Tri Âm Quán - Lục Ngạn - Bắc Giang Mỗi người đều nhận được hai thứ giáo dục: một thứ do người khác truyền cho; một thứ, quan trọng hơn nhiều, do mình tự tạo lấy. | |
Chào mừng các bạn đã ghé thăm Tri Âm Quán_Thị Trấn Chũ_Lục Ngạn_Bắc Giang!
Chúc các bạn sức khỏe và thành đạt!
Tri Âm Quán_Thị Trấn Chũ_Lục Ngạn_Bắc Giang. |
| | Phật Học Phổ Thông | |
| | |
Tác giả | Thông điệp |
---|
Tri Âm Quán Thành Viên Tích Cực
Tổng số bài gửi : 6340 Reputation : 2 Join date : 31/07/2013 Đến từ : Thị Trấn Chũ
| Tiêu đề: Re: Phật Học Phổ Thông Mon Dec 22, 2014 6:38 pm | |
| CHÁNH VĂN HỎI:Hành tướng của vị Tu tập thế nào? Đáp: Nguyên văn chữ Hán Tụng viết: Vô đắc bất tư nghị Thị xuất thế gian trí Xả nhị thô trọng cố Tiện chứng đắc chuyển y. Dịch nghĩa Luận chữ nói bài tụng để trả lời rằng: Cảnh giới: Vô đắc này không thể nghĩ bàn; đây là "Trí xuất thế gian" (vô phân biệt trí). Do đã xa lìa được hai món thô trọng (Phiền não chướng và Sở tri chướng) và chứng được hai món chuyển y (Bồ Đề,Niết bàn). LƯỢC GIẢI 4. Vị Tu tập:Tu hành tập luyện. Địa vị Thông đạt trên, là chỉ thông suốt giáo lý, song chưa tu tập. Đến địa vị này mới tu tập Lục độ muôn hạnh, để chứng ngộ chơn lý. Ở địa vị Thông đạt mới vừa chứng cái "Thể" của trí vô đắc. Đến địa vị Tu tập này mới đặng "Diệu dụng"của trí vô đắc. Diệu dụng của trí này không thể nghĩ bàn. Nhưng, nếu trí còn có sở đắc là trí của thế gian; cái trí không có sở đắc, mới phải là trí của xuất thế gian. Trí Vô đắc -Vị thông đạt mới vừa chứng cái thể "trí vô đắc. - Vị Tu tập mới được "Diệu dụng" của trí vô đắc Vị Tu tập này đã xả bỏ được chủng tử của hai chướng là phiền não chướng và Sở tri chướng và chứng được hai quả Bồ Đề và Niết bàn. Bài tụng trên nói chữ "thô trọng" là chỉ cho hai món chủng tử của hai món chướng: Phiền não và Sở tri: còn nói chữ "chuyển y" ,nghĩa là y cứ trên y tha khởi tánh, mà chuyển nhiễm trở lại tịnh: chuyển phiền não chướng thành Đại giải thoát (Niết bàn), chuyển sở tri chướng thành Đại Bồ Đề. | |
| | | Tri Âm Quán Thành Viên Tích Cực
Tổng số bài gửi : 6340 Reputation : 2 Join date : 31/07/2013 Đến từ : Thị Trấn Chũ
| Tiêu đề: Re: Phật Học Phổ Thông Fri Dec 26, 2014 1:27 pm | |
| Trên tánh Y tha khởi -Xả hai món nhiễm (Phiền não chướng và Sở tri chướng) -Đặng hai quả Thanh tịnh (Đại Niết bànvà Đại Bồ Đề) CHÁNH VĂN Hỏi: Hành tướng của vị Cứu cánh thế nào? Đáp: Nguyên văn chữ Hán Tụng viết: Thử tức vô lậu giới Bất tư nghị, thiện, thường An lạc, Giải thoát thân Đại Mâu ni danh pháp Dich nghĩa Luận chủ nói bài tụng để trả lời rằng: Đây là cảnh giới vô lậu, cũng gọi là: 1. Bất tư nghi, 2. Thiện, 3. Thường, 4. An lạc, 5. Giải thoát thân, 6. Đại Mâu ni, cũng gọi là Pháp thân. LƯỢC GIẢI 5. Vị Cứu cánh: Quả vị rốt ráo; trong các quả vị tu hành, đến đây đã cùng tột rồi, không còn quả vị nào hơn nữa. Hành giả chứng được quả vị Bồ Đề, Niết bàn là cảnh giới vô lậu rốt ráo thanh tịnh. Nói "Cảnh giới thanh tịnh" tức là chỉ cai Tổng tướng của vị Cứu cánh; nếu chỉ Biệt tướng của vị này thì có 6 món: 1. Bất tư nghi: cảnh giới này không thể dùng trí suy nghĩ hay lời nói luận bàn được. 2. Thiện: Cảnh giới này đã xa lìa hết các pháp nhiễm ô, bất thiện. 3. Thường: cảnh giới này thường còn, tột đến đời vị lai, không có cùng tận vậy. 4. An lạc: Cảnh giới này rất thanh tịnh vui vẻ, không có các điều khổ não bức bách vậy. 5. Giải thoát thân: Do xa lìa các phiền não triền phược, nên được thân Giải thoát (Cảnh giới của Nhị thừa). 6. Đại Mâu Ni hay gọi là Pháp thân. Do xa lìa được sở tri chướng, nên chứng đặng quả vô thượng Bồ Đề: vì quả vị này bản tánh rất thanh tịnh, nên gọi là Đại Mâu ni (tịnh mặc) cũng gọi là Pháp thân vậy. Dịch xong tại chùa Phật quang (Trà Ôn) Ngày trừ tịch năm Canh Tý (14 2 1961) | |
| | | Tri Âm Quán Thành Viên Tích Cực
Tổng số bài gửi : 6340 Reputation : 2 Join date : 31/07/2013 Đến từ : Thị Trấn Chũ
| Tiêu đề: Re: Phật Học Phổ Thông Sun Dec 28, 2014 5:54 pm | |
| DUY THỨC TAM THẬP TỤNG CHÁNH VĂN Ngài Bồ Tát THIÊN THÂN tạo luận Ngài HUYỀN TRANG dịch ra chữ Hán Sa môn THÍCH THIỆN HOA dịch ra chữ Việt Nguyên văn chữ Hán Nhược Duy thức, vân hà thế gian cập chư Thánh giáo thuyết hữu Ngã, Pháp? Tụng viết: Do giả thuyết Ngã Pháp Hữu chủng chủng tướng chuyển Bỉ y thức sở biến Thử năng biến duy tam Vị: Dị thục, Tư lương Cặp liễu biệt cảnh thức. Dịch nghĩa Hỏi: Nếu chỉ có thức, tại sao người thế gian và trong Phật giáo đều nói có Ngã và Pháp? Đáp: Luận chủ nói bài tụng để trả lời rằng: Do giả nói Ngã, Pháp: Các tướng Ngã, Pháp kia, Nương nơi thức sanh ra. Thức năng biến có ba: Dị thục và Tư lương Cùng thức Liễu biệt cảnh. Nguyên văn chữ Hán Tuy dĩ lược thuyết tam năng biến danh, nhi vị quảng biện tam năng biến tướng; thả sơ năng biến kỳ tướng vân hà? Tụng viết: Sơ A lai da thức Dị thục, Nhứt thế chủng Bất khả tri chấp thọ Xứ liễu thường dữ xúc Tác ý, Thọ, Tưởng, Tư Tương ưng duy Xả thọ Thị vô phú vô ký Xúc đẳng diệc như thị Hằng chuyển như bộc lưu A lại hán vị xả. Dịch nghĩa Hỏi: Trên đã được nói cái "tên" của ba thức Năng biến, song chưa nói rõ cái "tướng"; vậy cái "tướng" của thức Năng biến thứ nhứt thế nào? Đáp: Luận chủ nói bài tụng để trả lời rằng: Trước là A lại da, Dị thục, Nhứt thế chủng. Không thể biết: giữ, chịu (chấp thọ) Thế giới (xứ) và phân biệt (liễu). Tương ưng năm Biến hành, Năm thọ chỉ Xả thọ Thức này và Tâm sở Hằng chuyển như nước thác A la hán mới xả. Nguyên văn chữ Hán Như thị dĩ thuyết sơ năng biến tướng, đệ nhị năng biến kỳ tướng vân hà? Tụng viết: Thứ đệ nhị năng biến Thị thức danh Mạt ma Y bỉ chuyển duyên bỉ Tư lương vi tánh tướng Tứ phiền não thường câu Vị: Ngã si, Ngã kiến Tinh Ngã mạm, Ngã ái Cặp dư Xúc đẳng câu Hữu phú vô ký nhiếp Tuỳ sở sanh sở hệ A la hán, Diệt định, Xuất thế đạo vô hữu. Dịch nghiã Hỏi:Trên đã nói thức Năng biến thứ nhứt; còn thức năng biến thứ hai thế nào? Đáp: Luận chủ nói bài tụng để trả lời rằng: Thức năng biến thứ hai, Tên là thức Mạt ma. Nương kia lại duyên kia (A lại da) Tánh tướng đều lo nghĩ; Thường cùng bốn phiền não; Ngã si và Ngã kiến Ngã mạn với Ngã ái; Cùng với Xúc vân vân. Hữu phú vô ký tánh Sanh đâu chấp ngã đó. La hán và Diệt định Đạo Xuất thế không có. Nguyên văn chữ Hán Như thị dĩ thuyết đệ nhị Năng biến, đệ tam Năng biến kỳ tướng vân hà? Tụng viết: Thứ đệ tam Năng biến Sai biệt hữu lục chủng Liễu cảnh vi tánh tướng Thiện, bất thiện, câu phi Thử tâm sở Biến hành Biệt cảnh, Thiện, Phiền não Tuỳ phiền não, Bất định Giai tam thọ tương ưng Dịch nghĩa Hỏi: Như vậy đã nói thức Năng biến thứ hai, còn thức Năng biến thứ ba thế nào? Đáp: Luận chủ nói bài tụng để trả lời rằng:
Thức Năng biến thứ ba Có sáu món sai biệt Tánh, tướng đều biết (liễu) cảnh. Thiện, Bất thiện, Vô ký Đây tâm sở: Biến hành Biệt cảnh, Thiện, Phiền não Tuỳ Phiền não, Bất định, Tương ưng với ba thọ. | |
| | | Tri Âm Quán Thành Viên Tích Cực
Tổng số bài gửi : 6340 Reputation : 2 Join date : 31/07/2013 Đến từ : Thị Trấn Chũ
| Tiêu đề: Re: Phật Học Phổ Thông Mon Dec 29, 2014 1:45 pm | |
| Nguyên văn chữ Hán Tiền dĩ lược phiêu lục vị tâm sở tương ưng, kiêm ưng quảng biện bỉ sai biệt tướng; thả sơ nhị vị kỳ tướng vân hà? Tụng viết: Sơ Biến hành: Xúc đẳng Thứ Biệt cảnh vị: Dục, Thắng giải, Niệm, Định, Huệ. Sở duyên sự bất đồng Dịch nghĩa Hỏi: Trên đã lược nêu 6 vị tâm sở tương ưng; nay xin nói rõ hành tướng sai khác của các loại tâm sở. Vậy hai vị tâm sở đầu thế nào? Đáp: Luận chủ nói bài tụng để trả lời rằng: Trước Biến hành là Xúc; Sau biệt cảnh là Dục, Thắng giải, Niệm, Định, Huệ Cảnh bị duyên không đồng. Nguyên văn chữ Hán Dĩ thuyết Biến hành, Biệt cảnh nhị vị, Thiện vị tâm sở kỳ tướng vân hà? Tụng viết: Thiện,vị: Tín, Tàm, Quí Vô tham đẳng tam căn Cần, An, Bất phóng dật Hành xả cập Bất hại. Dịch nghĩa Hỏi: Trên đã nói hai loại Biến hành và Biệt cảnh, còn hành tướng của Thiện tâm sở thế nào? Đáp: Luận chủ nói bài tụng để trả lời rằng: Thiện là: Tín, Tàm,Quí Vô tham, Sân và Si Cần, An, Bất phóng dật Hành xả và Bất hại Nguyên văn chữ Hán Như thị dĩ thuyết Thiện vị tâm sở, Phiền não tâm sở kỳ tướng vân hà? Tụng viết: Phiền não vị: Tham, Sân Si, Mạn, Nghi, Ác kiến. Dịch nghĩa Hỏi: Như trên đã nói Thiện tâm sở rồi, còn hành tướng của căn bản phiền não thế nào? Đáp: Luận chủ nói bài tụng để trả lời rằng: Phiền não là: Tham, Sân Si, Mạn, Nghi, Ác kiến. Nguyên văn chữ Hán Dĩ thuyết căn bản lục phiền não tướng, chư Tuỳ phiền não kỳ tướng vân hà? Tụng viết: Tuỳ phiền não vị: Phẫn Hận, Phú, Não, Tật, Xan Cuống, Siễm dữ Hại, Kiêu Vô tàm cập Vô quí Trạo cử dữ Hôn trầm Bất tín tinh Giải đãi Phóng dật cập Thất niệm Tán loạn, Bất chánh tri Dịch nghĩa Hỏi: Trên đã nói 6 món căn bản phiền não còn hành tướng của Tuỳ phiền não thế nào? Đáp: Luận chủ nói bài tụng để trả lời rằng: Tuỳ phiền não là: Phẫn, Hận, Phú, Não, Tật, Xan Cuống, Siểm, và Hại, Kiêu Vô tàm với Vô quí Trạo cử cùng Giải đãi Phóng dật và Thất niệm Tán loạn, Bất chánh tri. Nguyên văn chữ Hán Dĩ thuyết nhị thập Tuỳ phiền não tướng, Bất định hữu tứ kỳ tướng vân hà? Tụng viết: Bất định vị Hối, Miên Tầm, Tư nhị các nhị. Dịch nghĩa Hỏi: Trên đã nói hai mươi món Tuỳ phiền não, còn hành tướng của bốn món Bất định thế nào? Đáp: Luận chủ nói bài tụng để trả lời rằng: Bất định là Hối, Miên Tầm, Tư lại chia hai Nguyên văn chữ Hán Dĩ thuyết lục vị tâm sở tương ưng Vân hà ưng tri hiện khởi phận vị? Tụng viết: Y chỉ căn bản thức Ngũ thức tuỳ duyên hiện Hoặc câu hoặc bất câu Như đào ba y thuỷ Ý thức thường hiện khởi Trừ sanh vô tưởng thiên Cập vô tâm nhi định Thuỳ miên dữ muộn tuyệt. Dịch nghĩa Hỏi: Trên đã nói 6 loại tâm sở tương ưng rồi, bây giờ làm sao biết được phận vị hiện khởi của 6 thức? Đáp: Luận chủ nói bài tụng để trả lời rằng: Nương nơi thức căn bản (A lại da) Năm thức tuỳ duyên hiện, Hoặc chung hoặc chẳng chung, Như sóng nương với nước. Ý thức thường hiện khởi, Trừ sanh trời vô tưởng Và hai định vô tâm, Ngủ mê hay chết giả. Nguyên văn chữ Hán Dĩ quảng phân biệt tam Năng biến tướng, vi tự sở biến nhị phần sở y; vân hà ưng tri y thức sở biến, giả thuyết ngã pháp, phi biệt thật hữu, do thị nhứt thế duy hữu thức da? Tụng viết: Thị chư thức chuyển biến Phân biệt sở Phân biệt Do thử bỉ giai vô Cố nhứt thế Duy thức. Dịch nghĩa Hỏi: Trên đã nói ba thức Năng biến, đều do hai phần (Tự chứng và Chứng tự chứng) làm sở y, rồi tự nó biến ra hai phần (Kiến phần và Tướng phần); bây giờ làm sao