lập tức truyền lịnh thắng cho Ngài con tuấn mã và lên ngựa liền:
- Hậu và các khanh chờ ta, trễ lắm là sáng ngày thứ ba ta sẽ trở về với chiếc áo của bậc hiền nhân.
Vua vừa cho tuấn mã phóng nhanh ra khỏi hoàng thành vừa suy nghĩ:
- Ở phía Bắc quốc độ có Pháp Sư Đại Trí, người nổi tiếng là bậc Thiện Trí Thức, thông hiểu các lẽ Trời Đất, được ta và mọi người cung kính và cúng dường đầy đủ. Chắc chắn ông ấy sẽ không còn điều gì mong ước nữa!
Vua hân hoan cho ngựa phi thật nhanh để kịp đến giảng đường của vị Pháp Sư trước khi trời sụp tối.
Quả thật danh bất hư truyền, Pháp Sư Đại Trí ngồi giữa thính chúng và đồ đệ vây quanh đang hùng hồn giảng Đạo Đức Kinh. Vua hài lòng khi nhìn phong cách uy nghi của vị Pháp Sư.
Nghe có vua giá lâm Pháp Sư vui mừng vội vàng ra nghinh tiếp. Qua câu chuyện xã giao Vua vội đi vào vấn đề:
- Cuộc sống hằng ngày của Khanh như thế nào? Khanh có được mãn nguyện không? Khanh có còn một ước muốn gì nữa không?
Thấy Vua tận tình hỏi han Pháp Sư mừng ra mặt:
- Tâu bệ hạ, cuộc sống của hạ thần nhờ ơn Thiên tử không còn điều gì mà không mãn nguyện nữa. Ngài nhìn xem đồ chúng ngày một đông, hạ thần chỉ ước mong sao ngôi giảng đường này được mở rộng thêm...
- Ta chúc Khanh được toại nguyện.
Nói xong vua liền phóng ngựa đi không một lời từ giã trước sự lo lắng và ái ngại của vị Pháp Sư.
Màn đêm đã đổ xuống, sương rơi lành lạnh nhưng tình thương của người cha không cho phép Ngài nghỉ ngơi vì vua có nhớ đến vị Thiền Sư Đại Tịnh ở phía đông quốc độ.
Trời vừa nhớm ánh hồng ban mai, cũng là lúc vua vừa đặt chân đến được Thiền đường Vô ưu của Thiền Sư. Sau khi được Thiền Sư nghinh đón với lễ tục của thiền gia, vua ân cần hỏi Thiền Sư như hỏi vị Pháp Sư. Thiền Sư Đại Tịnh chậm rãi trả lời một cách thanh thản và hãnh diện:
- Đa tạ Đại Vương chiếu cố, đời sống thiền môn thật an lành không có gì làm thần phải bận tâm. Nhưng dạo này ngoại đạo cũng nhiều lắm, thần lo cho đệ tử chưa thuần thục dễ bị ma chướng lôi kéo, nên ước mong sao...
- Ta chúc khanh được nhiều bình an!
Vừa nói vua vừa buồn bã leo lên lưng tuấn mã mà không buồn nhìn lại.
- Còn ai đây? À! Đúng rồi còn đạo sĩ Chơn Không.
Vua tóe lên niềm hy vọng, không nghĩ gì đến ăn uống, Ngài cho ngựa phi nước đại về phía tây hướng đến Thanh Sơn động. Đường xa diệu vợi đến sập tối vua cũng vừa đến nơi, dù người mệt nhoài Ngài cũng ráng trèo lên hang động. Vua trông thấy vị Đạo sĩ ngồi trầm ngâm một mình trước cây đèn dầu mờ ảo, ngoài những chiếc y cũ nát đấp chồng lên nhau, trên tay cầm tràng hạt, dường như ông ta không có gì nhiều ở trong động. Vua mừng rỡ hy vọng đây là một Hiền nhân.
- Thưa Đạo sĩ, Ngài tu một mình như vậy có được an vui không? Ngài có được mãn nguyện với đời xuất gia không? Ngài còn điều gì phải bận tâm ưu tư nữa không?
Nhìn cách ăn mặc vị Đạo sĩ nhận ra người đối diện là ai nên cung kính trả lời:
- Tâu bệ hạ, đời sống xuất thế không có gì phải vướng bận cả, hạ thần rất an vui hưởng thú đạo mầu. Tuy nhiên tuổi của bần đạo ngày một cao chỉ ao ước găp được một đệ tử để trao truyền pháp mầu mà thôi.
- Ta chúc khanh được tròn ước nguyện.
Vua uể oải thốt lên lời xã giao đầy chua chát rồi ra đi giữa đêm khuya. Vua thất vọng không biết đi về đâu nữa, hình ảnh đứa con gái thân yêu đang thoi thóp làm cho vua quặn lòng:
- Có lẽ số mạng con ta đã đến, phải chịu vậy thôi!
Vua để mặc con tuấn mã muốn đi về đâu thì đi trong đêm tối và mệt mỏi ngủ quên trên yên ngựa.

Khi vua tỉnh dậy nghe tiếng hót líu lo của muông chim buổi sáng, ánh ban mai cũng vừa ló dạng, đời sống của muôn loài vạn vật thật thanh bình chỉ riêng mình vua là đang đau sầu vô tận. Bỗng từ đâu vua nghe như là tiếng sáo thật thanh thoát vui tươi và một mùi nướng thơm thơm khen khét bay thoảng qua.
- Mời bạn dùng trà nóng.
Vua chưng hửng vì đây là lần đầu tiên có người gọi Ngài là bạn. Thì ra là gã chăn cừu. Vua chẳng còn thiết tha chi để bắt tội tên ngu dân nghèo nàn nầy. Đang đói khát vì mấy ngày không ăn uống, vua cầm vội gáo dừa dơ dáy nốc cạn ngụm nươc "trà" nóng với hương vị lạ lùng.
- Tôi mới nướng ít bánh mời bạn dùng chung.
Vua chẳng màng cám ơn, cầm lấy chiếc bánh bột nướng nhai ngon lành trong cơn đói lả.
- Hết bánh rồi à?
- Dạ hết rồi, tôi chỉ có chừng đó cho ngày hôm nay thôi.
Gã chăn cừu trả lời lễ phép rồi nằm ngã lưng xuống cỏ xanh trên chiếc áo choàng bằng rơm khô cũ mục huýt sáo ngon lành. Thì ra tiếng sáo khi nãy là do anh ta làm ra!
Nhìn dáng khoan thai đầy ngớ ngẩn nhưng tốt bụng của gã, vua thấy buồn cười nhưng cũng thấy hay hay. Gương mặt hắn thật hồn nhiên với ánh mắt hiền từ. Đang đau buồn vua muốn trò chuyện chút cho khuây khỏa. Vua hỏi:
- Ngươi thấy ta như thế nào?
- Một người khách lạ đang mệt mỏi đói khát và nhiều phiền muộn.
- Tên khùng! Nó chẳng quan tâm đến cách ăn mặc của ta. Vua nghĩ vậy rồi hỏi tiếp:
- Ngươi có mái ấm gia đình gì không?
- Thưa không.
- Ngươi không buồn cho số phận hẩm hiu của mình à?
- Có gì mà phải buồn!
- Ngươi có lo cho tương lai bấp bênh của ngươi không?
- Thưa không.
Ngươi có mong ước gì không?
- Không.
Như bị con gì cắn phải vua giật thót người tiến đến gần gã chăn cừu hôi hám hỏi:
- Ngươi thật sự không có điều gì mong muốn sao?
- Dạ không. Hắn đáp lời thật dịu dàng.
- Ngươi thấy an vui với kiếp chăn cừu này à?
- Dạ vâng.
- Ngươi hài lòng với cuộc sống hiện tại này phải không? Vua dồn dập hỏi.
- Dạ phải.
Không còn tự chủ được nữa, vua nhào đến kéo chiếc áo khoác bằng cỏ khô của gã ra để mong lấy được chiếc áo lót bên trong đem về cứu đứa con yêu quí. Nhưng than ôi! Ngoài cái thân trần trụi hắn chẳng có cái gì nữa cả...!!!

_________________________________
Tri Âm Quán_Thị Trấn Chũ_Lục Ngạn_Bắc Giang
http://quoccuonglucngan.blogspot.com/
Về Đầu Trang Go down
https://triamquan.forumvi.com/
Tri Âm Quán
Thành Viên Tích Cực
Thành Viên Tích Cực
Tri Âm Quán


Tổng số bài gửi : 6340
Reputation : 2
Join date : 31/07/2013
Đến từ : Thị Trấn Chũ

Truyện Phật Giáo (hay) Sưu Tầm - Page 2 Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Truyện Phật Giáo (hay) Sưu Tầm   Truyện Phật Giáo (hay) Sưu Tầm - Page 2 EmptySun Feb 15, 2015 12:43 pm

Mẹ ơi !
Tôi từng được nghe mẩu truyện rất cảm động. Truyện chỉ có hai nhân vật chính.
Một buổi sáng, trước tiệm bán hoa, một thanh niên ngừng xe, định vào tiệm đặt mua một chậu lan, nhờ gửi tặng mẹ ở cách xa anh ta hơn ba trăm cây số. Nhưng bất chợt, anh thấy một cô bé, đứng nép cánh cửa tiệm và đang ôm mặt khóc. Cảm thương, anh đến bên, dịu dàng hỏi:
- Tại sao em khóc?
Cô bé thổn thức:
- Con muốn mua một bông hồng tặng mẹ, nhưng con vừa vào hỏi, một bông là ba đồng, mà con chỉ có một đồng thôi!
Nói rồi, cô bé lại òa lên, nức nở.
Anh thanh niên mỉm cười, cầm tay cô bé, dắt vào tiệm. Anh bảo người bán hàng chọn bông hồng nào đẹp nhất tiệm, trao cho cô bé; xong, anh đặt mua chậu lan tím trong giỏ mây có cột nơ hồng, theo mẫu trình bầy trong cuốn sách. Rồi anh lựa một tấm thiệp, ghi lời thăm hỏi và địa chỉ của mẹ, trao cho người bán hàng, thanh toan tiền bạc rồi vui vẻ bước ra cửa.
Cô bé đứng chờ ngoài đó, lí nhí cám ơn. Anh nhìn quanh, rồi hỏi:
- Em đến đây với ai? Có cần tôi cho quá giang về nhà không?
Mắt cô bé sáng lên, mừng rỡ:
- Con cám ơn chú! Chú đưa con về nhà mẹ nhé.
Theo lời chỉ đường của cô bé, anh dừng xe trước cổng một nghĩa trang. Cô bé không nói gì thêm, chỉ ngước nhìn anh như ngầm ý muốn anh đi theo. Rồi cô dừng trước một ngôi mộ mới lấp đất. Cô nói:
- Thưa chú, đây là nhà của mẹ.
Nói rồi, cô quỳ xuống, cắm bông hồng vào chiếc lọ nhỏ xíu trên mộ, vuốt ve những hàng chữ trên tấm bia, và thổn thức gọi nhỏ:
- Mẹ ơi!
Hai tiếng “Mẹ ơi!” của cô bé chỉ mới gặp chưa đầy 20 phút mà anh tưởng như tiếng gọi của những người thân yêu từng gắn bó nhau hàng vô lượng kiếp! Anh ngồi xuống bên cô bé, cầm lấy tay, và cùng khóc với cô…
Sau đó, anh hấp tấp trở lại tiệm hoa, hủy bỏ hóa đơn gửi hàng và chọn mua bó hồng tươi nhất, vội vã ra xe. Anh quên cả gọi điện thoại cáo bệnh với sở làm. Lòng tràn ngập nôn nao, anh mải mê cầm tay lái suốt buổi, vượt hơn ba trăm cây số, đến gặp mẹ. Khi trao tận tay Mẹ bó hoa còn tươi, anh nhìn thật sâu đôi mắt Mẹ rồi nghẹn ngào:
- Mẹ ơi!
Câu truyện chấm dứt ở hai tiếng ngắn ngủi đó nhưng âm thanh ngân mãi trong tôi cho đến ngày tôi mất mẹ!




Chị em tôi mồ côi cha từ hơn hai mươi năm. Tiếng khóc “Cha ơi” chưa từng dứt trong tâm, lại nối theo tiếng khóc “Mẹ ơi!”. Trong gia đình, tôi thường bị gán cho cái tên “Thương vay khóc mướn” vì trước nỗi thương tâm nào, dù của người hay của vật cũng dễ dàng làm tôi rơi lệ. Với tôi, thời gian không phải là liều thuốc hàn gắn đau thương mà phải là … cái gì đó, thần diệu hơn.

Bao năm, lầm lũi đi tìm “cái gì đó” mà chưa thấy, chỉ thấy tang thương và lệ chảy vẫn tiếp tục thôi. Cho tới ngày giỗ đầu của Mẹ thì nghịch- duyên-đời lại thành thuận-duyên-đạo.

Trên đường thiên lý, vai phải cõng Mẹ, vai trái cõng Cha, tôi quyết đi tìm cho ra “Cái gì đó”. Với bóng hình Cha Mẹ trên hai vai, tôi đi không mệt mỏi, đi trong nhớ thương, đi trong ân hận.

Hai năm cuối, Mẹ tôi bỗng có dấu hiệu của sự mất trí nhớ. Thỉnh thoảng Mẹ lại nói: “Cô có tiền, cho tôi mượn hai chục đi xe. Tôi phải về, kẻo chúng nó mong!” Rồi chẳng phải chỉ nói xuông, Mẹ xách túi quần áo, xăm xăm mở cửa bước ra đường.

Tình trạng đó tăng nhanh một cách trầm trọng khiến hai chị em tôi phải thay phiên nhau, canh chừng Mẹ liên tục. Tôi hỏi thăm một người bạn, là bác sỹ tâm thần. Bạn tôi bảo, hãy thử hai cách. Mỗi khi Mẹ chìm vào cơn mê như vậy, hãy ngồi xuống bên, cầm tay, nhẹ nhàng nói với Mẹ, mình là ai, Mẹ là ai, đang ở đâu, để Mẹ trở về hiện tại. Nếu không thành công thì dùng cách thứ hai như các thiền sư khai ngộ cho đệ tử là quát to, cốt Mẹ chú ý tới âm thanh, rồi mới tuần tự nhắc những kỷ niệm nào của gia đình mà đối với Mẹ là đáng nhớ nhất.