lại biết "Tất cả đều Duy thức biến ra" rồi giả nói ngã pháp, chứ không phải thật có? Đáp: Luận chủ nói bài tụng để trả lời rằng: Các thức này chuyển biến: Phân biệt, bị phân biệt. Do bỉ, thử đều không Nên tất cả Duy thức Nguyên văn chữ Hán Nhược duy hữu thức, đô vô ngoại duyên, do hà nhi sanh chủng phân biệt? Tụng viết: Do nhứt thế chủng thức Như thị như thị biến Dĩ triển chuyển lực cố Bỉ bỉ phân biệt sanh Dịch nghĩa Hỏi: Nếu chỉ có nội thức không có ngoại cảnh để làm duyên, thí làm sao sanh ra các món phân biệt. Đáp: Luận chủ nói bài tụng để trả lời rằng: Do tất cả chủng thức, Biến như vậy như vậy; Vì sức biến chuyển đó, Sanh các món phân biệt. Nguyên văn chữ Hán Tuy hữu nội thức, nhi vô ngoại duyên,do hà hữu tình sanh tử tương tục? Tụng viết: Do chư nghiệp tập khí Nhị thủ tập khí câu Tiền Dị thục ký tận Phục sanh dư Dị thục Dich nghĩa Hỏi: Nếu chỉ có nội thức, không có ngoại cảnh để làm trợ duyên, thì tại làm sao chúng hữu tình lại sanh tử tương tục? Đáp: Luận chủ nói bài tụng để trả lời rằng: Do chủng tử các nghiệp Và chủng tử hai thủ (năng thủ, sở thủ) Nên Dị thục trước chết Lại sanh Dị thục sau Nguyên văn chữ Hán Nhược duy hữu thức, hà cố Thế Tôn xứ xứ kinh trung, thuyết hữu tam tánh? Ưng tri tam tánh, diệc bất ly thức. Sở dĩ giả hà? Tụng viết Do bỉ bỉ Biến kế Biến kế chủng chủng vật Thử Biến kế sở chấp Tự tánh vô sở hữu Y tha khởi tự tánh Phân biệt duyên sở sanh Viên thành thật ư bỉ Thường viễn ly tiền tánh Cố thử dữ Y tha Phi dị phi bất dị Như vô thường đẳng tánh Phi bất kiến thử bỉ. Dịch nghĩa Hỏi: Nếu chỉ có thức, tại sao trong các kinh đức Thế Tôn nói có ba tánh? Đáp: Phải biết ba tánh đó cũng không rời thức. Hỏi: Tại sao thế? Đáp: Luận chủ nói bài tụng để trả lời rằng: Do các tánh biến kế, Chấp hết tất cả vật. Tánh Biến kế sở chấp, Tự nó không thật có. Còn tánh Y tha khởi Do các duyên mà sanh. Viên thành thật với kia (Y tha) Xa lìa Biến kế trước. Thành thật với Y tha, Cũng khác cũng không khác; Như vô thường vân vân Chẳng thấy đây (Viên thành) và kia (Y tha) Nguyên văn chữ Hán Nhược hữu tam tánh, như hà Thế Tôn thuyết nhứt thế pháp, giai vô tự tánh? Tụng viết Tức y thử tam tánh, Lập bỉ tam vô tánh. Cố Phật mật ý thuyết: Nhứt thế pháp vô tánh. Sơ tức tướng vô tánh, Thứ vô tự nhiên tánh, Hậu do viễn ly tiền: Sở chấp ngã pháp tánh. Thử chư pháp thắng nghĩa, Diệc tức thị Chơn như: Thường như kỳ tánh cố; Tức Duy thức thật tánh. Dịch nghĩa Hỏi: nếu có ba tánh, tại sao đức Thế Tôn nói: "tất cả pháp đều không có tự tánh"? Đáp: Luận chủ nói bài tụng để trả lời rằng: Y theo ba tánh này, Lập ra ba vô tánh. Nên Phật mật ý nói: Tất cả pháp vô tánh. Trước là "tướng" vô tánh, Kế, không tự nhiện tánh, Sau, do xa lìa trước: Tánh chấp Ngã và Pháp. Đây Thắng nghĩa các Pháp, Cũng tức là Chơn như, Vì tánh thường như vậy, Tức thật tánh Duy thức. | |
| | | Tri Âm Quán Thành Viên Tích Cực
Tổng số bài gửi : 6340 Reputation : 2 Join date : 31/07/2013 Đến từ : Thị Trấn Chũ
| Tiêu đề: Re: Phật Học Phổ Thông Fri Jan 02, 2015 9:22 am | |
| Nguyên văn chữ Hán Như thị sở thành Duy thức tướng tánh, thuỳ y kỷ vị, như hà ngộ nhập? Vị cụ Đại thừa nhị chủng tánh giả, lược hữu ngũ vị, phương năng ngộ nhập. Nhứt Tư lương vị, nhị Gia hành vị, tam Thông đạt vị, tứ Tu tập vị, ngũ Cứu cánh vị. 1. Sơ Tư lương vị, kỳ tướng vân hà? Tụng viết Nãi chí vị khởi thức Cầu trụ Duy thức tánh Ư nhị thủ tuỳ miên Du vi năng phục diệt Dịch nghĩa Hỏi: Như thế là đã thành lập tướng và tánh của Duy thức. Vậy người nào, có mấy vị, và làm sao ngộ nhập được Duy thức ? Đáp: Phải người có đủ hai món tánh Đại thừa và tu hành trải qua năm địa vị sau này, mới ngộ nhập được Duy thức tánh. 1. Vị Tư lương, 2. Vị Gia hạnh, 3. Vị Thông đạt, 4. Vị Tu tập, 5. Vị Cứu cánh. Hỏi: Hành tướng của vị Tư lương thế nào? Đáp: Luận chủ nói bài tụng để trả lời rằng: Cho đến chưa khởi thức Cầu trụ Duy thức tánh Hai thủ còn miên phục Chưa có thể diệt trừ. Nguyên văn chữ Hán 2. Thức Gia hạnh vị, kỳ tướng vân hà ? Tụng viết: Hiện tiền lập thiểu vật Vị thị Duy thức tánh Dĩ hữu sở đắc cố Phi thật trụ Duy thức Dịch nghĩa Hỏi: Hành tướng của vị Gia hạnh thế nào? Đáp: Luận chủ nói bài tụng để trả lời rằng: Hiện tiền còn một tí Gọi là Duy thức tánh; Vì còn sở đắc vậy, Chẳng thật trụ Duy thức. Nguyên văn chữ Hán 3. Thứ Thông đạt vị, kỳ tướng vân hà ? Tụng viết Nhược thời ư sở duyên Trí đô vô sở đắc Nhĩ thời trụ Duy thức Ly nhị thủ tướng cố. Dịch nghĩa Hỏi: Hành tướng của vị Thông đạt thế nào? Đáp: Luận chủ nói bài tụng để trả lời rằng: Khi nào "cảnh" bị duyên Và "trí" đều không có Khi đó trụ Duy thức Đã lìa hai món thủ. Nguyên văn chữ Hán 4. Thứ Tu tập vị, kỳ tướng vân hà? Tụng viết: Vô đắc bất tư nghị Thị xuất thế gian trí Xả thị thô trọng cố Tiên chứng đắc chuyển y. Dịch nghiã Hỏi: Hành tướng của vị Tu tập thế nào? Đáp: Luận chủ nói bài tụng để trả lời rằng: "Không đặng", chẳng nghĩ bàn; Đây là "Trí xuất thế" (vô phân biệt trí) Vì bỏ hai Thô trọng Nên chứng đặng "chuyển y" Nguyên văn chữ Hán 5. Hậu Cứu cánh vị, kỳ tướng vân hà ? Tụng viết Thử tức vô lậu giới Bất tư nghị, Thiện, Thường An lạc, Giải thoát thân Đại Mâu ni danh Pháp. Dịch nghĩa Hỏi: Hành tướng của vị Cứu cánh thế nào? Đáp: Luận chủ nói bài tụng để trả lời rằng: Đây là cõi Vô lậu Bất tự nghị, Thiện, Thường An lạc, Giải thoát thân Đại Mâu ni Pháp thân | |
| | | Tri Âm Quán Thành Viên Tích Cực
Tổng số bài gửi : 6340 Reputation : 2 Join date : 31/07/2013 Đến từ : Thị Trấn Chũ
| Tiêu đề: Re: Phật Học Phổ Thông Sat Jan 03, 2015 10:35 am | |
| TẬP BA DUY THỨC TAM THẬP TỤNG DỊ GIẢI Ngài THIÊN THÂN Bồ Tát tạo luận Ngài HUYỀN TRANG Pháp sư dịch chữ Phạn ra chữ Hán Ông ĐƯỜNG ĐẠI VIÊN giải dễ gọn Sa môn THÍCH THIỆN HOA dịch lại chữ Việt và lược giải. NHƠN MINH LUẬN BÀI HỌC THUỘC LÒNG (Quí vị muốn học Nhơn minh luận được dễ hiểu, trước phải học thuộc lòng những danh từ sau đây) Nhơn minh nhập chánh lý luận, nội dung có ba phần (tam chi): Tôn, Nhơn, Dụ. Tợ "Tôn" có chín lỗi: 5 Tôn này đều bị lỗi "trái với tự tướng của các pháp": 1. Hiện lượng tương vi 2. Tỷ lượng tương vi 3. Tự giáo tương vi 4. Thế gian tương vị 5. Tự ngữ tương vị 3 Tôn này đều bị lỗi "bất thành" 6. Năng biệt bất cực thành 7. Sở biệt bất cực thành 8. Câu bất cực thành 9. Tương phù cực thành (Tôn này lập không có hiệu qua) Tợ "Nhơn" có 4 lỗi, phân làm 3 phần: I. Bất thành có 4 lỗi 1. Lưỡng câu bất thành 2. Tuỳ nhứt bất thành 3. Dụ dự bất thành 4. Sở y bất thành II. Bất định có 6 lỗi 1. Cộng bất định 2. Bất cộng bất định 3. Đồng phẩm nhứt phần chuyển, Dị phẩm biến chuyển bất định 4. Dị phẩm nhứt phần chuyển, Đồng phẩm biến chuyển bất định. 5. Câu phẩm nhứt phần chuyển bất định 6. Tương vị quyết bất định III. Tương vi có 4 lỗi 1. Pháp tự tướng tương vi 2. Pháp sai biệt tương vi 3. Hữu pháp tự tướng tương vi 4. Hữu pháp sai biệt tương vi Tợ Dụ có 10 lỗi, phân làm 2 phần: I. Tợ đồng có 5 lỗi 1. Năng lập pháp bất thành 2. Sở lập pháp bất thành 3. Câu bất thành 4. Vô hiệp 5. Đảo hiệp II. Tợ dị dụ có 5 lỗi 1. Sở lập pháp bất khiển 2. Năng lập pháp bất biến 3. Câu bất khiển 4. Bất ly 5. Đảo ly. NHƠN MINH LUẬN CƯƠNG YẾUNHƠN MINH LUẬN TỪ ĐÂU MÀ CÓ? Trước thời Phật Thích Ca giáng sanh (chưa rõ xác thật là bao nhiêu năm),ở Ấn độ có nhiều phái ngoại đạo, tranh chấp nhau bằng lý thuyết. Ông Túc Mục Tiên nhơn là một trong các vị Tổ của các phái, lập ra pháp luận lý này, để bác các đạo. Phương pháp này được tín dụng và đắc lực trong thời kỳ ấy. Đến khi Phật ra đời, thấy Nhơn minh là một môn luận lý có qui tắc, vừa đúng lý và vừa hợp thời, được công chúng thừa nhận, nên Phật cũng dùng lối lý luận này để bác các ngoại đạo tà giáo đem về chánh lý. Sau khi Phật nhập diệt, độ khoảng 600 năm, có Ngài Mã Minh và Long thọ, hai vị Bồ Tát ra đời ở Ấn độ, sưu tập lại, phân làm năm phần: Tôn, Nhơn, Dụ, Hiệp, Kết. Về sau Ngài Trần Na Bôtát, cải cách lại, thành lập Nhơn minh luận có 3 phần: Tôn, Nhơn, Dị và viết ra bộ "Nhơn minh luận chánh lý luận". Từ ngài Trần Na về trước, người ta gọi là: "Cổ Nhơn minh"; từ Ngài Trần Na về sau là: "Tân Nhơn minh". Đến đời Đường, Ngài Huyền Trang Pháp sư (người Trung hoa) sang Ấn dộ học Phật pháp, rất tinh thông về môn học này. Ngài đã nhiều lần lên luận đàm, dùng lối lý luận Nhơn minh này mà biện luận, làm cho cả Ấn độ 18 nước đều kính phục. Sau khi trở về nước, Ngài dịch lại và truyền bá trong nước Trung hoa. Vì sự đòi hỏi của tín đồ, nên tôi (Sa môn Thích Thiện Hoa) phỏng dịch và chú giải bằng chữ Việt. | |
| | | Tri Âm Quán Thành Viên Tích Cực
Tổng số bài gửi : 6340 Reputation : 2 Join date : 31/07/2013 Đến từ : Thị Trấn Chũ
| Tiêu đề: Re: Phật Học Phổ Thông Mon Jan 05, 2015 12:02 pm | |
| SAO GỌI LÀ "NHƠN MINH NHẬP CHÁNH LÝ LUẬN?" Nhơn minh luận là một luận lý tối cổ ở Á đông, vừa đúng lý, vững chắc và vừa có qui tắc. Điều cố yếu là phải rành rõ "nguyên nhân" hay "lý do vì sao", thì lối luận lý mới chơn chánh và đúng đắn, nên gọi là "Nhơn minh nhập chánh lý luận". Vì nhờ "Nhơn" mới rõ được Tôn, nhờ "Nhơn" mới lập được Dụ. Bởi "Nhơn" rất trọng yếu như vậy, nên gọi là "Nhơn minh", mà không gọi là "Tôn minh hay Dụ minh. Nhơn minh là một trong ngũ minh NỘI DUNG CỦA NHƠN MINH Nội dung của Nhơn minh luận chia làm 3 phần: Tôn, Nhơn, Dụ. Theo Cổ Nhơn minh có thêm 2 phần: Hiệp và Kết là 5 phần: Cổ Nhơn minh : 1. Tôn: Nhơn loại đều phải chết. 2. Nhơn: Vì có sanh vậy. 3. Dụ: Như loài vật 4. Hiệp: Phàm có sanh phải có chết 5. Kết: Loài vật có sanh, nên loài vật phải có chết; nhơn loại có sanh, nên nhơn loại phải có chết. Tân Nhơn minh 1. Tôn: Nhơn loại đều phải chết. 2. Nhơn: Vì có sanh vậy. 3. Dụ: Phàm có sanh phải có chết, như loài vật. *** A.TÔNPhàm nói ra một câu gì, hay trình bày một lập thuyết gì, cái lập thuyết ấy gọi là Tôn.như nói: Tôi ăn cơm. Tôn có nhiều tên, như: 1. Tiền trần (danh từ trước) cũng gọi: Hữu pháp, Tự tướng, Sở biệt. 2. Hậu trần (danh từ sau) cũng gọi: Pháp, Sai biệt, Năng biệt. Thí dụ như nói: Tôi ăn cơm Tôi Tiền trần (danh từ trước), Hữu pháp, Tự tướng, Sở biệt. ăn cơm Hậu trần (danh từ sau), Pháp, Sai biệt, Năng biệt. TÔN CÓ TÔN Y VÀ TÔN THỂ I.Tôn y gồm có 2 phần 1. Tiền trần:Hữu pháp, Sở biệt và Tự tướng 2. Hậu trần: Pháp, Năng biệt và Sai biệt. II. Tôn thể. Cổ Nhơn minh (từ Ngài Trần Na về trước) lấy Tiền trần làm Tôn y, Hậu trần làm Tôn thể. Tân Nhơn minh (từ Ngài Trần Na về sau) cho Tiền trần và Hậu trần là vật kiện để lập Tôn, nên đều là Tôn y. Hai vật kiện ấy hợp chung lại thì gọi là Tôn thể. CHÍN LỖI VỀ TỢ TÔN Phàm lập Tôn phải tránh chín lỗi sau đây, thì cái Tôn ấy mới đúng đắn, mới đủ tư cách để thành lập luận thuyết của mình, hoặc bác thuyết của người khác. Chín lỗi gồm có: 1. Hiện lượng tương vi. Lập cái tôn, trái với cảm giác hiện tiền. Như hiện tiền ai cũng hiểu biết rằng: Mũi ngửi mùi, tai nghe tiếng v.v...Nay lại lập cái Tôn rằng: Tôn 1. Tai tôi nghe mùi thơm 2. mắt tôi thấy tiếng nói v.v ... Vì nói như vậy là trái với sự hiểu biết hiện tại; vừa nói ra, người ta thấy mình nói sai rồi. Tôn đã sai thì làm sao lập được "Nhơn" và "Dụ". 2. Tỷ lượng tương vi. Lập cái Tôn trái với sự "so sánh phân biệt". Theo sự so sánh hiểu biết của người: Phàm là người, ai cũng phải chết, như các vị tiền nhân đã chết. Và phàm vật gì có hình phải có hoại, cũng như bao nhiêu vật đã hoại trước. Nay lại lập Tôn rằng: Tôn 1. Tôi sống hoài không chết. 2. Cái nhà tôi không bao giờ hư. Lập Tôn như vậy là trái với sự "so sánh phân biệt" của người, nên có lỗi. 3. Tự giáo tương vi. Lập cái Tôn, trái với giáo lý của mình tôn thờ. Nói rộng ra là trái với chủ nghĩa, đảng phái, gia đình, quốc gia hay một lý thuyết mà mình đương tôn trọng. Như trong Đạo Phật nói "Chúng sanh có quả báo luân hồi". Và nói "Có thế giới cực lạc ở phương Tây v.v...". chúng ta là Phật tử lại lập cái Tôn rằng: Tôn 1. Chúng sanh không có luân hồi quả báo 2. không có nước cực lạc. Ngoại nhơn hỏi lại: "Ông nói như vầy, thì mâu thuẩn với Tôn giáo của ông. Vậy ông nói đúng lý, hay Tôn giáo của ông đúng lý? Nếu Tôn giáo ông dạy đúng lý, thì lời nói ông sai, còn lời nói của ông đúng lý thì Tôn giáo của ông sai. Vậy ông nhìn nhận cái nào đúng?" Họ không cần bác mà mình cũng bị thua. 4. Thế gian tương vi. Lập cái Tôn, trái với phong tục, tập quán và sự hiểu biết của thế gian. Thế gian có 2 hạng người: Có học thức và không học thức. Nếu đối với người có học thức mà chúng ta lập cái Tôn như vầy: Tôn 1. Ông Thiên lôi đánh anh Xoài chết 2. Bịnh ho lao không phải do vi trùng gây nên. Lập cái Tôn như thế, bị lỗi trái với thế gian, với những người có hoc thức (Khoa học). Vì khoa học (người có học thức) nói "bịnh ho lao do vi trùng gây nên", và không công nhận có ông Thiên lôi. Chúng ta nói như thế, sẽ bị họ chê là người không có học thức. Trái lại, nếu đối với thế gian người vô học, mà chúng ta lập cái Tôn như vầy, cũng bị lỗi thế gian tương vi. Tôn 1. Không có ông Thần ban phuớc giáng hoạ. 2. Bịnh ho lao phát sinh do vi trùng. Bởi thế người thế gian vô học, họ tin có ông Thần ban phước giáng hoạ và họ không biết vi trùng. Mặc dù chúng ta nói phải, nhưng thiếu những lời lẽ khôn khéo ngăn đón, nên họ không công nhận. Bởi họ không công nhận, nên lời nói sau của mình không giá trị, vì thế nên mới bị lỗi "Thế gian tương vi". 5. Tự ngữ tương vi. Lập cái Tôn mà lời nói sau của mình, tự mâu thuẩn với lời nói trước của mình. Như lập: Tôn 1. Vật này bao nhiêu mà rẻ vậy? 2. Ông này mù mà cái chi cũng thấy hết. Đã không biết giá là bao nhêu, tại sao biết rẻ? Đã là mù thì tại sao cái chi cũng thấy. Lời nói của mình tự mâu thuẫn với lời nói của mình. Chính mình cũng thấy sai, thì ai công nhận là phải. 6. Năng biệt bất cực thành. Lập cái Tôn mà "danh từ sau" bên đối phương không công nhận. Như đối với Phật học hay khoa học mà lập cái Tôn như vầy: Tôn 1. Thế giới này (danh từ trước) do Thần Tạo vật (danh từ sau) sanh. 2. Anh Ồi (danh từ trước) bị Thiên lôi (danh từ sau) đánh. Phật học và khoa học đồng nhận Thế giới và anh Ồi; nhưng không bao giờ nhận có "Thần Tạo vật" và "Thiên lôi". Bởi đối phương không công nhận nên bị lỗi "bất thành". 7. Sở biệt bất cưc thành. Lập cái Tôn mà "danh từ trước" bên đối phương không công nhận. Như đối với Phật học và khoa học, lập như vầy: Tôn 1. Thần Tạo vật (danh từ trước) sanh ra loài người. 2. Thái cực (danh từ trước) sanh ra vạn vật. Loài người và vạn vật là hai danh từ sau, thì cả Phật học và khoa học đều nhận có: còn Thần Tạo vật và Thái cực là hai danh từ trước, thì Phật học cũng như khọc học đều không công nhận, nên bị lỗi "bất thành". 8. câu bất cực thành. Lập cái Tôn mà "danh từ trước" và "danh từ sau", bên đối phương đều không nhìn nhận. Như đối với khoa học mà lập như vầy: Tôn 1. Cốc thần, Thái cực tức là chơn như 2. Thần Tạo vật chính là Thái cực. Bên khoa học không nhìn nhận danh từ trước là "Cốc thần, Thái cực hay Thần Tạo vật" và cũng không nhìn nhận danh từ sau là "Chơn như hay Thái cực". Phàm lập luận mà bên đối phương không hiểu, hoặc hiểu mà không nhìn nhận, thì không thể lý luận được nữa. Nên bị lỗi "bất thành". Tóm lại, ba lỗi bất thành này (Năng biệt, Sở biệt và Câu bất thành) bên đối phương không hiểu, hoặc hiểu mà không công nhận. Bởi hai nguyên nhơn: 1. Lập không đúng. 2. Lập đúng mà thiếu lời khôn khéo giản biệt, nên bị lỗi ấy. 9. Tương phù cực thành. Lập cái Tôn mà trùng ý kiến với bên đối phương. Như lập: Tôn 1. Cơm ăn no bụng. 2. Nước uống đã khác. Phàm cãi nhau là vì hai bên ý kiến không đồng. Nếu bên khách đã nhìn nhận như mình, mà mình còn lập thêm cái tôn ra nữa thì vô ích, nên bị lỗi "tương phù" (trùng điệp). Trong 9 lỗi về Tôn, tứ 1 đến 5 là thuộc về lỗi "tương vi"; từ 6 đến 8 là thuộc về lỗi "Bất thành". Lỗi thứ 9 vì lập trùng điệp, nên không có hiệu quả. 9 lỗi về tợ Tôn, giải thích đã rồi, bây giờ sẽ nói 14 lỗi về tợ Nhơn. | |
| | | Tri Âm Quán Thành Viên Tích Cực
Tổng số bài gửi : 6340 Reputation : 2 Join date : 31/07/2013 Đến từ : Thị Trấn Chũ
| Tiêu đề: Re: Phật Học Phổ Thông Tue Jan 06, 2015 9:14 am | |
| PHỤ BÀI HỌC ÔN (ÔN LẠI 9 LỖI VỀ TỢ TÔN)Quý vị nên xét kỹ, những câu sau này, đối với 9 lỗi trong tợ Tôn, thuộc về lỗi gì? 1. Mẹ tôi không có chồng. 2. Không có Trời Đất Quỷ Thần. 3. Không Nhơn quả, Luân hồi. 4. Không Thiên đường và Địa ngục. 5. Trời sanh muôn loại. 6. Trời không luân hồi. 7. Minh sơ sanh Thần ngã. 8. Vò vò bắt sâu làm con của nó. 9. Tai nghe mùi thơm. 10. Tai nghe tiếng, mũi ngửi mùi. 11. Tôi trường sanh bất tử. 12. Vật này bao nhiêu mà rẻ vậy. 13. Ông mù này, cái chi cũng thấy. 14. Ngựa đua dưới nước, tàu chạy trên bờ. *** B. NHƠNNhơn là nguyên nhơn hay lý do. Phàm một sự vật hay câu nói gì, cũng đều có nguyên nhơn hay lý do cả. Như nói Tôn : Tôi muốn ăn cơm. Nhơn: Vì tôi đói bụng vậy (lý do). Phàm cái "Nhơn" nào đủ cả ba tánh chất sau đây, mới đúng đắn. Trái lại, nếu thiếu một, thiếu hai, hoặc thiếu ba, thì cái Nhơn ấy có lỗi. 14 lỗi về Nhơn sau này, cũng bởi thiếu một, hai hoặc ba tánh chất sau đây. Vậy quý vị nên nhớ kỹ ba tánh chất của Nhơn. 1. Biến thị Tôn pháp tánh. Nghĩa là: Cái Nhơn phải bao trùm cả Tôn (tánh chất thứ nhứt). Biểu Như Tôn : Tôi muốn ăn cơm. lập Nhơn:Vì tôi đói bụng vậy. Cái Nhơn "Vì tôi đói bụng" này, nó trùm được danh từ trước của Tôn là "Tôi muốn"; và cũng trùm được danh từ sau của Tôn là "Ăn cơm". Nhơn trùm cả Tôn Nghĩa là: Vì tôi đói bụng, nên "tôi muốn"; và vì tôi đói bụng, nên "tôi ăn cơm". 2. Đồng phẩm định hữu tánh. Nghĩa là cái Nhơn quyết định phải hoàn toàn hoặc ít nhứt là phải có một phần liên quan với Đồng dụ. Nó phải là đồng một tánh chất như Đồng dụ (tánh chất thứ hai của Nhơn). BIỂU Tôn: Tôi muốn ăn cơm Như Nhơn: Vì đói bụng vậy lập Đồng dụ: Như anh A (đói bụng và muốn ăn cơm) "Như anh A " là đồng dụ. Nghĩa là anh A cũng "vì đói bụng" (Nhơn) nên "muốn ăn cơm" (Tôn). Nhơn trùm cả Tôn và liên quan Với Đồng dụ Cái Nhơn "vì đói bụng" này, hoàn toàn liên quan với Tôn và Đồng dụ (thí dụ thuận). 3. Dị phẩm biến vô tánh. cái "Nhơn" này đối với Dị dụ (thí dụ về bề trái) phải hoàn toàn không liên quan; nghĩa là tánh chất của Nhơn, phải hoàn toàn không có trong Dị dụ mới được (tánh chất thứ ba của Nhơn). BIỂU Tôn: Tôi muốn ăn cơm Như Nhơn: Vì đói bụng vậy lập Đồng dụ: Như anh A (đói bụng, muốn ăn) Di dụ: Như anh B (no bụng không muốn ăn) Cái Nhơn "vì đói bụng" này, đối với Dị dụ hoàn toàn không có liên quan; nghĩa là: anh B (Dị dụ) đã no bụng (trái với Nhơn: đói bụng), nên không muốn ăn (trái với Tôn: muốn ăn). Nhơn này trùm cả Tôn và Đồng dụ, còn Dị dụ thì không liên quan đến Tôn và Nhơn. | |
| | | Tri Âm Quán Thành Viên Tích Cực
Tổng số bài gửi : 6340 Reputation : 2 Join date : 31/07/2013 Đến từ : Thị Trấn Chũ
| Tiêu đề: Re: Phật Học Phổ Thông Wed Jan 07, 2015 6:38 pm | |
| 14 LỖI VỀ NHƠN phàm lập cái "Nhơn", phải tránh 14 lỗi sau này, thì cái "Nhơn" ấy mới hoàn toàn đúng đắn, chia làm 3 loại: 1. BỐN LỖI BẤT THÀNH: 1. Lưỡng câu bất thành. Lập cái Nhơn mà cả chủ và khách đều không nhìn nhận. Như lập Tôn: con rắn Hổ mây chạy mau Nhơn: Vì nó có chân vậy (nguyên nhơn) Cả chủ và khách đều không nhìn nhận "rắn hổ có chân". Nay lại lập cái Nhơn "vì có chân", nên cái Nhơn này chẳng thành. 2. Tuỳ nhứt bất thành. Phàm lập cái Nhơn, phải chủ và khách hai bên đều công nhận, ít nhứt là một bên khách phải có công nhận, thì cái nhơn ấy mới thành. Nay cái Nhơn này bên khách không công nhận nên bị lỗi "Tuỳ nhứt bất thành". Như đối với nhà Khoa học mà lập như vầy: Như lập Tôn: Vò vò không sanh con (trứng) Nhơn: Vì nó bắt sâu làm con vậy. Theo Khoa học nói con Vò vò đẻ trứng trong tổ, rồi bắt sâu nhét vào làm mồi, để cho con nó khi nở ra có mồi ăn. Nay lập cái Nhơn "bắt sâu làm con" thì bên khách (Khoa học) không công nhận, nên bị lỗi. 3. Dụ dự bất thành. cái Nhơn dụ dự chẳng nhứt định, nên không thành. Như ở xa thấy mù mù, không rõ đó là sương mù hay khói mù, lại lập như vầy: Như lập Tôn:Chỗ kia có lữa Nhơn: Vì có mù (mây mù) Bởi cái Nhơn này có thể lập được cả hai Tôn, vừa "có lữa" và vừa "không có lữa", dụ dự không nhứt định, nên bị lỗi "bất thành". 4. Sở y bất thành. Chỗ y cứ của mình, bên khách không công nhận. Như tín đồ Nhứt thần giáo đối với khoa học hoặc Phật giáo mà lập như vầy: Như lập Tôn: Thần sanh ra mọi vật Nhơn: Vì trong kinh của Đạo tôi nói vậy. Phải là tín đồ của Tôn giáo họ, mới nhìn nhận kinh của Đạo họ là đúng. Còn đối với khoa học hay Phật giáo, không nhìn nhận kinh sách của họ, mà y cứ nơi kinh sách đó để lập luận với người ngoài Đạo mình, nên bị lỗi "sở y bất thành". Một tỷ dụ thứ hai: Theo trong Nhơn minh có lập cái lượng như vầy: Như lập Tôn: Hư không thật có Nhơn: Vì muôn vật đều y hư không vậy. Phái "vô không luận", họ chẳng công nhận "thật có hư không". Nếu với phái này, mà lập cái Nhơn như vậy thì bị lỗi "sở y bất thành".