Chị em chúng tôi không bao giờ thành công ở cách thứ nhất, vì nếu nhỏ nhẹ từ chối lời yêu cầu thì Mẹ sẽ giận dữ, bảo là chúng tôi ác độc, không cho mượn tiền để Mẹ về nơi có “chúng nó mong”.
Tôi có thể hiểu được, tại sao trong cơn mê Mẹ lại luôn muốn ra khỏi nhà, vì chị em chúng tôi mỗi đứa ở một nơi. Mẹ ở với đứa này, lại nhớ đứa kia! Và trong tâm tưởng Mẹ, luôn có những đứa con, đứa cháu mong Mẹ về.

Nhưng khi thử cách thứ hai là quát to với Mẹ, thấy Mẹ có vẻ sợ hãi thì lòng chúng tôi quặn thắt. Cuối cùng, tôi chọn cách thứ ba, là Mẹ nói gì, cứ im lặng nghe. Mẹ nói xong thì tôi rót nước rồi nương theo vai trò nào Mẹ đang tự biên tự diễn mà dỗ dành. Chẳng hạn như:“ Bà cụ uống nước đi, ăn bánh đi rồi lát có xe đến đón.”; Nhưng nếu bất chợt Mẹ đổi vai, gọi tôi là chị, và xưng em, thì tôi đành nói: “ Ừ, chị đã gọi xe đò rồi. Họ đang trên đường tới. Em cứ vào phòng nghỉ đi, hễ xe tới là chị gọi em liền”.

Thật bất ngờ, tuy chưa từng một ngày được học ngành trị liệu tâm thần nhưng cách thứ ba của tôi đã được Mẹ vui vẻ chấp nhận, không đòi đi nữa mà lại còn cám ơn rối rít: “Cô tốt quá! Cô tên gì? Con cái nhà ai vậy?” Rồi chỉ vài phút sau, Mẹ ra khỏi cơn mê, biết rõ tôi là cô con gái đầu lòng đã đến với cha mẹ ngày 30 tháng 7 của một năm xa xưa!

Những cơn mê như thế cứ đến không hẹn, đi không báo, dẫn Mẹ tôi quẩn quanh giữa mộng và thực cho tới ngày quả tim 86 tuổi bất ngờ đập loạn nhịp.

Mẹ đã thực sự ra đi, đi thật nhanh và thật êm ả như một người thiếp trong giấc ngủ trưa hè. Không biết trong giấc ngủ đó, Mẹ là bà cụ muốn mượn tiền để đi xe về nơi có “chúng nó mong” hay khi ấy Mẹ đang biết rõ Mẹ là người Mẹ thân yêu của sáu chị em tôi? Nếu Mẹ ra đi giữa cơn mê, ngỡ mình là một bà cụ cô đơn, nghèo khổ, phải hỏi mượn tiền người lạ để tìm về nơi có những người thân yêu mong chờ, thì tội nghiệp Mẹ quá!

Nỗi băn khoăn đau đớn đó cứ thầm lặng theo tôi trên đường đi tìm Cha, tìm Mẹ, tìm chính mình, tìm cái chưa từng sanh, chưa từng diệt mà tấm thân tứ đại chỉ là phương tiện cho ta lên đường.
Sau mỗi xâu chuỗi lần qua, sau mỗi thời kinh vừa dứt, sau mỗi tiếng chuông xả thiền, thì “cái gì đó” đều thấp thoáng, như giải thưởng treo cao, khuyến tấn và chiêu dụ đám học trò chậm lụt ráng tiến bước. Tôi thường tự nhủ, phải cố gắng hơn, kiên trì hơn, phải tin tưởng hơn, là trong bao la vô thanh bất động kia chắc chắn có ẩn tàng thần dược. Nếu không, với những đau thương kinh hoàng trong cõi ta-bà, dồn dập không phút nào, thời nào ngưng, thì nhân loại đã bị hủy diệt lâu rồi!
Thời công phu sáng nay, khi tiếng chuông dứt Chú Lăng Nghiêm vừa điểm, tôi bỗng nghe trong đó ngân dài hai tiếng “Mẹ ơi!” và lòng tôi hân hoan niềm vui trẻ thơ, như thuở nhỏ chờ cửa, thấy bóng Mẹ đi chợ về.

Vâng, phút giây ấy, công phu sáng, Chú Lăng Nghiêm, và tiếng chuông đã quyện vào nhau thành âm thanh mầu nhiệm của hai tiếng “Mẹ ơi!” để tôi cảm nhận rõ hơn chút nữa về “cái gì đó” mà tôi hằng tìm kiếm lâu nay. Lời Thầy thường dạy lại bàng bạc không gian “Ta là tiếp nối của Tổ Tiên, Ông Bà, Cha Mẹ. Các Ngài ở trong ta và ta ở trong các Ngài, như lá vàng rụng xuống thành đất nuôi cây, để cây lại trổ lá. Phải cảm nhận thật sâu sắc được điều đó, ta mới ôm được cả xấu lẫn tốt trong vòng tay để không than khóc vì những mất mát.”

Hôm đó, mặt trời thức muộn vì một vài đám mây xám đùa bỡn bay ngang. Nhưng mây chỉ đùa thôi chứ không đọng thành mưa. Khi ông mặt trời vươn vai tỏa sáng cũng là lúc tôi viết xong lá thư cho một người bạn mà tôi từng oán hận, tưởng như không bao giờ còn có thể nhìn mặt nhau. Thư không quá dài, cũng không quá ngắn. Nội dung chỉ đơn sơ:

“Bạn có rảnh, mời ghé Am uống trà. Nước đã sôi, trà đã sẵn. Mà bạn đang bận cũng không sao! Tôi vẫn được uống trà với bạn, vì bạn đang ở trong tôi và tôi đang ở trong bạn, như tôi vừa cảm nhận về Cha Mẹ như thế. Không có gì khó hiểu đâu. Chỉ là sáng nay tưởng sẽ mưa, nhưng mây xám đã bay đi để mặt trời rọi nắng. Mặt trời đâu có hận mây đã che mình; mây cũng đâu có oán mặt trời không cho mây cơ hội thành mưa để được nhảy múa tung tăng. Cái gì cũng đến rồi đi, thành rồi hoại. Chúng ta từng hạnh phúc ngồi uống trà với nhau bên cây ngọc lan thơm ngát, bên bụi quỳnh trắng, nở trăm hoa. Hạnh phúc đó nay không còn thì cũng chỉ là một, trong vô vàn những gì Có rồi Không trên thế gian này mà thôi. Như cây ngọc lan đã biến mất. Như bụi quỳnh chẳng bao giờ còn nở hoa. Ấy thế mà mảnh sân rêu vắng hương sắc cũ có than khóc gì đâu! Tôi quá vô minh mới tự chuốc lấy đau khổ khi không biết rằng, ở một tình cờ nào đó, chẳng ai ngưng được mây rồi sẽ chuyển mầu, thành rào rạt mưa tuôn?”

Thư không bỏ vào phong bì, vì không có nơi gửi, cũng chẳng có người nhận.
Lá thư, người viết và người nhận, nay chỉ còn là một.

Như âm hưởng Tam Không của hạnh Bố Thí Ba La Mật: “không của cho, không người cho, không người nhận, mới thực là cho”



Hạnh Chi

_________________________________
Tri Âm Quán_Thị Trấn Chũ_Lục Ngạn_Bắc Giang
http://quoccuonglucngan.blogspot.com/
Về Đầu Trang Go down
https://triamquan.forumvi.com/
Tri Âm Quán
Thành Viên Tích Cực
Thành Viên Tích Cực
Tri Âm Quán


Tổng số bài gửi : 6340
Reputation : 2
Join date : 31/07/2013
Đến từ : Thị Trấn Chũ

Truyện Phật Giáo (hay) Sưu Tầm - Page 2 Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Truyện Phật Giáo (hay) Sưu Tầm   Truyện Phật Giáo (hay) Sưu Tầm - Page 2 EmptySun Feb 15, 2015 1:01 pm

Truyện  Tích  Phật  Giáo



Tác giả: Phật Giáo Cố Sự Đại Toàn
Dịch giả: Diệu Hạnh & Giao Trinh
1 - 10
 
1- A La Hán ăn mày


Giáo pháp của Đức Phật vô cùng bình đẳng, không có sự chênh lệch giai cấp, không có sự sai biệt giàu nghèo.
Lúc Đức Phật thuyết pháp tại Kỳ Viên tinh xá, đến bữa ăn là phải ôm bát ra ngoài hành hóa. Lúc Ngài khất thực, không phân biệt giàu nghèo, sang hèn, khôn ngu, đẹp xấu, Ngài xem tất cả đều bình đẳng khiến cho nhà nào cũng có được cơ hội gieo trồng hạt giống phúc đức.
Mỗi khi Đức Phật dẫn đầu đoàn đệ tử đến thành Xá Vệ khất thực, thì sau lưng Ngài có rất nhiều người ăn mày đi theo. Nhờ uy đức của Đức Phật, họ cũng được mọi người phát tâm từ bi bố thí.
Thời gian chầm chậm trôi qua, những người hành khất trong thành Xá Vệ nhờ thế mà kéo dài được mạng sống hạ tiện của họ. Có một hôm, người đầu sỏ trong đám ăn mày ấy nói với đồng bạn rằng :
- Chúng ta thuộc về hạng chúng sinh bị tội khổ, tuy nương dựa vào ánh sáng từ bi của Đức Phật để được mọi người bố thí mà kéo dài mạng sống, nhưng cứ tiếp tục như thế này mãi chẳng bao giờ đi tới đâu. Tôi thiết nghĩ rằng, hay là tất cả mọi người trong bọn chúng ta kéo nhau đến chỗ của đức người xin xuất gia, y Pháp mà tu hành, tương lai không phải là được giải thoát cả hay sao? Các bạn nghĩ như thế nào?
Tất cả mọi người trong đám ăn mày đều tán thành ý kiến này, thế là họ kéo nhau đến Kỳ Viên tinh xá , cầu xin Đđức Phật cho họ xuất gia để tiêu trừ tội khổ.
Đức Phật nói:
- Pháp của ta bình đẳng, bất kể kẻ trí hay người ngu, người sang hay kẻ hèn, ai cũng có thể được truyền trao giáo pháp, được pháp quang chiếu dọi. Pháp của ta là pháp thanh tịnh, người tốt hay xấu ai cũng có thể bỏ sự Ô uế để được trong sạch, hồi phục lại chân tính căn bản. Hôm nay cái ông xin xuất gia, đó là do thiện duyên của các ông, các ông chỉ cần tuân theo giáo pháp của ta thì ta cho phép các ông gia nhập tăng đoàn, thành những vị tỳ kheo.
Các vị hành khất nghe Đức Phật nói xong hết sức vui mừng, cạo hết râu tóc và khoác pháp y vào. Từ đó họ nỗ lực ra công, diệt trừ tham sân si trong tâm, hiểu rõ căn nguyên của sinh tử, nên có nhiều vị đã chứng được quả A La Hán.
Lúc Đức Phật cho phép đoàn người hành khất xuất gia, trong dân chúng có rất nhiều người nghi ngờ, vẫn còn ôm giữ tà kiến nên dùng lời oán than phản đối, cho rằng tăng đoàn vốn tôn quý thanh tịnh, không nên để cho bọn ăn mày ấy được phép gia nhập. Quan niệm giai cấp trong đầu những người này hãy còn rất nặng nề.
Có một hôm, thái tử Kỳ Đà làm một cỗ chay cúng dường Đức Phật và chư tăng, nhưng ông dặn rõ ràng rằng:
- Thế Tôn! Ngày mai con rất hoan hỉ mà cung thỉnh đức Phật và chư tăng đến nhà con thọ cúng, nhưng không có chỗ cho mấy ông tỳ kheo hành khất nọ, xin Thế Tôn đừng mang họ theo.
Ngày hôm sau, lúc lên đường đến nhà thái tử Kỳ Đà thọ cúng, Đức Phật nói với các vị tỳ kheo đã có thời làm hành khất nọ :
- Hôm nay ta nhận lời thỉnh của thái tử Kỳ Đà đến nhà ông ấy dùng cơm. Các ông hãy đi về phía bắc, đến nước Uất Đan Việt, hái thức ăn như lúa canh v.v... tới nhà thái tử Kỳ Đà rồi tùy ý tìm chỗ mà ngồi ăn.
Các vị tỳ kheo hành khất hiểu ý của Đức Phật, tuân lệnh lên đường. Họ dùng thần thông nên đến nước Uất ĐanViệt trong nháy mắt, hái đầy bình bát lúa canh đã chín mang về. Về tới chỗ, họ làm thành một nhóm 500 người, xếp hàng thành chữ "nhất", từ không trung bay xuống, uy nghi, chỉnh tề, trang nghiêm, khiến ai nhìn thấy cũng phải tỏ lòng tôn kính tán thán. Khi họ đến cung điện của thái tử Kỳ Đà, 500 người theo thứ tự an nhiên ngồi xuống, mỗi người mở bát lấy lúa canh mang theo mà dùng.
Thái tử Kỳ Đà nhìn thấy các vị tỳ kheo này rất lấy làm lạ, bèn hỏi Đức Phật:
- Bạch Thế Tôn, các vị đại A La Hán mới từ không trung bay xuống, thái độ uy nghi lẫm lẫm khiến ai nhìn thấy cũng phải tôn kính ấy, chẳng hay từ đâu mà đến? Thỉnh Phật từ bi nói nhân duyên của họ cho con được biết.
Đức Phật nhìn đại chúng, nhìn sang thái tử Kỳ Đà rồi sau đó mới nói một cách ôn hòa:
- Thái tử Kỳ Đà! Ông hãy nghe ta nói: các vị tỳ kheo ấy chính là những vị tỳ kheo hành khất mà hôm qua ông nhất định không muốn cúng dường. Vì ông không mời họ nên hôm nay họ phải đến nước Uất ĐanViệt hái lúa canh đã chín mang về đây dùng.
Thái tử Kỳ Đà nghe thế lấy làm vô cùng xấu hổ, biết mình đã có lỗi khinh mạn và tà kiến, buồn rầu hối hận mà tự trách rằng:
- Con thật là ngu si, không biết đâu là thánh đâu là phàm, có mắt đứng trước núi Thái Sơn mà không thấy, thật là đáng tội!
Nói xong vội vàng bày bàn cỗ thức ăn, thỉnh 500 vị La Hán vào bàn rồi hỏi Đức Phật rằng:
- Bạch Thế Tôn, 500 vị La Hán được Phật giáo hóa không lâu đã chứng đắc quả vị, lìa khổ được vui. Đã được một phúc báo to lớn như thế, thì tại sao lúc ra đời lại sinh ra trong nhà hạ tiện? Thỉnh Thế Tôn từ bi khai thị cho con!
Đức Phật nắm lấy cơ hội này mà giảng giải cho đại chúng nghe:
- Ngày xưa thật là xưa, có một thế giới to lớn gấp bội lần thế giới hiện tại của chúng tạ Trong thế giới ấy có một quả núi cao, trên ấy có nhiều vị tu hành và tiên nhân tu đạo cư ngụ. Vì thế người ta bèn đặt tên cho quả núi ấy là Tiên Sơn.
Trong núi, lúc ấy có hơn 2 000 vị tu đạo sinh sống, vị nào cũng đã chứng quả thánh.
Có một năm, trời không mưa trong một thời gian rất lâu nên nạn hạn hán lan tràn, không có cách nào canh nông trồng trọt trên núi, vì thế đời sống trở nên vô cùng khó khăn. Vừa may có một nhà buôn cự phú tên là Tán Đàn Ninh, làm cỗ cúng dường hơn 2 000 vị thánh nói trên. Vị trưởng giả rất thành tâm, không hề có ý niệm lẫn tiếc nào, còn bảo mấy trăm gia nhân trong nhà phải mỗi ngày phục dịch hầu hạ các vị thánh nhân ấy. Ban đầu thì những gia nhân này làm việc hăng hái chăm chỉ, nhưng về sau họ đâm ra chán nản, thốt những lời trách oán, thái độ càng ngày càng lơ là, lười biếng. Nhưng trưởng giả Tán Đàn Ninh không hề hay biết gì về sự việc này.
Một hôm trời đổ mưa, nhà nông vui mừng như bắt được vàng. Hai ngàn vị thánh nhân lên núi trở lại lo việc làm ruộng, trưởng giả cũng bảo gia nhân bắt đầu gieo hạt. Mọi người lấy nông cụ ra, từ sáng đến tối ngoài đồng làm việc, lúa mạch, lúa mì, đậu, ngũ cốc v.v... không đâu là không có. Những gì họ khổ công gieo trồng mọc lên rất mau, chín vàng, ra quả to như quả dưa. Trưởng giả rất vui mừng, bảo họ phải cố gắng thêm, tưới tẩm thêm, bón phân thêm, đến lúc gặt hái thì thu hoạch càng thêm phong phú, kho vựa đầy ăm ắp. Chỗ còn dư thì đem chia cho mọi người và bố thí cho dân chúng trong nước.
Lúc ấy, những người đã phục dịch thánh chúng lúc trước cảm thấy ân hận, xấu hổ, biết lỗi của mình nên từ đó phát nguyện "mấy trăm người chúng ta đây, lúc trước đã tạo khẩu nghiệp, bây giờ biết sám hối sửa lỗi, từ bây giờ trở đi nguyện làm nhiều việc thiện, phụng sự người khác, cầu mong kiếp tới gặp được thánh hiền, tu hành giải thoát".
Thái tử Kỳ Đà! Mấy trăm người làm công ấy, vì đã tạo khẩu nghiệp nên kiếp này phải chịu cái khổ sinh ra làm ăn mày. Nhưng nhờ biết hối lỗi, nên nửa quãng đời còn lại họ đã được gặp Phật. Trưởng giả Tán Đàn Ninh chính là ta trong kiếp trước. Nhờ những nhân duyên như thế nên kiếp này họ mới được độ.
Đức Phật nói xong, thái tử Kỳ Đà và những người cùng nghe đều hoan hỉ không kể xiết, tất cả đều phát tâm chuyên cần tu hành, sám hối tội lỗi, cầu được vô thượng Bồ Đề.
2- A La Hán gặp nạn