Bốn lỗi "bất thành" đã nói rồi, bây giờ sẽ nói đến sáu lỗi "bất định" | |
| | | Tri Âm Quán Thành Viên Tích Cực
Tổng số bài gửi : 6340 Reputation : 2 Join date : 31/07/2013 Đến từ : Thị Trấn Chũ
| Tiêu đề: Re: Phật Học Phổ Thông Fri Jan 09, 2015 12:03 pm | |
| II. SÁU LỖI BẤT ĐỊNH: 1. Cọng bất định. cái Nhơn này liên quan cả Đồng dụ và Di dụ, nên bị lỗi "không nhứt định" BIỂU Tôn: Anh A đau Nhơn: Vì ăn xoài sống Như Đồng dụ: Như anh B Lập (ăn xoài sống và đau) Dị dụ: Như anh D (ăn xoài sống, không đau) Nếu nói anh A "vì ăn xoài sống" mà đau như anh B, thì tại sao anh D cũng "ăn xoài sống" mà lại không đau? Bởi thế nên người ta có thể lập cái Tôn ngược lại rằng: Tôn: Anh D không đau Nhơn: vì ăn xoài sống Như lập Đồng dụ: Như anh D (ăn xoài sống và không đau) Dị dụ: Như anh A (ăn xoài sống, đau) người ta có thể nói rằng: Vậy thì "vì ăn xoài sống" mà bị đau như anh A, hay "vì ăn xoài sống" mà không đau như anh D? Bởi lập cái Nhơn bất định như vậy nên có lỗi. 2. Bất cọng bất định. Cái nhơn này không có liên quan với Đồng dụ. BIỂU Tôn: Tiếng là thường còn Nhơn: vì tai nghe vậy Như Đồng dụ: Như hư không Lập (tai không nghe) Dị dụ: Như cỏ cây (tai không nghe). Cái Nhơn "vì tai nghe" này, đối với "Đồng dụ" và Dị dụ đều không có liên quan chút nào cả, nên cũng bị lỗi "bất định". Bởi cái nhơn này người ta có thể lập ngược lại như vầy: Tôn : Tiếng là vô thường Như Nhơn : Vì tai nghe vậy lập Đồng dụ: Như cỏ cây (vô thường) Dị dụ : Như hư không (thường còn) Vậy, "vì tai nghe" mà tiếng nói thường còn như hư không? Hay "vì tai nghe" mà tiếng nói vô thường như cỏ cây? Bởi thế nên cái Nhơn này bị lỗi "bất định". 3. Đồng phẩm nhứt phần chuyển, Dị phẩm biến chuyển bất định: BIỂU Tôn : Chỗ kia có khói Nhơn: Vì có lửa vậy Như Như lửa rượu alcool Đồng dụ: (có lửa, không khói) Lập Như lửa ở nhà bếp (có lửa, có khói) Dị dụ: Như lửa ở nhà bếp (có lửa, có khói). Nếu cái Nhơn "vì có lửa", dụ như lửa ở nhà bếp, thì Tôn này có "khói"; còn "vì có lửa", dụ như lửa rượu, thì cái Tôn này "không khói". Vì cái Nhơn này, đối với Tôn "có khói" hay "không khói" đều không nhứt định, nên cái Nhơn này có lỗi bất định. Bởi người ta có thể lập ngược lại như vầy: Tôn : Chỗ kia không khói Như Nhơn : Vì có lửa vậy lập Đồng dụ: Như lửa Alcool (có lửa, không khói) Dị dụ : Như lửa ở nhà bếp (có lửa, có khói) 4. Dị phẩm nhứt phần chuyển, Đồng phẩm biến chuyển bất định: cái Nhơn này đối với Dị dụ, có dính líu một phần, còn đối với Đồng dụ thì phải hoàn toàn dính líu, nên cái Nhơn này cũng bị lỗi "bất định". BIỂU Tôn : Con khỉ leo cây giỏi Nhơn: Vì có hai tay. Như Đồng dụ: Như con Dị dụ Như con bò (không tay, không biết leo) _ Như con rắn (không tay, leo cây giỏi). Phàm Đồng dụ thì phải hoàn toàn liên quan cả Tôn và Nhơn; còn Dị dụ thì hoàn toàn không dính líu gì đến Tôn và Nhơn, như thế mới đúng. Nay cái Nhơn này, đối với Dị dụ bị dính líu hết mốt phần. Bởi thế cái tánh chất thứ ba của Nhơn là "Dị phẩm biến vô tánh", nên bị lỗi; vì khách có thể hỏi lại rằng: "Vì không tay, nên leo cây giỏi như con rắn"; hay vì không tay, nê "chẳng biết lao cây như con bò?". Bởi thế nên cái Nhơn này bị lỗi "bất định". 5. Câu phẩm nhứt phần chuyển bất định: Cái Nhơn này, đối với Đồng dụ và Dị dụ đều chỉ có dính líu một phần, nên cũng bị lỗi "bất định". BIỂU Tôn: Tiếng vô thương Nhơn: Vì mắt không thấy Như tánh giận, buồn v.v... (mắt không thấy và vô thường) Như Đồng dụ Như ruộng, nhà v.v...(mắt thấy lập Và cũng vô thường) Như Hư không (thường, mắt trông thấy) Dị dụ Như Giác tánh (thường, mắt không thấy) Cái thí dụ thứ hai: Tôn: Người ta ai cũng phải chết Nhơn: Vì vật hữu tình vậy Đồng Như cầm thú (hữu hình dụ có chết) dụ Như nước biển (hữu hình, không chết) Như lập Dị dụ Như hư không (vô hình không chết) Như tượng gỗ (hữu hình không chết) Nếu cái Nhơn "vì hữu hình" này, mà dụ như cần thú, thì cái Tôn này có chết", còn cái Nhơn "vì hữu hình" mà thí dụ như nước, thì cái Tôn này "không chết". Phàm Dị dụ là dụ bề trái của Tôn và Nhơn, nên phải dùng những vật "không chết". (trái với Tôn) và "vô hình" (trái với Nhơn) để làm thí dụ. Nay cái Dị dụ này chỉ trái với Nhơn được phân nữa. Vì ngoại nhơn có thể hỏi lại rằng: vậy "hư không, không chết" vì vô hình vậy? Hay "tượng gỗ không chết "vì hữu hình vậy? Bởi hữu hình (tượng gỗ) vô hình (hư không) đều không chết, nên cái Nhơn này bị lỗi "bất định". 6. Tương vi quyết định bất định: Chủ và khách lập lượng trái nhau; song cả hai đều không có lỗi, và đều quyết định thành lập được. Nhưng không bên nào phá dược bên nào. Tôn : Sóng thường còn Nhơn: Vì sóng tức là nước Khách lập Đồng dụ : Như điện. Tôn : Sóng là vô thường Chủ phá Nhơn : Vì chuyển động dược Đồng dụ : Như gió. Hai cái lượng này rất mâu thuẩn nhau, song đều quyết định thành lập được. Bên khách vẫn công nhận "sóng có chuyển động", bên chủ cũng nhận "sóng tức là nước". Nhưng không bên nào phá được bên nào, nên Nhơn này bị lỗi "bất định". Đây cũng là vì thiếu lời lẽ khôn khéo, để làm cho "người ta phục mình. Thưở xưa có người nói: Ai lập trước thì hơn". Phải lập Tôn : Sóng không thường còn Nhơn : Vì nó là nước bị gió động như vầy Đồng dụ: Cũng như gió.
6 lỗi "Bất định" đã giải thích rồi, bây giờ sẽ nói đến 4 lỗi tương vi. | |
| | | Tri Âm Quán Thành Viên Tích Cực
Tổng số bài gửi : 6340 Reputation : 2 Join date : 31/07/2013 Đến từ : Thị Trấn Chũ
| Tiêu đề: Re: Phật Học Phổ Thông Sat Jan 10, 2015 5:27 pm | |
| III. BỐN LỖI TƯƠNG VI 1. Pháp tự tướng tương vi.Cái Nhơn trái (mâu thuẩn) với tự tướng (lời nói trắng) của danh từ sau Tôn: Gió thường còn Như lập Nhơn : Vì có động vậy Đồng dụ : Như hư không Dị dụ : Như sóng. Đã có động thì làm sao lại thường còn; nên cái Nhơn "có động" này, rất trái với tiếng "thường còn" là lời nói trắng về danh từ sau của Tôn. 2. Pháp sai biệt tương vi Nhơn. Cái Nhơn trái (mâu thuẩn) với ý hứa (ẩn ý) của danh từ sau Tôn: Loài người quyết định có tạo ra Như lập (ý hứa là một vị thần). Nhơn : Vì có trí khôn và mắt, tai v.v... Đồng dụ : Như con do cha mẹ sanh ra trong cái Tôn này, về chữ "quyết định có người tạo ra "là do người lập Tôn, ẩn ý của họ muốn nói: Người tạo ấy là một vị Thần. Và ẩn ý của họ cho vị Thần ấy có ba đức tánh sau này: 1. Toàn trí toàn năng, 2. Thường còn, 3. Độc tôn. Nhưng cái Nhơn này nó lại trái ngược (mâu thuẩn) với ẩn ý của họ: 1. Nếu vị thần ấy tạo ra loài người có trí khôn và mắt tai v.v...như cha mẹ sanh con; vậy cha mẹ "không toàn trí toàn năng", vì sanh ra có những đứa con ngỗ nghịch với cha mẹ, thì vị thần ấy cũng "không toàn trí toàn năng" vì tạo ra loài người mà có những kẻ oán trách lại vị Thần ấy, và giữa loài người, không biết bao nhiêu những điều bất bình đẳng. 2. Cha mẹ sanh ra con, đến khi già phải chết "không phải thường còn"; vậy vị Thần ấy đã sanh ra loài người, thì vị thần ấy cũng phải chết, "không thường còn". 3. Cha mẹ sanh ra con, tất nhiên phải có ông, bà sanh lại cha mẹ, nên cha mẹ không phải "độc tôn". Vậy thì vị Thần ấy đã tạo ra loài người, thì vị thần ấy cũng phải có một vị thần lớn hơn sanh ra, nên vị thần ấy cũng không "độc tôn". Bởi thế nên cái Nhơn này bị lỗi mâu thuẩn với ý hứa (ẩn ý) của danh từ sau là "người tạo ra". 3. Hữu pháp tự tưởng tương vi Nhơn.cái Nhơn mâu thuẩn với lời nói trắng (tự tướng) về danh từ trước của Tôn Tôn : Phải có một ông Vô hình, tạo ra Vũ trụ Như lập Nhơn :Vĩ Vũ trụ có trật tự ấy Đồng dụ: Như ông Kiến trúc sư làm nhà. Cái Nhơn "Vì vũ trụ có trật tự" này, rất trái ngược với danh từ trước của Tôn là "Ông Vô hình". Đã Vô hình thì làm sao tạo ra Vũ trụ là vật hữu hình và có trật tự được? Phải vật hữu hình mới tạo ra vật hữu hình. Như ông kiến trúc sư, vì hữu hình mới tạo ra cái nhà hữu hình được. 4. Hữu pháp sai biệt tương vi nhơn.Cái Nhơn trái ngược với ý hứa (ẩn ý) về danh từ trước của Tôn. Tôn : Phải có một đấng sanh ra vũ trụ Như lập Nhơn : Vì vũ trụ có thứ tự vậy. Đồng dụ:Như ông thợ làm nhà. Người lập lượng này, nếu nói trắng ra "Có một ông thần", thì sợ bên đối phương không công nhận, mà phải bị lỗi "Sở biệt bất thành", nên họ chỉ nói một cách hàm hồ là "Có một Đấng".song ẩn ý của họ muốn nói "Đấng ấy là một vị thần"; và họ cho vị Thần này có 3 đức tánh: 1. Thường còn, 2. Cao cả, 3. Sanh vạn vật. Nhưng Đấng ấy đã sanh ra được van vật, thì Đấng ấy tất nhiên cũng phải bị người khác lớn hơn sanh ra và chết; không phải cao cả và thường còn. Cũng như ông thợ làm nhà. Vì cái Nhơn này, trái ngược với ần ý của danh từ trước, nên bị lỗi "tương vị". Ngoại nhơn có thể lập lượng bác lại rằng: Tôn: Đấng ấy phải bị người khác sanh ra và phải chết. Như lập Nhơn : Vì Đấng ấy sanh ra vũ trụ vậy. Đồng dụ: Như ông thợ làm nhà. 14 lỗi về Tợ Nhơn, chúng tôi đã giải thích rồi, sau đây sẽ nói 10 lỗi về Tợ dụ. | |