Ngày xưa ở nước Kế Tân,Tây Vực, có một vị cao tăng tên gọi là Ly Việt, lúc trẻ xuất gia, ở trong hang động trên một đỉnh núi hoang vắng học đạo, công phu tu hành thiền định rất chuyên cần, chứng được quả A La Hán và lục thần thông. Vì thế nên người người xa gần biết tiếng, tìm đến xin bái ngài làm sư phụ.
Dưới sự chỉ dẫn khéo léo và từ bi của ngài, đệ tử ngài cũng chứng quả A La Hán rất mau, chứng quả xong họ phân tán khắp nơi để lo việc hoằng pháp.
Tuy ngài Ly Việt đã chứng thánh quả nhưng vẫn không ngừng tinh cần tu trì, rất ít khi nghỉ ngơi. Một hôm có chút giờ nhàn rỗi, ngài mới nhân đó dọn dẹp hang động, chợt thấy tấm y màu xám mà ngài thường mặc đã theo thời gian mà ngả sang màu bạc trắng.
Không biết tại sao hôm ấy ngài lại nổi hứng lên núi hái rễ cỏ và vỏ cây làm thuốc nhuộm rồi đem tấm y trăm mảnh ra nhuộm lại. Bỏ tấm y trong nồi thuốc nhuộm rồi, ngài dùng một nhánh dương liễu khuấy nước để trộn thuốc nhuộm cho đều, thì quái lạ thay, tấm y bỗng dưng biến thành một tấm da trâu! Chưa hết, thuốc nhuộm trong nồi đang đen như mực, bỗng biến thành màu đỏ như máu, và mấy cái rễ cỏ vỏ cây lại biến thành những miếng thịt trâu. Quái dị hơn nữa là mùi thịt trâu còn bốc ra từ cái nồi đang sôi, khiến ngài cứ trố mắt ra nhìn một cách kinh ngạc.
Đúng lúc ấy một người nông phu từ chân núi chạy lên, thấy ngay miếng thịt trâu trong nồi, bèn la hét giận dữ:
- A, ông thật là to gan! Hôm nay ông khai giới sát nên mới đem con trâu của tôi ra giết phải không! Sáng sớm tôi dắt trâu lên núi ăn cỏ, mấy phút sau không thấy nó nữa, đi tìm khắp nơi mà tìm không ra, may mà có mùi thịt dẫn đường nên tôi mới tìm được tới đây! Thì ra là ông, một kẻ xuất gia, đã ăn trộm con trâu của tôi đem ra làm thịt! Bây giờ ông có gì nói để tự biện hộ không? Đi! Đi với tôi đến gặp vua ngay!
Người nông phu nóng nảy không chịu nghe lời phân trần, lôi Ly Việt xềnh xệch đi đến gặp vuạ Thời ấy không có toà án, không có pháp đình, dân chúng hễ có việc gì bất bình là kéo nhau đi gặp vua, nhờ vua phân xử.
Khi người nông phu kể lể hết sự tình cho vua nghe, vua bèn hỏi Ly Việt có lời nào biện bạch không? Chứng cớ đã rành rành ra đó, còn có gì để nói nữa, do đó vua xử Ly Việt ngồi tù 12 năm.
Mười hai năm, tức là bốn ngàn ba trăm tám chục ngày hơn chứ có phải ít đâu! Ly Việt La Hán trong suốt thời gian tù tội phải đảm nhiệm công việc quét dọn nhà lao và chùi rửa cầu xí cho sạch sẽ. Buổi tối, ngài dụng công chuyên cần tu thiền định, không bao giờ nằm xuống. Ngài từ bi nhẫn nại như thế nên đến cả mấy người cai ngục, người nào cũng hết sức cảm động.
Thời gian 12 năm tù đã mãn hạn, những người đệ tử ngày xưa tham thiền với ngài bỗng không hẹn mà cùng một lúc nhớ nghĩ đến sư phụ trong núi, tất cả bèn dùng thần thông quan sát, biết là sư phụ bị tù oan trong 12 năm trường.
Họ cưỡi gió bay về cung vua, trong không trung khua trống pháp để tỏ sự bất bình. Nhà vua nghe thế hết sức kinh ngạc, vội vàng tự tay phóng thích Ly Việt La Hán ra khỏi nhà giam.
Sau 12 năm tù đày, Ly Việt tóc thì dài râu thì trắng, nhưng khi ngài vừa bước chân ra khỏi cửa ngục thì râu tóc tự động rụng xuống đất, rồi còn bay lên không trung, biến hiện vô lượng hóa thân, mỗi hóa thân phóng ra ánh sáng rực rỡ. Thái độ an nhiên của ngài không giống một người mới được thả ra khỏi tù chút nào.
Lúc ấy, chư vị A La Hán muốn ra tay trừng phạt nhà vua làm việc không công minh, nhưng ngài Ly Việt ngăn lại:
- Các con không được ra tay, đây là nghiệp chướng của ta, không thể oán trách bất cứ ai khác.
Trong một kiếp quá khứ, ta là một người nông phu, có một con trâu đi lạc. Ta lên núi tìm nó, đi cùng hết núi tìm cũng không ra, mà lại gặp một vị xuất gia tu hành. Không suy nghĩ gì thêm, ta liền nghi ngờ chính vị này ăn cắp trâu của tạ Trong suốt 12 tiếng đồng hồ ngày hôm đó, trong tâm ta khởi đầy vọng niệm, ta muốn đuổi vị ấy ra khỏi núi, ta muốn bắt vị ấy đưa lên vua để vị ấy bị giam cầm vào ngục tối... Ta đã tạo nghiệp ác, khiến kiếp này phải bị 12 năm tù oan.
Giống như chuyện cho vay ăn lãi, thời gian càng lâu thì tiền lãi càng cao, quả báo ta phải bồi thường lên tới 8 000 lần số "nợ" ta đã mượn.
Ta chỉ hận tại sao lúc đó không làm gì ích lợi cho người khác, không phát tâm bố thí rộng rãi, có phải là kiếp này đã tiêu nghiệp chướng rồi không?
Các vị mới chứng quả A La Hán, nhà vua và đại thần nghe Ly Việt kể lại chuyện xưa như vậy, ai nấy đều tỉnh ngộ và đều hiểu rằng nguyên tắc nhân quả là một nguyên tắc bất di bất dịch, không một ai có thể đứng ngoài nguyên tắc này.


3- A Xà Thế sám hối


A Xà Thế đích sám hối (496)
Sau khi giết cha là vua Tần Bà Sa La rồi, một hôm A Xà Thế nằm mộng thấy cha về mỉm cười mà nói với ông rằng:
- A Xà Thế! Ta là cha của con. Tuy con đã giết ta, nhưng ta không oán hận con. Là đệ tử của Đức Phật nên ta nguyện dùng đức từ bi của Phật mà tha thứ cho con. Dầu sao con cũng đã là con của ta, nên ta chúc con một điều, chúc con sớm sám ngộ mà bước đi trên con đường ánh sáng.
A Xà Thế rất buồn, dầu sao cũng nghĩ đến lòng thương của cha, nghĩ đến việc mình đã giết cha một cách vô lý, ông cảm thấy vô cùng ân hận việc đã làm.
Có một hôm, vua A Xà Thế cùng mẹ là phu nhân Vi Đề Hi ngồi cùng bàn ăn cơm. Không thấy con trai của mình là Ưu Đà Gia vào bàn ăn, ông hỏi người thị tùng:
- Ưu Đà Gia đâu, kiếm nó về đây cùng ăn cơm...
Người hầu cận đáp rằng:
- Ưu Đà Gia đang nghịch với chó.
Khi người hầu cận gọi Ưu Đà Gia về, chú còn ôm một con chó nhỏ trong taỵ A Xà Thế hỏi con rằng:
- Tại sao con không ăn cơm?
Ưu Đà Gia nũng nịu trả lời:
- Không cho con ở chung với chó thì con không ăn cơm đâu!
A Xà Thế thành phải chìu ý con và tất cả cùng ăn cơm chung bàn. Sau một lúc, vua A Xà Thế nói với Vi Đề Hi phu nhân rằng :
- Vì thương con mà vua phải ăn cơm chung với chó, thật là khó coi!
Quốc thái phu nhân Vi Đề Hi trả lời:
- Ăn cơm chung với chó thì có chi là đặc biệt! Thiếu chi người ăn thịt chó nữa kià! Hiện nay vua thương con, chịu ngồi ăn chung với chó mà vua đã chua chát. Sự thật tiên vương, tức là phụ vương của vua, đối với vua còn làm nhiều chuyện khó làm hơn nữa, nhưng vua không biết đó thôi.
Lúc vua còn rất nhỏ, trên ngón tay có mọc nhọt, đau đớn vô cùng, làm cho vua đêm ngày không ngủ được. Tiên vương ôm vua đặt lên đầu gối, dùng miệng ngậm nhọt độc trên ngón tay cho vua bớt đau. Có khi, khí ấm trong miệng làm cho nhọt bể ra và chảy mủ, tiên vương sợ giấc ngủ của vua bị kinh động nên phải nuốt chỗ mủ ấy. Tiên vương thương vua như vậy đó, vì thương con nên đã làm những điều mà người khác không làm được.
Vua A Xà Thế nghe phu nhân Vi Đề Hi kể, yên lặng đặt chén cơm xuống, đứng dậy bước qua phòng bên cạnh. Từ đó trở đi, ông không còn cảm thấy làm vua là vinh quang và sung sướng nữa, trong tim ông dường như có một tảng đá thật lớn đang đè nặng.
Nghiệp báo của vua A Xà Thế hiện tiền, thân ông lại bị nổi mụn nhọt đầy người, tâm ông lại không lúc nào là không bị hối hận dày vò. Ông bèn nói với quần thần rằng :
- Bây giờ cả thân lẫn tâm của ta bị lâm bệnh nặng, nhất định là do cái tội mưu đồ giết hại cha mà ra, ai có thể chữa lành cho ta?
Giữa các đại thần có nhóm lục sư ngoại đạo Nguyệt Xưng, muốn an ủi vua nên dùng đủ thứ tà giáo để chứng minh rằng vì nước mà giết cha thì không có tội, nhưng vua A Xà Thế nghe họ nói không hề động tâm mà còn nặng thêm lòng hối hận. Lúc ấy có một vị danh y tên là Kỳ Bà bước lên khám bệnh cho vua, tâu rằng :
- Đại Vương, hiện giờ đại vương cảm thấy trong người như thế nào?
Vua A Xà Thế lắc đầu bảo rằng:
- Kỳ Bà! Bệnh của ta rất trầm trọng, không những thân ta mang bệnh mà bệnh khổ trong tâm cũng rất nặng. Ta nghĩ rằng ngay cả lương y, thuốc thần, chú thuật cũng đều không chữa lành cho ta được! Ngày đêm nằm trên giường ta ưu sầu khổ não, rên xiết kêu la, không tài nào nhắm mắt. Kỳ Bà! Tuy ông là bậc danh y trong thiên hạ, nhưng lần này ngay cả ông cũng sẽ phải bó tay thôi!
Kỳ Bà nói một cách trang trọng:
- Đại vương! Xin ngài đừng thất vọng bi thương như vậy. Hiện nay, trên thế giới này, ngoài Đức Phật ra, thần nghĩ rằng đúng là không có một người thứ hai có thể cứu bệnh cho đại vương.
Khi Kỳ Bà thốt lên những lời ấy, các tùy tùng của vua A Xà Thế đều biến sắc, họ rất sợ Kỳ Bà đã chọc giận vua. Nhưng lần này vua A Xà Thế không hề nổi giận, chỉ yên lặng nhắm mắt. Kỳ Bà quan sát biết được tâm của vua rồi, bèn nói tiếp:
- Đại Vương, thần là một thầy thuốc, thầy thuốc tuy có thể chữa bệnh của thân thể, nhưng tuyệt nhiên không chữa trị được bệnh của tâm. Đức Phật là vị y sĩ vô thượng, chỉ cần đại vương bằng lòng đến bái kiến Ngài, chắc chắn Ngài sẽ đón tiếp đại vương. Đức Phật giống như biển cả mênh mông, có thể dung nạp tất cả mọi dòng sông. Bệnh khổ của đại vương do tâm mà sinh, cần phải trị dứt bệnh căn của tâm, sau đó mới trị được bệnh cuả thân.
Vua A Xà Thế gật đầu nói rằng:
- Phải rồi Kỳ Bà, ông nói rất đúng. Ta cũng rất muốn bái kiến Đức Phật, song ta sợ Ngài sẽ không tiếp ta vì ta là người tội lỗi. Đó là chưa kể những gì ta đã làm với Đề Bà Đạt Đa... Ta rất có lỗi với Đức Phật...
Kỳ Bà biết được tâm của vua A Xà Thế ngay trong giờ phút ấy nên tiến thêm một bước nữa, nói rằng :
- Đại vương, thần nghe nói rằng ngay trong giây phút lâm chung, tiên vương đã tha tội cho đại vương rồi. Tiên vương là đệ tử của Đức Phật, đệ tử của Phật mà còn tha thứ cho đại vương, không lẽ một đấng đức độ viên mãn, tâm đại bi trùm khắp như Đức Phật mà lại không biết tha thứ sao?
Thần nghe Đức Phật thuyết giảng rằng, nếu có người tạo tội ác mà biết khởi tâm tàm quý, khẩn thiết chí thành sám hối trước Tam Bảo thì có thể tiêu trừ tội lỗi ấy được và nghiệp chướng cũng nhẹ đi. Tuy có một thời đại vương không hiểu luật nhân quả mà tạo nghiệp ác, nhưng nếu nhìn theo pháp môn tàm quý và sám hối của Đức Phật, thì đại vương vẫn có thể được cứu. Thần thấy nay đại vương đã có tâm tàm quý và sám hối thì đại vương đã bắt đầu bước đi trên một con đường mới rồi đó!
Thần lại đã từng nghe Đức Phật giảng rằng, người có trí huệ thì không dám tạo tội, nếu không cẩn thận mà tạo tội thì sau đó biết sám hối. Người ngu si là người tạo tội mà không hối cải, hay là tạo tội xong lại còn che dấu. Nếu đại vương đến được trước mặt Đức Phật để mà cáo bạch sám hối, nói rõ là sẽ không tái phạm nữa, thì ánh sáng từ bi của Ngài sẽ phù hộ che chở cho đại vương.
Đại vương, người trí không che dấu tội của mình. Đức Phật thường nói, làm người phải tin sâu nhân quả, tin chắc chắn rằng không ai thoát được nghiệp báo dẫu trong đường tơ kẽ tóc.
Trên thế giới này chỉ có siển đề là không thể cứu được, đại vương không phải là siển đề, thì chắc chắn là sẽ được Đức Phật cứu độ.
Lòng từ ái của Đức Phật vô lượng vô biên, tất cả chúng sinh đều được Ngài đoái hoài tới. Đức Phật không phân biệt kẻ oán người thân, kẻ thương người ghét, người giàu kẻ nghèo, kẻ sang người hèn. Ngài cứu độ tất cả mọi người một cách bình đẳng. Đức Phật cho phép ông Bạt Đề tôn quý xuất gia, thì cũng cho phép ông Ưu Ba Ly hạ tiện xuất gia. Đức Phật tiếp nhận sự cúng dường của phú ông Tu Đạt Đa trưởng giả, cũng không từ chối sự bố thí của kẻ bần cùng.
Đức Phật đã cảm hóa ngài Đại Ca Diếp vốn trốn tránh dục nhiễm gia nhập vào tăng đoàn, nhưng Ngài cũng đã dùng phương tiện khuyến hóa được một người đầy tham dục như Ngài Nan Đà và cho xuống tóc. Quỷ mẹ cùng Ương Quật Ma La, ai nghe tên cũng hãi hùng nhưng Đức Phật đã tìm đến họ để độ hóa. Đối với ai đi nữa, Đức Phật cũng coi họ như La Hầu La, xin đại vương không nên nghi ngại gì cả.
Thật ra nói lên những lời này thần rất e ngại, nhưng thần không thể không nói ra với đại vương. Bây giờ Đức Phật đang đưa các vị đệ tử của Ngài đến vườn lê của hạ thần và sẽ thuyết pháp nơi đó, xin đại vương hãy mau đến tham bái Ngài, xóa tan màn mây đen tối trong tâm và để chỗ cho bầu trời quang đãng sáng lạn. Đây là một cơ hội ngàn vàng, thần khẩn khoản xin đại vương đừng bỏ lỡ!
Vua A Xà Thế nghe xong, trong mắt phát ra những tia hy vọng lẫn hối hận, ông đáp:
- Nghe khanh nói trẫm rất vui mừng, vậy khanh hãy về chọn ngày lành tháng tốt, trẫm nhất quyết đến tham bái đức Phật để van cầu sám hối.
Kỳ Bà lắc đầu không đồng ý:
- Đại vương, trong giáo pháp của Đức Phật, không có những sự mê tín như ngày lành tháng tốt. Đức Phật thường dặn dò các vị đệ tử của Ngài rằng không nên bói toán, bốc quẻ hung kiết. Tu học chính pháp và hành động theo chính pháp thì ngày nào cũng lành và tháng nào cũng tốt cả. Tốt nhất là đại vương nên khởi hành ngay!
Vua A Xà Thế rất vui lòng, cho chuẩn bị thật nhiều phẩm vật cúng dường, và đưa một đại đội tùy tùng rầm rộ ào ạt hướng đến vườn lê của Kỳ Bà.
Nhưng trên đường đi, A Xà Thế bỗng cảm thấy lo sợ và bất an. Ông ra lệnh cho voi lớn kéo đoàn xe ngựa phải ngừng lại, nói với Kỳ Bà rằng:
- Kỳ Bà, ta nghĩ rằng Đức Phật đã lìa mọi nhiễm ô, Ngài có nhân cách thanh tịnh như trăng tròn. Tăng đoàn của Ngài toàn là những vị thánh nhân đã đoạn diệt phiền não. Một người như ta và Đề Bà Đại Đa đã phản nghịch Đức Phật, thì làm sao Ngài lại bằng lòng tiếp kiến một kẻ cực ác vô đạo như ta? Làm sao Ngài lại chịu đưa bàn tay cứu độ ra cho một kẻ tội lỗi như ta? Ta nghĩ hay là thôi vậy, chúng ta nên quay về!
Kỳ Bà nghiêm sắc mặt mà nói rằng:
- Tình của cha mẹ cho con cái vốn bình đẳng, nhưng phần lớn cha mẹ thường đặc biệt lo lắng cho những đứa con có bệnh. Từ bi của Đức Phật cũng bình đẳng đối với tất cả chúng sinh, nhưng dối với người có tội, Ngài đặc biệt quan tâm hơn. Đối với siển đề Đức Phật còn thuyết chính pháp, đại vương không phải là siển đề thì lý do gì mà Đức Phật không từ bi cứu độ.
Vua A Xà Thế còn đang do dự, thì trong không trung bỗng nhiên có âm thanh vang lên:
- A Xà Thế, ta la Tần Bà Sa La phụ vương của con. Con hãy mau tin nghe theo lời của danh y Kỳ Bà, đến chỗ của Đức Phật mà van cầu sám hối. Ta muốn nói với con một điều, đèn pháp sắp tắt, thuyền pháp sắp chìm, cây pháp sắp gẫy, hoa pháp sắp tàn rồi. Mặt trời Phật có ngày lặn về Tây, Đức Phật sắp nhập Niết Bàn. Lúc ấy thì căn bệnh trầm trọng của con, ai sẽ cứu chữa? Tội nặng ngũ nghịch mà con đã phạm khiến cho trong không bao lâu nữa con sẽ đọa địa ngục. Ta thương con nên mới khuyên con hãy mau đến chỗ của Đức Phật mà cầu cứu. Trừ Đức Phật đại giác, đời đời kiếp kiếp không ai có thể độ con được!
A Xà Thế nghe được âm thanh từ ái của cha, đau khổ quá, ngã xuống đất bất tỉnh. Khi tỉnh dậy thì danh y Kỳ Bà dẫn ông xuống xe đến chỗ Đức Phật đang tĩnh tọa trong giảng đường.
Đức Phật ngồi ngay ngắn trên tòa sư tử, bốn bề có đệ tử vây quanh, ánh lửa sáng rực, hương khói cuồn cuộn bay, mọi người đang an tĩnh tọa thiền.
Vua A Xà Thế rửa chân bước vào giảng đường, Kỳ Bà đưa ông đến trước tòa của đức Phật, chắp hai tay trước ngực mà thưa rằng:
- Thế Tôn, thỉnh Ngài quán sát tâm con!
Đức Phật mở đôi mắt trong sáng ra, quay đầu lại hiền từ đáp rằng:
- Đại vương! Ông tới đúng lúc. Ta đợi ông đã lâu.
A Xà Thế kinh ngạc trước sự ưu ái của Đức Phật, vội vàng quỳ xuống, cúi đầu thật thấp nói một cách hổ thẹn:
- Thế Tôn từ bi! Con không xứng đáng, con là người cực ác vô đạo, nếu được Thế Tôn quát mắng con đã thấy vô cùng hạnh phúc, nay lại còn được Thế Tôn dùng lời từ ái như thế, con rất cảm kích!
Tâm đại bi của Thế Tôn không chừa một chúng sinh nào, hôm nay con mới được thấy tận mắt. Thế Tôn là bậc cha lành của chúng sinh chúng con, con rất hối hận đã sát hại người cha vô tội. Bây giờ thân tâm con bất an, nguyện Thế Tôn từ bi cứu vớt!
Đức Phật nhẹ nhàng nói:
- Trên thế gian có hai loại người có thể có hạnh phúc chân chính : một là người tu thiện pháp không tạo tội, hai là người tạo tội mà biết sám hối. Nay cơ duyên hối lỗi của đại vương đã thành thục. Trên đời này có ai là không phạm tội ? Biết lỗi thì sửa đổi, đó là cách cư xử của người tốt. Pháp môn của ta quảng đại vô biên, đại vương cứ luôn luôn sám hối là được.
Đại vương, tội lỗi vốn không có bản thể, vốn Không, huyễn, nếu tâm ý mà hết bám giữ thì tội lỗi cũng tiêu diệt. Hiểu rõ rằng tâm và tội bản thể là Không, không có thật, thì đó là sám hối một cách chân chính.
Từ nay đại vương hãy lấy chính pháp trị dân, đừng làm điều phi pháp nữa. Nên lấy đức cải hóa dân, đừng nên bạo tàn. Nếu đại vương nhân từ thì danh thơm tiếng tốt sẽ lan truyền bốn phương, đại vương sẽ được chúng sinh tôn kính, không muốn phục tùng cũng không được. Chuyện quá khứ đã qua rồi, chẳng còn gì để bàn cãi đến nữa. Từ nay trở đi, việc quan trọng là làm sao sửa đổi. Đại vương mà làm việc thiện thì sẽ được an ổn, sung sướng. Tiến thêm một bước nữa thì hãy học pháp môn Không trong của Phật đạo, chứng quả Không để giải thoát và được độ.
A Xà Thế nghe đức Phật giáo huấn rồi, cảm thấy đầy hy vọng và tin tưởng trong cuộc sống mới. Ông vô cùng hoan hỉ, tất cả mây đen mê vọng đã được quét sạch, quỳ trước bảo toà ông cảm động rơi nước mắt. "Lãng tử hồi đầu kim bất hoán" (kẻ chơi bời phóng túng mà biết quay về thì còn quý hơn vàng), cuối cùng A Xà Thế quy y với đức Phật và đã được cứu độ.
 