| | | Tri Âm Quán Thành Viên Tích Cực
Tổng số bài gửi : 6340 Reputation : 2 Join date : 31/07/2013 Đến từ : Thị Trấn Chũ
| Tiêu đề: Re: Phật Học Phổ Thông Mon Jan 12, 2015 6:28 pm | |
| PHỤ BÀI ÔN HỌC (ÔN LẠI 14 LỖI VỀ TỢ NHƠN) Quí vị nên xét kỹ các lượng sau này, rồi chỉ ra: lỗi của Tôn, lỗi của Nhơn, và nói rõ tại sao Lượng thứ I Tôn: Nhơn loại quyết định có người tạo Nhơn : Vì có trí khôn và đủ cả mắt, tai v.v... Đồng dụ : Như con, phài có cha mẹ sanh ra. Lượng thứ II Tôn: Gió thường còn Nhơn : Vì có động vậy Đồng dụ : Như hư không Dị dụ: Như sóng Lượng thứ III Tôn: Phải có một Đấng sanh ra vũ trụ Nhơn : Vì vũ trụ có trật tự vậy Đồng dụ : Như ông Kiến trúc sư làm nhà Lượng thứ IV Tôn: Phải có một ông vô hình tạo ra vũ trụ Nhơn : Vì vũ trụ có trật tự vậy Đồng dụ : Như ông thọ làm nhà. *** C. DỤPhàm lấy một vật gì mà bên đối phương đã biết và đã công nhận, để so sánh chứng minh với một vật khác mà bên đối phương kia chưa biết, hoặc chưa công nhận thì gọi là "Dụ". Thí dụ khi lập cái "Tôn thường còn", thì phải lấy tất cả những vật "thường còn", làm Đồng dụ; trái lại, phải lấy tất cả những vật "vô thường" làm Dị dụ. Về Tợ dụ có 10, chia làm 2 loại: I. TỢ ĐỔNG DỤ CÓ 5: 1. năng lập pháp bất thành, Phàm cái nhơn là để thành lập cái Tôn, nên cái Nhơn là "năng lập pháp" còn cái Tôn là "Sở lập pháp". Cái Dụ này trái ngược Nhơn, nên bị lỗi "bất thành" Như lập Tôn: Con ngựa hay chạy Nhơn : Vì có bốn vó Đồng dụ : Như con rắn hổ ngựa Cái Dụ này hiệp với Tôn (chạy hay), trái với Nhơn (thiếu chân) 2. Sở lập pháp bất thành.Nhơn là Năng lập mà Tôn là Sở lập (bị lập). Cái dụ này trái ngược với Tôn, nên cũng bị lỗi "bất thành". Như lập Tôn: Người ta không bay được. Nhơn : Vì thiếu hai cánh Đồng dụ : Như mây (không cánh, bay dược) Cái Dụ này hiệp với Nhơn (thiếu cánh) và trái ngược với Tôn và Nhơn. Bởi lấy Dị dụ làm Đồng dụ, nên bị lỗi "bất thành". Như lập Tôn : Tiếng thường còn Nhơn : Vì tai nghe vậy Đồng dụ : Như bàn, ghế. Bàn, ghế "vô thường" nên trái với Tôn, và "tai không nghe được", nên trái với Nhơn. 4. Vô hiệp. Cái Dụ này không có lời phối hiệp để kết thúc lại cho dễ hiểu. Như lập Tôn : Người ta phải chết Nhơn : Vì có sanh vậy Đồng dụ : Như chim v.v... Đáng lẽ phải nói lời phối hiệp để kết thúc lại như vầy: "Người ta có sanh (Nhơn) phải có chết (Tôn). Phàm vật gì có sanh (Nhơn) phải có chết (Tôn), như chim v.v..."thời người ta mới dễ hiểu. Cái này chỉ nói tắt rằng "như chim"; làm cho người ta không hiểu: Như chim có hai cánh, hay là như chim có mỏ?nên bị lỗi "vô hiệp". 5. Đảo hiệp. Lời thí dụ, kết thúc phối hiệp lại trái ngược. Phàm kết thúc phối hiệp thì phải nói cái nhơn trước rồi nói cái Tôn sau. Như lập Tôn : Người ta phải chết Nhơn : Vì có sanh vậy Đồng dụ : Phàm vật gì có sanh (Nhơn) thì phải có chết (Tôn)như chim v.v ... Nay kết thúc lại trái ngược, nghĩa là: Phối hiệp Tôn trước rồi nhơn sau. Như lập Tôn : Người ta phải chết Nhơn : Vì có sanh vậy Đồng dụ : Phàm có chết (Tôn) phải có sanh (Nhơn) như chim v.v ... Bởi vì nói "có sanh phải có chết" thì ai cũng thấy; còn nói "có chết phải có sanh", người ta khó nhận. | |
| | | Tri Âm Quán Thành Viên Tích Cực
Tổng số bài gửi : 6340 Reputation : 2 Join date : 31/07/2013 Đến từ : Thị Trấn Chũ
| Tiêu đề: Re: Phật Học Phổ Thông Tue Jan 13, 2015 10:45 am | |
| II. TỢ DỊ DỤ CÓ 5: Phàm Dị dụ là dụ bề trái của Tôn và Nhơn, nên phải hoàn toàn trái ngược với Tôn và Nhơn. 1. Sở lập pháp bất khiển. Cái Dị dụ này không trái với Tôn Như lập Tôn : Tiếng nói thường còn Nhơn : Vì vô hình vậy Đồng dụ : Như hư không Dị dụ: như vi trần (vi trần hữu hình và thường còn) vi trần có hình chất mà lại thường còn. Nếu lấy vi trần làm Dị dụ, thì chỉ trái với Nhơn (vô hình) mà không trái với Tôn (thường) nên bị lỗi. 2. Năng lập pháp bất khiển. cái Dị dụ này không trái với Nhơn Như lập Tôn : Tiếng nói thường còn Nhơn : Vì vô hình vậy Đồng dụ : Như hư không Dị dụ: như điện chớp (vô hình, không thường). Lấy điện chớp làm Dị dụ, thì chỉ trái với "Tôn thường còn", mà không trái với "Nhơn vô hình", nên bị lỗi. 3. Câu bất khiển, cái Dị dụ không trái với Tôn và Nhơn. Lỗi này vì lấy Đồng dụ làm Dị dụ. Như lập Tôn : Người phải chết Nhơn: Vì có sanh vậy Đồng dụ : Như cỏ cây Dị dụ: như loài vật Phàm Dị dụ là phải trái với Tôn và Nhơn. Nay dùng cái Dị dụ này không trái với Tôn và Nhơn nên bị lỗi. 4. Bất ly. Dị dụ không có lời kết thúc để ly biệt Tôn và Nhơn Như lập Tôn : Tiếng nói thường còn Nhơn : Vì không hình chất Đồng dụ : Những gì vô hình đều thường còn, như hư không Dị dụ: như bàn ghế Về Dị dụ, đáng lẽ cũng phải có lời phối hiệp kết thúc để ly biệt Tôn và Nhơn như vậy: "Phàm những gì vô thường, thì đều có hình chất, như bàn ghế". Nay chỉ nói tắt rằng: "Như bàn ghế" Làm cho người ta không hiểu: Như bàn ghế có bốn chân? Hay như bàn ghế có mặt? Phải lưu ý: Về Đồng dụ, nếu thiếu lời phối hiệp để kết thúc, thì gọi là "Vô hiệp"; còn bên Dị dụ, nếu thiếu lời phối hiệp để kết thúc, thì gọi là "bất ly". 5. Đảo ly. Lời kết thúc của Dị dụ, để ly biệt Tôn và Nhơn, lại phối hiệp mốt cách trái ngược. Như lập Tôn : Tiếng thường còn Nhơn : Vì vô chất ngại Đồng dụ : Như hư không Dị dụ: những gì có chất ngại (Nhơn) đều vô thường (tôn) như bình, bàn v.v... Phàm lời phối hiệp để kết thúc của Dị dụ là phải nói Tôn trước rồi Nhơn sau, mới thuận. Như nói: "Những gì vô thường (Tôn) thì đều có chất ngại (Nhơn) như bình, bàn v.v... "Nay phối hiệp ngược lại Nhơn trước Tôn sau, nên bị lỗi "Đảo ly". Lưu ý: về Đồng dụ, khi kết thúc, phải nói Nhơn trước rồi nói Tôn sau. Nếu trái lại thì bị lỗi "Đảo hiệp". Về Dị dụ, khi kết thúc, phải nói Tôn trước rồi nói Nhơn sau. Nếu trái lại thì bị lỗi "Đảo ly". 10 lỗi về Tợ Dụ đã giải thích rồi. *** | |
| | | Tri Âm Quán Thành Viên Tích Cực
Tổng số bài gửi : 6340 Reputation : 2 Join date : 31/07/2013 Đến từ : Thị Trấn Chũ
| Tiêu đề: Re: Phật Học Phổ Thông Thu Jan 15, 2015 10:53 am | |
| PHỤ BÀI HỌC ÔN Quý vị nên xét kỹ các lượng sau này: Tôn thuộc về lỗi gì? Nhơn thuộc về lỗi gì? Và Dụ thuộc về lỗi gì? Lượng thứ I Tôn : Người ta phài chết Nhơn : Vì có sanh vậy Đồng dụ : Phàm có chết phải có sanh, như chim Dị dụ: Phàm không sanh thì không chết, như hư không Lượng thứ II Tôn : Tiếng nói thường còn Nhơn : Vì vô hình vậy Đồng dụ : Như hư không Dị dụ: như vi trần Lượng thứ III Tôn : Tiếng nói thường còn Nhơn : Vì tai nghe vậy Đồng dụ : Như hư không Dị dụ: như điện chớp Lượng thứ IV Tôn : Người ta phải chết Nhơn : Vì có sanh vậy Đồng dụ : Như cỏ cây Dị dụ: như loài vật. Hoặc lập nhiều lượng khác LỢI ÍCH HỌC NHƠN MINH LUẬN Trong các Kinh điển Đại thừa, phần nhiều Phật dạy các đệ tử phải biết Ngũ minh (1. Nội minh, 2. Nhơn minh, v.v...) thời việc hoá đạo mới được nhiều lợi ích. Trong Ngũ minh, Nhơn minh là một. Nhờ biết Nhơn minh nên lời nói ít lỗi, luận lý vững vàng, có thể thuyết phục được các tà thuyết đem về chánh đạo. Nhờ biết Nhơn minh, mới học nổi được các bộ luận trong Phật giáo. Vì trong các bộ luận ấy phần nhiều dùng nhơn minh để lập Chánh lý và phá các tà thuyết. Tóm lại, Nhơn minh là một môm Luận lý học, vừa lợi ích cho mình và lợi ích cho người.