4- Ác khẩu lưỡng thiệt
Ngày xưa có một ông trưởng giả rất giàu có, tiền muôn bạc triệu, tài sản xài suốt đời không hết, vợ lại vừa xinh đẹp vừa hiền đức, nên đã hạnh phúc ông lại càng hạnh phúc hơn. Nhưng niềm vui của ông ngắn ngủi, hạnh phúc thật vô thường, người ta chẳng thường nói "hoa không nở ba tháng, người không sướng ba năm" hay sao? Chẳng bao lâu sau, vị phú ông này từ từ bước vào hố thẳm của khổ đau. Không ai còn thấy ông với vẻ mặt hân hoan của những ngày hạnh phúc xưa nữa, tại sao vậy? Vì đứa con trai của ông mà ra cả.
Ông lập gia đình một thời gian lâu mới sinh được một đứa con trai, ngày đứa bé ra đời ông vui mừng không kể xiết. Nhưng bất hạnh thay, con ông mới oe oe chào đời là đã mắc bệnh nặng. Theo lời thầy thuốc chẩn bệnh thì đó là những mụn nhọt độc hại mọc trên da đứa bé khiến nó khóc cả ngày, thế mà danh y nào mời đến cũng đều lắc đầu chịu thuạ Vì thế mà nét mặt ông càng ngày càng ủ dột buồn rầu.
Tội nghiệp đứa bé, rất nhiều thầy thuốc đã bó tay rồi, nó chỉ còn biết đêm ngày khóc la kêu đau, cuộc sống thật là khổ sở.
Tiếng khóc gào rên rỉ của nó làm náo động tới làng xóm, nên người ta đặt tên cho nó là thằng "Khóc Gào". Ngày qua như nước trôi, cuốn đi những năm tháng thơ ấu của Khóc Gào, chẳng bao lâu cậu đã lớn khôn, nhưng bệnh tật trên người thì vẫn chẳng hề bớt chút nào, đêm ngày cậu vẫn đau đớn, ai nghe tiếng rên khóc của cậu cũng phải buồn cho cậu. Gần nhà cậu có một ông hàng xóm già, nghe tiếng rên la đau đớn của Khóc Gào, trong lòng thấy bất nhẫn, bèn tìm đến nhà cậu thăm hỏi và nói với cậu rằng :
- Tôi nghe rất nhiều người về khen ngợi tán thán rằng tại Kỳ Viên Tinh Xá có một vị Đại Y Vương, bệnh trên thân hoặc bệnh trong tâm của chúng ta Ngài đều có thể chữa trị được hết. Ngài có phương tiện thần thông nhiệm mầu, bệnh của cậu có trầm trọng đến đâu cũng sẽ tức khắc lành, cậu nên mau mau tìm đến Ngài cầu xin chữa bệnh.
Khóc Gào nghe người hàng xóm nói thế, vui mừng vô kể, vội mang tấm thân bệnh hoạn tìm đến Kỳ Viên Tinh Xá xin được gặp Đức Phật.
Khi Khóc Gào nhìn thấy 32 tướng tốt, 80 vẻ đẹp và thân của Phật uy nghi sáng chói, cậu hân hoan tán thán ngaỵ Những đau đớn khổ não của cậu giảm thiểu đi rất nhiều, lập tức gieo năm vóc xuống đất lễ bái Đức Phật.
Đức Phật từ bi chưa từng bỏ rơi bất cứ chúng sinh bệnh khổ nào, nên khi thấy Khóc Gào tới, Ngài rất hoan hỉ, bèn tuyên thuyết cho cậu những pháp môn thù thắng có năng lực diệt trừ tất cả mọi khổ não. Khóc Gào nghe Đức Phật thuyết pháp xong bèn sám hối tội lỗi. Lúc ấy nhọt độc đã hành hạ cậu trên mười năm qua lập tức tan biến, bệnh khổ của cậu hoàn toàn được tiêu trừ nên tâm cậu sinh khởi niềm cung kính hoan hỉ chân thành, cậu bèn cầu xin Đức Phật cho phép cậu được xuất gia làm tỳ kheo. Cậu tu hành tinh tiến, chẳng bao lâu đắc quả A La Hán.
Các vị tỳ kheo khác thấy tình cảnh của Khóc Gào như thế, thấy đó là điều rất hy hữu, bèn thỉnh Thế Tôn nói về nhân duyên khiến cho cậu phải chịu quả báo lúc trước. Đức Phật giảng cho các đệ tử nghe rằng:
- Vô lượng kiếp về trước, ở thành Ba La Nại có hai vị phú ông nọ. Bình thường hai người đã không ưa nhau và đố kỵ nhau, nên một trong hai người đem rất nhiều vàng bạc châu báu lên dâng tặng nhà vuạ Khi nhà vua nhận những vật cống hiến của ông này rồi, thì rất quý trọng ông. Vì thế khi ông này phê bình ông kia trước mặt nhà vua, nói rằng "người ấy vô cùng hiểm ác, thường dùng mưu độc ám hại tôi, xin đại vương hãy nghiêm trị người ác để bảo vệ dân lành", thì nhà vua vốn đã nhận vật cống hiến rồi nên không còn sáng suốt nhận định, nhất nhất tin lời ông này và ra lệnh bắt giam, không đếm xỉa tới những lời biện hộ của người kia, còn đem ra tra tấn tàn khốc. Người này phải chịu tất cả những hình phạt đau đớn nhất, thương tích đầy thân như vẩy cá, phải nhờ gia đình xuất tiền chuộc tội mới thả cho ông về nhà.
Về tới nhà ông suy nghĩ không ngừng, thấy rằng con người vì có thân cho nên mới có khổ, mới bị lắm tai nhiều họa, mình và người kia không hề có oán thù chi mà họ lại có thể hại mình đến mức thân tàn ma dại như thế này. Không lâu sau, ông bỏ vào núi tu hành và thành Bích Chi Phật. Vị Bích Chi Phật phát tâm đại từ bi, sợ rằng người kia kiếp sau sẽ chịu quả báo đau khổ nên tới nhà người ấy thị hiện đủ loại thần thông, khiến người kia thấy những biến hóa bất khả tư nghì như thế, sinh tâm kính ngưỡng, lập tức thỉnh Bích Chi Phật lên tòa ngồi và chuẩn bị đủ loại thực phẩm đặc biệt để cúng dường và sám hối tội cũ của mình đối với Ngài.
Đức Phật nói đến đây, ngừng một lúc rồi nói tiếp:
- Các ông phải biết cái người sàm tấu với vua chính là tỳ kheo Khóc Gào đã chịu khổ trong kiếp này. Sau, nhờ ân huệ của Bích Chi Phật, sám hối tội lỗi cũ, và nhờ công đức thành kính quy y Tam Bảo nên ngày nay được Như Lai cứu độ, mau đắc quả thánh.
Đừng nghĩ rằng những lời sàm tấu nói ra mà không ai biết. Nghiệp tội không trốn được, dẫu trong đường tơ kẽ tóc. Nhưng đã phạm tội như thế rồi mà biết sám hối thì có thể được cứu độ.

_________________________________
Tri Âm Quán_Thị Trấn Chũ_Lục Ngạn_Bắc Giang
http://quoccuonglucngan.blogspot.com/


Được sửa bởi Tri Âm Quán ngày Sun Feb 15, 2015 3:05 pm; sửa lần 1.
Về Đầu Trang Go down
https://triamquan.forumvi.com/
Tri Âm Quán
Thành Viên Tích Cực
Thành Viên Tích Cực
Tri Âm Quán


Tổng số bài gửi : 6340
Reputation : 2
Join date : 31/07/2013
Đến từ : Thị Trấn Chũ

Truyện Phật Giáo (hay) Sưu Tầm - Page 2 Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Truyện Phật Giáo (hay) Sưu Tầm   Truyện Phật Giáo (hay) Sưu Tầm - Page 2 EmptySun Feb 15, 2015 1:03 pm

5- Ác khẩu và quả báo
Ngày xưa trong thành Xá Vệ có một người nhà rất giàu, tên gọi là Sư Chất, đã hơn 40 tuổi rồi mà chưa có con. Hai vợ chồng rất lo lắng, đến nhà Bà La Môn xin bốc một quẻ bói xem sau này có sinh được đứa con trai hay con gái nào không? Nhưng họ vô cùng thất vọng nghe thầy bói trả lời rằng suốt đời họ sẽ không có con.
Sư Chất nghe thế không chịu tin, lại đi tìm một ông thầy tướng số khác, cao tay ấn hơn, nhiều kinh nghiệm hơn xin bốc quẻ. Lạ thay, vị thầy tướng này vốn được mọi người tôn kính và khen ngợi là bói linh như thần, lại cũng làm cho Sư Chất thất vọng.
Sư Chất đi về mà lòng phiền muộn, bỗng sực nhớ đến bậc đại thánh Thích Ca Mâu Ni, tự nghĩ:
- Đức Phật là giáo chủ của trời và người, là bậc Nhất thiết trí, không có gì là Ngài không biết, không có gì là Ngài không hiểu, tại sao ta lại không đến gặp Ngài xin chỉ giáo?
Nghĩ đến đây ông bèn nhắm hướng Kỳ Viên tinh xá mà đi. Cung kính đảnh lễ Đức Phật xong, ông chắp tay bạch :
- Bạch Đức Thế Tôn đại bi, xin Ngài thương xót chúng sinh ngu si mà chỉ giáo: con có chút ưu tư, năm nay đã hơn 40 mà chưa có đứa con trai nối dõi, đó là do nhân duyên gì, cúi xin Đức Phật khai thị.
Đức Phật trả lời:
- Không lâu nữa ông sẽ có một đứa con trai, vừa có phúc lại vừa có đức, chỉ có điều là khi nó vừa lớn nó sẽ xin xuất gia.
Nghe tin này Sư Chất rất đỗi vui mừng, thành tâm đảnh lễ chân Phật, rồi thỉnh cầu:
- Cầu xin Thế Tôn và chư tăng cho phép chúng con được cúng dường vào trưa mai, để chúng con được kết thêm thiện duyên và trồng chủng tử vào ruộng phước của Như Lai.
Đức Phật nhận lời rồi, Sư Chất hoan hỉ quay về chuẩn bị đàn trai. Hôm sau ông dẫn đầu gia nhân, chân thành cúng dường những món ăn thức uống ngon lành đẹp mắt nhất.
Đức Phật nhận cúng dường xong, thuyết một thời pháp rồi dẫn đầu tăng chúng quay về tinh xá. Đi được nửa đường, Đức Phật và tăng chúng ngồi dưới một gốc cây bên bờ sông nghỉ ngơi. Bỗng từ trên cây, một con khỉ nhẩy xuống xin mượn bình bát của Đức Phật. Nó ôm bình bát chạy đi thật xa rồi quay về, trong bình bát chứa đầy mật ngọt. Nó dùng hai tay kính cẩn dâng bình bát lên Đức Phật, Ngài nhận lấy và chia cho chư tăng dùng để con khỉ được nhiều phúc đức. Con khỉ thấy thế mừng rỡ nhẩy nhót.
Không lâu sau nó đến ngày tận số, đầu thai làm người, sinh vào nhà của Sư Chất.
Lúc nó sinh ra, trong nhà phàm có vật dụng gì có thể chứa đựng thức ăn, thì vật dụng ấy bỗng đầy ắp mật và đường. Vợ chồng Sư Chất thấy điều quái dị, bèn do nhân duyên này đặt tên con là Mật Thắng.
Thời gian vùn vụt trôi mau như tên bắn, hơn mười năm trôi qua như trong nháy mắt, Mật Thắng nay đã lớn khôn. Chú bé chán ngán chuyện thế tục, xin phép cha mẹ cho mình được xuất gia, cha mẹ hết sức vui mừng mà trả lời:
- Lúc con chưa ra đời, Đức Phật đã biết sẽ có ngày hôm nay. Bây giờ con muốn xuất gia, cha mẹ rất hoan hỉ. Không bao giờ cha mẹ ngăn chận con một cách vô lý.
Được cha mẹ hoan hỉ cho phép rồi, Mật Thắng đến Kỳ Viên tinh xá xin xuất gia với Đức Phật. Nhờ có tiền duyên, Mật Thắng chứng quả rất mau.
Một hôm, thầy đang trên đường đi độ hóa với các bạn đồng tu, cảm thấy vừa nóng vừa khát lạ thường, ai nấy đều ao ước có một cái gì uống. Tỳ kheo Mật Thắng bèn cầm bát tung lên trời rồi sau đó dùng hai tay tiếp lấy bát trở về. Bấy giờ trong bát đựng đầy mật ngọt, Mật Thắng bèn chia cho chúng tăng giải khát.
Về tới tinh xá, một vị tỳ kheo đi tìm Đức Phật xin thỉnh giáo:
- Trong quá khứ tỳ kheo Mật Thắng đã tu được phúc đức gì mà bây giờ bất cứ lúc nào, ở đâu cũng có thể có đường và mật?
Đức Phật trả lời:
- Các ông có nhớ có một lần lâu lắm rồi, có một con khỉ đem mật ngọt đến cúng dường Như Lai và chúng tăng không? Nhờ bố thí với thiện tâm, chết rồi nó được sinh ra làm người và nhờ nó chân thành cúng mật ngọt cho Phật nên kiếp này nó có thể được mật bất cứ lúc nào và ở đâu.
Đức Phật nói xong, vị tỳ kheo nọ hỏi tiếp:
- Bạch Thế Tôn! Thế thì tiền kiếp Mật Thắng do nhân duyên gì mà bị đọa xuống làm khỉ?
Lúc ấy xung quanh Đức Phật có rất nhiều đệ tử vân tập, Ngài nhìn họ một lúc rồi đáp:
- Thầy ấy bị đọa xuống làm khỉ là do một nhân duyên xẩy ra cách đây 500 kiếp trước, thời Ca Diếp Như Lai còn tại thế. Lúc đó có một vị tỳ kheo trẻ tuổi, tình cờ thấy một vị tỳ kheo khác đang băng qua một con suối nhỏ, vị trẻ tuổi bèn cười chế nhạo, bảo là dáng điệu của vị tỳ kheo kia giống hệt như con khỉ. Vị tỳ kheo trẻ tuổi đã phạm tội ác khẩu nên bị đọa xuống làm khỉ, nhưng sau đó thầy ấy biết lỗi lầm của mình, đến xin sám hối với vị tỳ kheo mà mình đã chế nhạo. Nhờ thắng duyên ấy mà kiếp này mới được gặp Phật và được Phật độ, chứng quả A La Hán một cách mau chóng.
Nghe đức Phật giảng xong, các vị tỳ kheo đều nhận ra rằng một câu nói ác cũng có thể chiêu cảm nghiệp khổ, vì thế không còn ai dám ác khẩu, ngay cả đến một câu nói đùa cũng không dám nói.
Bởi vì nhân quả không nhường bất cứ một người nào.
 