Sa môn THÍCH THIỆN HOA Sửa lại và viết xong mùa thu năm Mậu tuất (1958) Chùa PHẬT QUANG (Trà Ôn) | |
| | | Tri Âm Quán Thành Viên Tích Cực
Tổng số bài gửi : 6340 Reputation : 2 Join date : 31/07/2013 Đến từ : Thị Trấn Chũ
| Tiêu đề: Re: Phật Học Phổ Thông Sat Jan 17, 2015 11:27 am | |
| Khóa Thứ 10 Và 11 LUẬN ĐẠI THỪA KHỞI TÍN DỊCH NGHĨA VÀ LƯỢC GIẢI Ngài Mã Minh Bồ Tát tạo Luận Ngài Chơn đế Tam Tạng dịch chữ Phạn ra chữ Hán Sa môn Thích Thiện Hoa lược dịch và lược giải Giảng lần thứ nhứt tại Phật Học Đường Nam Việt Ngày 12 tháng 9 năm Tân Sửu (11 10 61) THÔNG BẠCHCác loại sách của tôi phiên dịch hoặc sáng tác đều không giữ bản quyền. Song, Quí vị nào muốn ấn tống, xin theo bản sửa chữa cuối cùng của tôi. Nếu vị nào muốn sửa đổi nội dung hay hình thức hoặc in để phát hành (bán) đều phải được sự chấp thuận của tôi Sa môn THÍCH THIỆN HOA LỜI DỊCH GIẢ Chúng tôi tưởng không cần phải giới thiệu dài dòng, chắc độc giả cũng đã biết rằng bộ Luận "Đại thừa Khởi Tín" là một trong số những bộ Luận có một nội dung hàm súc, sâu sắc nhứt và một lối lý luận rốt ráo bén nhọn và tế nhị nhứt. Vì lẽ đó nên chúng tôi đã khổ công rất nhiều, trong khi đem dịch Luận này. Lần đầu chúng tôi đã dịch hơn phân nữa bộ, nhưng vì thấy nhiều đoạn chưa được vừa ý, nên chúng tôi đã bỏ tất cả, và dịch lại lần thứ hai. Tính tất cả hai lần dịch thuật, thời gian trên một năm (từ tháng 11 năm Canh Tý đến tháng 12 năm Tân Sửu, tức là từ năm 1960 đến năm 1962). Bộ luận này do Bồ Tát Mã Minh soạn ra bằng chữ Phạn. Những nhà dịch giả có danh tiếng, đã dịch sang chữ Hán. Chúng tôi căn cứ vào bản dịch bằng Hán văn của Ngài Chơn đế Tam tạng Pháp sư, để dịch sang chữ Việt. Về Phần chú giải, thì sau khi tham khảo nhiều bản khác nhau của các dịch giả Trung hoa, chúng tôi đã căn cứ một phần lớn vào bản trực giải của Ngài Đức Thanh, mà chúng tôi nhận thấy rõ ràng và gọn gàng hơn hết. Tuy thế, trong khi phiên dịch sang Việt ngữ, để cho ý luận được biểu lộ rõ ràng, gãy gọn và mạch văn thích hợp với cú pháp Việt Nam, nên có nhiều đoạn, chúng tôi chỉ dịch cho rõ ý, hoặc đảo ngược trước sau, hoặc thêm bớt một vài chữ. Mong quý độc giả thông cảm mà lượng thứ cho. Nói riêng về chương trình Phật học phổ thông, mà Ban Hoằng pháp Phật giáo Nam Việt đã chủ trương từ trước đến nay, thì bộ luận này thuộc về khóa thứ IX; nhưng sau khi phiên dịch và giảng dạy, chúng tôi nhận thấy, vì ý nghĩa thâm sâu của nó nên sắp vào khoá thứ X và XI, thì mới đúng trình độ, lợi ích cho độc giả và những vị theo học các lớp Phật học Phổ thông. Thưa quý vị độc giả, "Lời của dịch giả", đến đây có thể xem như đã chấm dứt. Nhưng chúng tôi xin phép quý vị, để nói thêm lên đây lòng nguyện ước thiết tha của chúng tôi trước khi dừng bút: Trong khi chúng tôi đang dịch thuật bộ Luận này, thì Bổn sư chúng tôi là Hoà thượng Thích Khánh Anh, nguyên Thượng Thủ Giáo hội Tăng già toàn quốc kiêm cố Pháp Chủ Giáo Hội Tăng Già Nam Việt, viên tịch. Trong nỗi niềm đau xót lớn lao trước một cái tang chung và riêng ấy chúng tôi rất ngậm ngùi và nhớ tưởng lại hồng ân của Bổn sư, người đã hướng dẫn và thúc đẩy chúng tôi trong công tác phiên dịch này. Vậy, hôm nay công việc dịch thuật đã xong xuôi, chúng tôi kính cẩn dâng công đức này hồi hướng lên Giác linh Bổn sư chúng tôi sớm đăng Phật địa, ngõ hầu báo đáp hồng ân pháp hóa trong muôn một. CHÙA PHƯỚC HẬU TRÀ ÔN Dịch xong ngày khởi công trùng tu chùa Phước Hậu (Ngày Phật thành đạo năm Tân Sửu, nhằm ngày 13/1/1962). Sa môn THÍCH THIỆN HOA. MỤC LỤC CHI TIẾT LUẬN ĐẠI THỪA KHỞI TÍN BÀI KỆ QUY KÍNH TAM BẢO Chương thứ nhất : Phần Nhơn duyên Chương thứ hai : Phần Định danh nghĩa Chương thứ ba : Phần Giải thích Chương thứ tư : Phần Tín tâm, Tu hành. Chương thứ năm : Phần Lợi ích và khuyến tu BÀI KỆ HỔI HƯỚNG Chương thứ nhứt: PHẦN NHƠN DUYÊN Vì tám nhơn duyên nên Bồ Tát tạo ra Luận này. Chương thứ hai : PHẦN ĐỊNH DANH NGHĨA A. Pháp Đại thừa I. Tướng Chơn như II. Tướng Sanh diệt B. Nghĩa Đại thừa I. Thể chất lớn II. Hình tướng lớn III. Diệu dụng lớn Chương thứ ba : PHẦN GIẢI THÍCH, Chia làm ba: A. Nói rõ nghĩa chánh (10 bài) B. Đối trị các chấp sai lầm (1 bài) C. Phân biệt hành tướng phát tâm đến Đạo (2 bài) A. NÓI VỀ NGHĨA CHÁNH, có 3phần I. Tâm Chơn như (Chơn tâm) II. Tâm Sanh diệt (Thức A lại da) III. Trở về Chơn như . I. NÓI VỀ TÂM CHƠN NHƯ, có 2 nghĩa: 1. Thật không (không có các pháp nhiễm ô) 2. Thật có (có các công đức thanh tịnh) II.NÓI VỀ TÂM SANH DIỆT (THỨC A LẠI DA), có 2 nghĩa: 1. Nghĩa "Giác" (Chơn) 2. Nghĩa "Bất giác" (mê: vọng) 1. Nói về nghĩa "Giác", có 5 tên: a. Bản giác (tánh Phật sẵn có) b. Bất giác (mê:vô minh) c. Thỉ giác (mới giác ngộ) d. Phần giác (giác ngộ từng phần) e. Cứu cánh giác (giác ngộ rốt ráo) Thỉ giác có 4 lớp, từ Thô đến Tế: 1. Giác ngộ niệm "Diệt" 2.Giác ngộ niệm "Dị" 3. Giác ngộ niệm "Trụ" 4. Giác ngộ niệm "Sanh" Bản giác có 2 tướng và 4 nghĩa: Hai tướng 1. Tướng Trí tịnh 2. Tướng nghiệp dụng bất tư nghị Bốn nghĩa 1. Như thật không 2. Nhơn huân tập 3. Pháp xuất ly 4. Duyên huân tập 2. Nói về nghĩa "Bất giác" (mê: vô minh) Phân làm 11 phần: a. Tam tế (ba tướng vi tế) b. Lục thô (sáu món Thô) c. Hai tướng (đồng và khác) d. Ý tương tục (có năm thứ) e. Ý thức g. Tâm nhiễm ô (có 6 lớp) h. Tâm nhiễm ô và vô minh khác nhau thế nào? i. Ba tướng nhiễm ô sanh diệt k. Bốn món huân tập l. Chơn như và vô minh, thỉ và chung . Ba đại nghĩa của tâm Nói về Tam tế 1. Nghiệp tướng 2. Chuyển tướng 3. Hiện tướng Nói về Lục thô: Trí tướng . Tương tục tướng Chấp thủ tướng Kế danh tự tướng Khởi nghiệp tướng Nghiệp hệ khổ tướng Nói về 2 tướng. "Giác" và "Bất giác" đều có hai tướng 1. Đồng (đồng thể) 2. Khác (khác tướng) Nói về "Ý tương tục", có 5 tên: 1. Nghiệp thức (nghiệp tướng) 2. Chuyển thức (chuyển tướng) 3. Hiện thức (hiện tướng) 4. Trí thức (Trí tướng) 5. Tương tục thức (tương tục tướng) Nói về "Ý thức" có 3 tên: 1. Ý thức 2. Phân ly thức 3. Phân biệt sự thức Nói về "tâm nhiễm ô", có 6 lớp: 1. Nhiễm ô chấp trước (chấp thủ tướng và Kế danh tự tướng) 2. Nhiễm ô bất đoạn (Tương tục tướng) 3. Nhiễm ô phân biệt (Trí tướng) 4. Nhiễm ô cảnh sắc (Hiện tướng) 5. Nhiễm ô năng phân biệt (Kiến tướng) 6. Nhiễm ô về nghiệp (Nghiệp tướng) Nói về tâm nhiễm ô và Vô minh khác nhau: Tâm nhiễm ô là phiền não, chướng, làm chướng ngại căn bản trí. Vô minh là sở tri chướng, làm chướng ngại sai biệt trí Nói về 3 tướng nhiễm ô sanh diệt: 1. Tướng sanh diệt thô 2. Tướng sanh diệt vừa 3. Tướng sanh diệt vi tế Nói về 4 món huân tập: 1. Chơn như huân tập 2. Vô minh huân tập 3. Nghiệp thức huân tập 4. Cảnh giới hư vọng huân tập Nói về cảnh giới hư vọng (sáu trần) huân tập: Cảnh giới huân tập làm tăng trưởng vọng niệm Cảnh giới huân tập làm tăng trưởng chấp thủ Nói về vọng tâm (Nghiệp thức) huân tập: Vọng tâm huân tập lại căn bản vô minh Vọng tâm huân tập chi mạt vô minh Nói về vô minh huân tập: Căn bản vô minh huân tập vào chơn như Chi mạt vô minh huân tập vào vọng tâm Nói về chơn như huân tập: Thể tướng chơn như huân tập Diệu dụng chơn như huân tập Lại chia hai phần nữa: Chưa chứng nhập chơn như Đã chứng nhập chơn như, được hai trí Căn bản trí (vô phân biệt trí) Hậu đắc trí (sai biệt trí) Nói về Chơn như và vô minh, thỉ và chung: Chơn như vô thỉ vô chung Vô minh vô thỉ hữu chung Nói về ba đại nghĩa của tâm: Thể rộng lớn của Tâm: Tâm bình đẳng không vọng Tướng rộng lớn của Tâm: Đủ hằng sa công đức Dụng rộng lớn của Tâm: Báo thân, Ứng thân và Y báo trang nghiêm (đã hết nghĩa Bất giác) III. TRỞ VỀ CHƠN NHƯ: Không khởi vọng niệm thì trở về Chơn như. (Hết phần thứ nhứt (Nói rõ nghĩa chánh) trong chương thứ ba (Phần Giải thích) của Luận này). B. ĐỐI TRỊ CÁC CHẤP SAI LẦM I. CHẤP NGÃ, CÓ 5 THỨ: 1. Chấp hư không là chơn tánh của Như Lai. 2. Chấp Chơn như hay Niết bàn không có chi hết. 3. Chấp Như Lai tạng có các hình tướng sai khác. 4. Chấp Như Lai tạng có đủ các pháp nhiễm ô. 5. Chấp chúng sanh có thỉ, chư Phật có chung. II. CHẤP PHÁP: Chấp thật có vũ trụ và vạn hữu C. PHÂN BIỆT HÀNH TƯỚNG PHÁT TÂM ĐẾN ĐẠO. Ba món phát tâm: I. Tin hoàn toàn mà phát tâm. II. Hiểu biết và làm mà phát tâm. III. Chứng nhập chơn như mà phát tâm. I. NÓI VỀ TÍN HOÀN TOÀN MÀ PHÁT TÂM: 1. Ba món Tâm trong Tín vị: a. Trực tâm b. Thâm tâm c. Đại bi tâm 2. Bốn món phương tiện: a. Phương tiện căn bản b. Phương tiện ngăn ngừa các việc tội ác. c. Phương tiện làm phát sanh các việc lành d. Phương tiện Đại nguyện và Bình đẳng. 3. Tám tướng thành Đạo: Giáng sanh Nhập thai Ở trong thai Sanh ra đ. Xuất gia e. Thành đạo g. Thuyếp pháp h. Nhập Niết bàn. II. NÓI VỀ HIỂU BIẾT VÀ LÀM MÀ PHÁT TÂM: 1. Bồ Tát biết tự tánh mình không có lục tệ: Không tham lam Không nhiễm ô Không sân hận Không giải đãi đ. Không tán loạn e. Không si mê 2. Bồ Tát tu lục độ Bố thí Trì giới Nhẫn nhục Tinh tấn đ. Thiền định e. Trí huệ III. NÓI VỀ CHỨNG NHẬP CHƠN NHƯ MÀ PHÁT TÂM: Bồ Tát khi nhập chơn như, rồi khởi dụng độ sanh: 1. Chơn tâm tức là thật trí. 2. Phương tiện tâm tức là Quyền trí. 3. Nghiệp thức tâm tức là Dị thục thức. (Hết phần Giải thích về chương thứ ba) Chương thứ tư:TÍN, TÂM, TU HÀNH, có 4 phần: A. Bốn món Tín tâm B. Năm môn tu hành C. Các thứ ma chướng D. Mười điều lợi ích tu Thiền A. NÓI VỀ BỐN MÓN TÍN TÂM: I. Tin căn bản (Phật tánh) II. Tin Phật III. Tin Pháp IV. Tin Tăng B. NÓI VỀ NĂM MÓN TU HÀNH (Lục độ) Bố thí Trì giới Nhẫn nhục Tinh tấn V. Chỉ, Quán (Định, Huệ). C. NÓI VỀ CÁC THỨ MA CHƯỚNG: I. Ma hiện Phật, Bồ Tát v.v... II. Ma nói Pháp III. Ma làm hành giả hoặc điên D. NÓI VỀ 10 ĐIỀU LỢI ÍCH TU THIỀN Được mười phương Phật, Bồ Tát bảo hộ v.v.... Chương thứ năm: Nói về LỢI ÍCH và KHUYẾN TU Học và tu theo luận này sẽ được lợi ích vô cùng: hành giả nên tu theo luận Đại thừa này. BÀI KỆ HỔI HƯỚNG | |
| | | Tri Âm Quán Thành Viên Tích Cực
Tổng số bài gửi : 6340 Reputation : 2 Join date : 31/07/2013 Đến từ : Thị Trấn Chũ
| Tiêu đề: Re: Phật Học Phổ Thông Tue Jan 20, 2015 6:33 pm | |
| BÀI THỨ NHỨT CHƯƠNG THỨ NHỨT PHẦN NHƠN DUYÊN Nguyên nhơn tạo luận. Giải thích tên Luận Đại thừa Khởi Tín. Nội dung của Luận này. Ngài Mã minh Bồ Tát tạo luận: 1. Lý lịch và tên 2. Nguyên nhơn ngộ đạo. Ngài Chơn Đế dịch luận. Lời nguyện cầu NGUYÊN NHÂN TẠO LUẬN NÀY Trong khoảng 600 năm, sau khi Phật nhập diệt, tại Ấn độ, phần thì phái Tiểu thừa nổi lên tranh chấp, không tin lý Đại thừa, phần thì ngoại đạo lập các tà thuyết phá hoại chánh pháp; tình trạng Phật giáo rất đen tối. Ngài Mã Minh Bồ Tát, trông thấy tình trạng ấy rất đau lòng, nên tạo ra luận này, để xô tà đỡ chánh: trừ những nghi ngờ của Tiểu thừa, phá các tà thuyết của ngoại đạo, làm cho người phát khởi lòng tin Đại thừa. GIẢI THÍCH TÊN LUẬN ĐẠI THỪA KHỞI TÍN Luận. Luận là luận bàn lẽ tà chánh, quyết đoán điều nghi ngờ và lựa chọn những việc phải quấy. Đại thừa. Chữ "Đại" là lớn, chữ "Thừa" là cởi. Đọc chữ "Thặng" nghĩa là cái xe. Theo đây phải đọc là "Thặng" mới đúng, song vì theo thói quen nên đọc là "Thừa". Đại thừa có 5 nghĩa: 1. Vì đối với Tiểu nên gọi là Đại. 2. Quả Phật rộng lớn, thừa này sẽ đi đến quả Phật, nên gọi là Đại Thừa. 3. Chư Phật là bực Đại nhơn, song chẳng rời thừa này, nên gọi là Đại Thừa. 4. Các Bồ Tát là bực Đại sĩ, đều y theo thừa này mà tu tập, nên gọi là Đại Thừa. 5. Vì thừa này rất rộng lớn, cứu độ chúng sanh đông nhiều nên gọi là Đại Thừa. LUẬN NÀY LẤY GÌ LÀM ĐẠI THỪA? Luận này lấy tâm chúng sanh làm Đại thừa. Bởi tâm chúng sanh: Thể nó lớn, Tướng nó to, Dụng nó đại, bao trùm tất cả các pháp thế gian, và xuất thế gian, nên gọi là Đại Thừa. Trọng tâm của luận này là nói: Thể, Tướng và Dụng của tâm chúng sanh. Vì tâm này là "Tổng tướng" (Tướng chung) của tất cả thánh phàm, mê ngộ, nhơn quả ...cho nên trong luận này cũng gọi là "Đại Tổng tướng pháp môn thể". Tâm này có nghĩa "vận tải": Các Đức Phật đều nương tâm này mà chứng Bồ Đề, Niết bàn. Bồ Tát nương tâm này mà rộng tu muôn