6- Ác quỷ
Đời xưa có một người tốt bụng, thích làm việc thiện, và cũng là một vị Phật tử thuần thành. Ông thường thường lập đàn trai trong nhà để cúng dường chư tăng, cho nên thường thân cận nhiều vị thiện tri thức và các vị cao tăng.
Nhà ông ở ngay ven bờ sống Hằng, cách thành Xá Vệ chừng 30 dặm đường. Vì ông là người từ thiện, thích bố thí, nên người ở xa tới đâu cũng đến xin ông cứu giúp, và họ chưa bao giờ trở về tay không, vì thế nên người người xa gần đều tán thán ông. Nhưng ông lại có một người cha chỉ thích kiếm tiền một cách bất thiện, lão làm cái nghề táng tận lương tâm là mổ lợn bán thịt. Dầu con của lão vẫn thường hay khuyên can nhưng lão không hề có chút kiêng dè, trái lại còn trách con sao lại hay lập đàn trai cúng dường, sao lại thường cứu giúp người cùng khốn.
Bước tiến của thời gian chính là sự thử thách tốt nhất của cuộc đời, vì sau một thời gian dài, tội ác nào của con người cũng đều được phơi bày ra hết. Hành vi sát sinh của ông lão nọ đồn tới tai mọi người rất mau, ai cũng thấy rằng lão không nên tạo nghiệp sát như thế nữa. Rất nhiều vị tỳ kheo thường hay qua lại nhà lão cũng biết được việc này, cũng muốn đến khuyên can lão, nhưng vì cả nể lại muốn giữ tình giao hảo, nên không ai dám mở miệng nói câu nào.
Không lâu sau, lão sinh bệnh, và tuy mời nhiều vị thầy thuốc đến nhưng không ai chữa được, cho nên một buổi sáng sớm nọ, lão lìa đời trong một cơn đau đớn cùng cực.
Lão chết rồi, vì cái tội ác sát sinh nên đọa làm thân ác quỷ trên sông Hằng, đời có bao nhiêu thống khổ lão đều phải chịu hết.
Có một hôm, các vị tỳ kheo vẫn được con trai lão cúng dường lấy thuyền băng qua sông Hằng, ác quỷ bèn hiện ra nửa thân hình trên mặt nước đuổi theo bén gót, rồi chạy ra phía trước chận thuyền lại mà nói:
- Chúng bây là một phường tồi bại! Tao sẽ lật úp con thuyền này cho chúng bây chết chìm hết không đứa nào sống sót!
Các vị tỳ kheo ngồi trên thuyền nhìn thấy con ác quỷ quái dị như thế đã lấy làm lạ rồi, nay còn nghe hắn tuyên bố những lời trên lại càng không hiểu gì hết. Trong số các vị ấy, có một vị tuổi cao hơn hết, đứng dậy hỏi:
- Nguyên do gì mà ngươi nói chúng ta là phường tồi bại? Tại sao lại còn muốn lật úp con thuyền chúng ta đang ngồi?
Ác quỷ lớn tiếng gầm lên trả lời:
- Lúc tao còn sống, con trai tao thường thường cúng dường chúng bây. Tao mổ lợn bán thịt, chúng bây biết tao làm việc phi pháp, mà không đứa nào răn bảo tao khiến bây giờ tao phải chịu bao nhiêu thống khổ như thế này. Tao muốn đòi mệnh chúng bây để chúng bây cùng chịu khổ với tao ở đây, có thế tao mới hả niềm căm hận!
Vị tỳ kheo lớn tuổi kia rất cảm thương mà trả lời rằng:
- Bây giờ ngươi đang chịu khổ, đúng là do nghiệp sát chiêu cảm! Ngươi nói muốn đoạt mệnh của chúng ta, nhưng làm như thế có ích lợi gì? Ngươi giết người, không phải chỉ có tác dụng làm cho nghiệp tội của ngươi thêm nặng mà thôi sao? Nếu ngươi bằng lòng sám hối, chúng ta có thể giúp cho ngươi được siêu dộ.
Ác quỷ nghe ra và hiểu được những lời khuyên dạy của vị tỳ kheo, bèn ẩn thân bỏ đi. Con thuyền nhờ đó được thoát hiểm mà tiếp tục đoạn đường.
Về đến nhà, các vị tỳ kheo ấy cùng người con trai của ác quỷ làm công đức hồi hướng và cầu siêu cho hắn.
Dựa vào pháp lực của Đức Phật, con ác quỷ được siêu sinh lên cõi trời, hưởng những phúc lạc của thiên giới.


7- Bà cư sĩ ngộ đạo


Ở Ấn Độ có một ngôi chùa, bên cạnh chùa có một cây tùng thuộc giống tùng Ông Uất Bà Sa, vì thế nên người ta lấy cây đặt tên cho chùa, gọi là "chùa cây tùng".
Trong chùa có hơn một trăm vị tăng cư ngụ, mỗi ngày tu tập chỉ quán, họ tu hành rất tinh tiến dũng mãnh, vì thế thánh nhân đã chứng quả trong chùa không phải là ít.
Cách chùa cây tùng khoảng hai, ba dặm đường, có một bà cư sĩ tu tại gia. Bà thành tâm cung kính cúng dường các vị xuất gia đến mức cùng cực. Bà phát nguyện mỗi ngày thỉnh một vị tỳ kheo đến nhà cho bà được cúng dường, vì thế chư tăng trong chùa cây tùng luân phiên nhau đến nhà bà thọ cúng. Cúng dường xong, bà còn muốn được nghe chư tăng thuyết pháp khai thị cho, nên cái vị tỳ kheo tuổi cao đức trọng, tinh thông liễu giải Phật pháp thì hoan hỉ chấp nhận, nhưng vì bà cư sĩ này cũng có thông hiểu Phật pháp đôi chút, nên các vị tỳ kheo sức tu học ít ỏi thiếu sót thì lại không mấy gì muốn đến nhà bà.
Trong chùa cây tùng có một vị tỳ kheo tên là Ma Ha Lô, cuối đời mới xuất gia, tuy tuổi rất cao nhưng sự hiểu biết về Phật pháp rất là ít ỏi, chỗ thâm sâu của pháp thì cố nhiên là mù tịt, nhưng ngay cả chỗ cơ bản tối thiểu ông cũng không biết.
Một hôm, đến phiên ông đi thọ cúng, ông dĩ nhiên không hề muốn đi chút nào vì tự biết mình không biết thuyết pháp khai thị cho ai. Ông từ chối, đẩy người khác đi thế, nhưng đẩy tới đẩy lui mà chẳng ai nhận lời đi thế ông, ai cũng bảo rằng :
- Tới phiên ông thì ông đi đi chứ, đẩy người khác đi thế là nghĩa thế nào?
Cuối cùng ông thầm nghĩ rằng:
- Ta là tăng sĩ, là phúc điền, lẽ ra phải nhận sự cúng dường của người ta, khiến cho người ta được dịp vun bồi ruộng phước và trưởng dưỡng gốc thiện. Tuy ta không biết thuyết pháp, nhưng không ai chịu đi thì tốt nhất là chính ta đi vậy.
Vị tỳ kheo già bèn chống gậy lần mò từng bước chầm chậm lên đường. Bà cư sĩ ở nhà chờ thật lâu, lòng nóng như lửa đốt vì đã đúng ngọ rồi mà vẫn chưa thấy ai tới. Khó khăn lắm lão tỳ kheo mới lại tới, bà cư sĩ ngắm ông lão từ xa dáng điệu đạo mạo nghiêm trang, da dẻ hồng hào, đầu tóc bạc phơ, trong lòng cảm thấy vô cùng tôn kính, vội vàng lễ lậy thưa hỏi:
- Ngài là bậc trưởng lão tuổi cao đức trọng, được ngài quang lâm tệ xá, đệ tử cảm thấy vô cùng vinh hạnh!
Bà một lòng nghĩ rằng vị lão tăng này nhất định phải là một vị trí huệ thâm sâu, sẽ có thể bố thí cho bà những bài pháp vi diệu vô thượng, vì thế bà hoan hỉ không kể xiết, vội vàng bày ra những món ăn tuyệt mỹ nhất cúng dường lão tỳ kheo.
Cúng dường xong, bà thỉnh lão tỳ kheo ngồi lên toà cho bà đảnh lễ, và quỳ dưới đất, bà thỉnh ngài thuyết pháp khai thị.
Vị tỳ kheo đăng bảo tòa rồi, trong lòng xấu hổ muôn phần, thấy mình thật là ngu si một cách đáng thương vì không hề biết gì về Phật pháp. Không có cách nào khác, ông thở dài một tiếng nói nhỏ:
- Cái ngu si của con người đúng là gốc rễ của muôn phiền não!
Nói xong, ông bước xuống bảo toà bỏ đi. Bà cư sĩ đang quỳ dưới đất, cảm thấy đây là bài pháp vô thượng vi diệu nhất mà bà được nghe từ trước đến naỵ Bà suy nghĩ kỹ lưỡng như sau: ngu si có nghĩa là vô minh, mà vô minh là căn bổn của mười hai nhân duyên; vì có cái căn bổn vô minh này nên con người ở mãi trong bể khổ, sinh sinh tử tử triền miên không ngừng trong luân hồi, tất cả mọi khổ não đều do đây mà phát khởi. Bà cứ mãi tinh tiến tư duy như thế không ngừng nên ngay lúc ấy chứng quả A La Hán.
Chứng được quả vị rồi, bà cư sĩ muôn phần hoan hỉ, vào kho lấy ra một tấm thảm dạ lớn màu trắng để cúng dường vị lão tỳ kheo, nhưng bà tìm khắp nơi không thấy vị này. Sự thật là vị này xuống toà xong là bỏ về chùa cây tùng ngay, nhưng bà cư sĩ tìm không thấy nên đinh ninh là ông có thần thông, vội đem lễ vật cúng dường lên chùa.
Lão tỳ kheo về chùa rồi, có người vào báo có bà cư sĩ đến tìm, ông nghĩ bà này lại muốn nghe pháp nữa nên không chịu ra tiếp. Bà cư sĩ cứ khăng khăng muốn gặp, nên người vào thông báo lúc nãy rất lấy làm khó xử, hỏi bà:
- Chẳng hay bà nhất định gặp vị ấy để làm gì vậy?
- Ngài ấy đã giúp tôi giải thoát căn bổn của khổ, vì thế tôi muốn cúng dường cảm tạ.
Khi lão tỳ kheo biết bà không đến để đòi nghe pháp mới chịu ra nhận cúng dường.


Nghe thế mới biết, một pháp hay tất cả pháp, khi nhân duyên tụ tập đầy đủ, chỉ cần một hai câu là người nghe có được lợi lạc lớn, một đời thọ dụng cũng không hết. Nhân duyên chưa đầy đủ thì dẫu lời nói như hoa sen tuôn khỏi miệng cũng chỉ phí công vô ích.

_________________________________
Tri Âm Quán_Thị Trấn Chũ_Lục Ngạn_Bắc Giang
http://quoccuonglucngan.blogspot.com/


Được sửa bởi Tri Âm Quán ngày Sun Feb 15, 2015 8:02 pm; sửa lần 1.
Về Đầu Trang Go down
https://triamquan.forumvi.com/
Tri Âm Quán
Thành Viên Tích Cực
Thành Viên Tích Cực
Tri Âm Quán


Tổng số bài gửi : 6340
Reputation : 2
Join date : 31/07/2013
Đến từ : Thị Trấn Chũ

Truyện Phật Giáo (hay) Sưu Tầm - Page 2 Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Truyện Phật Giáo (hay) Sưu Tầm   Truyện Phật Giáo (hay) Sưu Tầm - Page 2 EmptySun Feb 15, 2015 1:04 pm