hạnh: trên cầu quả Phật, dưới hoá độ chúng sanh. Chúng sanh cũng do tâm này mà trôi lặn trong dòng sanh tử luân hồi. Vì thế nên gọi tâm này là Đại thừa. Do ngộ lý này, nên cổ nhơn có làm bài kệ: Dịch âm: Tam điểm như tinh tượng Hoành câu tợ nguyệt tà Phi mao tùng thử đắc Tổ Phật giả do tha. Dịch nghĩa Ba chấm như ngôi sao Uốn cong tợ trăng tà Chúng sanh từ đâu có Chư Phật cũng do đây. Khởi tín. Luận này làm cho người phát khởi lòng tin Đại thừa, nên gọi là "Đại thừa khởi tín". Đáng lẽ phải nói: "Khởi Đại thừa tín"; nghĩa là khởi lòng tin Đại thừa; song vì chúng sanh sau khi thấu rõ Đại thừa rồi, mới phát khởi lòng khởi tin, nên gọi "Đại thừa khởi tín". NỘI DUNG CỦA LUẬN NÀY Ngài Mã Minh Bồ Tát căn cứ theo kinh Lăng Già, kinh Tư Ích và các kinh Đại thừa mà tạo ra luận này. Nội dung của luận này là Phát minh lý Duy tâm hay Duy thức đem về nhứt tâm, vạch rõ nguồn gốc mê ngộ, chỉ bày đường tắt tu hành, tóm các nghĩa lý sâu rộng của Phật nói, làm cho người phát khởi lòng tin Đại thừa. NGÀI MÃ MINH BỔ TÁT LÝ LỊCH VÀ TÊN Ngài Mã Minh Bồ Tát, người xứ Ba la nại, phía tây Thiên trúc (Ấn Độ). Ngài là Tổ thứ 12 ở Thiên trúc, nối ngôi của Tổ thứ 11 là Phú Na Dạ Xa Tôn giả. Vì có 3 nguyên nhơn, nên gọi Ngài là Mã Minh: 1. Khi Ngài vừa sanh ra, thì các con ngựa trong xứ ấy đều buồn mà kêu to lên. 2. Ngài đờn rất hay, mỗi khi Ngài đờn thì những con ngựa được nghe tiếng đờn đều buồn mà kêu lên. 3. Khi thuyết pháp, các con ngựa nghe đến tiếng Ngài, đều rơi nước mắt kêu to lên và không ăn. Mặt dù người ta thử bỏ đói chúng vài ba ngày, rồi đến lúc Ngài thuyết pháp mới bỏ cỏ cho ăn, nhưng chúng cũng không ăn. Bởi thế nên gọi là Mã Minh (ngựa kêu). NGUYÊN NHƠN NGÀI NGỘ ĐẠO Khi gặp Tổ Phú Na Dạ Xa Tôn giả, Ngài hỏi: Làm sao biết Phật? Tổ đáp: Không biết là biết Phật. Ngài hỏi: Không biết làm sao biết là Phật? Tổ đáp: Không biết làm sao biết không phải là Phật. Ngài nói: Nghĩa của Tổ là nghĩa cưa. Tổ nói: Nghĩa của ông là nghĩa cây. Tổ hỏi tiếp: Thế nào, ông nói nghĩa của tôi là nghĩa cưa? Ngài đáp: Vì Tổ nói qua nói lại như cưa vậy. Ngài hỏi tiếp: Thế nào Tổ nói nghĩa của tôi là nghĩa cây. Tổ đáp: Vì cây bị cưa vậy. Thế nghĩa của ông bị tôi phá rồi. Ngài nghe rồi liền ngộ đạo. Trong kinh Ma ha ma da, Phật có huyền ký (ghi trước) rằng: "Sau khi Như Lai diệt độ 600 năm, các ngoại đạo tà thuyết thạnh hành, huỷ diệt Phật pháp. Lúc bấy giờ có vị Bồ Tát ra đời tên là Mã Minh, nói pháp rất hay, phá trừ tà thuyết, hàng phục ngoại đạo". Bởi thế nên biết Ngài Mã Minh, cũng là một vị Bồ Tát tái lai. Chúng ta nên học luận này, phải lấy làm hy hữu, gia tâm nghiên cứu, chớ nên xem thường. | |
| | | Tri Âm Quán Thành Viên Tích Cực
Tổng số bài gửi : 6340 Reputation : 2 Join date : 31/07/2013 Đến từ : Thị Trấn Chũ
| Tiêu đề: Re: Phật Học Phổ Thông Wed Jan 21, 2015 12:14 pm | |
| NGÀI CHƠN ĐẾ Luận này có hai nhà dịch: Ngài Chơn Đế và Ngài Thật xoa Nan đà. Bản dịch này là của Ngài Chơn đế. Nguyên tiếng Phạn gọi là "Ba La Mạc Đà"; Tàu dịch là "Chơn đế". Ngài ở nước Ưu thiền ni, phía Tây Ấn Độ. Ngài qua Tàu nhằm đời vua Nguyên Đế nhà Lương, niên hiệu Thừa Thánh, năm thứ ba (Mậu thìn). Ngài ở chùa Kiến Hưng, đất Hoàng Châu, dịch bộ Luận này. LỜI CẦU NGUYỆN CHÁNH VĂN Kính lạy Phật, Pháp và Tăng, vì muốn cho chúng sanh bỏ chấp tà, trừ các nghi ngờ, khởi lòng tin Đại thừa, để cho giống Phật chẳng mất, nên con tạo ra luận Đại thừa Khởi tín này. LƯỢC GIẢI Các vị Bồ Tát khi làm việc gì, trước nhứt là để tâm qui kính Tam bảo; cũng như con hướng về cha, trò hướng về thầy, dân chúng hướng về vị lãnh tụ của nước; và nguyện cầu Tam bảo gia hộ cho việc làm của mình hợp với chánh pháp và kết quả viên mãn. Đoạn này là Ngài Mã Minh Bồ Tát trước khi tạo luận, nói bài kệ quy kính Tam bảo và nguyện cầu Tam bảo gia hộ. | |
| | | Tri Âm Quán Thành Viên Tích Cực
Tổng số bài gửi : 6340 Reputation : 2 Join date : 31/07/2013 Đến từ : Thị Trấn Chũ
| Tiêu đề: Re: Phật Học Phổ Thông Thu Jan 22, 2015 11:00 am | |
| CHƯƠNG THỨ NHỨT PHẦN NHƠN DUYÊN CHÁNH VĂNVì tám nhân duyên sau đây nên tạo ra luận này: 1. Vì muốn cho chúng sanh xa lìa các khổ, đặng vui rốt ráo nên tạo luận này, không phải vì danh lợi ở thế gian, hay cầu người cung kính. 2. Vì muốn cho chúng sanh hiểu biết chơn chánh, khỏi sự lầm lạc, nên tạo luận này để giải thích nghĩa căn bản của Như Lai. 3. Muốn cho những chúng sanh căn lành đã thuần thục ( mãn Thập tín), lòng tin chẳng thối lui và có thể lãnh thọ pháp Đại thừa, nên tạo luận này. 4. Muốn cho những chúng sanh căn lành mỏng ít (chưa mãn Thập tín) tu tập tín tâm. 5. Vì bảo hộ đạo tâm của những chúng sanh ác nghiệp sâu dày, nên chỉ bày phương tiện, để chúng tiêu trừ nghiệp chướng xa lìa các phiền não si, mạn ...và ra khỏi lưới tà. 6. Vì muốn đối trị tâm niệm sai lầm của phàm phu và Nhị thừa, nên chỉ bày cho họ tu tập Chỉ Quán. 7. Vì những chúng sanh căn tánh kém cỏi, nên chỉ bày phương tiện chuyên tâm niệm Phật, sanh về cõi Phật, để cho tín tâm quyết định không thối chuyển. 8. Chỉ bày lợi ích để khuyên người tu hành. Tóm lại, vì tám nhân duyên trên, nên tạo ra luận này. LƯỢC GIẢILuận này chia ra làm 5 phần, đây là phần thứ nhứt, Ngài Mã Minh Bồ Tát vì tám nhơn duyên sau đây nên tạo ra luận này: Nhơn duyên thứ nhứt: Chư Phật và Bồ Tát khi làm việc gì, đều do lòng từ bi, muốn cho chúng sanh khỏi khổ được vui. Tất cả chúng sanh vì mê bản tâm của mình mà thọ các khổ sanh tử, không được vui Niết bàn. Trong luận này, Ngài Mã Minh Bồ Tát chỉ rõ bản tâm, để cho chúng sanh tự tin mình có bản tâm thanh tịnh (pháp Đại thừa) là cái khả năng để thành Phật. Khi chúng sanh đã ngộ được bản tâm của mình rồi, thì sẽ hết khổ sanh tử, được vui Niết bàn. Vì thế nên tạo ra luận này. Nhơn duyên thứ hai: Các đức Như Lai đều y nơi "nhứt tâm" tu hành mà được thành đạo chứng quả. Luận này nói về "nhứt tâm" là nghĩa căn bản của Như Lai, để cho chúng sanh hiểu biết đường lối tu hành một cách chơn chánh, khỏi bị lạc vào tà kiến (chấp tà). Nhơn duyên thứ ba: Luận chủ muốn cho hàng Thập tín Bồ Tát đối với pháp Đại thừa, lòng tin chắc chắn, không bị thối lui, để tiến đến bậc Thập trụ. Nhơn duyên thứ tư: Vì những vị Bồ Tát chưa viên mãn Thập tín, muốn cho họ tu tập tín tâm được viên mãn. Nhơn duyên thứ năm: Vì những chúng sanh nghiệp chướng nặng nề, bị lưới tà làm chướng ngại, nên tạo ra luận này để chỉ bày phương tiện tu hành, như tụng kinh, sám hối ...hầu diệt trừ các nghiệp chướng. Nhơn duyên thứ sáu: Vì đối trị tâm lầm lỗi của phàm phu và Nhị thừa, nên Luận chủ tạo luận này, dạy tu "Chỉ" để trừ bịnh "Vọng tưởng tán loạn" của phàm phu; và dạy tu "Quán" để đối trị bịnh "Trầm không thú tịch" (tham luyến cảnh thiên không Niết bàn) của Nhị thừa. (Quán nhơn duyên sanh, thấy các pháp chẳng không: Thánh, Phàm đủ cả. Bởi có phàm phu nên phải tu đức đại bi để cứu đời; vì có Thánh, nên phải phát trí huệ, để cầu quả Phật). Nhơn duyên thứ bảy: Vì những người lo sợ đời này tu hành nếu không chứng quả, thì trở lại đời sau bị nghịch duyên làm thối chuyển đạo tâm, hoặc không nhớ lại kiếp trước để tu hành, nên tạo luận này dạy phương tiện niệm Phật, để họ cầu sanh về cõi Phật, thường được nghe Phật thuyết pháp và Bồ Tát khuyên tu, làm cho hành giả tín tâm chẳng thối chuyển. Nhơn duyên thứ tám: Vì những chúng sanh giải đãi, nên Luận chủ nói sự lợi ích tu hành, để khuyên người tiến tu. | |
| | | Tri Âm Quán Thành Viên Tích Cực
Tổng số bài gửi : 6340 Reputation : 2 Join date : 31/07/2013 Đến từ : Thị Trấn Chũ
| Tiêu đề: Re: Phật Học Phổ Thông Sun Jan 25, 2015 6:51 pm | |
| CHÁNH VĂN Hỏi: Pháp Đại thừa, trong các kinh đã nói nhiều, cần gì phải lập trở lại? Đáp: Khi Phật còn trụ thế, vì ba nghiệp của Ngài đều thù thắng, nên một tiếng của Phật nói ra (nhứt âm diễn xướng) tuỳ theo căn cơ của mỗi loài đều được hiểu cả, không cần phải tạo luận. Song sau khi Phật diệt độ, các chúng sanh trình độ không đồng đều, nhơn duyên lãnh thọ giáo pháp cũng như sự lãnh hội của mỗi người có khác nhau: có chúng sanh chỉ tự lực học hỏi rất nhiều kinh điển mới hiểu ngộ; có chúng sanh cũng dùng tự lực học ít mà hiểu ngộ nhiều; có chúng sanh không thể tự lực mà phải nhờ xem các bộ đại luận, mới hiểu ngộ; có chúng sanh vì thấy các bộ đại luận rất phiền phức, nên muốn tóm lại văn ít mà thâu nhiều nghĩa. Vì thế nên Luận chủ tạo ra luận này, để tóm tắt giáo pháp quảng đại thậm thâm và nghĩa lý vô biên của Đức Như Lai. LƯỢC GIẢI Đoạn này, Luận chủ lập lời vấn đáp, để giải đáp nghi vấn của độc giả. Đại ý lời hỏi: Pháp Đại thừa, trong các kinh luận đã nói nhiều, nay cần gì phải tạo luận nói lập trở lại? Đại ý lời đáp: Khi Phật còn tại thế do phước huệ song toàn, ba nghiệp (thân, khẩu, ý) thù thắng; và trình độ của chúng sanh thụ giáo cũng được ưu hạng, nên một lời của Phật nói ra (viên âm), tất cả các loài tuỳ theo trình độ của mình, đều hiểu được cả. Bởi thế nên không cần phải tạo luận. Song sau khi Phật nhập diệt, người thay thế Phật truyền giáo không được như Ngài, phần thì chúng sanh trình độ không đồng, nhơn duyên ngộ đạo của mỗi người có khác: Có người nhờ xem kinh mà ngộ đạo, có người nhờ xem luận mà ngộ đạo, có người ưa nghiên cứu những bộ đại luận, có người chỉ muốn học những quyển luận, văn ít mà bao hàm rất nhiều ý nghĩa. Vì muốn tóm tắt các nghĩa lý sâu rộng vô biên của Phật, nên Ngài Mã Minh Bồ Tát tạo ra luận này. | |
| | | Tri Âm Quán Thành Viên Tích Cực
Tổng số bài gửi : 6340 Reputation : 2 Join date : 31/07/2013 Đến từ : Thị Trấn Chũ
| Tiêu đề: Re: Phật Học Phổ Thông Tue Jan 27, 2015 10:12 am | |
| CHƯƠNG THỨ HAI PHẦN ĐỊNH DANH NGHĨA CHÁNH VĂN Chương này có hai phần: A. PHÁP ĐẠI THỪA (Thể Đại thừa) tức là tâm chúng sanh. Tâm này tóm thâu hết thảy các pháp thế gian, xuất thế gian và nói lên được nghĩa Đại thừa. Tại sao vậy?Vì tâm này có hai tướng: 1. Tướng Chơn như tức là cái Thể của Đại thừa. 2. Tướng nhơn duyên sanh diệt tức là Thể, Tướng, Dụng của Đại thừa. B. NGHĨA ĐẠI THỪA: "Đại" là lớn, lớn cả 3 phương diện: 1. Thể lớn: Chơn như bình đẳng, bất tăng bất giảm. Bản thể của tất cả pháp. 2. Tướng lớn: Như Lai tạng chứa đầy vô lượng tánh công đức. 3. Dụng lớn: Vì nó sanh tất cả nhơn quả lành của thế gian và xuất thế gian. "Thừa" là chiếc xe, tất cả chư Phật đều đi xe này (pháp Đại thừa); tất cả các vị Bồ Tát cũng đều đi xe này mà đến chỗ Phật. LƯỢC GIẢI Đoạn này nói về phần lập nghĩa, tức là xác định cái danh nghĩa Đại thừa. Phần lập nghĩa này chia làm hai: Pháp Đại thừa và Nghiã Đại thừa. I. Pháp đại thừa: là tâm chúng sanh. Tâm này có hai tướng: 1. Tướng Chơn như tức là chỉ riêng về phần thể tánh chơn tâm thanh tịnh; dụ như "tánh trong sạch" của nước. 2. Tướng nhơn duyên sanh diệt tức là chỉ chung cho Thể, Tướng và Dụng của chơn vọng hoà hợp; dụ như tánh "trong sạch" và "tướng nhơ đục" lẫn lộn của nước. II. Nghĩa đại thừa: Đại thừa nghĩa là gì? "Đại" là lớn; "Thừa" (thặng) là chiếc xe: chiếc xe lớn. Tâm chúng sanh, Thể, Tướng và Dụng đền lớn. Thể thì bao trùm tất cả pháp, Tướng thì chứa đựng hằng sa công đức, còn Dụng thì xuất sanh tất cả pháp thế gian và xuất thế gian. Khế kinh chép: "Vô bất tùng thử pháp giới lưu, mạc bất hoàn qui thử pháp giới, (không có một pháp nào chẳng từ tâm này má lưu xuất, và cũng không có một pháp nào chẳng trở về tâm này). Tâm này bao trùm tất cả các pháp thế gian và xuất thế gian. Các Đức Phật đều nương tâm này mà được thành đạo. Các vị Bôtát cũng nương tam này để đến chỗ Phật. Chúng sanh cũng do tâm này mà luân hồi trong 6 đường. Tâm này cũng như chiếc xe lớn chở tất cả người và vật. Bởi thế nên gọi tâm này là pháp Đại thừa. Tại sao không nói: "Tâm phật" là pháp Đại thừa mà chỉ nói "Tâm chúng sanh", là pháp đại thừa? Vì có hai lý: 1. Nếu nói "Tâm Phật" thì chỉ tóm thâu được pháp thanh tịnh vô lậu mà thôi; còn nói "Tâm chúng sanh", lại tóm thâu được cả pháp hữu lậu, vô lậu, thế gian và xuất thế gian.
2. Nói Tâm chúng sanh là đứng về phần "nhơn" mà nói; vì chưa phải nhiễm hay tịnh, nên mới có thể tuỳ nhiễm duyên khởi ra nhiễm pháp, tuỳ tịnh duyên khởi ra tịnh pháp. | |
| | | Tri Âm Quán Thành Viên Tích Cực
Tổng số bài gửi : 6340 Reputation : 2 Join date : 31/07/2013 Đến từ : Thị Trấn Chũ
| Tiêu đề: Re: Phật Học Phổ Thông Wed Jan 28, 2015 7:56 am | |
| GIẢI DANH TỪ Tướng chơn như: Chữ "Chơn" là chơn thật không hư dối; chữ "Như" là bình đẳng như như, không sanh diệt, nghĩa là tướng chơn thật bình đẳng như như không sanh diệt; tức là "Thật tướng" hay "Chơn tâm" hay "Viên giác" đây là cái "Thể của Đại thừa". Đoạn này gọi "Tướng chơn như" tức là ở đoạn văn sau gọi " Môn chơn như". Tướng nhơn duyên sanh diệt: Vì nhơn duyên sanh diệt, nên đủ cả các tướng: nhiễm, tịnh, thánh, phàm v.v...Đoạn này gọi "Tướng nhơn duyên sanh diệt" tức là ở đoạn văn sau gọi "Môn sanh diệt". Như Lai tạng, có 3 nghĩa: 1. Tánh Như Lai (tánh Phật) bị các phiền não phú tàng (che đậy), tức là chỉ cho chơn như còn bị triền phược; như vàng còn ở trong khoáng. 2. Tánh Như Lai bao trùm tất cả pháp (nghĩa năng tàng) 3. Tánh Như Lai là chỗ xuất sanh ra vô lương công đức (nghĩa sở tàng). Tánh công đức: Công đức sẵn có trong Như Lai tàng. Công đức này không phải do tu tập mà được; song phải nhờ sự tu tập làm trợ duyên nó mới hiện. Chúng sanh vì thiếu sự tu tập làm trợ duyên, nên tánh công đức này không phát hiện. Nhơn quả lành Tại sao luận này chỉ nói "nhơn quả lành" mà không nói đến "nhơn quả ác"? _ Vì có ba nghĩa: 1. Nhơn quả ác là thứ nhiễm ô hư vọng; vì tâm này chỉ bao trùm vô lượng hằng sa công đức, nên không hiệp với thứ nhiễm ô hư vọng. Dụ như nước có cả chất trong và đục; song "chất đục" không hợp với tánh nước, mà "chất trong" mới hiệp với nước; vì khi lóng bỏ bùn rối thì chỉ còn chất nứơc trong. Cũng thế, pháp nhiễm ô không hiệp với tâm này, mà duy có nhơn quả lành mới hiệp với tâm này. 2.Ngài Mã Minh chỉ nói về "Nhơn quả lành", là vì để chúng sanh thấy tâm mình sanh ra các nhơn quả lành, nên sanh tâm hâm mộ sự tu hành, mong cầu quả Phật. 3. Ngài Mã Minh Bồ Tát đã lên Thánh vị, nên trong A lại da thức của Ngài chỉ toàn nhơn quả lành. Vì Ngài chỉ thấy thuần thiện, nên Ngài chỉ nói "nhơn quả lành" mà không nói đến "nhơn quả ác". Nhơn quả lành thế gian: Nhơn quả thuộc về hữu lậu thiện, còn quanh quẩn trong ba cõi thế gian là Dục giới, Sắc giới và Vô sắc giới.
Nhơn quả lành xuất thế gian: Nhơn quả thuộc về vô lậu thanh tịnh, ra ngoài tam giới. | |
| | | Tri Âm Quán Thành Viên Tích Cực
Tổng số bài gửi : 6340 Reputation : 2 Join date : 31/07/2013 Đến từ : Thị Trấn Chũ
| Tiêu đề: Re: Phật Học Phổ Thông Wed Jan 28, 2015 5:50 pm | |
| BÀI THỨ HAI 1. Nói về Tâm Chơn như, có 2 nghĩa: Thật không (như thật không) Thật có (như thật bất không) A. NÓI RÕ NGHĨA CHÁNH CHÁNH VĂNCái tâm này (chúng sanh tâm) có hai phần: I. Tâm chơn như, II. Tâm sanh diệt. Hai tâm này không rời nhau và đều bao trùm tất cả pháp. LƯỢC GIẢIChương này giải thích tâm chúng sanh là pháp Đại thừa. Pháp Đại thừa có hai phần: Chơn như và Sanh diệt. Chơn như là "thể" rộng lớn của tâm; Sanh diệt là "Tướng" và "Dụng" rộng lớn của tâm. Phải phân chia làm hai phương diện như vậy, mới rõ được Thể, Tướng và Dụng của tâm. Nếu đứng về "Thể chơn như", thì suy nghĩ không trúng, luận bàn chẳng nhầm, lìa các văn tự, ly tất cả tướng; như thế làm sao có các pháp sai biệt được. Bởi thế nên phải nói đến Tướng và Dụng là "môn sanh diệt" mới rõ được hành tướng sai biệt của "Tâm chúng sinh". Chơn như là "Thể", còn Sanh diệt là "Tướng" và "Dụng". Tướng và Dụng không rời Thể, Thể không rời Tướng và Dụng; cũng như nước không rời sóng, sóng không rời nước. Bởi Thể, Tướng và Dụng không rời nhau, nên mỗi một phần đều bao hàm được tất cả pháp. Vì Thể và Dụng không rời nhau, nên đứng về phần Chơn như mà luận, thì tuy "thanh tịnh bất biến", mà vẫn tuỳ duyên sanh diệt; còn đứng về phần Sanh diệt mà xem, thì tuy "tuỳ duyên sai biệt" mà vẫn như như bất biến. *** | |
| | | Tri Âm Quán Thành Viên Tích Cực
Tổng số bài gửi : 6340 Reputation : 2 Join date : 31/07/2013 Đến từ : Thị Trấn Chũ
| Tiêu đề: Re: Phật Học Phổ Thông Thu Jan 29, 2015 5:49 pm | |
| I. Tâm chơn như CHÁNH VĂN Tâm Chơn như là cái tâm tánh bất sanh bất diệt. Thể và Tướng nó to lớn bao trùm tất cả các pháp (nhứt pháp giới đại tổng tướng pháp môn thể). Sở dĩ các pháp sai khác là do vọng niệm; nếu rời vọng niệm thì không còn các cảnh tướng sai khác. Bởi thế nên tất cả pháp từ hồi nào đến giờ, không thể dùng danh tự để kêu gọi, không thể dùng lời nói luận bàn, không thể dùng tâm suy nghĩ được, không có biến đổi và cũng không phá hoại vì nó rốt ráo bình đẳng, chỉ có một "Tâm Chơn như" mà thôi. LƯỢC GIẢI Tâm Chơn như này, tánh không sanh diệt và bao trùm tất cả nhơn quả, thánh phàm, y báo chánh báo ...Bởi thế nên nguyên văn chữ Hán gọi là "nhứt pháp giới đại tổng tướng pháp môn thể". Vì vọng niệm nên thấy có tất cả các pháp sai khác; cũng như vì mắt nhặm nên thấy có hoa đốm giữa hư không. Nếu như lìa vọng niệm rồi, thì không có tất cả cảnh giới sai khác, mà chỉ còn một "Tâm Chơn như"; cũng như mắt hết nhặm thì chỉ còn hư không một màu trong tịnh. Bởi tất cả pháp là "Tâm Chơn như", nên không thể phá hoại, không thể dùng lời nói luận bàn, không thể dùng danh tự để kêu gọi và cũng không thể dùng tâm suy nghĩ được. Từ hồi nào đến giờ, nó rốt ráo bình đẳng, không có sai khác. Bởi thế nên trong Khế kinh chép: "Thị pháp trụ pháp vị Thế gian tướng thường trụ" Nghỉa là: Pháp nào vẫn an trụ địa vị của pháp nầy; tướng thế gian là tướng thường trụ. GIẢI DANH TỪ Tâm Chơn như: Vì tâm này không hư ngụy, nên gọi là "Chơn", không bị thời gian thay đổi, không gian chuyển dời, từ hồi nào đến giớ nó vẫn như thế, nên gọi là "Như". Tâm Chơn như cũng gọi là "Chơn tâm" hay "Viên giác". Nhứt pháp giới đại tổng tướng pháp môn thể: Câu này nghĩa lý rất sâu rộng, xin giải sơ lược: Tâm Chơn như là Thể chung của "Nhứt pháp giới". Chữ "Nhứt" là chỉ cho sự bình đẳng bất nhị, thuộc về lời nói ngăn chấp, chớ không phải lời nói tiêu biểu. Chữ "Giới" là chỉ cho "tâm Chơn như" này, nó là "nhơn" là "giống" là "bản năng" sanh ra tất cả các pháp, nên gọi là "nhứt pháp giới". Nhứt pháp giới là toàn tánh của vũ trụ. Ở nơi nhứt pháp giới này, có thể phân ra tổng tướng (thể) và biệt tướng (muôn pháp sai khác). Tâm Chơn như là "Tổng tướng" (tướng chung) của tất cả pháp; vì thể tánh nó bình đẳng song cũng tóm thâu tất cả tướng, nên gọi là "Đại". Chữ "Pháp" nghĩa là:"giữ gìn tự tánh và làm cho người hiểu biết". Chữ "môn" là nghĩa ra vào thông suốt. Tất cả chúng sanh có thể do pháp môn này tu hành, đến được mục đích cứu cánh; nếu rời "Đại tổng tướng pháp môn" này, thì không thể đạt đến quả vị Phật. Nói tóm lại: Nhứt pháp giới là "Thể" của tâm Chơn như. Đại tổng tướng là "Tướng" của tâm Chơn như.
Pháp môn là "Dụng" của tâm Chơn như. | |
| | | Tri Âm Quán Thành Viên Tích Cực
Tổng số bài gửi : 6340 Reputation : 2 Join date : 31/07/2013 Đến từ : Thị Trấn Chũ
| Tiêu đề: Re: Phật Học Phổ Thông Fri Jan 30, 2015 12:22 pm | |
| CHÁNH VĂN
Tất cả những lời nói, đều do vọng niệm phân biệt mà sanh, chỉ do giả danh chớ không thật thể . Cho đến danh từ Chơn như cũng không thực; chẳng qua là một danh từ túng cùng của lời nói, dùng để trừ bỏ các danh từ khác (vọng) mà thôi (nhơn ngôn khiển ngôn). Song cái "Thể" của Chơn như không thể trừ bỏ và cũng không thể dựng lập. Phải biết: Tất cả các pháp cũng không thể trừ bỏ vì đều là "Chơn" vậy, và cũng không thể dựng lập, vì đều là "Như" vậy. Bởi tất cả các pháp đều là Chơn như, nên không thể nói bàn và suy nghĩ được. | |
| | | Tri Âm Quán Thành Viên Tích Cực
Tổng số bài gửi : 6340 Reputation : 2 Join date : 31/07/2013 Đến từ : Thị Trấn Chũ
| Tiêu đề: Re: Phật Học Phổ Thông Sat Jan 31, 2015 7:56 pm | |
| LƯỢC GIẢI Tất cả những lời nói phô, đều do vọng niệm phân biệt; danh từ chỉ là hư giả, chớ không có thật thể. Cho đến cái danh từ Chơn như cũng là hư giả mà thôi. Danh từ Chơn như hay Phật là danh từ túng cùng trong các danh từ tạm đặt ra như thế để trừ các danh từ vọng nhiễm của thế gian. Cũng như ông thầy giáo, tạm dùng tiến gõ bảng để trừ tiếng ồn của học sinh (dĩ ngôn diệt ngôn). Đến khi tiếng ồn của học sinh hết, thì tiếng gõ bảng của thầy giáo cũng không còn. Cũng như khi vọng mất, chúng sanh hết, thì Chơn như hay Phật cũng chẳng còn. Song, chỉ bỏ cái danh từ (Chơn như) hư giả, chớ thể tánh chơn như thì không thể bỏ hay lấy. Cho đến các pháp cũng không thể bỏ và lấy được. Vì các pháp đều là "Chơn", nên không thể bỏ, và "Như" nên không thể lấy. Bởi các pháp đều chơn như, nên không thể dùng lời nói luận bàn hay tâm suy nghĩ đến được.
Tóm lại, vì vọng niệm phân biệt, nên thấy có các pháp sai biệt. Nếu vọng niệm phân biệt hết, thì tất cả các pháp không còn những tướng sai biệt, mà đều là Chơn như. Bởi các pháp đều là chơn như, nên nói năng không trúng, suy nghĩ chẳng nhầm và cũng không thể lấy hay bỏ được. | |
| | | Sponsored content
| Tiêu đề: Re: Phật Học Phổ Thông | |
| |
| | | | Phật Học Phổ Thông | |
|
Similar topics | |
|
| Permissions in this forum: | Bạn không có quyền trả lời bài viết
| |
| |
| |
|