8- Bà lão bộc

Trưởng giả Tu Đạt tại thành Xá Vệ nước Ấn Độ là một vị "đại thí giả", hễ có người nghèo khổ bần cùng đến cầu xin ông cứu giúp, ông liền làm cho người ấy được toại ý. Nhất là đối với Tam Bảo thì ông lại càng cung kính tôn thờ, thường thường cúng dường Đức Phật và chư tăng.
Trong nhà ông trưởng giả Tu Đạt có một bà lão bộc làm công, rất trung thành với chủ và làm việc rất siêng năng, nên được trưởng giả một lòng tín nhiệm. Chìa khóa nhà kho, vựa lúa đều do một tay bà nắm giữ.
Bà lão bộc này tính nết rất keo kiết, mỗi khi thấy chủ nhân lấy từ kho ra bao nhiêu là tiền bạc của cải để bố thí cho người là trong lòng bà không khỏi cảm thấy tiếc rẻ.
Nhưng điều làm cho bà bất mãn hơn cả là lúc bà thấy Đức Phật và chư vị đệ tử đến nhà trưởng lão thọ cúng dường. Bà thấy lúc đó trưởng giả vô cùng nhiệt thành, hoan hỉ nghênh tiếp và cúng dường Đức Phật. Tâm ganh tị như thiêu như đốt khiến bà ghét Đức Phật thậm tệ. Có một hôm bà còn lập ác nguyện rằng:
- Tôi vĩnh viễn không muốn thấy mặt Phật, không muốn nghe ông ta thuyết pháp cũng không muốn thấy mặt mấy ông tỳ kheo.
Thật là chuyện tốt không ai hay, mà chuyện xấu thì ai cũng biết, nên tin bà lão bộc phát ác nguyện chẳng mấy chốc lan truyền khắp mọi nơi.
Lúc ấy, hoàng hậu Mạt Lợi nghe kể lại, rất lấy làm phật ý. Hoàng hậu biết trưởng giả Tu Đạt là một vị Phật tử thuần thành, thì làm sao lại dung dưỡng trong nhà một bà nô bộc bất kính Tam Bảo như thế? Do đó, hoàng hậu hạ lệnh bắt trưởng giả phải cho bà mượn bà lão bộc đến hoàng cung giúp việc nhân dịp bà lập đàn trai cúng dường Đức Phật.
Trưởng giả Tu Đạt dĩ nhiên không dám trái lệnh hoàng hậu, đằng này mục đích lại là giúp cho việc cúng dường đức Phật thì ông lại càng tình nguyện hơn nữa. Trưởng giả lập tức dùng mâm vàng đựng đầy trân châu, sai bà lão bộc đem đến hoàng cung để cúng dường đức Phật. Hoàng hậu ra ý, chủ nhân truyền lệnh, bà lão bộc đâu dám không tuân! Khi Mạt Lợi phu nhân thấy bà lão bộc này, bà nghĩ phải thỉnh Đức Phật dạy dỗ con người tà kiến như thế mới được!
Bà lão bộc đem trân châu đến dâng lên hoàng hậu rồi, vừa mới quay người tính lui đi thì Đức Phật từ cửa chính bước vào, theo sau là các vị đệ tử của Ngài. Bà lão thấy Đức Phật bước vào đâm ra bối rối, cất bước lên tính trốn bằng cửa sau, thì quái lạ thay, Đức Phật cũng lại từ cửa sau bước vào. Lần này bà cuống cuồng lên, tính chạy bằng cửa bên hông nhà, nhưng cũng lại thấy Đức Phật đứng ngay ở ngưỡng cửa bên hông. Bà lão bộc thấy tứ phương tám hướng đâu đâu cũng có Đức Phật và chư vị đệ tử đứng, bà tiến hay lùi gì cũng khó khăn, đành phủ phục xuống đất. Nhưng trên mặt đất, bà vẫn thấy tôn tượng của Thế Tôn. Bà vội vàng dùng hai bay bịt kín lấy mắt, để mắt mình không gặp hình ảnh của Đức Phật nữa nhưng trong khoảnh khắc, mười ngón tay của bà đều hiện lên hình Phật. Bà không cần biết hậu quả ra sao, ba chân bốn cẳng chạy về, trốn vào một căn nhà nhỏ, những tưởng là sẽ không còn thấy Đức Phật nữa. Nhưng như trước, trong gian phòng đen tối ấy, đâu đâu cũng có Đức Phật nên bà lão bộc rất lấy làm đau khổ.
Lại nói đến Đức Phật Thích Ca Mâu ni ở hoàng cung, Ngài không nói gì về thái độ vô lễ của bà lão bộc, chờ thọ cúng xong xuôi mới nói với La Hầu La:
- Bây giờ con có thể đi hóa độ cho bà lão ban nãy. Bà ấy với con có nhân duyên lớn, bà ấy sẽ tiếp đón con nồng hậu và sẽ chấp nhận sự giáo hóa của con.
Tôn giả La Hầu La tuân lệnh Đức Phật đi ngay, ngài từ biệt Như Lai rồi đến nhà bà lão bộc nọ, đứng trước nhà kêu cửa.
Bà lão đang trốn trong nhà, chợt nghe một giọng nói hòa nhã thân thiết bèn vội vàng chạy ra mở cửa nhìn xem là ai. Có lẽ trong lòng còn hoảng hốt, lại hoa mắt nên thấy ngài La Hầu La, bà ngỡ là người từ cõi trời xuống.
Bà lễ lậy và đối xử với La Hầu La như thần thánh, tôn giả bèn dùng thái độ trang nghiêm thuyết cho bà lão nghe pháp thập thiện.
Bà lão nghe rồi, hối hận những lỗi lầm đã tạo trong quá khứ, và nói:
- Ngài là chúa tể cõi trời, ngài quả là cao cả, vì thế nhân chúng con mà thuyết thiện pháp vi diệu để lợi lạc chúng sinh, ngài thật là phi thường hơn mấy ông tỳ kheo kia nhiều!
Lúc ấy, La Hầu La biết bà đã bớt tâm ngã mạn, mới trả lời:
- Pháp của Phật mới là thanh tịnh, mới là từ bi quảng đại. Pháp mà tôi mới nói ban nãy là do thầy tôi dạy. Phận tôi nhỏ nhoi không đáng kể, làm sao so sánh với bậc đại thánh Như Lai được?
Lão bà nghe những lời ấy, định thần nhìn kỹ lại ngài La Hầu La, lúc đó mới tàm quý hổ thẹn không biết làm sao để chui xuống đất. Bà hối hận, bà tự trách, rồi bà khẩn cầu ngài La Hầu La giúp bà sám hối với Đức Phật và can thiệp cho bà được xuất gia.
Phật pháp vốn bình đẳng, giữa người cao sang như vua chúa hay người bần tiện như nô tỳ không hề có sự sai khác.
Bà lão bộc nọ, sau khi đến trước mặt Phật sám hối rồi, bèn xuống tóc xuất gia làm tỳ kheo ni.
Bà chuyên tâm tu học nên chứng được quả vị rất mau lẹ. Có người thấy thế, bèn đến xin Đức Phật thuyết giảng về nhân duyên quá khứ của bà lão bộc này.
- Xa xưa kia, thời Phật Bảo Cái Đăng Vương có một vị thái tử xuất gia học đạo với Như Lai. Thật ra, vị hoàng tử này tu hành trì giới rất tinh chuyên, nhưng lại lầm lạc theo đường tà. Về sau hoàng tử gặp một vị tỳ kheo, vị tỳ kheo này thuyết pháp dẫn đạo rất hay, nhưng hoàng tử không những không tán thán còn đem lời phỉ báng, bởi vì tuy trì giới nhưng lại rất ngã mạn tà kiến. Do đó chết rồi đọa ác đạo, chịu đủ hết mọi sự thống khổ trong địa ngục, nay tuy sinh thân người nhưng lại chịu phận nô bộc.
Vị hoàng tử thời nọ chính là bà lão bộc trong kiếp này và vị tỳ kheo bị hủy báng kia chính là ta trong quá khứ.
Các vị đệ tử của Đức Phật nghe xong, họ thấy rõ ràng là không thể tạo khẩu nghiệp, nhất là hủy báng người khác, vì quả báo xấu xa của tội này, dẫu có tu hành trì giới cũng không ngăn chận được.
 






9- Ba luồng ánh sáng trắng
Trong quá khứ có một người sống tại một vùng núi non hẻo lánh, nên từ nhỏ không hề được giáo dục, chưa từng nghe Phật pháp, chỉ biết cần kiệm làm bổn phận cho qua kiếp con người. Bởi vì phước báo quá ít ỏi nên cho đến già mà vẫn còn nghèo nàn cùng khổ.
Lên tới 60 tuổi, sau nửa năm bệnh hoạn, ông tiều tụy yếu ớt hẳn, biết trước sẽ không còn sống lâu trên đời nên gọi hai đứa con đến bên giường bệnh cho ông dặn dò lần cuối. Ông bảo đứa con trưởng rằng:
- Em con còn nhỏ lắm, con thì đã biết làm việc rồi, con phải cẩn thận chăm lo cho em, con phải giữ trách nhiệm của người anh cả.
Vài ngày sau, ông rời bỏ nhân thế, rời bỏ khổ não khiến hai đứa con buồn khóc một thời gian.
Ba năm sau, người anh cưới một thiếu nữ cùng thôn làm vợ. Cô này cũng không có giáo dục, không biết tình nghĩa huynh đệ. Thấy chồng hậu đãi em, cô không bằng lòng. Cô thường nói với chồng rằng:
- Hay là chúng ta cho em của anh một vài thứ trong nhà rồi bảo nó tự lập kế mưu sinh. Hiện giờ nó hãy còn nhỏ, đương nhiên không làm sao được, mai mốt nó lớn lên phiền lắm, anh muốn đuổi nó đi, chưa chắc nó đã chịu đi!
Nhưng người anh vẫn còn cái tình nghĩa chất phác của người miền núi, lại còn nhớ rõ lời di chúc của cha nên mỗi khi nghe vợ nói như thế lại bịt tai lắc đầu lia lịa.
Tục ngữ nói rất đúng, gần đèn thì sáng gần mực thì đen. Sống cả ngày gần một người vợ tâm địa xấu xa, cứ thừa mọi dịp nói đi nói lại mãi những lời độc ác, dần dà người anh bị huân tập, làm sao không biến thành ác độc? Lời nói giả dối mà cứ lập đi lập lại mãi cũng trở thành chân thật, cuối cùng người anh cũng giống như vợ, bắt đầu ghét bỏ người em.
Một hôm, người anh nghe lời vợ, đem người em tới nghĩa địa rất xa thành phố. Đó là một nơi rất ghê rợn, vì theo tập tục Ấn Độ, cứ người chết đi thì đem tử thi vứt vào đấy cho chim chóc thú vật tới mổ rỉa mà ăn.
Nghĩa địa rất u ám, xương trắng ngổn ngang, luôn luôn có tiếng chim kêu thê lương như tiếng quỷ khóc trong địa ngục. Vào bên trong thì cái khí âm u của nghĩa địa làm cho người ta lạnh run lên. Vào sâu bên trong nữa có một ngọn cây tùng bách cao lên tới từng mây, cành lá chằn chịt che trùm cả khe núi. Người anh lấy ra một sợi dây thừng đã mang theo, trói thúc người em lại rồi treo lên một cành cây to lớn, vừa trói vừa bảo em:
- Không phải anh tàn nhẫn, nhưng nói thật em làm cho anh phiền lo nhiều quá. Em hãy ở đây suy nghĩ cho kỹ anh nói có đúng không, vài bữa nữa anh tới đón em về.
Nói xong, người anh quay đầu chạy mau trở về nhà, không màng tới tiếng kêu van xin bi thảm của em. Thật ra người anh rất mâu thuẫn, lòng thương em rất mực đã bị bà vợ dùng giọng nói nét mặt nghiêm khắc đàn áp xuống. Anh ta rất đau khổ nhưng không đủ sức chống đối lại vợ.
"Thôi, để cho nó đánh cuộc với định mệnh xem sao! Nếu nó thoát được miệng hổ lang thì đó là nó có phúc báo, còn nếu không thì coi như là số của nó đã định như vậy. Ta đối với nó như thế đã là từ bi lắm rồi, thay vì nghe lời vợ cầm dao giết nó!" Trên đường về, người anh nghĩ như thế để tự trấn an mình.
Trời dần dần tối. Trong màn đêm đen kịt, tiếng chim kêu thê thảm càng ngày càng nhiều. Rồi lại có thêm những âm thanh kỳ quái hỗn tạp cũng vọng lại, như báo hiệu yêu quỷ sắp xuất hiện. Đêm sâu dần, hổ, báo, sư tử, chó sói cũng lục tục kéo đến, rống lên từng hồi như muốn bắt hết hồn phách của người tạ Những tia mắt màu xanh lè, tham lam hung ác đổ dồn về phía gốc cây cổ thụ. Trên cây, người em cố hết sức dãy dụa khóc la:
- Cứu tôi với! Trời ơi! Thần thánh ơi! Cứu tôi với! Cứu tôi với!
Nó la hét như một người điên cho đến nỗi máu tươi từ trong miệng trào ra.
Ngay lúc ấy, tại thành Vương Xá xa xôi, Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đang trụ trong Kim Cương Tam Muội. Ngài nghe tiếng kêu cầu của đứa trẻ đáng thương, và nhìn thấy rõ tình cảnh nguy ngập mà nó đang lâm phải, nên Ngài dùng thần lực phóng ra một luồng ánh sáng từ giữa hai lông mày.
Trong nghĩa địa, bỗng nhiên có một luồng ánh sáng trắng kỳ dị chiếu tới khiến khe núi u ám rợn người ấy chợt rực sáng lên. Những con dã thú hung hăng bị luồng ánh sáng trắng chiếu tới, lùi dần từng bước, từng bước, có con quay mình chạy chí tử.
Lại có một luồng ánh sáng màu trắng khác mạnh mẽ hơn chiếu thẳng tới sợi dây thừng trên người đứa em, như thể bị chạm phải một ngọn lửa mạnh hay một lưỡi dao bén, sợi dây kêu lên răn rắc và đứt đoạn từng khúc một.
Tiếp theo lại có một luồng ánh sáng trắng thứ ba, dịu dàng chiếu lên thân đứa em. Nó như bị tê liệt rơi xuống đất, đau đớn nhức nhối ngất lịm đi. Bỗng nó cảm thấy như có người đang nhẹ nhàng vỗ về nó khiến cho nó cảm thấy thư thái lạ kỳ.
- Con thật là đáng thương, con phải làm sao đây?
Một giọng nói dịu dàng từ ái vang lên bên tai. Nó tỉnh lại và có một cảm giác lạ lùng khiến bao nhiêu đau đớn trong người tan biến hết. Ngẩng đầu lên nhìn, nó thấy một người cao lớn trang nghiêm đang đứng trước mặt nó, người ấy lại dịu dàng nhìn nó mỉm cười. Kinh ngạc quá độ, nó ấp úng không biết phải nói gì:
- Ngài là... ngài là...
- Ta là Phật!
- Uý! Phật tổ! Con nguyện sẽ làm Phật giống như Ngài để cứu mình và cứu người!
Đứa bé năm vóc gieo xuống đất khấu đầu lễ lạy. Đức Phật cho nó quy y và đưa nó về Vương Xá thành.
Từ đó, người em sống trong tăng đoàn, cùng chúng đệ tử của Đức Phật cùng nhau tu hành, nghe kinh thính Pháp, không lâu sau thì chứng được Vô Sinh Pháp Nhẫn.
Người em chứng đạo rồi thì rất nhớ tới anh, đến trước Đức Phật bạch rằng:
- Bạch Thế Tôn! Anh con tuy đã có lòng ám hại con, nhưng nhờ thế mà con được gặp Phật và được Phật độ. Như vậy, thành tựu hôm nay của con là nhờ anh con. Nay con muốn về độ hóa anh ấy, nên con xin phép Thế Tôn cho con vắng mặt một thời gian.
- Rất tốt! Ta rất khen thưởng ý kiến của con.
Người em bèn dùng thần thông bay trở về nhà của anh, bà chị dâu thấy được, vội vàng chạy vào nhà trốn. Bà tưởng rằng người em bị hại nhưng không chết nên nay trở về báo thù.
- Anh chị Ơi, anh chị không cần chạy trốn. Em không oán hận anh chị chút nào mà còn muốn tạ Ơn anh chị nữa. Nhờ anh chị mà em gặp được ân sư là Đức Phật, chứng được quả vị, liễu thoát sinh tử. Em đặc biệt trở về đây để cám ơn anh chị.
Em cũng hy vọng anh chị có thể tu học Phật đạo để sớm thoát khổ. Tài sản, của cải cho đến tính mệnh của chúng ta trên thế giới này rất là vô thường, nếu làm đủ cách để truy cầu chúng thì dẫu có được đi nữa, cũng có ngày chúng cũng sẽ bỏ chúng ta mà đi. Anh chị nghĩ kỹ xem, có gì thật sự thuộc về chúng ta đâu? Hãy bỏ chúng đi, lấy cái tâm tưởng và tinh lực để truy cầu chúng dành cho việc truy cầu Phật pháp, vì đó mới là kho tàng chân thật. Kho tàng này mới thật sự vĩnh cửu không bao giờ mất, đem lại cho chúng ta tài bảo và niềm an vui nữa.
Những lời nói ấy làm cho vợ chồng người anh như bừng tỉnh mộng, nhất là lòng khoan hồng độ lượng của người em, đã không oán trách lỗi lầm xưa mà còn lo nghĩ tới niềm phúc lạc của họ nữa. Đó chính là sức mạnh đã giúp họ có can đảm sám hối tội đã làm.
Chỉnh đốn việc gia đình nhà cửa xong xuôi, cả ba cùng sánh vai nhau tiến về hướng Trúc Lâm Tinh Xá.
10- Bài học cho người háo sắc


Có một cặp vợ chồng kia sống tại một nơi hẻo lánh của Ấn Độ, vì muốn cầu thiện tri thức nên không ngại đường xa vạn dặm, dọn về thành Xá Vệ tìm kế sinh nhai. Hai vợ chồng đều có một cái tên rất là đẹp, chồng tên là Lạc Tu, vợ tên là Hân Kiến. Chồng thì tinh tiến tu trì Phật pháp, vợ thì xinh đẹp như thiên nữ, người nào đã từng quen biết với cặp vợ chồng này, khi nói về họ cũng đều không tiếc lời khen ngợi.
Hân Kiến không những xinh đẹp còn phúc hậu hiền lành, khiến rất nhiều người hiếu kỳ muốn được nhìn thấy mặt người tiên. Nhưng khổ thay, Hân Kiến không bao giờ bước chân ra khỏi cổng, sợ mình là nguyên nhân mang tới cái họa thị phị Chỉ khi nào các vị tỳ kheo thánh nhân đến nhà nàng mới chịu đích thân tiếp đãi và lễ kính cúng dường. Danh tiếng nhan sắc của nàng vang lừng khắp nơi, xa gần không ai là không nghe nói đến và tấm tắc khen ngợi.
"Danh thơm đưa đến sự ganh tị, nhan sắc đưa đến tai họa". Nhan sắc mỹ lệ của Hân Kiến suýt chút nữa đã là nguyên nhân cái chết của hai vợ chồng.
Có một ông vua tên là Tự Tại, nghe đồn về nhan sắc của Hân Kiến, cũng muốn được một lần nhìn xem nàng xinh đẹp tới mức nào. Một hôm ông hỏi vị đại thần thân cận nhất:
- Có cách nào cho ta được thấy nàng không?
Vị đại thần trả lời:
- Hai vợ chồng họ đã quy y Tam Bảo, đã thọ năm giới, nghiêm trì giới luật, bình thường rất ít khi ra khỏi nhà. Phu nhân Hân Kiến bình thường không chịu tiếp một ai, nếu đại vương nhất định muốn nhìn thấy mặt phu nhân, thì chỉ có một cách là giả làm tỳ kheo, lúc ấy phu nhân Hân Kiến mới bằng lòng tiếp đãi.
Vua Tự Tại làm đúng lời khuyên của vị đại thần, giả dạng làm một người tu hành đến nhà của Hân Kiến, quả nhiên được nàng tiếp đãi một cách nhiệt thành. Về lại nhà, ông không phút giây nào là không nhớ nghĩ đến nàng, vì trong đời ông chưa từng gặp một người đẹp như thế. Ông bèn nghĩ làm cách nào để có thể sống chung với mỹ nhân mãi mãi, nhưng biết làm sao đây? Ông lại tìm đến vị đại thần nói trên để vấn kế, vị này trả lời :
- Tuy hai vợ chồng là người tu hành và lại là người từ xa đến đây sinh sống, song đã cư trú ở nước này thì đều là thần dân của đại vương. Nếu đại vương cho triệu họ đến gặp mà không đến là họ không tuân thánh chỉ, là có tội phải phạt, lẽ nào họ không sợ tội hay sao? Thần còn xin tâu thêm rằng, tại một nơi cách đây hơn ngàn dặm, có một cái hồ rất lớn, trong hồ ấy có mọc những đóa hoa sen ngũ sắc, nếu có ai muốn hái những đóa hoa sen ấy phải vượt qua ba loại tai nạn, một là rắn độc, hai là ác thú, ba là giặc cướp. Chúng ta không có lý do gì tự nhiên bắt tội người ta, nhưng nếu cứ khống chế cho là họ có tội, thì đại vương chỉ cần kêu Lạc Tu đi hái những đóa hoa sen ấy về, tự nhiên hắn sẽ táng thân mất mạng. Đại vương, nếu muốn bắt mỹ nhân Hân Kiến, thì đây là một giải pháp có thể giúp đại vương thành tựu được ý nguyện.
Vua Tự Tại lúc ấy không còn nhân tính, tâm tư đã hoàn toàn bị tham dục sai sử, không còn biết đâu là lương tâm, là lẽ trời, nên cứ đúng theo lời khuyên của vị đại thần mà thi hành. Ông lập tức cho triệu Lạc Tu vào cung, hỏi rằng:
- Khanh là thần dân của ai?
- Thần là thần dân của đại vương.
- Đã là thần dân của ta, vậy thì tại sao từ trước đến nay không đến bái kiến ta?
- Thần tự thấy mình ngu si dốt nát, từ trong bùn lầy nước đọng sinh ra nên không dám đến bái kiến đại vương.
Vua Tự Tại sa sầm nét mặt:
- Ngươi có biết không đến bái kiến vua là có tội hay không?
- Xin đại vương bớt giận, thần đã tự biết lỗi của mình rồi.
Vua Tự Tại khấp khởi mừng thầm, thấy kế hoạch của mình sắp thành công, hình bóng của mỹ nhân sắp xuất hiện trước mắt mình, bèn nói tiếp:
- Ngươi đã tự biết lỗi, ta sẽ không xử tử ngươi. Nhưng ta đang muốn một vật này, nếu như ngươi mang về được cho ta thì ta sẽ xá tội cho ngươi.
Lạc Tu hỏi:
- Thần sẵn sàng làm những gì đại vương sai bảo, nhưng không biết đại vương muốn sai thần đi đâu và mang những gì về cho đại vương, xin đại vương chỉ dạy rõ ràng.
- Cách đây hơn ngàn dặm đường có một cái hồ lớn, trong ấy có mọc những đóa sen ngũ sắc ngạt ngào hương. Ta chỉ cần ngươi hái về cho ta một đóa thôi. Nhưng ta căn dặn ngươi, ngươi phải trở lại trong vòng bẩy ngày. Qúa thời hạn bẩy ngày ta sẽ kết tội ngươi chậm trễ.
Lạc Tu về nhà, đem tất cả mọi sự kể cho vợ nghe. Hân Kiến nghe xong buồn bã nói:
- Tai nạn của chàng hôm nay là do nhan sắc của thiếp mà ra. Đức Phật đã từng nói, tam giới không phải là nơi chắc chắn, ta chỉ có thể nương tựa vào giới luật mà thôi. Khi ra đường, chàng phải niệm thầm danh hiệu Phật, không phút giây nào quên lãng. Có như thế mới có thể biến họa thành phúc được. Nhưng nếu chẳng may chàng có bề gì, thiếp sẽ xuống tóc xuất gia, quyết vì chàng thiếp sẽ không bao giờ tái giá.
Hân Kiến chuẩn bị lương khô cho chồng mang theo và hai người từ biệt nhau. Đây là một cuộc chia tay đau đớn, nhưng họ không bịn rịn khóc lóc như người thường. Lạc Tu sửa soạn đâu đó xong xuôi là lập tức lên đường, hướng thành ngoại mà ra đi.
Từ khi ra khỏi cửa đi ròng rã được bốn ngày, Lạc Tu mới gặp phải chuyện chưa từng thấy. Hôm ấy, đương trời sắp tối, trên con đường hoang vắng, bỗng có một bọn cướp kéo đến rất đông đảo, trong tay cầm nào gươm nào đao, nào thương nào kích, trông hung dữ bạo tàn rất ghê rợn. Lạc Tu thấy họ thì chỉ một lòng niệm thánh hiệu của Phật. Tướng cướp chận đường hỏi:
- Ê, mi là ai? Dám cả gan tới đây làm gì?
- Tôi tên là Lạc Tu, là đệ tử của Đức Phật, phải tới đây để hái hoa sen ngũ sắc.
Lạc Tu trả lời một cách cứng cỏi. Nghe chàng tự xưng mình là đệ tử của Đức Phật, thái độ và giọng nói của bọn cướp thay đổi hẳn, họ trở nên tử tế và hiền hòa:
- Trước vua đã gởi nhiều người tới đây hái hoa, nhưng chúng tôi căm hận vua trị nước không công minh nên chúng tôi giết hết những người ấy rồi. Huynh không phải là người có tội mà bị vua ra lệnh tới đây. Chúng tôi tuy là một lũ giặc cướp nhưng tuyệt đối không hại đệ tử của đức Phật, huống chi huynh là người vô tội? Ngay giờ phút này chúng tôi xin thả huynh đi, nhưng trên đường đi như thế, huynh sẽ phải gặp rắn độc và ác thú, chưa chắc đã tránh khỏi bị chúng làm hại. Thôi thì bây giờ huynh không cần phải đi, chúng tôi sẽ đi hái hoa thay huynh, sau đó huynh có thể bình an mà trở về. Chúng tôi làm như thế vì cũng có chút kính trọng đối với Đức Phật, và nếu chúng tôi giúp đỡ cho đệ tử của Ngài thì sau này chúng tôi có thể chia được một chút phúc đức. Xin huynh ở lại đây chờ một chút.
Không lâu sau, họ đem hoa sen ngũ sắc về, không phải chỉ một đóa hoa mà là rất nhiều hoa, Lạc Tu không thể nào khuân nổi. Bọn cướp bèn gởi người khuân giúp Lạc Tu và hộ tống chàng về tới cửa thành mới chia tay.
Khi Lạc Tu vào yết kiến vua Tự Tại, vua kinh ngạc tột độ khi thấy chàng đã về tới bình yên vô sự, bèn hỏi rằng:
- Trên đường đi khanh đã gặp những gì? Làm sao khanh lại có thể về tới mau chóng như thế?
Lạc Tu không dấu giếm, đem tất cả mọi chuyện ra kể cho vua Tự Tại nghe. Vua nghe rồi, xấu hổ mà rằng:
- Bọn cướp là cái phường không biết phải trái, vì thế ngày thường vẫn gia hại khách buôn qua lại. Vậy mà khanh được họ giúp đỡ, khanh đã cảm hóa được họ, khanh hẳn phải là người rất thiện lương. Đáng xấu hổ thay cho ta đang trên cương vị một ông vua mà không biết phân biệt thiện ác, không rõ đúng sai, bọn giặc cướp mà còn biết kính trọng khanh và khinh thường ta nữa là! Khanh là người được bọn đạo tặc tôn kính, thế mà ta lại lập kế mưu hại khanh, ta thật là sai quấy!
Lúc ấy vua Tự Tại thật sự cảm thấy xấu hổ, bèn sám hối với Lạc Tu và phát nguyện quy y Đức Phật thọ trì ngũ giới, sửa chữa sai lầm cũ, xây dựng một tương lai thiện lành, và trở thành một vị đại hộ pháp của Đức Phật.
Về sau vua Tự Tại dùng đức độ nhân từ mà trị dân, bọn cướp bỏ nghề cũ trở về với đời sống lương thiện, quốc gia vì thế mà trở nên thái bình an lạc.
Sự thật, chính là vợ chồng Lạc Tu đã chân thành tu hành Phật pháp nên mới cảm hóa được mọi người.

_________________________________
Tri Âm Quán_Thị Trấn Chũ_Lục Ngạn_Bắc Giang
http://quoccuonglucngan.blogspot.com/
Về Đầu Trang Go down
https://triamquan.forumvi.com/
Sponsored content





Truyện Phật Giáo (hay) Sưu Tầm - Page 2 Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Truyện Phật Giáo (hay) Sưu Tầm   Truyện Phật Giáo (hay) Sưu Tầm - Page 2 Empty

Về Đầu Trang Go down
 
Truyện Phật Giáo (hay) Sưu Tầm
Về Đầu Trang 
Trang 2 trong tổng số 2 trangChuyển đến trang : Previous  1, 2
 Similar topics
-
» THÔNG ĐIỆP CỦA ĐỨC PHÁP CHỦ GIÁO HỘI PHẬT GIÁO VIỆT NAM
» Có phải Phật giáo cũng tin có quỷ, thần mơ hồ hay không?
» KIẾN THỨC CĂN BẢN PHẬT GIÁO
» Phật Giáo Có Đường Lối Riêng
» Giáo dục thế hệ trẻ sống theo lời Phật dạy

Permissions in this forum:Bạn không có quyền trả lời bài viết
Tri Âm Quán - Lục Ngạn - Bắc Giang :: Căn Bản Phật Pháp :: Góp Nhặt Các Bài Pháp-
Chuyển đến